Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Môi trường và Tài nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 72 trang )

Chuyên đề: Thách thức về môi trường và tài nguyên
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Con người trên Trái Đất đang tồn tại và phát triển trong một khoảng
không gian sống vô cùng rộng lớn mà bao quanh khoảng không gian đó là tất cả
các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo có mối quan hệ mật thiết với nhau,
có ảnh hưởng tới sự tồn tại và phát triển của con người và thiên nhiên. Khoảng
không gian rộng lớn đó người ta gọi là môi trường.Nhưng hiện nay Môi trường
đang phải đối mặt với nhiều mối đe dọa.Và Môi trường và tài nguyên đang trở
thành một vấn đề hết sức cấp bách và nóng bỏng, và được coi là vấn đề chung của
toàn thể nhân loại, được toàn thế giới quan tâm. Môi trường sống của chúng ta
đang ngày càng bị hủy hoại một cách nghiêm trọng, có thể là nguyên nhân gây nên
nguy cơ làm mất cân bằng sinh thái, sự cạn kiệt của các nguồn tài nguyên, làm ảnh
hưởng tới chất lượng cuộc sống và sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Trong
đó Việt Nam cũng là một trong những quốc gia có nền kinh tế đang chuyển hướng
mạnh mẽ sang nền kinh tế thị trường cùng với việc mở mang các đô thị mới và
phát triển công nghiệp đã và đang làm nảy sinh những vấn đề trong an ninh lương
thực, an toàn thực phẩm và đảm bảo vệ sinh Môi trường.
Vậy Môi trường và Tài nguyên được hiểu như thế nào và chúng đang
phải đối mặt với những thách thức ra sao? Đó cũng là câu hỏi lớn đang đặt ra cho
chúng ta.
II. ĐỊNH NGHĨA VỀ MÔI TRƯỜNG VÀ TÀI NGUYÊN
Có nhiều cách định nghĩa về môi trường:
Sau hội nghị Stockholm năm 1972 đến nay, môi trường được định nghĩa
là khung cảnh tự nhiên, là ngôi nhà chung của giới sinh vật, là nơi con người sinh
sống, lao động nghỉ ngơi và giải trí, là nơi hình thành và tích lũy nguồn tài nguyên
thiên nhiên.
Theo điều 1 Luật Môi trường Việt Nam “Môi trường bao gồm các yếu tố
người, có ảnh hưởng đến sản xuất, đời sống, sự tồn tại và phát triển của con
người và thiên nhiên”.
Môi trường sống của con người được phân thành môi trường thiên
nhiên, môi trường xã hội, môi trường nhân tạo.


1.Khái niệm Môi trường (ENVIRONMENT)
Hồ Thị Mỹ - Địa 1A ĐHSP Huế 1
Chuyên đề: Thách thức về môi trường và tài nguyên
Môi trường hiểu theo nghĩa rộng nhất là tổng hợp các điều kiện bên ngoài
có thể ảnh hưởng đến một vật thể hoặc một sự kiện. Bất kì một vật thể hoặc một
sự kiện nào cũng diễn biến và tồn tại trong môi trường. Khái niệm chung này sẽ
được cụ thể hóa tùy mục đích và đối tượng nghiên cứu.
Trong luật bảo vệ môi trường :”Môi trường là các yếu tố tự nhiên và vật
chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống sản xuất, sự tồn
tại, phát triển của con người và sinh vật.”
Khái niệm về Môi trường sống của con người: Là tổng hợp các điều kiện
vật lí, hóa học, sinh học và xã hội bao quanh có ảnh hưởng đến sự sống và phát
triển của cá nhân và cộng đồng con người.
Môi trường sống là nơi vũ trụ bao la, trong đó có hệ Mặt Trời và Trái Đất,
là bộ phận ảnh hưởng trực tiếp và rõ rệt nhất đến cuộc sống con người
Tùy theo nội dung nghiên cứu, Môi trường được chia thành:
- Môi trường tự nhiên : bao gồm các nhân tố vật lí, hóa học, sinh học tồn tại
khách quan ngoài ý muốn của con người. Môi trường tự nhiên cung cấp tài nguyên
cho con người. Môi trường tự nhiên có tính tác động đến con người và buộc con
người phải thích nghi.
- Môi trường xã hội:( Social Environment):là tổng thể mối quan hệ giữa con
người với con người bằng luật lệ, thể chế, cam kết,… có thể tạo ra điều kiện thuận
lợi hoặc gây cản trở cho sự phát triển của cá nhân hoặc cộng đồng con người.
- Môi trường nhân tạo ( Artificial Environment): bao gồm các nhân tố do con
người tạo nên, phục vụ cho con người và chịu sự chi phối của con người như nhà
ở, công sở, khu đô thị, công viên, khu vui chơi giải trí,….
Nói tóm lại, chúng ta có thể hiểu Môi trường sống của con người :
- Theo nghĩa rộng: là tất cả các nhân tố tự nhiên và xã hội cần thiết cho sự
sinh sống, sản xuất của con người như tài nguyên thiên nhiên, không khí, đất,
nước, ánh sáng, mối quan hệ xã hội,…

- Theo nghĩa hẹp: Môi trường sống bao gồm các nhân tố tự nhiên và nhân tố
xã hội trực tiếp liên quan tới chất lượng cuộc sống con người như số m
2
nhà ở,
chất lượng nước sạch, điều kiện vui chơi giải trí…
2.Khái niệm tài nguyên (RESOURCE)
Hồ Thị Mỹ - Địa 1A ĐHSP Huế 2
Chuyên đề: Thách thức về môi trường và tài nguyên

Theo nghĩa rộng : Tài nguyên bao gồm tất cả các vật liệu, năng lượng và
thông tin có trên Trái Đất và trong vũ trụ mà con người có thể sử dụng để phục vụ
cho sự sống và sự phát triển của nình.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam :Tài nguyên là toàn bộ những giá trị
vật chất sẵn có trong môi trường như khoáng sản, đất đai, sinh vật, nhân lực, tư
liệu sản xuất, tiền vốn, thông tin,… được khai thác, sử dụng trong những điều kiện
kinh tế, xã hội và công nghệ nhất định.
Khái niệm tài nguyên thiên nhiên:
Tài nguyên thiên nhiên là toàn bộ giá trị vật chất có trong tự nhiên mà ở một
trình độ nhất định của sự phát triển lực lượng sản xuất chúng được sử dụng hoặc
có thể được sử dụng làm phương tiện sản xuất và đối tượng tiêu dùng.
Mỗi loại tài nguyên có đặc điểm riêng nhưng nó có hai thuộc tính chung:
- Tài nguyên tự nhiên phân bố không đồng đều giữa các vùng trên Trái Đất
và trên cùng một lãnh thổ có thể có nhiều loại tài nguyên tạo ra sự ưu đãi của tự
nhiên của từng vùng và từng quốc gia.
- Đại bộ phận tài nguyên thiên nhiên có giá trị kimh tế cao thường được hình
thành qua các quá trình lịch sử tự nhiên lâu dài.
Chính hai thuộc tính này tạo nên tính quý hiếm của Tài nguyên và lợi thế
phát triển của lãnh thổ vùng hoặc quốc gia giàu tài nguyên.
Hồ Thị Mỹ - Địa 1A ĐHSP Huế 3
Chuyên đề: Thách thức về môi trường và tài nguyên

Phân loại tài nguyên:
Tài nguyên thường phân thành hai dạng chính:
- Tài nguyên tự nhiên gắn liền với các nhân tố tự nhiên như tài nguyên đất,
tài nguyên rừng, tài nguyên nước, tài nguyên khí hậu, tài nguyên biển, tài nguyên
khoáng sản, tài nguyên cảnh quan.
- Tài nguyên con người gắn liền với các nhân tố con người và xã hội như tài
nguyên lao động, tài nguyên trí tuệ, tài nguyên thông tin,…
Phân theo sử dụng kinh tế:
- Tài nguyên nông nghiệp
- Tài nguyên công nghiệp
- Tài nguyên du lịch (tự nhiên và nhân văn).
Phân theo khả năng hao kiệt:
- Tài nguyên phục hồi được là tài nguyên tái tạo được như tài nguyên đất,
rừng, đa dạng sinh vật, cảnh quan,…
- Tài nguyên không phục hồi được là tài nguyên không tái tạo được như
tài nguyên khoáng sản,…
- Tài nguyên vô tận như tài nguyên nước, không khí, bức xạ Mặt Trời...
Hiện nay cách phân chia tài nguyên tái tạo, không tái tạo, vô tận không còn
hợp lý nữa vì do tác động của con người đến tài nguyên vượt quá ngưỡng dẫn đến
một số tài nguyên tái tạo trở thành không tái tạo (ví dụ đa dạng sinh học bị tuyêt
chủng); một số tài nguyên vô tận trở thành không vô tận xét về chất lượng. Đồng
thời, sự tiến bộ của khoa học công nghệ có thể làm cho một số tài nguyên không
tái tạo trở thành tái tạo trong một số lần tái sử dụng. Và từ đó thể hiện quan điểm
sử dụng, bảo vệ đi đôi với tiết kiệm và tái chế trong sử dụng lâu bền tài nguyên.
III. CÁC CHỨC NĂNG CỦA MÔI TRƯỜNG
Đối với cá nhân và cộng đồng xã hội con người, Môi trường có các chức
năng sau:
3.1 Môi trường là không gian sinh sống cho con người và thế giới sinh
vật:
- Chức năng xây dựng : cung cấp mặt bằng và nền móng cho các đô thị, khu

công nghiệp, kiến trúc hạ tầng và nông thôn.
Hồ Thị Mỹ - Địa 1A ĐHSP Huế 4
Chuyên đề: Thách thức về môi trường và tài nguyên
- Chức năng vận tải : cung cấp mặt bằng, khoảng không gian và nền móng
cho giao thông đường thủy, đường bộ và đường không.
- Chức năng sản xuất : Cung cấp mặt bằng và phông tự nhiên cho sản xuất
nông-lâm-ngư nghiệp
- Chức năng cung cấp năng lượng, thông tin.
- Chức năng giải trí của con người : cung cấp mặt bằng, nền móng và phông
tự nhiên cho việc giải trí ngoài trời ( trượt tuyết, trượt băng, đua xe, đua ngựa,..).
3.2 Môi trường là nơi chứa đựng các nguồn tài nguyên thiên nhiên cần
thiết cho cuộc sống và sản xuất của con người:
- Rừng tự nhiên : có chức năng cung cấp nước, bảo tồn tính Đa dạng sinh
học và độ phì nhiêu của đất, nguồn gỗ củi, dược liệu và cải thiện điều kiện sinh
thái.
- Các thủy vực : có chức năng cung cấp nước, dinh dưỡng, nơi vui chơi giải
trí và nguồn thủy hải sản.
- Động thực vật : cung cấp lương thực và thực phẩm và các nguồn gen quý
hiếm.
- Không khí, nhiệt độ, năng lượng Mặt Trời, gió, nước : để chúng ta hít thở,
cây cối ra hoa kết trái.
- Các loại quặng, dầu mỏ : cung cấp năng lượng và nguyên liệu cho các hoạt
động sản xuất nông nghiệp,…
3.3 Môi trường là nơi chứa đựng các chất phế thải do con người tạo ra
trong cuộc sống và hoạt động sản xuất:
- Chức năng biến đổi lý – hóa học : pha loãng, phân hủy hóa học nhờ ánh
sáng; hấp thụ; sự tách chiết các vật thải và độc tố.
- Chức năng biến đổi sinh hóa ; sự hấp thụ các chất dư thừa : chu trình nito
và cacbon; khử các chất độc bằng con đường sinh hóa.
- Chức năng biến đổi sinh hóa : khoáng hóa các chất thải hữu cơ, mùn hóa,

amon hóa, nitrat hóa và phản nitrat hóa,…
3.4 Môi trường là nơi cung cấp và lưu trữ thông tin cho con người:
- Cung cấp sự ghi chép và lưu trữ lịch sữ địa chất, lịch sữ tiến hóa của vật
chất và sinh vật, lịch sữ xuất hiện và phát triển văn hóa của loài người.
Hồ Thị Mỹ - Địa 1A ĐHSP Huế 5
Chuyên đề: Thách thức về môi trường và tài nguyên
- Cung cấp các chỉ thị không gian và tạm thời mang tính chất tín hiệu và báo
động sớm các hiểm họa đối với con người và sinh vật sống trên Trái Đất như phản
ứng sinh lý của cơ thể sống trước khi xảy ra các tai biến tự nhiên và các hiên
tượng tai biến tự nhiên, đặc biệt như bão, động đất, núi lửa,..
- Lưu trữ và cung cấp cho con người sự đa dạng các nguồn gen, các loài
động thực vật, các hệ sinh thái tự nhiên và nhân tạo, các vẻ đẹp cảnh quan có giá
trị thẫm mĩ để thưởng ngoại, tôn giáo và văn hóa khác.
IV. NHỮNG THÁCH THỨC VỀ MÔI TRƯỜNG VÀ TÀI
NGUYÊN HIỆN NAY TRÊN THẾ GIỚI. LIÊN HỆ VỚI VIỆT NAM
Môi trường Trái Đất lưu trữ,cung cấp thông tin về lịch sử,sự tiến hóa của vật
chất và sinh vật,sự phát triển văn hóa của loài người,các nguồn gen,các loại động
vật thực vật,các hệ sinh thái,các vẻ đẹp canh quan có giá trị thẩm mĩ,....Nhưng
hiện nay với các tác động xung quanh,đặc biệt là các tác động của con người đã
làm suy giảm chức năng của môi trường,làm cho Môi trường thế gới nói chung và
Môi trường Việt Nam nói riêng phải đứng trước những thách thức lớn :
*TRÊN THẾ GIỚI:
Mỗi hoạt động của con người đều có tác động đến Môi trường theo hai chiều
hướng tích cực và tiêu cực đối với đời sống va sự phát triển kinh tế-xã hội con
người.
- Thời xa xưa,lúc xã hội loài người và lực lượng sản xuất của nó còn nhỏ bé
thì tác động đến Môi trường không đáng kể
- Tác động của con người vào Môi trường phụ thuộc vào dân số (số lượng)
và sự tiến bộ của lực lượng sản xuất.
- Về sau,sự phát triển kinh tế nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp rồi đến

sản xuất công nghiệp và dân số tăng lên thì tác động của con người đến Môi
trường ngày càng tăng lên.
- Đặc biệt trong những thập kỷ gần đây nhất,cuộc cách mạng khoa học-kỷ
thuật cùng với nhưng diễn biến về kinh tế-xã hội mang tính toàn cầu đã làm cho
tác động tác động của con người đến Môi trường ngày càng rộng lớn và sâu sắc
hơn,từ đó sẽ dẫn đến tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt,cân bằng sinh thái bị đảo
lộn, chất lượng môi trường sống bị giảm sút một cách phổ biến và trầm trọng hơn.
Hồ Thị Mỹ - Địa 1A ĐHSP Huế 6
Chuyên đề: Thách thức về môi trường và tài nguyên
Vì vậy vấn đề bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường sống của con
người là cấp bách và mang tính toàn cầu hiện nay.
Hội nghị Quốc tế đầu tiên về Môi trường Liên Hợp Quốc tổ chức, khai mạc
vào ngày 5/6/1972 tại STOCKHOLM,Thụy Điển đã kêu gọi: “Hỡi con người hãy
cứu lấy nôi sống của chúng ta.”. Từ đó, ngày 5/6 hằng năm là ngày “Môi trường
thế giới”
Cũng trong Hội nghị này đã ra tuyên bố Stockholm , nêu rõ những thiệt hại
về tài nguyên và môi trường do con người gây ra ở nhiều khu vực trên Trái Đất.
Từ đó xác định bảo vệ và cải thiện môi trường nhằm đảm bảo cho sự phát triển.Từ
sau Hội nghị này, nhiều việc làm có ý nghĩa thiết thực đối với bảo vệ Môi trường
như là: thành lập chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc(UNEP = United
National Environment Programe), chủ trương xây dựng Chiến lược quốc gia bảo
vệ tài nguyên thiên nhiên của các nước và Chiến lược bảo vệ Môi trường của toàn
cầu.
Năm 1992, Liên Hợp Quốc lại tổ chức Hội nghị thượng đỉnh của thế giới về
Môi trường tại RIO DEJANEIRO tại Brazil.Từ đó đến nay, Liên Hợp Quốc đã tổ
chức nhiều Hội nghị về Môi trường ở nhiều nơi khác nhau. Ví dụ: Hội nghị về Đa
dạnh sinh học ở Pháp năm 2005, Hội nghị thượng đỉnh về biến đỏi khí hậu toàn
cầu tại Coopenhagen năm 2009,....Các Hội nghị này đã xem xét các vấn đề Môi
trường mang tính toàn cầu hiện nay:
- Biến đổi khí hậu toàn cầu và sự nâng cao mực nước biển và đại dương, tần

suất thiên tai gia tăng.
- Suy giảm tầng Ôzôn đã làm đe dọa cuộc sống của con người và sinh vật
trên Trái Đất ( 16/9 là ngày Ôzôn thế giới )
- Tài nguyên (rừng, đất, nước, khoáng sản,...) bị suy thoái
- Ô nhiễm Môi trường đang xảy ra trên quy mô rộng.
- Suy giảm tính đa dạng sinh học(ngày 22/5 là ngày đa dạng sinh học).
- Sự gia tăng nhanh dân số dẫn đến môi trường và phát triển, nghèo khó và
môi trường ( ô nhiễm nghèo)
- Môi trường và văn hóa, đạo đức của xã hội loài người.
- Vấn đề về năng lượng.
Hồ Thị Mỹ - Địa 1A ĐHSP Huế 7
Chuyên đề: Thách thức về môi trường và tài nguyên
- Những vấn đề Môi trường khác đang chi phối đến sự phát triển của nhân
loại: lương thực thực phẩm, biển và đại dương, an ninh môi trường, khoảng không
vũ trụ...
Liên Hợp Quốc đã ra tuyên bố về Môi trường và phát triển bền vững, nhấn
mạnh quyền lợi và trách nhiệm của các nước về bảo vệ Môi trường và Tài nguyên.
*Ở VIỆT NAM:
Vấn đề mâu thuẫn giữa Môi trường và phát triển được quan tâm hàng đầu:
- Thời xa xưa, tổ tiên ta lúc khai thác tài nguyên cũng biết điều tiết để không
vượt quá ngưỡng.
- Năm 1959, Bác Hồ đã căn dăn nhân dân ta phải biết quý trọng tài nguyên
rừng, đất, biển,....và phát động tết trồng cây để lại màu xanh cho đất nước.
- Vấn đề bảo vệ Môi trường và Tài nguyên được đặc biệt quan tâm từ những
năm 1980. Đến nay đã có nhiều chương trình nghiên cứu về Môi trường và Tài
nguyên. Kết quả nghiên cứu đã xác định những vấn đề gay cấn về môi trường ở
nước ta.
+ Nạn suy thoái tài nguyên rừng cùng các tài nguyên sinh vật, đất, nước, khí
hậu và các giá trị cảnh quan có liên quan đến rừng.
+ Sự suy giảm số lượng bình quân đất đầu người và chất lượng đất( thoái hóa

và hoang hóa với đất đai.)
+ Việc sử dụng không hợp lý tài nguyên nước.
+ Việc tăng phí tài nguyên khoáng sản.
+ Sự suy giảm tài nguyên sinh vật và đa dạng sinh học do suy thoái nhiều hệ
sinh thái ở miền núi, đồng bằng, ven biển và đại dương.
+ Suy thoái chất lượng môi trường sống của con người ở các vùng đô thị,
khu công nghiệp và nhiều vùng nông thôn.
+ Ô nhiễm môi trường.
+ Hậu quả lâu dài về môi trường do chiến tranh để lại.
Để quản lý, bảo vệ Môi trường và Tài nguyên:
- Năm 1985, Nhà nước đã đẩy mạnh công tác điều tra cơ bản, sử dụng hợp lý
tài nguyên và bảo vệ môi trường.
Hồ Thị Mỹ - Địa 1A ĐHSP Huế 8
Chuyên đề: Thách thức về môi trường và tài nguyên
- Năm 1986, Nhà nước đã ban hành kế hoạch hành động Quốc gia về môi
trường và phát triển, nhấn mạnh vấn đề pháp luật, thể chế, tổ chức quản lý Môi
trường, đánh giá tác động Môi trường, giáo dục Môi trường.
- Năm 1990, với sự hợp tác của UNEP, UNDP, tổ chức SIDA thì Uỷ ban
khoa học Nhà nước đã tổ chức Hội nghị Quốc tế về Môi trường và phát triển bảo
vệ ở Việt Nam.
- Năm 1992, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trườngđược thành lập.Đến
năm 2002, đổi thành Bộ Tài nguyên và Môi trường
- 10/1/1994, Chính phủ đã ban hành Luật Môi bảo vệ Môi trường gồm 7
chương 55 điều. Luật Môi trường được sửa đổi năm 2006, gồm 15 chương 136
điều. Cũng trong thời gian này, sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế xã hội trong bối
cảnh đát nước đổi mới, đã đặt ra vấn đề mới về môi trường cùng với sự tăng
nhanh dân số ở nước ta. 8 vấn đề cấp bách về Môi trường ở Việt Nam cần được
quan tâm trong vấn đề chiến lược phát triển mới của đất nước đi vào thế kỷ 21.
Môi trường sống của con người đang đứng trước các thách thức sau:
1. Khí hậu toàn cầu bị biến đổi và tần suất thiên tai gia tăng:

1.1 Tình hình biến đổi khí hậu trên thế giới và những tác hại
Khí hậu là trạng thái khí quyển ở nơi nào đó, được đặc trưng bởi các trị số
trung bình nhiều năm về nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa, lượng bốc thoát hơi nước,
mây, gió...Như vậy, khí hậu phản ánh giá trị trung bình nhiều năm của thời tiết và
nó thường có tính chất ổn định, ít thay đổi. Trong lịch sử địa chất của trái đất
chúng ta, sự biến đổi khí hậu đã từng nhiều lần xẩy ra với những thời kỳ lạnh và
nóng kéo dài hàng vạn năm mà chúng ta gọi là thời kỳ băng hà hay thời kỳ gian
băng. Thời kỳ băng hà cuối cùng đã xãy ra cách đây 10.000 năm và hiện nay là
giai đoạn ấm lên của thời kỳ gian băng. Xét về nguyên nhân gây nên sự thay đổi
khí hậu này, chúng ta có thể thấy đó là do sự tiến động và thay đổi độ nghiêng trục
quay trái đất, sự thay đổi quỹ đạo quay của trái đất quanh mặt trời, vị trí các lục
địa và đại dương và đặc biệt là sự thay đổi trong thành phần khí quyển.
Trong khi những nguyên nhân đầu tiên là những nguyên nhân hành tinh, thì
nguyên nhân cuối cùng lại có sự tác động rất lớn của con người mà chúng ta gọi
đó là sự làm nóng bầu khí quyển hay hiệu ứng nhà kính.Có thể hiểu sơ lược là:
Hồ Thị Mỹ - Địa 1A ĐHSP Huế 9
Chuyên đề: Thách thức về môi trường và tài nguyên
nhiệt độ trung bình của bề mặt trái đất được quyết định bởi sự cân bằng giữa hấp
thụ năng lượng mặt trời và lượng nhiệt trả vào vũ trụ. Khi lượng nhiệt bị giữ lại
nhiều trong bầu khí quyển thì sẽ làm nhiệt độ trái đất tăng lên. Chính lượng khí
CO
2
chứa nhiều trong khí quyển sẽ tác dụng như một lớp kính giữ nhiệt lượng tỏa
ngược vào vũ trụ của trái đất. Cùng với khí CO
2
còn có một số khí khác cũng được
gọi chung là khí nhà kính như NO
X
, CH
4

, CFC. Với những gia tăng mạnh mẽ của
nền sản xuất công nghiệp và việc sử dụng các nhiên liệu hoá thạch (dầu mỏ, than
đá..), nghiên cứu của các nhà khoa học cho thấy nhiệt độ toàn cầu sẽ gia tăng từ
1,4
o
C đến 5,8
o
C từ 1990 đến 2100 và vì vậy sẽ kéo theo những nguy cơ ngày càng
sâu sắc đối với chất lượng sống của con người.
Có thể thấy tác hại theo hướng nóng lên toàn cầu thể hiện ở 10 điều tồi tệ
sau đây: gia tăng mực nước biển, băng hà lùi về hai cực, những đợt nóng, bão tố
và lũ lụt, khô hạn, tai biến, suy thoái kinh tế, xung đột và chiến tranh, mất đi sự đa
dạng sinh học và phá huỷ hệ sinh thái. Những minh chứng cho các vấn đề này
được biểu hiện qua hàng loạt tác động cực đoan của khí hậu trong thời gian gần
đây như đã có khoảng 250 triệu người bị ảnh hưởng bởi những trận lũ lụt ở Nam
Á, châu Phi và Mexico. Các nước Nam Âu đang đối mặt nguy cơ bị hạn hán
nghiêm trọng dễ dẫn tới những trận cháy rừng, sa mạc hóa, còn các nước Tây Âu
thì đang bị đe dọa xảy ra những trận lũ lụt lớn, do mực nước biển dâng cao cũng
như những đợt băng giá mùa đông khốc liệt.Những trận bão lớn vừa xẩy ra tại Mỹ,
Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ...có nguyên nhân từ hiện tượng trái đất ấm lên
trong nhiều thập kỷ qua. Những dữ liệu thu được qua vệ tinh từng năm cho thấy số
lượng các trận bão không thay đổi, nhưng số trận bão, lốc cường độ mạnh, sức tàn
phá lớn đã tăng lên, đặc biệt ở Bắc Mỹ, tây nam Thái Bình Dương, Ân Độ Dương,
bắc Đại Tây Dương. Số lượng các trận bão lớn, lốc xoáy cường độ mạnh tăng gấp
đôi, trùng hợp với nhiệt độ bề mặt đại dương tăng lên. Trận sóng thần ở Ấn Độ
Dương (2004) cướp đi sinh mạng 225 000 người thuộc 11 quốc gia, hay cơn bão
Katrina đổ bộ vào nước Mỹ (2005) gây thương vong lên đến hàng ngàn người và
thiệt hại kinh tế ước tính 25 tỷ USD, và gần đây nhất siêu bão Nargis đánh vào
Myanmar (2008) là thảm họa thiên nhiên tàn khốc nhất năm qua tính theo số lượng
người thiệt mạng. Trận bão này giết chết hơn 135.000 người và đẩy hơn một triệu

Hồ Thị Mỹ - Địa 1A ĐHSP Huế 10
Chuyên đề: Thách thức về môi trường và tài nguyên
người vào cảnh không nhà cửa. Tính ra, thiên tai đã cướp đi mạng sống của hơn
220.000 người trong năm 2008 và gây thiệt hại khoảng 200 tỷ USD, biến nó thành
một trong những năm đáng sợ nhất trong lịch sử loài người tính theo tổn thất thiên
tai về người và của. Diễn biến mới nhất của thiên tai là trận cháy rừng khủng khiếp
do thời tiết quá khô hạn vừa xãy ra ở nước Úc (2/2009) đã giết chết ít nhất 210
người và làm bị thương hơn 500 người cùng những thiệt hại nặng nề về vật chất.
Một nghiên cứu với xác suất lên tới 90%.cho thấy sẽ có ít nhất 3 tỷ người rơi vào
cảnh thiếu lương thực vào năm 2100, do tình trạng ấm lên của Trái đất.
Trái đất ngày càng nóng dần lên.Từ năm 1950-1990, lượng CO
2
tăng lên 4 lần
làm mặt trái đất nóng lên từ 0,5- 4
C
°
, nước biển dâng cao từ 25-140cm do lượng
băng tan và sẽ nhấn chìm một vùng ven biển rộng lớn, làm mất đi nhiều vùng sản
xuất nông nghiệp, dẫn đến nghèo đói, đặc biệt là các nước đang phát triển.
Thời tiết thay đổi dẫn đến gia tăng tần suất thiên tai như bão, lũ lụt, hỏa
hoạn,....Điều này không chỉ ảnh hưởng đến sự sống của loài người một cách trực
tiếp và gây ra những thiệt hại về kinh tế mà còn gây ra nhiều vấn đề môi trường
nghiêm trọng khác. Ví dụ các trận hỏa hoạn tự nhiên không kiểm soát được vào
các năm từ 1996 đến 1998 đã thiêu hủy nhiều khu rừng ở Brazil, Canada, khu tự
trị nội Mông Cổ ở Đông Bắc Trung Quốc, Inddonexia, Italia,Mêhico, Liên Bang
Nga và Mỹ. Những tác động của các vụ cháy rừng có thể rất nghiêm trọng. Chi
phí ước tính cho nạn cháy rừng của người dân Đông Nam Á là 1,4 tỉ USD.
Trong tương lai khi trái đất nóng dần lên do tác động của con người mà cụ thể
là do sử dụng ngày càng tăng lượng than đá trong công nghiệp dẫn đến gia tăng
nồng độ CO

2
và SO
2
trong không khí và dẫn đến hiện tượng hiệu ứng nhà kính.
Nhìn chung lượng phát thải tăng lên trong các lĩnh vực chính trong những năm
gần đây có xu hướng tăng lên, đó chính là hệ quả của tốc độ phát triển và tỷ lệ
tăng dân số ở nước ta hiện nay.Lượng phát thải CO
2
do tiêu thụ năng lượng và sản
xuất ximang của năm 1993 tăng hơn so với 1990, trong khi đó lượng CO
2
do các
hoạt động lâm nghiệp tăng không đáng kể. Trong khu vực nông nghiệp, lượng
phát thải CH
4
trong chăn nuôi có những sai khác nhiều trong năm 1990. CO
2

CH
4
là hai loại khí nhà kính chính ở nước ta hiện nay.
Hồ Thị Mỹ - Địa 1A ĐHSP Huế 11
Chuyên đề: Thách thức về môi trường và tài nguyên
Với những nguyên nhân trên, thiên tai không chỉ xuất hiện với tần suất ngày
càng cao mà quy mô gây thiệt hại cho con người ngày cang lớn. Ví dụ, tháng
12/1999, hai trận mưa lớn ở Vênêzuêla đã làm cho 50.000 người chết và 200.000
người không có nhà ở.Cũng trong năm đó một cơn bảo đã cướp đi mạng sông của
10.000 người ở Orissa(Ấn Độ) và một trận động đất đã tàn phá đất nước Thổ Nhĩ
Kỳ và đặc biệt gần đây nhất , vào 26/1/2001 thảm họa động đất ở Ấn Độ đã làm
cho 30.000 người chết và hàng vạn người bị thương gây thiệt hại rất lớn về tiền

của...
Suy giảm tầng ôzôn mà hệ quả của nó là con người bị đục thủy tinh thể, Dự
tính đến năm 2050 trái đất ngập thêm trong nước.
Để chống suy giảm tầng ôzôn, các nước đã ký nghị định thư Montreal. Mỹ là
một trong các quốc gia sản xuất chất CFC nhiều nhất lại không tham gia ký nghị
định thư này.
Một trong các biện pháp hạn chế những nguy cơ trên là thay đổi tập quán sử
dụng, không để xảy ra cháy rừng, không đổ rác thải bừa bãi, không sản xuất chất
CFC.
1.2 Biến đổi khí hậu ở Việt Nam và những tác hại :
Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa. Nhiệt độ trung bình hàng năm
thường vượt quá 20
o
C, lượng mưa trung bình 1500mm. Mùa lạnh và khô từ tháng
11-4, còn mùa nóng và mưa diễn ra từ tháng 5-10. Tuy nhiên các chỉ số này thay
đổi theo chiều dài đất nước và theo cả địa hình cho nên mùa mưa với lũ lụt và mùa
khô với hạn hán thưòng mang tính cực đoan và gây nhiều hậu quả nghiêm trọng.
Việt Nam nằm dọc theo đường di chuyển bão Tây-Bắc Thái Bình Dương và là một
trong 10 nước trên thế giới được coi là dễ bị tổn thương nhất trước áp thấp nhiệt
đới. Trung bình mỗi năm có 6-7 trận bão hay áp thấp nhiệt đới ảnh hưởng đến
vùng bờ biển của Việt Nam, đặc biệt là miền Bắc và miền Trung.
Nghiên cứu về biến đổi khí hậu ở Việt Nam cho thấy, từ năm Từ 1900 đến
2000, nhiệt độ trung bình năm tăng 0,1°C một thập kỷ. Mùa hè nóng hơn với nhiệt
độ trung bình các tháng hè tăng từ 0,1°C đến 0,3°C một thập kỷ. nếu so với năm
1990, nhiệt độ chắc sẽ tăng trong khoảng từ 1,4-1,5°C vào năm 2050 và từ 2,5-
2,8°C vào năm 2100. Điều này cho thấy xu thế tăng nhiệt độ cứ qua 10 năm lại lớn
Hồ Thị Mỹ - Địa 1A ĐHSP Huế 12
Chuyên đề: Thách thức về môi trường và tài nguyên
lên. Mùa nóng sẽ khắc nghiệt, và lượng mưa cùng với cường độ mưa sẽ tăng lên
đáng kể ở phía Bắc. Sự biến đổi thất thường của thời tiết còn được thể hiện qua

đợt mưa lớn trái mùa tại các tỉnh miền Bắc. Ví dụ: từ ngày 30/10 đến chiều
01/11/2008. Tại thủ đô Hà Nội lượng mưa lên tới gần 500mm đã gây ra cảnh úng
lụt trầm trọng, thiệt hại cả về người và tài sản của nhân dân. Mùa khô sẽ càng sâu
sắc và có nguy cơ biến các vùng dễ bị tổn thương như Nam Trung bộ thành bán
hoang mạc. Phần lớn diện tích vùng ven bờ của Việt Nam bị đe doạ ngập lụt hàng
năm, trong đó đồng bằng Sông Cửu Long chiếm 75% tổng diện tích, và 10% diện
tích của đồng bằng Sông Hồng. Ở một số khu vực như các tỉnh miền Trung và
đồng bằng Sông Cửu Long, lũ xuất hiện với cường độ ngày càng tăng. Các trận
bão gần đây mà Việt Nam phải hứng chịu đã trở nên khốc liệt và quỹ đạo các trận
bão dường như đã chuyển hướng về phía Nam, vốn là những mảnh đất an toàn,
trong những năm gần đây. Theo Chương trình môi trường Liên Hợp Quốc (1993)
mực nước biển bao quanh Việt Nam đã dâng cao 5cm từ giữa 1960 đến những
năm 1990. Tổng cục Khí tượng-Thuỷ văn ước tính mực nước biển đang dâng cao
với tốc độ trung bình là 2mm/năm. Xói lở bờ biển cũng đã và dang xãy ra, ví dụ ở
Cà Mau có một số địa phương bị xói lở 600 ha, với các dải đất rộng 200m bị mất.
Mực nước biển dâng cao chắc chắn còn làm cho tình trạng xâm mặn ở các
vùng ven biển trở nên tồi tệ, gây nên sự khó khăn trong khai thác nước ngọt phục
vụ tưới và sinh hoạt. Đồng bằng Sông Cửu Long, vựa lúa cả nước với hơn 1.5
triệu ha đất nhiễm mặn, chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng lớn nhất. Biến đổi khí hậu chắc
chắn có tác động đáng kể đến nghề cá và nuôi trồng thuỷ sản của Việt Nam, với sự
biến mất các loài cá quý hiếm, làm suy giảm mạnh sinh vật phù du sẽ dẫn đến tình
trạng di cư và giảm mạnh khối lượng lớn cá. Do mực nước biển dâng cao, các trại
nuôi trồng thuỷ sản buộc phải di dời và kéo theo đó là việc phải tái đầu tư vốn,
thay đổi tập quán cũng như định cư sản xuất. Miền Trung Việt Nam là khu vực hay
bị thiên tai nhất ở Việt Nam và có tỷ lệ nghèo cao. Hàng năm, khu vực này phải
đương đầu với mọi loại hình thiên tai, đặc biệt là lũ lụt. Chỉ riêng trận lụt lịch sử
diễn ra vào cuối năm 1999 đã cướp đi 800 sinh mạng và gây thiệt hại hơn 300 triệu
USD. Thêm vào đó, chúng ta hẳn vẫn còn nhớ đến sự tàn phá của cơn bão
Xangsane (tháng 10/2006) với sức gió mạnh lên đến trên cấp 13 (149km/h), gió
Hồ Thị Mỹ - Địa 1A ĐHSP Huế 13

Chuyên đề: Thách thức về môi trường và tài nguyên
giật lên đến 205km/h làm sóng biển dâng cao 7m. Trận bão này hầu như đã làm
các tỉnh miền Trung “xơ xác”, đặc biệt là các địa phương như Thừa Thiên-Huế,
Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi với hơn 20 vạn người chạy đi lánh nạn, hàng
trăm người chết và bị thương, thiệt hại về tài sản do cơn bão lên đến hàng chục
ngàn tỷ đồng.
Ở một mặt khác, Việt Nam gần đây đã đạt được những tiến bộ ngoạn mục cả
về tăng trưởng kinh tế lẫn giảm nghèo. Sau khi gia nhập Tổ chức thương mại thế
giới vào năm 2007, giao dịch thương mại quốc tế và đầu tư trực tiếp nước ngoài
gia tăng, tạo điều kiện để Việt Nam trở thành quốc gia có mức thu nhập trung
bình. Tuy nhiên nền kinh tế định hướng thị trường của Việt Nam cũng làm gia
tăng cách biệt giàu nghèo giữa vùng sâu, vùng xa và các cực tăng trưởng như
thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Do vậy, người nghèo vốn sống lệ thuộc vào
hoàn cảnh tự nhiên, thường phải đối mặt với sự biến đổi khí hậu, và tác động của
nó có thể đem lại những hậu quả đáng kể và lâu dài đối với khả năng ứng phó tổng
thể của Việt Nam trong tương lai. Có thể khẳng định rằng thiên tai là trở ngại
chính trên con đường đi tới phát triển bền vững và đạt được các Mục tiêu Phát
triển Thiên niên kỷ (MDG) ở Việt Nam.
1.3 Nhận thức của cộng đồng quốc tế về biến đổi khí hậu và Nghị định
thư Kyoto
Ý thức về những tác hại do con người gây ra cho môi trường trái đất, gần đây
đã có sự đồng thuận của cộng đồng quốc tế trong nỗ lực ngăn chặn những ảnh
hưởng nguy hại do biến đổi khí hậu toàn cầu. Nhiều diễn đàn quốc tế đã ngày càng
thu hút được nhiều sự quan tâm của các nhà khoa học, doanh nghiệp, chính trị
cũng như các nhà hoạch định chính sách đối ngoại như Liên hợp quốc, WTO, EU,
ASEM, APEC, ASEAN..., một điều chắc chắn rằng những thoả thuận kinh tế,
chính trị, thương mại song phương hoặc đa phương gắn liền với vấn đề biến đổi
khí hậu luôn nhận được sự tán thành và hợp tác.
Những cam kết quốc tế được cụ thể hoá vào năm 1997 khi Nghị định thư
Kyoto ra đời và chính thức có hiệu lực vào năm 2005 liên quan đến Chương trình

khung về vấn đề biến đổi khí hậu mang tầm quốc tế của Liên Hiệp Quốc với mục
tiêu cắt giảm lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Kể từ tháng 11/2007 đã có
Hồ Thị Mỹ - Địa 1A ĐHSP Huế 14
Chuyên đề: Thách thức về môi trường và tài nguyên
khoảng 175 nước kí kết tham gia chương trình này. Nghị định thư Kyoto ràng
buộc 37 quốc gia phát triển đến năm 2012 phải cắt giảm khí thải xuống 5% so với
mức của năm 1990. Nghị định thư cũng được khoảng 137 nước đang phát triển
tham gia kí kết trong đó có Brazil, Trung Quốc và Ấn Độ vốn là những nền kinh tế
mới nổi và có lượng khí phát thải cao. Sự kiện chính phủ Nga, nước chiếm 17%
lượng khí thải phê chuẩn Nghị Định Thư vào năm 2004, và chính phủ Úc ký kết
Nghị Định Thư vào năm 2007, đã gây sức ép buộc Mỹ (nước chiếm 25% khí thải )
- hiện là quốc gia phát triển duy nhất không phê chuẩn Nghị định thư Kyoto - phải
thay đổi quan điểm trong thời gian đến. Thế giới hy vọng thái độ tích cực và sự
tham gia có trách nhiệm của Mỹ sẽ được thể hiện khi chính phủ của Tổng Thống
Obama tham gia hội nghị Copenhagen vào tháng 12 năm nay.
Như vậy, Nghị định thư Kyoto được mong đợi sẽ là một thành công trong vấn
đề cắt giảm khí gây hiệu ứng nhà kính. Mục tiêu được đặt ra nhằm "Cân bằng lại
lượng khí thải trong môi trường ở mức độ có thể ngăn chặn những tác động nguy
hiểm cho sự tồn tại và phát triển của con người vốn chịu ảnh hưởng sâu sắc của
môi trường”. Trong những năm tới, xu thế chung của hợp tác quốc tế và khu vực
để đối phó với vấn đề biến đổi khí hậu sẽ được tăng cường, tập trung vào quá trình
thiết lập cơ chế hợp tác, nghiên cứu và đánh giá tác động, xây dựng biện pháp
phòng ngừa và nghiên cứu công nghệ, năng lượng mới. Mặc dù vậy, quá trình hợp
tác sẽ còn gặp nhiều khó khăn, trắc trở do còn nhiều sự khác biệt về lợi ích giữa
các nước trong việc thực hiện các cam kết quốc tế liên quan đến vấn đề biến đổi
khí hậu (cơ bản là việc giảm chất thải gây hiệu ứng nhà kính hoặc sử dụng tiết
kiệm nhiên liệu có thể ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng kinh tế của nhiều nước),
việc sản xuất theo Chương trình cơ cấu phát triển sạch (The Clean Development
Mechanism - CDM ) đòi hỏi đầu tư lớn và công nghệ phức tạp...
Vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 158/2008/QĐ – Thủ

Tướng phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu
và ngày 12/01/2009, tại TP. Hồ Chí Minh, Bộ Tài nguyên và Môi trường chính
thức công bố Chương trình mục tiêu quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu.
Mục tiêu chiến lược của Chương trình là đánh giá được mức độ tác động của biến
đổi khí hậu đối với các lĩnh vực, ngành và địa phương trong từng giai đoạn và xây
Hồ Thị Mỹ - Địa 1A ĐHSP Huế 15
Chuyên đề: Thách thức về môi trường và tài nguyên
dựng được kế hoạch hành động có tính khả thi để ứng phó hiệu quả với biến đổi
khí hậu cho từng giai đoạn ngắn hạn và dài hạn nhằm đảm bảo sự phát triển bền
vững của đất nước, tận dụng cơ hội phát triển nền kinh tế theo hướng các-bon thấp
và tham gia cùng cộng đồng quốc tế trong nỗ lực giảm nhẹ biến đổi khí hậu, bảo
vệ hệ thống khí hậu trái đất.
Loài người đang đứng trước
những thách thức lớn. Theo Tổng
Thư ký LHQ Ban Ki-moon, loài
người đang sống trong kỷ nguyên
không an toàn.
Tại cuộc họp của Ðại hội
đồng LHQ ngày 11-1, Tổng Thư ký
LHQ Ban Ki-moon nêu rõ những ưu
tiên hàng đầu của ông trong năm 2010
là thúc đẩy phát triển bền vững và đạt được một hiệp định mang tính ràng buộc về
biến đổi khí hậu. Tổng Thư ký LHQ Ban Ki-moon đã chính thức phát động "Năm
quốc tế đa dạng sinh học" 2010, với thông điệp "Ða dạng sinh học là cuộc sống.
Ða dạng sinh học là cuộc sống của chúng ta". Ông cho rằng, thất bại trong việc
bảo vệ thiên nhiên đã ở mức báo động, vì thế tất cả các quốc gia và mọi người cần
phải tham gia "liên minh bảo vệ cuộc sống trên Trái đất". Ông cho biết, Ðại hội
đồng LHQ sẽ triệu tập hội nghị cấp cao đặc biệt về chủ đề này vào tháng 9-2010,
trước Hội nghị cấp cao về đa dạng sinh học ở Na-gôi-a, Nhật Bản. Ông cũng kêu
gọi cộng đồng quốc tế đẩy nhanh các nỗ lực nhằm đạt được các Mục tiêu Thiên

niên kỷ (MDGs) vào năm 2015, trong đó chú trọng vào việc đầu tư cho phát triển,
tăng cường an ninh và cải thiện cuộc sống của người dân. Tổng Thư ký LHQ nêu
rõ rằng, loài người đang sống trong một kỷ nguyên không an toàn. Mặc dù kinh tế
nhiều nước đã phát triển mạnh, song hiện vẫn còn nhiều người phải sống trong
cảnh nghèo khổ và xung đột vũ trang vẫn diễn ra tại nhiều nơi trên thế giới gây ra
những thảm cảnh trong khi biến đổi khí hậu kéo lùi sự phát triển và đang đẩy hàng
trăm triệu người vào cảnh nghèo đói và bệnh dịch chết người.
1 .4 Chống biến đổi khí hậu
Hồ Thị Mỹ - Địa 1A ĐHSP Huế 16
Chuyên đề: Thách thức về môi trường và tài nguyên
Tháng 12-2009, Hội nghị LHQ về chống biến đổi khí hậu tại Copenhagen đã
đạt được thỏa thuận chính trị khung về việc thực hiện những biện pháp ngăn chặn
biến đổi khí hậu và tiếp tục thảo luận về những giải pháp lâu dài khống chế mức
gia tăng nhiệt độ Trái đất không quá 2
o
C so với thời kỳ tiền công nghiệp, cắt giảm
lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính và cam kết dành 100 tỷ USD mỗi năm cho
các nước đang phát triển để ứng phó với biến đổi khí hậu. Ông Ban Ki-moon cho
rằng, cộng đồng quốc tế cần đạt được hiệp định có tính ràng buộc về vấn đề này
trong năm nay.
Ba lĩnh vực ưu tiên trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu đã được LHQ
xác định trên cơ sở tận dụng các nguồn lợi của các hệ sinh thái, từ các dải san hô
đến các cánh rừng, kết hợp với công nghệ năng lượng mặt trời, địa nhiệt và gió,
năng lượng tái sinh... nhằm thực hiện "nền kinh tế xanh". Chương trình Môi
trường LHQ (UNEP) nhấn mạnh, các hệ sinh thái lành mạnh như các dải san hô,
các vùng đất ướt, rừng đước và các khu vực đất phì nhiêu cho trồng trọt là những
hệ sinh thái chủ chốt để thích nghi thành công với những biến đổi của thời tiết.
UNEP kêu gọi các nước quản lý và bảo tồn các hệ sinh thái này như các vùng
đệm. Các hệ sinh thái này cũng như các nguồn lợi mà chúng cung cấp cho nhân
loại là tài sản kinh tế vô giá.

Lĩnh vực ưu tiên thứ hai liên quan Chương trình giảm khí thải do phá rừng
và suy thoái rừng (REDD), một đề xuất và hợp tác giữa UNEP, Tổ chức Lương
thực và Nông nghiệp LHQ (FAO) và Chương trình phát triển LHQ (UNDP).
Lượng khí thải này có thể chiếm tới 20% tổng lượng khí thải toàn cầu hiện nay.
Ðã có chín nước trên thế giới sẵn sàng tham gia REDD với các biện pháp và các
chế độ giám sát, kiểm chứng, bảo vệ để bảo đảm hiệu quả của chương trình không
chỉ về kinh tế và thời tiết, mà còn cả trong cuộc sống của các cộng đồng dân cư.
Theo LHQ, thí dụ, thực hiện REDD, mỗi năm Indonesia có thể thêm thu nhập tới
một tỷ USD, nếu nạn phá rừng giảm đi 50%.
Lĩnh vực ưu tiên thứ ba là thực hiện công nghệ sạch. Nghiên cứu của UNEP
cho biết, đầu tư vào các nguồn năng lượng thay thế ít thải CO2 và giảm lượng khí
thải từ tiêu thụ năng lượng không hiệu quả cũng làm tăng hiệu quả của nền kinh tế
và môi trường. Tuy nhiên, UNEP nhấn mạnh mặc dù nhiều công nghệ giảm lượng
Hồ Thị Mỹ - Địa 1A ĐHSP Huế 17
Chuyên đề: Thách thức về môi trường và tài nguyên
khí thải CO2 có thể có hiệu quả thương mại, nhưng việc chuyển giao những công
nghệ này tới các thị trường mới và sử dụng chúng trên toàn cầu vẫn là một thách
thức lớn. Giám đốc chấp hành của UNEP Achim Steiner cho rằng, 2010 sẽ là năm
kiểm nghiệm quyết tâm của cộng đồng quốc tế trong việc bảo tồn và phát triển tài
nguyên thiên nhiên.
* Sáng kiến “Giờ Trái đất”
Giờ Trái Đất là một sáng kiến toàn cầu của tổ chức WWF (Quỹ Quốc tế về
Bảo vệ Thiên thiên) về biến đổi khí hậu. Các cá nhân, doanh nghiệp, chính phủ và
những tổ chức xã hội được kêu gọi tắt đèn trong 1 giờ để thể hiện sự ủng hộ của
họ đối với hành động chống lại biến đổi khí hậu này. Sự kiện bắt đầu tại Sydney
vào 31/3/ 2007, với hơn 2 triệu người và 2000 doanh nghiệp đã tham gia tắt đèn.
Sáng kiến tắt đèn đã thu hút sự chú ý của hàng triệu công dân trên toàn thế giới.
Trong năm 2008, hơn 50 triệu người của 35 quốc gia đã tham gia. Năm 2009, Giờ
Trái Đất dự kiến thu hút 1 tỉ người và 1.000 thành phố tham gia với thông điệp
“Hành động của mỗi chúng ta có thể làm thay đổi thế giới”. Chiến dịch Giờ trái

đất sẽ diễn ra từ 20h30 – 21h30 ngày 28 tháng 3. Tính đến ngày 7/3/2009 đã có
931 thành phố và đô thị ở 80 quốc gia đăng ký tham gia sáng kiến giờ trái đất
2009.Chỉ tính riêng nước Úc đã có hơn 100 đô thị và thành phố tham gia vào sự
kiện này. Cùng với những đô thị lớn trên thế giới, Giờ Trái Đất 2009 cũng sẽ
chứng kiến đèn được tắt tại những biểu tượng nổi tiếng nhất hành tinh, bao gồm
Tượng chúa cứu thế tại Rio De Janeiro, Núi Bàn ở Cape Town, Toà tháp Liên
bang (Moscow), Nhà hát Opera Sydney, Sân vận động Thiên niên kỷ tại Cardiff và
toà nhà Đài bắc 101 cao nhất thế giới ở Đài Loan... Giờ Trái đất 2009 hy vọng
chuyển giao một sự uỷ nhiệm toàn cầu về việc cải tạo môi trường tới những nhà
lãnh đạo thế giới sẽ tham dự cuộc họp về biến đổi khí hậu tại Copenhagen vào
tháng 12/2009 tới để ký một thoả thuận mới nhằm thay thế Nghị định thư Kyoto.
Năm nay là năm đầu tiên Việt Nam hưởng ứng sáng kiến này và Thành phố
Hà Nội sẽ tắt điện lúc 20h30-21h30 ngày 28/3 để tham gia chiến dịch Giờ Trái đất.
Việc tiết kiệm khối lượng điện tiêu thụ trong 1 giờ đồng nghĩa với giảm bớt lượng
khí thải gây hiệu ứng nhà kính, ngăn chặn sự biến đổi khí hậu toàn cầu.Thông điệp
của sự kiện này là “tắt đèn, bật tương lai”.
Hồ Thị Mỹ - Địa 1A ĐHSP Huế 18
Chuyên đề: Thách thức về môi trường và tài nguyên
Loài người trước những thách thức về
môi trường
Lời cảnh báo này được đưa ra trong bản
báo cáo “Môi trường toàn cầu: Vì sự phát
triển (GEO –4)” của UNEP. GEO-4 đánh giá
tình trạng hiện nay của không khí, đất, nước,
khí hậu và đa dạng sinh học toàn cầu, mô tả
những thay đổi kể từ năm 1987 và nêu
những vấn đề ưu tiên cần giải quyết.
Đây là báo cáo tổng hợp nhất của Liên
hiệp quốc về vấn đề môi trường, do 390 chuyên gia biên soạn và được hơn 1.000
chuyên gia khác trên khắp thế giới phê bình.

Theo UNEP, thất bại trong việc giải quyết những vấn đề cố hữu này sẽ có thể
phá hỏng những thành công đạt được trong những vấn đề đơn giản hơn và có thể
đe doạ đến sự tồn tại của con người. Tuy nhiên, báo cáo cũng khẳng định rằng:
“Mục đích của báo cáo không phải là đưa ra một bức tranh ảm đạm mà là kêu gọi
hành động khẩn trương”.
Ông Achim Steiner, phó tổng thư kí Liên Hiệp quốc và Giám đốc điều hành
UNEP cho biết: “Phản ứng của cộng đồng quốc tế đối với Uỷ ban môi trường và
phát triển có thể nói là rất đáng khích lệ nhưng vẫn còn rất chậm chạp và nhỏ lẻ để
có thể nhận ra và giải quyết những thách thức mà cả loài người lẫn môi trường của
hành tinh đang phải đối mặt”.
Trong vòng 20 năm qua, cộng đồng thế giới đã cắt giảm 95% lượng chất hoá
học gây thủng tầng ô zôn, đưa ra hiệp ước về cắt giảm lượng khí phát thải gây hiệu
ứng nhà kính cùng với sáng kiến mua bán khí thải và thị trường mua bán khí thải;
tăng diện tích đất liền được bảo vệ lên đến gần 12% diện tích Trái Đất và đưa ra
hàng loạt các biện pháp quan trọng liên quan đến các vấn đề từ đa dạng sinh học
và sa mạc hoá đến mua bán các chất thải độc hại và các cơ thể sống bị biến đổi.
Tuy nhiên, GEO-4 cũng chỉ ra rằng vẫn còn những vấn đề cố hữu và nan giải
vẫn chưa được giải quyết. Đó là những vấn đề còn tồn đọng trước kia và những
vấn đề mới nảy sinh - từ việc gia tăng nhanh chóng những “vùng chết” thiếu ô xi ở
Hồ Thị Mỹ - Địa 1A ĐHSP Huế 19
Tương lai chung của chúng ta phụ thuộc vào
hành động của chúng ta ngày hôm nay, chứ
không phải ngày mai hay một lúc nào đó
trong tương lai (Ảnh: UNEP)
Chuyên đề: Thách thức về môi trường và tài nguyên
các đại dương cho đến việc tái xuất hiện những căn bệnh dịch cũ và mới phần nào
liên quan đến tình trạng ô nhiễm môi trường. Trong khi đó, những tổ chức như
UNEP được thành lập ra để tìm ra căn nguyên của các vấn đề lại vẫn còn thiếu
“nguồn lực và tài chính”. Liên quan đến vấn đề biến đổi khí hậu, báo cáo cho biết
mối đe doạ đã cấp bách đến mức phải cắt giảm rất nhiều lượng khí nhà kính vào

giữa thế kỉ này.
Các cuộc đàm phán về một hiệp ước thay thế Nghị định thư Kyoto - thoả
thuận quốc tế về khí hậu buộc các nước phải kiểm soát lượng khí phát thải gây
hiệu ứng nhà kính. Dù trong hiệp ước này tất cả các nước đang phát triển sẽ không
phải cam kết cắt giảm lượng khí thải thì vẫn có rất nhiều sức ép buộc các nước
công nghiệp hoá nhanh - các nước phát thải chủ yếu hiện nay - phải kí cam kết
giảm lượng khí thải.
Các nhà nghiên cứu cũng đồng thời cảnh báo rằng chúng ta đang sống vượt
xa ngưỡng cho phép. Dân số thế giới đông đến mức “Nguồn tài nguyên cần thiết
để duy trì cuộc sống của con người vượt quá mức có sẵn hiện nay. Nhu cầu môi
trường của con người là 21,9 héc ta/người trong khi năng lực sinh thái của Trái
Đất chỉ có thể cung cấp trung bình 15,7ha/người”. Thêm vào đó, cuộc sống của
hàng tỷ người ở các nước đang phát triển đang bị đe doạ do những nước này đã
không giải quyết được những vấn đề đơn giản mà nhiều quốc gia khác đã hoàn
thành tốt.
GEO-4 cũng nhắc lại tuyên bố mà Uỷ ban Brundtland đã đưa ra rằng thế giới
không đối mặt với những cuộc khủng hoảng riêng rẽ mà tất cả “khủng hoảng môi
trường”, ‘khủng hoảng phát triển”, “khủng hoảng năng lượng” đều là một. Cuộc
khủng hoảng này không chỉ bao gồm biến đổi khí hậu, tỉ lệ tuyệt chủng và nghèo
đói mà gồm cả những vấn đề do tăng dân số, tăng nhu cầu tiêu dùng của người
giàu và sự tuyệt vọng của người nghèo gây ra.
Cũng theo báo cáo này, biến đổi khí hậu là “vấn đề toàn cầu hàng đầu” cần
có sự quyết tâm và sự lãnh đạo chính trị. Tuy nhiên, phản ứng của thế giới là “cực
kì chậm chạp” và “mất cân đối nghiêm trọng”. Một vài nước có mức độ ô nhiễm
cao đã từ chối phê chuẩn nghị định thư Kyoto (tính đến tháng 10/2007, Mỹ và Úc
vẫn chưa phê duyệt Kyoto). Song “Để đạt được tiến bộ nhanh chóng thì những
Hồ Thị Mỹ - Địa 1A ĐHSP Huế 20
Chuyên đề: Thách thức về môi trường và tài nguyên
thay đổi cơ bản trong cấu trúc kinh tế và xã hội bao gồm cả thay đổi lối sống đều
rất quan trọng”.

Một số vấn đề được chú trọng là: sự suy thoái và cạn kiệt các nguồn tài
nguyên thiên nhiên như nước, đất đai; đa dạng sinh học bị đe dọa nghiêm trọng, sự
xâm nhập của các loài sinh vật lạ, áp lực khu vực, sự phát thải, thế giới phát triển
không đồng đều và biến đổi khí hậu.
Mặc dù vậy, đối với một số vấn đề dai dẳng thì sự thiệt hại có thể là không
thể thay đổi được. Việc khắc phục các nguyên nhân cơ bản của các sức ép môi
trường thường tác động đến lợi ích của các nhóm có quyền lực có thể ảnh hưởng
đến các quyết định chính sách. Cách duy nhất để xác định các vấn đề khó khăn là
luôn gắn theo một điều kiện từ bên ngoài cho đến trung tâm của việc ra quyết
định: môi trường cho sự phát triển, không phải là sự phát triển gây tổn hại đến môi
trường.
Cuối cùng, báo cáo GEO-4 kết luận rằng “Trong khi mọi người hy vọng vào
sự chỉ đạo của các chính phủ, các đối tượng có liên quan khác cũng đóng vai trò vô
cùng quan trọng để đảm bảo đạt được sự phát triển bền vững. Không còn chần chừ
và cũng không còn thời gian, với tri thức và hiểu biết nắm trong tay về những
thách thức trước mắt, chúng ta cần hành động ngay để bảo vệ sự sống của chúng ta
và của thế hệ tương lai”.
Sự nóng lên của trái đất
Tháng 8/2003, 14.802 người dân Pháp
đã chết do nắng nóng, trong khi số người
chết ở toàn bộ châu Âu là 52.000 người.
Các thập kỷ ghi dấu sự gia tăng nhiệt độ
của trái đất.
Thống kê của các nhà khoa học cho
thấy, thập kỷ 1998 đến 2007 là nóng nhất.
Báo cáo của Ban Hội thẩm Liên Chính phủ về Thay đổi Khí hậu (IPCC) kết luận,
loài người góp 90% nguyên nhân khiến nhiệt độ trung bình của trái đất tăng cao.
Băng tan
Hồ Thị Mỹ - Địa 1A ĐHSP Huế 21
Hình ảnh một người đàn ông đổ mồ

hôi khi đợt không khí nóng tràn về
New York
Chuyên đề: Thách thức về môi trường và tài nguyên
(Sông băng Passu ở một tỉnh biên giới Tây Bắc Pakistan tan chảy dưới ánh
nắng mặt trời).
Sự tồn vong của các dòng sông băng trên dãy Himalayas phụ thuộc vào 40%
dân số thế giới. IPCC dự đoán 80% các dòng sông băng ở Himalaya sẽ biến mất
trong 30 năm tới. Trong khi đó, năm 2007, số lượng băng tan chảy đủ để tàu
thuyền lần đầu tiên có thể đi lại qua khu vực Bắc Cực thuộc Canada.
1.5 Thách thức đạo đức về biến đổi khí hậu:
Chiến dịch Giờ Trái đất là thông điệp gửi tới các nhà lãnh đạo thế giới về sự
cấp bách phải có một thỏa thuận toàn cầu chống lại sự biến đổi khí hậu, cuộc
khủng hoảng nghiêm trọng không chỉ về về môi trường, kinh tế mà còn đang đặt ra
những thách thức về đạo đức.
Nguy cơ về biến đổi khí hậu đang đặt ra thách thức về đạo đức qua góc nhìn
của nhà hoạt động nổi tiếng thế giới người Nam Phi Desmond Tutu và Tổng giám
đốc WWF Quốc tế James Leap dưới đây:
"Tối 28/3, hàng trăm triệu người trên thế giới sẽ cùng tham gia vào Giờ Trái
đất, một sự kiện được xem như cuộc bầu chọn cho hành tinh. Từ New York đến
Bắc Kinh, từ Cape Town đến Paris, mọi người sẽ tắt đèn trong 60 phút để yêu cầu
có hành động chống lại sự biến đổi khí hậu. Giờ Trái đất là một dịp hiếm có để tất
cả chúng ta cùng gửi một thông điệp đến các nhà lãnh đạo thế giới rằng, 2009 là
một năm quan trọng cho một thoả thuận chung chống lại sự nóng lên toàn cầu.
Chúng ta đã quen với việc biến đổi khí hậu được đem ra thảo luận trên khía
cạnh môi trường và kinh tế. Các tác động của nó lên hành tinh đã quá rõ ràng –
Hồ Thị Mỹ - Địa 1A ĐHSP Huế 22
Chuyên đề: Thách thức về môi trường và tài nguyên
hiện tượng băng tan, hạn hán và sự dâng lên của mực nước biển đã trở thành một
chủ đề nóng trong tất cả các bản tin hàng ngày trong vài năm nay.
Trong bối cảnh suy thoái toàn cầu, các cuội hội đàm đã chuyển sang hướng

bàn luận đến khía cạnh kinh tế của biến đổi khí hậu, cái giá của việc chúng ta khi
có thể hoặc không thể kiểm soát được nó.
Hiệu ứng nhà kính.
Hiệu ứng nhà kính dùng để chỉ hiệu
ứng xảy ra khi năng lượng bức xạ của tia
sáng mặt trời, xuyên qua các cửa sổ hoặc
mái nhà bằng kính, được hấp thụ và phân
tán trở lại thành nhiệt lượng cho bầu không
gian bên trong, dẫn đến việc sưởi ấm toàn
bộ không gian bên trong chứ không phải
chỉ ở những chỗ được chiếu sáng.
Hiệu ứng nhà kính là hiệu ứng làm cho không khí của Trái đất nóng lên do
bức xạ sóng ngắn của Mặt trời có thể xuyên qua tầng khí quyển chiếu xuống mặt
đất; mặt đất hấp thu nóng lên lại bức xạ sóng dài vào khí quyển để CO
2
hấp thu
làm cho không khí nóng lên.
Nguyên nhân gây nên hiệu ứng nhà kính
Trước hết tốc độ chóng mặt của quá trình đô thị hoá và sự gia tăng dân số.
Các loại phương tiện giao thông, các
nhà máy sản xuất, các khu công
nghiệp, các đống phế thải... “nhả” ra
một lượng khí CO
2
khổng lồ vào bầu
khí quyển. Những cánh rừng lẽ ra là
nơi hấp thu lại bị chặt phá đến trơ
chọi, CO
2
càng ngày đầy.

Ngoài CO
2
ra, còn có metan, ozôn, các halogen và hơi nước cũng có tác dụng
quan trọng gây hiệu ứng nhà kính.
Trong 200 năm qua, nồng độ CO
2
đã tăng lên 25%, nhiệt độ trung bình của
Trái đất tăng lên 0,5
0
C. Ước tính đến giữa thế kỷ sau, bề mặt Trái đất sẽ nóng
Hồ Thị Mỹ - Địa 1A ĐHSP Huế 23
Chuyên đề: Thách thức về môi trường và tài nguyên
thêm 1,5 - 4,5
o
C; trong đó nhiệt độ ở vĩ độ trung và cao tăng lên càng nhiều.
theo ước tính, lượng khí nhà kính trong khí quyển đã lên đến 7 tỷ tấn, một con số
dĩ nhiên chưa từng có ở bất kỳ giai đoạn nào trong lịch sử phát triển của Trái Đất.
Trong đó, nguyên nhân chính gây nên hiệu ứng nhà kính là hậu quả của
“cách hành xử thực dụng” của các nước phát triển. Lượng khí carbon dioxide
(CO
2
) và nhiều loại khí thải khác trong bầu khí quyển bị dồn tụ khiến nhiệt độ phát
triển cao hơn mức bình thường 3-4
o
C
Môi trường hiện đang là một trong những vấn đề nóng bỏng của toàn nhân
loại. Trong những năm qua, các hiện tượng cháy rừng, băng tan, lũ lụt…thường
xuyên xảy ra trên diện rộng đã làm cho môi trường sống của chúng ta và các loài
sinh vật ngày càng bị thu hẹp.
Hôm nay, ecophila mở topic này nhằm đưa các thông tin môi trường nóng

bỏng của toàn cầu, những sự kiện nổi bật về môi trường được tổ chức tại Việt
Nam trong thời gian tới nhằm tuyên truyền cho dân tem chúng ta về bảo vệ môi
trường. Trong thời gian qua, ecophila cũng đang thực hiện đề tài “ Giáo dục, tuyên
truyền ý thức người dân bảo vệ môi trường qua tem bưu chính” nhằm thu hút và
tuyên truyền bảo vệ môi trường qua kênh truyền tin là “tem bưu chính”.
Nhiều thách thức về môi trường và khí hậu

Năm 2009, tình trạng băng tan,
thiên tai như bão, lũ lụt,…. khiến nhân loại đứng trước nhiều thách thức. Nhưng lo
ngại hơn là các mâu thuẫn vì lợi ích riêng khiến cuộc chiến bảo vệ môi trường
không đạt kết quả
Có thể thấy, “môi trường và biến đổi khí hậu” chính là cụm từ được nhắc
đến nhiều nhất trong năm qua. Nó hiện diện trong tất cả các chương trình nghị sự
quốc tế và là “tâm điểm” thu hút sự quan tâm của toàn cầu.
Hồ Thị Mỹ - Địa 1A ĐHSP Huế 24
Chuyên đề: Thách thức về môi trường và tài nguyên
Trong 12 tháng qua, đã có hàng loạt hội nghị quốc tế lớn nhỏ về môi trường
và khí hậu, trong đó có Hội nghị Bonn (Đức), Hội nghị Barcelona (Tây Ban Nha),
hội nghị New York (Mỹ), Hội nghị biến đổi hậu quốc tế ở Thái Lan. Dù đã có
nhiều hội nghị đã được tổ chức, nhưng việc tìm kiếm một thỏa thuận về chống
biến đổi khí hậu-bảo vệ môi trường thay thế cho Nghị định thư Kyoto bảo vệ Trái
Đất đã không diễn ra.
Trong báo cáo mới nhất công bố giữa tháng 12 này, các nhà khoa học trên
thế giới cảnh báo băng đang tan chảy nhanh hơn trên khắp Trái Đất, từ các biển
băng Bắc cực đến Nam cực và các khu vực núi cao ở châu Á, châu Phi và Mỹ
Latin. Năm 2007, diện tích băng ở Nam cực đã giảm 27% so với năm 2005 và
38% so với diện tích băng trung bình từ năm 1979-2007. Băng tan cũng đồng
nghĩa với việc Trái Đất ấm lên và con người sẽ đứng trước nhiều thách thức mới.
Viễn cảnh nhiều thành phố sụp đổ, người dân Trái Đất sống trong cảnh bần hàn sẽ
trở thành thực tế trong tương lai. Theo ước tính của giới khoa học, lớp trên cùng

của tầng đất đóng băng vĩnh cửu sẽ tan hơn 50% diện tích vào năm 2050 và đến
90% vào cuối thế kỷ, tức vào năm 2100.
Rõ ràng thế giới đang đứng trước nhiều thách thức và con người hoàn toàn
nhận thức rõ về điều đó. Việc tìm kiếm một thỏa thuận mới cắt giảm lượng khí
thải gây hiệu ứng nhà kính và hỗ trợ các nước nghèo tìm cách thích ứng với biến
đổi khí hậu, đã được triển khai rộng khắp trong năm qua với những nỗ lực và cam
kết của nhiều quốc gia.
Tuy nhiên, kết quả lại không được như mong đợi. Việc Tổng Thư ký LHQ
Ban Ki-moon phải hạ mục tiêu ở hội nghị Copenhagen, từ chỗ "đạt một thỏa thuận
ràng buộc về pháp lý" xuống còn "một thỏa thuận chính trị" là ví dụ cho thấy rõ
điều đó.
Thỏa thuận Copenhagen được cả thế giới trông đợi, rốt cuộc chỉ là một sự
thỏa hiệp mang tính đối phó và xoa dịu dư luận, bởi mục tiêu lớn nhất là cắt giảm
cụ thể mức khí thải gây hiệu ứng nhà kính đã không được đưa ra.
Hố sâu ngăn cách trong vấn đề môi trường và khí hậu một lần nữa lộ rõ khi
tranh cãi nổ ra giữa các nước phát triển và đang phát triển, thậm chí ngay cả trong
chính những nước đang phát triển. Nhìn lại một năm trong vấn đề môi trường và
Hồ Thị Mỹ - Địa 1A ĐHSP Huế 25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×