Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Đánh giá độ trưởng thành vật chất hữu cơ của đá mẹ lô 09 - Bồn Trũng Cửu Long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.24 MB, 64 trang )

Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths. Bùi Thò Luận
LỜI MỞ ĐẦU
LỜI MỞ ĐẦU
Bồn trũng Cửu Long là bể trầm tích được xếp vào loại có tiềm
năng dầu khí lớn nhất nước ta và đang được khai thác hàng triệu tấn
dầu khí mỗi năm, mang lại nhiều lợi ích kinh tế cho nước ta.
Mặc dù ngành công nghiệp dầu – khí là một ngành còn khá non
trẻ ở Việt Nam nhưng nó đã không ngừng phát triển và đã có nhiều
thành công đáng kể, trong đó đáng kể nhất là công tác tiềm kiếm
thăm dò dầu – khí ở thềm lục đòa Việt Nam. Sự thành công của công
tác kỹ thuật sẽ không trọn vẹn nếu không có sự đóng góp của công tác
tìm kiếm, thăm dò dầu khí. Nó giúp hỗ trợ cho việc đònh vò mũi
khoan tìm kiếm được chính xác hơn, khoa học hơn và kinh tế hơn.
Được sự đồng ý của bộ môn Đòa chất Dầu khí trường Đại Học
Khoa Học Tự Nhiên, tác giả quyết đònh chọn đề tài cho khóa luận tốt
nghiệp của mình là: “ĐÁNH GIÁ ĐỘ TRƯỞNG THÀNH VẬT
CHẤT HỮU CƠ CỦA ĐÁ MẸ LÔ 09 – BỒN TRŨNG CỬU LONG”
Trong thời gian thực hiện khóa luận, tác giả đã nhận được sự
quan tâm hướng dẫn rất tận tình của cô Bùi Thò Luận và các thầy cô
trong khoa Đòa Chất, cũng như tất cả các bạn bè cùng khóa. Nhưng vì
thời gian có hạn, nên khóa luận tốt nghiệp sẽ không khỏi còn những
thiếu sót do kinh nghiệp, chuyên môn và kỹ thuật còn hạn chế. Vì vậy,
tác giả rất mong sự đóng góp ý kiến chân thành của tất cả quý thầy cô.
Cuối cùng, tác giả xin bày tỏ tấm long biết ơn sâu sắc đến tất cả
thầy cô Khoa Đòa Chất trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên, đặc biệt
là cô Bùi Thò Luận cùng tất cả bạn bè cùng khóa. Xin cảm ơn rất
nhiều.
Tháng 12 năm 2007
Sinh viên thực hiện
NGUYỄN ANH QUYỀN
SVTH: Nguyễn Anh Quyền 1


Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths. Bùi Thò Luận
MỤC LỤC
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU....................................................................................................1
MỤC LỤC.........................................................................................................2
PHẦN CHUNG
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤT BỒN TRŨNG CỬU
LONG ...........................................................................................................4
1.1 Vò trí đòa lý...................................................................................4
1.2 Lòch sử nghiên cứu, tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí......5
1.3 Đặc điểm đòa tầng........................................................................10
1.4 Đặc điểm cấu kiến tạo bồn trũng Cửu Long................................17
1.5 Lòch sử phát triển đòa chất bồn trũng Cửu Long...........................21
PHẦN CHUYÊN ĐỀ
CHƯƠNG II: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ
ĐỊA HÓA TRONG NGHIÊN CỨU ĐÁ MẸ....................................................27
2.1 Phương pháp nghiên cứu..............................................................27
2.2 Đá mẹ..........................................................................................28
2.3 Nhóm các phương pháp đòa hóa đánh giá đá mẹ.........................33
CHƯƠNG III: KẾT QUẢ PHÂN TÍCH ĐỊA HÓA TÀI LIỆU GIẾNG KHOAN
THUỘC BỒN TRŨNG CỬU LONG................................................................40
3.1 Giếng khoan Bạch Hổ 15.............................................................45
3.2 Giếng khoan Bạch Hổ 09.............................................................49
3.3 Điểm M........................................................................................53
3.4 Liên kết các sơ đồ lòch sử chôn vùi VCHC thuộc lô 9.1..............57
KẾT LUẬN.......................................................................................................59
DANH MỤC HÌNH ẢNH – BIỂU BẢNG........................................................61
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................64
SVTH: Nguyễn Anh Quyền 2
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths. Bùi Thò Luận


PHẦN CHUNG
SVTH: Nguyễn Anh Quyền 3
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths. Bùi Thò Luận
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤT BỒN
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤT BỒN


TRŨNG CỬU LONG
TRŨNG CỬU LONG
1.1 VỊ TRÍ ĐỊA LÝ:
Bể trầm tích Cửu Long nằm chủ yếu trên thềm lục đòa phía Nam Việt
Nam, và một phần đất liền thuộc khu vực cửa sông Cửu Long. Bể có hình bầu
dục, vồng ra về phía biển và nằm dọc theo bờ biển Vũng Tàu – Bình Thuận. Bể
Cửu Long tiếp giáp với đất liền về phía Tây Bắc, ngăn cách với bể Nam Côn
Sơn bởi đới nâng Côn Sơn, phía Tây Nam là đới nâng Khorat – Natuna và phía
Đông Bắc là đới cắt trượt Tuy Hòa ngăn cách với bể Phú Khánh, có tạo độ đòa lý
khoảng 9
o
00

-11
o
00

vó Bắc và 106
o
30

-109

o
00

kinh Đông, với diện tích khoảng
36.000 km
2
. Bể Cửu Long được lấp đầy chủ yếu bởi các trầm tích lục nguyên
tuổi Oligocene – Miocene và lớp phủ thềm Pliocene – Đệ Tứ. Chiều dày lớn
nhất của chúng tại trung tâm bể có thể đạt tới 7-8km (Hình 1.1).
Hình 1.1: Vò trí bể Cửu Long (Trần Lê Đông, Phùng Đắc Hải - 2007)
SVTH: Nguyễn Anh Quyền 4
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths. Bùi Thò Luận
1.2 LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU, TÌM KIẾM, THĂM DÒ VÀ KHAI THÁC DẦU
KHÍ:
Lòch sử tìm kiếm thăm dò dầu khí bể Cửu Long gắn liền với lòch sử tìm
kiếm thăm dò dầu khí của thềm lục đòa Việt Nam. Căn cứ vào quy mô, mốc lòch
sử và kết quả thăm dò, lòch sử tìm kiếm thăm dò dầu khí của bể Cửu Long được
chia ra thành 4 giai đoạn:
1.2.1 Giai đoạn trước năm 1975:
Đây là thời kỳ khảo sát đòa vật lý khu vực như từ, trọng lực và đòa chấn để
phân chia các lô, chuẩn bò cho công tác đấu thầu, ký hợp đồng trong dầu khí.
Năm 1967 US Navy Oceanographic Office đã tiến hành khảo sát từ hàng
không gần khắp lãnh thổ Miền Nam.
Năm 1967-1968 hai tàu Ruth và Maria của Alpine Geophysical
Corporation đã tiến hành đo 19.500 km tuyến đòa chấn ở phía Nam Biển đông
trong đó có tuyến cắt qua bể Cửu Long.
Năm 1969 Công ty Ray geophysical Mandrel đã tiến hành đo đòa vật lý
biển bằng tàu N.V.Robray I ở vùng biển thềm lục đòa Miền Nam và vùng phía
Nam của biển Đông với tổng số 3.482 km tuyến trong đó có tuyến cắt qua bể
Cửu Long.

Trong năm 1969 USNavy Oceanigraphic cũng đã tiến hành đo song song
20 km tuyến đòa chấn bằng hai tàu T/V E.V hunt ở vònh Thái Lan và phía Nam
Biển Đông trong đó có tuyến cắt qua bể Cửu Long.
Đầu năm 1970, công ty Ray Geophysical Manfrel lại tiến hành đo đợt 2 ở
Nam Biển Đông và dọc bờ biển 8.639 km, đảm bảo mạng lưới cỡ 30x50 km, kết
hợp giữa các phương pháp từ, trọng lực và hàng không trong đó có tuyến cắt qua
bể Cửu Long.
SVTH: Nguyễn Anh Quyền 5
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths. Bùi Thò Luận
Năm 1973 – 1974 đã đấu thầu trên 11 lô, trong đó có 3 lô thuộc về bể
Cửu Long là 09, 15 và 16.
Năm 1974, công ty Mobil trúng thầu trên lô 09 đã tiến hành khảo sát đòa
vật lý, chủ yếu là đòa chấn phản xạ, có từ và trọng lực với khối lượng là 3.000
km tuyến. Vào cuối năm 1974 và đầu năm 1975, công ty Mobil đã khoan giếng
khoan tìm kiếm dầu đầu tiên trong bể Cửu Long, BH-1X ở phần đỉnh của cấu
tạo Bạch Hổ. Kết quả thử vỉa đối tượng cát kết Miocene dưới ở chiều sâu 1.755
– 2.819 m đã cho dòng dầu công nghiệp, lưu lượng dầu đạt 342 m
3
/ngày. Kết
quả này đã khẳng đònh triển vọng và tiềm năng dầu khí của bể Cửu Long.
1.2.2 Giai đoạn 1975 – 1979.
Năm 1976, công ty đòa lý CGG của Pháp khảo sát 1.210,9 km theo các
con sông của đồng bằng Sông Cửu Long và vùng ven biển Vũng Tàu-Côn Sơn.
Kết quả của công tác khảo sát đòa chấn đã xây dựng được các tầng phản xạ
chính: từ CL20 đến CL80 và khẳng đònh sự tồn tại của bể Cửu Long với một mặt
cắt trầm tích Đệ Tam dày.
Năm 1987, công ty Geco (Nauy) thu nổ đòa chấn 2D trên lô 10, 09, 16, 19,
20, 21 với tổng số 11.898,5 km và làm chi tiết trên cấu tạo Bạch Hổ với mạng
lưới tuyến 2x2 và 1x1 km. Riêng đối với lô 15, công ty Deminex đã hợp đồng
với Geco khảo sát 3221,7 km tuyến đòa chấn với mạng lưới là 3,5x3,5km trên lô

15 và cấu tạo Cửu Long (nay là Rạng Đông). Căn cứ vào kết quả minh giải tài
liệu đòa chấn này Deminex đã khoan 4 giếng khoan tìm kiếm trên các cấu tạo
triển vọng nhất Trà Tân (15-A-1X), Sông Ba (15-B-1X), Cửu Long (15-C-1X),
Đồng Nai (15-G-1X). Kết quả khoan các giếng khoan này đều gặp biểu hiện dầu
khí trong cát kết tuổi Miocene sớm và Oligocene, nhưng dòng không có ý nghóa
công nghiệp.
SVTH: Nguyễn Anh Quyền 6
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths. Bùi Thò Luận
1.2.3 Giai đoạn 1980 – 1988:
Công tác tìm kiếm, thăm dò dầu khí ở thềm lục đòa Nam Việt Nam trong
giai đoạn này được triển khai rộng khắp, nhưng tập trung chủ yếu vào một đơn vò
đó là Xí nghiệp liên doanh VietsovPetro. Năm 1980, tàu nghiên cứu POISK đã
tiến hành khảo sát 4.057 km tuyến đòa chấn điểm sâu chung, từ và 3.250 km
tuyến trọng lực. Kết quả của đợt khảo sát này đã phân chia ra được tập đòa chấn
B (CL4-1, CL4-2), C (CL5-1), D(CL5-2), E(CL5-3) và F(CL6-2), đã xây dựng
được một số sơ đồ cấu tạo dò thường từ và trọng lực Bouguer.
Năm 1981 tàu nghiên cứu Iskatel đã tiến hành khảo sát đòa vật lý với
mạng lưới 2x2,2 – 3x2-3 km đòa chấn MOB-OTT-48, trọng lực, từ ỏ phạm vi lô
09, 15, 16 với tổng số 2.248 km.
Năm 1983-1984 tàu viện só Gamburxev đã tiến hành khảo sát 4.000 km
tuyến đòa chấn để nghiên cứu thành phần sâu nhất của bể Cửu Long.
Trong thời gian này XNLD VietsovPetro đã khoan 4 giếng trên các cấu
tạo Bạch Hổ và Rồng: R-1X, BH-3X, BH-4X, BH-5X và TĐ-1X tên cấu tạo
Tam Đảo. Trừ TĐ-1X tất cả 4 giếng còn lại đều phát hiện vỉa dầu công nghiệp
từ các vỉa cát kết Miocene dưới và Oligocene (BH-4X).
Giai đoạn 1980-1988 được đánh dấu bằng việc VietsovPetro đã khai thác
những tấn dầu từ 2 đối tượng khai thác Miocene, Oligocene dưới của mỏ Bạch
Hổ vào năm 1986 và phát hiện dầu trong đá móng granite nứt nẻ vào tháng 9
năm 1988.
1.2.4 Giai đoạn 1989 đến nay:

Đây là giai đoạn phát triển mạnh mẽ nhất công tác tìm kiếm, thăm dò và
khai thác dầu khí bể Cửu Long. Với sự ra đời của Luật Đầu tư nước ngoài và luật
Dầu khí, hàng loạt các công ty đầu tư nước ngoài đã ký hợp đồng phân chia sản
phẩm hoặc cùng đầu tư vào các lô mở và có triển vọng tại bê Cửu Long. Đến
SVTH: Nguyễn Anh Quyền 7
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths. Bùi Thò Luận
cuối năm 2003 đã có 9 hợp đồng tìm kiếm thăm dò được ký kết trên các lô: 09-1,
09-2, 09-3, 01&02, 01&02/96, 12-1, 15-2, 16-1, 16-2 và 17.
Triển khai các hợp đồng đã ký và công tác khảo sát đòa vật lý thăm dò,
các công ty dầu khí đã ký hợp đồng với các công ty dòch vụ khảo sát đòa chấn có
nhiều kinh nghiệm trên thế giới như: CGG, Geco-Prakla, Western Geophysical
Company, PGS, v.v. Hẩu hết các lô trong bể đã được khảo sát đòa chấn tỉ mỉ
không chỉ phục vụ cho công tác thăm dò mà cả cho công tác chính xác mô hình
vỉa chứa. Khối lượng khảo sát đòa chấn trong giai đoạn này, 2D là 2.408 km và
3D là 7.304,6 km
2
. Khảo sát đòa chấn 3D được tiến hành trên hầu hết các diện
tích có triển vọng và trên tất cả các vùng mỏ đã phát hiện.
Trong lónh vực xử lý tài liệu đòa chấn 3D có những tiến bộ rõ rệt khi áp
dụng quy trình xử lý dòch chuyển thời gian và độ sâu trước cộng (PSTM, PSDM).
Cho đến hết năm 2003, tổng số giếng khoan thăm dò, thẩm lượng và khai
thác đã khoan ở bể Cửu Long khoảng 300 giếng, trong đó riêng VietsovPetro
chiếm trên 70%.
Bằng kết quả khoan, nhiều phát hiện dầu khí đã được xác đònh: Rạng
Đông (lô 15.2), Sư Tử Đen, Sư Tử Vàng, Sư Tử Trắng (lô 15.1), Topaz North,
Diamond, Pearl, Emerald (lô 01), Cá Ngừ Vàng ( lô 09.2), Voi Trắng (lô 16.1),
Đông Rồng, Đông Nam Rồng (lô 09-1) (hình 1.2). Trong số phát hiện này có cả
năm mỏ dầu: Bạch Hổ, Rồng (bao gồm cả Đông Rồng và Đông Nam Rồng),
Rạng Đông, Sư Tử Đen, Hồng Ngọc hiện đang được khai thác, với tổng sản
lượng khoảng 45.000 tấn/ngày. Tổng lượng dầu đã thu hồi từ năm mỏ kể từ khi

đưa vào khai thác cho đến năm 2005 là khoảng 170 triệu tấn.
SVTH: Nguyễn Anh Quyền 8
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths. Bùi Thò Luận
H ì n h 1 .2 . S ơ đ ồ p ha ân b o á vò t rí c a ùc g i e án g k h o a n t h u o äc b o àn tr u õn g C ư ûu L o n g
DIAMOND
SU TU DEN
MOO NST ONE
AMBER
BERYL
ZIRCON
SPINEL
TOPAZ NORTH
Q UARTZ
AME THYST N
AME THYS T NE
G ARNET
AMETHYS T SW
JADE SW
AMETHYST
RUB Y
SU TU VANG
SU T U T RANG
T E GI AC TRANG
C A NGU VAN G
LEAD 1
LEAD 2
Phu Quy Isl.
108 00’
O
107 00’

O
109 00’
O
01/97
16.2
15.2
15.1
02/97
03
09.1
09.2
09.3
25
16.1
17
04.104.2
15.2/95
C UU LO N G JOC
PVE P
PE TR ON AS
JV PC
HOA N VU JOC
L AM S ON J OC
ONG C
L AM S ON J OC
VSP
VSP
HO A NG LONG JOC
THA NG LONG JO C
VRJ JOC

VP E P
30 Km
10 00’
O
11 00’
O
10 30’
O
09 30’
O
09 00’
O
File: CLBasin_Basemap
HCM City
Vũng Tàu
JADE-1X
15-G-1X
EMERALD-1X
EM-2X
01-A-1X
RD-1X
RD-3X
RD-7X
RD-5X
PD-1X
GD-1X
PL-1X
BOS-1X
BA VI-1X
VD-1X

VD-2X
15-A-1X
15-C-1X
15-B-1X
BG-1X
BV-1X
BA DEN-1X
RONG
RONG-1
17-N-1X
NO-1X
17-C-1X
TAM DAO-1X
17-DD-1X
17-VT-1X
WOLF-1X
BACH HO-1X
BACH HO-4X
CNV-1,2,3,4X
COD-1X
BACH HO-10X
TGT-3X
TGT-1X
TGV-1X
VT-1X
VV-1X
VT-2X
TGT-2X
SD-1X
SV-1X

SD-2X
SV-2X
TOPAZ-1X
RUBY-1X
RUBY-2X
RUBY-3X
DIAMOND-1X
PEARL-1X
RUBY-4X
AGATE-1X
SAPPHIRE-1X
OPAL-1X
TURQUOISE-1X
TOPAZ NORTH-1X
SD-3X
5
0
2
0
0
1
0
0
5
0
0
SVTH: Nguyễn Anh Quyền 9
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths. Bùi Thò Luận
1.3 ĐẶC ĐIỂM ĐỊA TẦNG:
Theo tài liệu khoan, đòa tầng được mở ra của bể Cửu Long gồm đá móng

cổ trước Kainozoic và trầm tích lớp phủ Kainozoic. Đặc trưng thạch học – trầm
tích, hóa thạch của mỗi phân vò đòa tầng được thể hiện tóm tắt trên cột đòa tầng
tổng hợp của bể (hình 1.3). Để thuận tiện cho công tác tìm kiếm, thăm dò và
khai thác dầu khí các phân vò đòa tầng được đối sánh với các tập đòa chấn. Các
mặt phản xạ đòa chấn đều trùng với các ranh giới của các phân vò đòa tầng.
1.3.1 MÓNG TRƯỚC KAINOZOIC:
Ở bể Cửu Long cho đến nay đã khoan hàng trăm giếng khoan sâu vào
móng trước Kainozoic tại nhiều vò trí khác nhau trên toàn bể. Về mặt thạch học,
đá móng có thể xếp thành 2 nhóm chính: granite và granodiorite – diorite,
ngoài ra còn gặp đá biến chất và các thành tạo núi lửa.
So sánh kết quả nghiên cứu các phức hệ magma xâm nhập trên đất liền với
đá móng kết tinh ngoài khơi bể Cửu Long, theo đặc trưng thạch học và tuổi tuyệt
đối có thể xếp tương đương với 3 phức hệ: Hòn Khoai, Đònh Quán và Cà Ná.
Phức hệ Hòn Khoai có thể xem là phức hệ đá magma cổ nhất trong móng
của bể Cửu Long, phức hệ có tuổi Triassic muộn, tương ứng khoảng 195 đến 250
tr.năm. Theo tài liệu Đòa chất Việt Nam tập II, các thành tạo magma thì
granitoid Hòn Khoai được ghép chung với các thành tạo magma xâm nhập phức
hệ Ankroet-Đònh Quán gồm chủ yếu là đá Amphybol-Biotite-Diorite, monzonite
và adamelite. Đá bò biến đổi, cà nát mạnh. Phần lớn các khe nứt đã bò lấp đầy
bởi các khoáng vật thứ sinh: calcite-epidote-zeolite. Đá có thể phân bố chủ yếu
ở phần cánh của các khối nâng móng, như cánh phía Đông Bắc mỏ Bạch Hổ.
Phức hệ Đònh Quán gặp khá phổ biến ở nhiều cấu tạo Bạch Hổ (vòm
Bắc), Ba Vì, Tam Đảo và Sói. Ở các mỏ Hồng Ngọc, Rạng Đông, Sư Tử Đen và
SVTH: Nguyễn Anh Quyền 10
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths. Bùi Thò Luận
Sư Tử Vàng (ở phía Bắc bể), chủ yếu là đá granodiorite, đôi chỗ gặp monzonite-
biotite-thạch anh đa sắc. Đá thuộc loại kiềm vôi, có thành phần axit vừa phải
SiO
2
dao động 63÷67%. Các thành tạo của phức hệ xâm nhập này có mức độ

giập vỡ và biến đổi cao. Hầu hết các khe nứt đều được lấp đầy bởi các khoáng
vật thứ sinh: calcite, zeolite, thạch anh và clorite. Trong đới biến đổi mạnh
biotite thường bò clorite hóa. Phức hệ Đònh Quán có tuổi Jurassic, tuổi tuyệt đối
dao động từ 130 đến 155 tr.năm.
Phức hệ Cà Ná là phức hệ magma phát triển và gặp phổ biến nhất trên
toàn bể Cửu Long. Phức hệ đặc trưng là granite thủy mica và biotite, thuộc loại
Natri-Kali, dư nhôm (Al=2,98%), Si (~69%) và ít Ca. Đá có tuổi tuyệt đối
khoảng 90 đến 100 tr.năm, thuộc Jurasic muộn. Các khối granitoid phức hệ
magma xâm nhập này thành tạo đồng tạo núi và phân bố dọc theo hướng trục
của bể. Đá bò dập vỡ, nhưng mức độ biến đổi thứ sinh yếu hơn so với 2 phức hệ
vừa nêu.
Trong mặt cắt đá magma xâm nhập đã biết thường gặp các đai mạch có
thành phần thạch học khác nhau từ axit đến trung tính – bazo, bazơ và thạch anh.
Tại một số nơi, như ở khu vực mỏ Rồng còn gặp các đá biến chất nhiệt động
kiểu paragneis hoặc orthogneis. Các đá này thường có mức độ biến đổi kém hơn
so với đá xâm nhập.
1.3.2 TRẦM TÍCH KAINOZOIC:
Nằm bất chỉnh hợp trên mặt đá móng kết tinh bào mòn và phong hóa là
thành tạo Kainozoic hoặc núi lửa.
Đòa tầng được mô tả từ dưới lên, nghóa là từ cổ đến trẻ và được trình bày
trong khá nhiều các công trình khoa học đã công bố.
1) Paleogene:
Eocene:
SVTH: Nguyễn Anh Quyền 11
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths. Bùi Thò Luận
Hệ tầng Cà Cối (E
2
cc)
Hệ tầng này được phát hiện tại giếng khoan Cửu Long-1X trên đất liền,
nhưng chưa được nghiên cứu đầy đủ ở những phần chìm sâu của bề, nơi mà

chúng có thể tồn tại. Hệ tầng đặc trưng bởi trầm tích vụn thô: cuội sạn kết, cát
kết và sét kết hydromica-clorite-sericite. Trầm tích có màu nâu đỏ, đỏ tím, tím
lục sặc sỡ với độ chọn lọc rất kém, đặc trưng kiểu molas lũ tích lục đòa thuộc các
trũng trước núi Cretaceous-Paleocene-Eocene. Các bào tử phấn phát hiện được
trong mặt cắt này như: Klukisporires, Triporopollenites, Trudopollis, Plcapolis,
Jussiena, v.v., thuộc nhóm thực vật khô cạn thường phổ biến trong Eocene. Mặt
cắt của hệ tầng được xếp tương ứng với tập CL7 của tài liệu đòa chấn. Chiều dày
hệ tầng có thể đạt tới 600m.
Oligocene dưới:
Hệ tầng Trà Cú (E
3
1
tc)
Là hệ tầng đã được xác lập ở giếng khoan Cửu Long – 1X.
Trầm tích gồm chủ yếu là sét kết, bột kết và cát kết, có chứa các vỉa than
mỏng và sét vôi, được tích tụ trong điều kiện sông hồ. Đôi khi gặp các đá núi
lửa, thành phần chủ yếu là porphyr diapaz, tuff basalt, và gabro-diapaz. Chiều
dày của hệ tầng tại phần trũng trung tâm, phần sườn các khối nâng Trung Tâm
như Bạch Hổ, Rồng và Sư Tử Trắng có thể đạt tới 500m.
Theo đặc trưng tướng đá hệ tầng được chia thành 2 phần: trên và dưới.
Phần trên chủ yếu là các thành tạo hạt mòn còn phần dưới là các thành tạo hạt
thô. Giữa 2 phần là ranh giới chỉnh hợp.
Hệ tầng Trà Cú có tiềm năng chứa và sinh dầu khí khá cao. Các vỉa cát
kết của hệ tầng là các vỉa chứa dầu khí chủ yếu trên mỏ Đông Nam Rồng, Sư Tử
Trắng và là đối tượng khai thác thứ hai sau móng nứt nẻ trên mỏ Bạch Hổ.
Chiều dày của hệ tầng dao động từ 0 - 800m.
SVTH: Nguyễn Anh Quyền 12
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths. Bùi Thò Luận
Oligocene trên:
Hệ tầng Trà Tân (E

3
2
tt) được xác lập ở giếng khoan 15A-1X.
Đá của hệ tầng Trà Tân đôi chỗ nằm bất chỉnh hợp trên hệ tầng Trà Cú.
Mặt cắt hệ tầng có thể chia thành phần ba phần khác biệt nhau về thạch học.
Phần trên gồm chủ yếu là sét kết màu nâu – nâu đậm, nâu đen, rất ít sét màu
đỏ, cát kết và bột kết, tỷ lệ cát/sét khoảng 35÷50%. Phần giữa gồm chủ yếu là
sét kết nâu đậm, nâu đen, cát kết và bột kết, tỷ lệ cát/sét khoảng 40÷60% (phổ
biến khoảng 50%, đôi nơi có xen các lớp đá vôi mỏng, than. Phần dưới chủ yếu
là cát kết hạt mòn đến thô, đôi chỗ sạn, cuội kết, xen sét kết màu nâu đậm, nâu
đen, bột kết, tỷ lệ cát/sét khoảng 20÷50%. Các trầm tích của hệ tầng này được
tích tụ chủ yếu trong môi trường đồng bằng sông, aluvi-đồng bằng ven bờ và hồ.
Các thành tạo núi lửa cũng được tìm thấy ở nhiều giếng khoan của bể.
Sét kết của hệ tầng Trà Tân có hàm lượng và chất lượng VCHC cao đến
rất cao đặc biệt là tầng Trà Tân giữa, chúng là những tầng sinh dầu khí tốt ở bể
Cửu Long đồng thời là tầng chắn tốt cho tầng đá móng granite nứt nẻ. Tuy tầng
cát kết nằm xen kẹp có chất lượng thấm, rỗng và độ liên tục thay đổi từ kém
đến tốt, nhưng cũng là đối tượng tìm kiếm đáng lưu ý ở bể Cửu Long.
2) Neogene
Miocene dưới
Hệ tầng Bạch Hổ (N
1
1
bh)
Được xác lập ở giếng khoan BH-1X. Có thể chia làm 2 phần: phần trên
chủ yếu là sét kết màu xám, xám xanh đen xen kẽ với cát kết và bột kết, tỷ lệ
cát, bột kết tăng dần xuống dưới (đến 50%). Tầng trên cùng của mặt cắt là tầng
“sét kết Rotalid” bao phủ toàn bể, chiều dày thay đổi từ 50÷150m. Phần dưới
gồm chủ yếu là cát kết, bột kết (trên 60%). Xen kẽ với các lớp sét kết màu xám,
vàng, đỏ. Các trầm tích của hệ tầng được tích tụ trong môi trường đồng bằng

SVTH: Nguyễn Anh Quyền 13
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths. Bùi Thò Luận
aluvia – đồng bằng ven bờ ở phần dưới, chuyển dần lên đồng bằng ven bờ - biển
nông ở phần trên. Đá núi lửa đã được phát hiện thấy ở nhiều giếng khoan thuộc
lô 01 ở phía Bắc bể, chủ yếu là basalt và tuff basalt.
Tầng sét kết chứa Rotalia là tầng đá chắn khu vực tuyệt vời cho toàn bể.
Các vỉa cát xen kẻ nằm trong và ngay dưới tầng sét kết Rotalia và ở phần trên
của phía dưới mặt cắt có khả năng thấm chứa khá tốt, chúng là đối tượng tìm
kiếm quan trọng thứ 3 ở bể Cửu Long. Dầu hiện cũng đang được khai thác từ các
tầng cát này như ở mỏ Hồng Ngọc, Rạng Đông, Bạch Hổ và sắp tới là Sư Tử
Đen.
Miocene giữa
Hệ tầng Côn Sơn (N
1
2
cs)
Được xác lập ở giếng khoan 15B-1X. Hệ tầng gồm chủ yếu cát kết hạt
thô-trung, bột kết (chiếm đến 75÷80%), xen kẽ với các lóp sét kết màu xám,
nhiều màu dày 5÷15m, đôi nơi có lớp than mỏng. Bề dày hệ tầng thay đổi từ
250÷900m. Trầm tích của hệ tầng được thành tạo trong môi trường sông (aluvi)
ở phía Tây, đầm lầy-đồng bằng ven bờ ở phía Đông, Đông Bắc. Hệ tầng này và
các hệ tầng trẻ hơn của bể xem như không có triển vọng chứa dầu khí.
Miocene trên
Hệ tầng Đồng Nai (N
1
3
đn)
Được xác lập ở giếng khoan 15G-1X.
Tuổi của hệ tầng được xác đònh theo tập hợp phong phú các bào tử và
Nanoplakton, nghèo hóa đá foraminifera.

Chủ yếu là cát kết hạt trung xen kẻ với bột và các lớp mỏng sét màu xám
hay nhiều màu, đôi khi gặp các vỉa carbonate mỏng hoặc than mỏng,môi trường
trầm tích đầm lầy, đồng bằng ven bờ ở phần Tây bể, đồng bằng ven bờ-biển
nông ở phần Đông Bắc bể. bề dày của hệ tầng thay đổi trong khoảng 500÷750m.
SVTH: Nguyễn Anh Quyền 14
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths. Bùi Thò Luận
các trầm tích của hệ tầng nằm gần như ngang, nghiêng thoải về Đông và không
bò biến vò.
Pliocene-Đệ Tứ
Hệ tầng Biển Đông (N
2
-Q bđ)
Hệ tầng Biển Đông chủ yếu là cát hạt trung-mòn với ít lớp mỏng bùn, sét
màu xám nhạt chứa phong phú hóa đá biển và glauconite thuộc môi trường trầm
tích biển nông, ven bờ, một số nơi có gặp đá carbonate. Chúng phân bố và trải
đều khắp toàn bể, với chiều dày khá ổn đònh trong khoảng 400÷700m. Trầm tích
của hệ tầng gần như nằm ngang, nghiêng thoải về Đông và không bò biến vò.
Các hóa đá của foraminifera gặp khá phổ biến: Pseudorotalia, Globorotalia,
Dạng rêu (Bryozoar), Mollusca, san hô, rong tảo và bào tử phấn: Dacrydium,
Polocarpus imbricatus…
SVTH: Nguyễn Anh Quyền 15
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths. Bùi Thò Luận
SVTH: Nguyễn Anh Quyền 16
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths. Bùi Thò Luận
Hình 1.3. CỘT ĐỊA TẦNG TỔNG HỢP BỂ CỬU LONG
N
N
1
2
-

N
N
1
9
Đ IỆP
P H U Ï Đ IE ÄP
T H A ÏC H H ỌC
B
i
e
ån

Đ
o
â
n
g
M
Ơ

T


T
H

C
H

H


C
B E À D A ØY (m )
500 -700
100-400
Cát hạt mịn bở rời xen lớp bột, ít lớp sét mỏng màu xám nhạt,
xám xanh bở rời rất giàu hóa đá biển, phía bắc có bazan
T
A
ÀN
G
P
H
A
ÛN

X
A
Ï
“C”
“BIII”
“D”
T
A
Ä
P

Đ

A


C
H
A
ÁN
Q
N
2
C
Đ
Ơ
ÙI

F
O
R
A
M

(
N
i
)
(
B
l
o
w
,


1
9
6
9

&
V
D
K
)
N
1
9
-
N
2
3
P H U Ï T H ỐN G
E
3
2 -2
N
2
Q
+
Cát kết hạt thơ, màu xám trắng xen kẹp sét than,
sét kết màu tro xám-nâu đen giàu vật chất hữu cơ, bột kết
Đ
Ơ
Ù

I

N
A
N
N
O

(
N
n
i
)
(
M
a
r
t
i
n
i
,

1
9
7
3
)
Đ
Ơ

ÙI

B
A
ØO

T
Ư
Û

P
H
A
Á
N

H
O
A
P
inus,
Rhizophora,
Dacrydium,
Phyllocladus
N
N
5
-
N
N

9
C
o
ân

S
ơ
n
8 00-1000
Cát hạt mịn, trung, thơ xen với các lớp bột,
sét màu xám vàng nhạt, xám nâu nhạt,vỉa mỏng sét vơi,
sét vơi và vỉa mỏng than. Đặc điểm gắn kết yếu
“BI”
B
II
N
9
-
N
1
5
N
2
1
F
l
o
r
s
c

h
u
e
t
z
i
a

l
e
v
i
p
o
l
i

F
l
o
r
s
c
h
u
e
t
z
i
a


t
r
i
l
o
b
a
t
a

F
l
o
r
s
c
h
u
e
t
z
i
a

s
e
m
i
l

o
b
a
t
a

A
c
r
o
s
t
i
c
h
u
m

N
N
1
-
N
N
4
Ba ïch H o å
100 - 1500
“ Tầng sét rotalid” có tính trương nở cao, xám xanh, xám trắng,
xám vàng, xám hồng, lốm đốm xanh lá, ít than, bột kết xen kẽ với cát.
Cát kết mịn, trung thơ, rất thơ, màu trắng, hồng đục, hơi xám.

Bột kết màu xám đến xám xanh lá,
cùng với các sản phẩm núi lửa (hay còn gọi là sét tạp).
Đặc điểm gắn kết tốt
B
I
N
1
-
N
8
N
1
1
F
l
o
r
s
c
h
u
e
t
z
i
a

l
e
v

i
p
o
l
i
M
a
g
n
a
s
t
r
i
a
t
i
t
e
s

h
o
w
a
r
d
i

S

h
o
r
e
a

P
i
n
u
s
p
o
l
l
e
n
i
t
e
s
N
N
1
0
-
N
N
1
1

Đ
o
àn
g

N
a
i
5
0
0
-
6
0
0
Cát hạt thơ lẫn sạn kết, sỏi đơi khi có cuội,
xen các lớp mỏng sét màu xám, xám sáng, xám phớt nâu,
sét vơi (magnơ), sét vơi và các lớp mỏng than, chứa nhiều hóa đá biển.
Đặc điểm là gắn kết yếu và bở rời
“BII”
B
III
N
1
6
-
N
1
8
3

1
N
F
l
o
r
s
c
h
u
e
t
z
i
a

m
e
r
i
d
i
o
n
a
l
i
s
F
l

o
r
s
c
h
u
e
t
z
i
a

t
r
i
l
o
b
a
t
a
,

R
h
i
z
o
p
h

o
r
a
,
P
i
c
e
a
T H ỐN G
MIO CE NE (N )
1
N
2
Q
+
H
E
Ä
N E O G E N E
Đ
e
ä

t
ư
ù
G
I
Ơ

ÙI
CENOZOIC
K
h
o
ân
g

c
o
ù

h
o
ù
a

đ
a
ù
C a ø C o ái T ra ø T a ân
100 - 600 400-1500100 - 800
Cát kết hạt mịn, trung, sỏi kết, xen các lớp sét kết màu xám tối,
màu nâu hoặc xám nâu giàu vật chất hữu cơ, bột kết,
lớp cuội sạn sỏi cơ sở (conglomorah)
Sét tạp có xen kẻ các lớp mỏng bazalt, bột kết và một ít than.
Sét kết giàu vật chất hữu cơ.
Chủ yếu sét kết dày màu tro xám rất giàu vật chất hữu cơ,
xen kẹp bột kết, cát kết và các thấu kính than mỏng.
Cát kết arkos, lithic arkos, lẫn bột kết, độ hạt mịn, trung bình,

xen kẹp sét kết màu nâu đậm,màu đen và tro xám giàu vật chất hữu cơ.
Ở đáy có hai lớp đá phun trào mang tính địa phương.
Granit, biotit, hai mica, đơi nơi có sienit, granodiorit,
granodiorit thạch anh, monzonit,
diorit, diorit thạch anh, các đá biến chất, sét phiến xanh và amphboilit
các đá magma xun cắt dạng đai mạch chủ yếu là
andezit, gabro diabaz.
“M”
“E”
“F”
“EI”
M
E
D
F?
H
i
e
ám

f
o
r
a
m

b
a
ùm


đ
a
ù
y
O
p
e
r
c
u
l
i
n
a

s
p
p
,

A
m
p
h
i
s
t
e
g
i

n
a

s
p
p
,
G
l
o
b
i
g
e
r
i
n
o
i
d
e
s

s
p
p
,

O
s

t
r
a
c
o
d
a

s
p
p
V
V
V
V
V
V
M z
E
3
2-1
E
3
1-2
2
E E
3
1 -1

F

l
o
r
s
c
h
u
e
t
z
i
a

t
r
i
l
o
b
a
t
a
M
a
g
n
a
s
t
r

i
a
t
i
t
e
s

h
o
w
a
r
d
i
,
A
c
r
o
s
t
i
c
h
u
m

a
u

t
e
u
m

C
i
c
a
t
r
i
c
o
s
i
s
p
o
r
i
t
e
s

d
o
r
o
g

e
n
s
i
s
,

L
y
c
o
p
o
d
i
u
m
s
p
o
r
i
t
e
s

n
e
o
g

e
n
i
c
u
s
,

V
e
r
r
u
t
i
c
o
l
p
o
r
i
t
e
s

p
a
c
h

y
d
e
r
m
u
s
,

S
t
e
n
o
c
h
l
a
e
n
a

p
a
l
u
s
t
r
i

s
,

P
o
l
y
p
o
d
i
i
s
p
o
r
i
t
e
s

p
e
r
v
e
r
r
u
c

a
t
u
s
,

P
i
n
u
s
p
o
l
l
e
n
i
t
e
s
,
J
u
s
s
i
e
n
a


s
p
p
.
F
l
o
r
s
c
h
u
e
t
z
i
a

t
r
i
l
o
b
a
t
a
C
r

a
s
s
o
r
e
t
i
t
r
i
l
i
t
e
s

V
e
r
r
u
t
i
c
o
l
p
o
r

i
t
e
s

p
a
c
h
y
d
e
r
m
u
s
.
M
a
g
n
a
s
t
r
i
a
t
i
t

e
s

h
o
w
a
r
d
i
,
C
r
a
s
s
o
r
e
t
i
t
r
i
l
i
t
e
s


n
a
n
h
a
i
e
n
s
i
s
,

v
a
n
r
a
a
d
s
h
o
o
v
e
n
i
,


O L I G O C E N E
P A L E O G E N ET + J +K
MESOZOIC
V
V
V
V
(Trích từ nguồn Vietsovpetro, Bùi Thị Luận - 2007)
T r à C u ù
EOCENE
SVTH: Nguyễn Anh Quyền 17
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths. Bùi Thò Luận
1.4 ĐẶC ĐIỂM CẤU KIẾN TẠO BỒN TRŨNG CỬU LONG
Việc phân chia các đơn vò cấu tạo được dựa trên đặc điểm cấu trúc đòa
chất của từng khu vực với sự khác biệt về chiều dày trầm tích và thường được
giới hạn bởi những đứt gãy hoặc hệ thống đứt gãy có biên độ đáng kể. Nếu coi
bể Cửu Long là đơn vò cấu trúc bậc 1 thì cấu trúc bậc 2 của bể bao gồm các đơn
vò cấu trúc sau: Trũng phân dò Bạc Liêu; trũng phân dò Cà Cối; đới nâng Cửu
Long; đới nâng Phú Quý (phần lún chìm kéo dài khối nâng Côn Sơn) và trũng
chính bể Cửu Long.
Trũng phân dò Bạc Liêu là một trũng nhỏ nằm ở phần cuối Tây Nam của
bể Cửu Long với diện tich khoảng 2.600 km
2
. Gần một nửa diện tích của trũng
thuộc lô 31, phần còn lại thuộc phần nước nông và đất liền. Trũng có chiều dày
trầm tích Đệ Tam không lớn khoảng 3km và bò chia cắt bởi các đứt gãy thuận có
phương TB-ĐN. Trong trũng có khả năng bắt gặp trầm tích như trong trũng phân
dò Cà Cối.
Trũng phân dò Cà Cối nằm chủ yếu ở khu vực cửa Sông Hậu có diện tích
rất nhỏ và chiều dày trầm tích không lớn, trên dưới 2.000m. Tại đây đã khoan

giếng khoan CL-1X và mở ra hệ tầng Cà Cối. Trũng bò phân cắt bởi các đứt gãy
kiến tạo có phương ĐB-TN, gần như vuông góc với phương của đứt gãy trong
trũng phân dò Bạc Liêu.
Đới nâng Cửu Long nằm về phía Đông của trũng phân dò Bạc Liêu và Cà
Cối, phân tách hai trũng này với trũng chính của bể Cửu Long. Đới nâng có
chiều dày trầm tích không đáng kể, chủ yếu là trầm tích hệ tầng Đồng Nai và
Biển Đông. Đới nâng không có tiền đề, dấu hiệu dầu khí vì vậy đã không được
nghiên cứu chi tiết và không xác đònh sự phát triển các đứt gãy kiến tạo.
SVTH: Nguyễn Anh Quyền 18
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths. Bùi Thò Luận
Các đơn vò cấu trúc vửa nêu được xem là rất ít hoặc không có triển vọng
dầu khí, vì vậy chúng ít khi được đề cập đến trong các công trình không được
xem như một đơn vò cấu thành của bể Cửu Long.
Đới nâng Phú Quý được xem như phần kéo dài của đới nâng Côn Sơn về
phía Đông Bắc, thuộc lô 01 và 02. Đây là đới nâng cổ, có vai trò khép kín và
phân tách bể Cửu Long với phần phía Bắc của bể Nam Côn Sơn. Tuy nhiên, vào
giai đoạn Neogene – Đệ Tứ thì diện tích này lại thuộc phần mở của bể Cửu
Long. Chiều dày trầm tích thuộc khu vực đới nâng này dao động từ 1,5 đến 2km.
Cấu trúc của đới bò ảnh hưởng khá mạnh bởi các hoạt động núi lửa, kể các núi
lửa trẻ.
Trũng chính Cửu Long. Đây là phần lún chìm chính của bể, chiếm tới ¾
diện tích bể, gồm các lô 01, 02, 09, 17. Theo đường đẳng dày 2 km thì trũng
chính bể Cửu Long thể hiện rõ nét là một bể khép kín có dạng trăng khuyết với
vòng cung hướng ra về phía Đông Nam. Toàn bộ triển vọng dầu khí đều tập
trung ở trũng này. Vì vậy, cấu trúc của trũng được nghiên cứu khá chi tiết và
được phân chia ra thành các đơn vò cấu trúc nhỏ hơn như một bể độc lập thực
thụ. Các đơn vò cấu tạo bậc 3 gồm: trũng Đông Bắc; trũng Tây Bạch Hổ; trũng
Đông Bạch Hổ; sườn nghiêng Tây Bắc; sườn nghiêng Đông Nam; đới nâng
Trung Tâm; đới nâng phía Bắc; đới nâng phía Đông; đới phân dò Đông Bắc; đới
phân dò Tây Nam.

Sườn nghiêng Tây Bắc là dải sườn bờ Tây Bắc của bể kéo dài theo hướng
TB-ĐN, chiều dày trầm tích tăng dần về phía Tây Nam từ 1 đến 2,5 km. Sườn
nghiêng bò cắt xẻ bởi các đứt gãy kiến tạo có hướng ĐB-TN hoặc TB-ĐN, tạo
thành các mũi nhô. Trầm tích Đệ Tam của bể thường có xu hướng vát nhọn và
gá đáy lên móng cổ granitoid trước Kainozoi.
SVTH: Nguyễn Anh Quyền 19
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths. Bùi Thò Luận
Sườn nghiêng Đông Nam là dải sườn bờ Đông Nam của bể, tiếp giáp với
đới nâng Côn Sơn. Trầm tích của đới này có xu hướng vát nhọn và gá đáy với
chiều dày trầm tích dao động từ 1 đến 2,5 km. Sườn nghiêng này cũng bò phức
tạp bởi các đứt gãy kiến tạo có phương ĐB-TN và á vó tuyến tạo nên các cấu tạo
đòa phương như cấu tạo Amethyst, Cá Ông Đôim, Opal, Sói.
Trũng Đông Bắc, đây là trũng sâu nhất, chiều dày trầm tích có thể đạt tới
8 km. Trũng có phương kéo dài dọc theo trục chính của bể, nằm kẹp giữa 2 đới
nâng và chòu khống chế bởi hệ thống các đứt gãy chính hướng ĐB-TN.
Trũng Tây Bạch Hổ. Trong một số tài liệu trũng này được ghép chung với
trũng Đông Bắc. Tuy nhiên, về đặc thù kiến tạo giữa hai trũng có sự khác biệt
đáng kể đặc biệt là phương của các đứt gãy kiến tạo chính. Trũng Tây Bạch Hổ
bò khống chế bởi các đứt gãy kiến tạo có phương á vó tuyến, tạo sự gấp khúc của
bể. Chiều dày trầm tích của trũng này có thể đạt tới 7,5 km.
Trũng Đông Bạch Hổ nằm kẹp giữa đới nâng Trung Tâm về phía Tây,
sườn nghiêng Đông Nam về phía Đông- Đông Nam và đới nâng Đông Bắc về
phía Bắc. Trũng có chiều dày trầm tích đạt tới 7 km và là một trong ba trung tâm
tách giãn của bể.
Đới nâng Trung Tâm là đới nâng nằm kẹp giữa 2 trũng Đông và Tây
Bạch Hổ và được giới hạn bởi các đứt gãy có biên độ lớn với hướng đổ chủ yếu
về hướng Đông Nam. Đới nâng bao gồm các cấu tạo dương và có liên quan đến
những khối nâng cổ trước Kainozoi như: Bạch Hổ, Rồng. Các cấu tạo bò chi phối
không chỉ bởi các đứt gãy thuận hình thành trong quá trình tách giãn, mà còn bởi
các đứt gãy trượt bằng và chờm nghòch do ảnh hưởng của sự siết ép vào

Oligocene muộn.
Đới nâng phía Tây Bắc nằm về phía Tây Bắc của trũng Đông Bắc và
được khống chế bởi các đứt gãy chính phương ĐB-TN. Về phía TB đới nâng bò
SVTH: Nguyễn Anh Quyền 20
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths. Bùi Thò Luận
ngăn cách bởi một đòa hào nhỏ có chiều dày trầm tích khoảng 6km. Đới nâng
bao gồm cấu tạo Vừng Đông và dải nâng kéo dài về phía Đông Bắc.
Đới nâng phía Đông chạy dài theo hướng ĐB-TN, phía TB ngăn cách với
trũng ĐB bởi hệ thống đứt gãy có phương á vó tuyến và ĐB-TN, phía ĐN ngăn
cách với đới phân dò Đông Bắc bởi võng nhỏ, xem như phần kéo dài của trũng
Đông Bạch Hổ về phía Đông Bắc. Trên đới nâng đã phát hiện được các cấu tạo
dương như: rạng Đông, Phương Đông và Jade.
Đới phân dò Đông Bắc (phần đầu Đông Bắc của bể) nằm kẹp giữa đới
nâng Đông Phú Quý và sườn nghiêng Tây Bắc. Đây là khu vực có chiều dày
trầm tích trung bình và phân dò mạnh bởi các hệ thống đứt gãy có đường phương
ĐB-TN, á kinh tuyến và á vó tuyến tạo thành nhiều đòa hào, đòa lũy nhỏ (theo bề
mặt móng). Một số các cấu tạo dương đòa phương đã xác đònh như: Hồng Ngọc,
Pearl, Turquoise, Diamond, Agate.
Đới phân dò Tây Nam nằm về đầu Tây Nam của trũng chính. Khác với
đới phân dò ĐB, đới này bò phân dò mạnh bởi hệ thống những đứt gãy với đường
phương chủ yếu là á vó tuyến tạo thành những đòa hào, đòa lũy, hoặc bán đòa hào,
bán đòa lũy xen kẽ nhau. Những cấu tạo có quy mô lớn trong đới này phải kể
đến: Đu Đủ, Tam Đảo, Bà Đen và Ba Vì.
Các cấu tạo đòa phương bậc 4 là đối tượng tìm kiếm và thăm dò dầu khí
chính của bể.
SVTH: Nguyễn Anh Quyền 21
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths. Bùi Thò Luận
1.5. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN ĐỊA CHẤT BỒN TRŨNG CỬU LONG
Bể trầm tích Cửu Long là bể rift nội lục điển hình. Bể được hình thành và
phát triển trên mặt đá kết tinh trước Kainozoic (thường được gọi là mặt móng).

Đặc điểm cấu trúc của bể thể hiện trên bản đồ cấu trúc mặt móng – CL80. Các
bản đồ cấu trúc mặt không chỉnh hợp trong Oligocence trên – CL52, nóc
Oligocene – CL50, Miocene dưới – CL40, có thể thấy rõ quá trình phát triển bể.
Thời kỳ trước tạo rift. Trước Đệ Tam, đặc biệt từ Jura muộn đến
Paleocene là thời gian thành tạo và nâng cao đá móng magma xâm nhập (các
thành tạo nằm dưới các trầm tích Kainozoic ở bể Cửu Long). Các đá này gặp rất
phổ biến ở hầu khắp lục đòa Nam Việt Nam.
Do ảnh hưởng của quá trình va mảng Ấn Độ vào mảng Âu-Á và hình
thành đới hút chìm dọc cung Sunda (50÷43,5 triệu năm). Các thành tạo đá xâm
nhập, phun trào Mesozoic muộn – Kainozoic sớm và trầm tích cổ trước đó đã
trãi qua thời kỳ dài bóc mòn, giập vỡ khối tảng, căng giãn khu vực hướng TB-
ĐN. Sự phát triển các đai mạch lớn, kéo dài có hướng ĐB-TN thuộc phức hệ Cù
Mông và Phan Rang tuổi tuyệt đối 60÷30 triệu năm đã minh chứng cho điều đó.
Đây là giai đoạn san bằng đòa hình trước khi hình thành bể trầm tích Cửu Long.
Đòa hình bề mặt bóc mòn của đá móng kết tinh trong phạm vi khu vực bể lúc
này không hoàn toàn bằng phẳng, có sự đan xen giữa thung lũng và đồi, núi
thấp. Chính hình thái đòa hình mặt móng này đóng vai trò khá quan trọng trong
việc phát triển trầm tích lớp phủ kế thừa vào cuối Eocene, đầu Ologocene.
Thời kỳ đồng tạo rift. Được khởi đầu vào cuối Eocene, đầu Oligicene do
tác động của các biến cố kiến tạo vừa nêu với hướng căng giãn chính là TB-ĐN.
Hàng loạt đứt gãy hướng TB-ĐN đã được sinh thành do sụt lún mạnh và căng
giãn. Các đứt gãy chính là những đứt gãy dạng gàu xúc, cắm về ĐN. Còn các
đứt gãy có xu hướng Đ-T lại do tác động bởi các biến cố kiến tạo khác. Như đã
SVTH: Nguyễn Anh Quyền 22
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths. Bùi Thò Luận
nêu trong chương 4, vào đầu Kainozoic do sự va mạnh ở gốc hội tụ Tây Tạng
giữa các mảng Ấn Độ và Âu-Á làm vi mảng Indosinia bò thúc trồi xuống Đông
Nam theo các đứt gãy trượt bằng lớn như đứt gãy sông Hồng, Sông Hậu – Three
Pagoda, với xu thế trượt trái ở phía Bắc và trượt phải ở Phía Nam tạo nên các
trũng Đệ Tam trên các đới khâu ven rìa, trong đó có bể Cửu Long. Kết quả là đã

hình thành các hệ thống đứt gãy khác có hướng gần ĐB-TN. Như vậy, trong bể
Cửu Long bên cạnh hướng ĐB-TN còn có các hệ thống đứt gãy có hướng cận kề
chúng.
Trong Oligocene tách giãn đáy biển theo hướng B-N tạo biển Đông bắt
đầu từ 32 tr.năm. Trục giãn đáy biển phát triển lấn dần xuốn TN và đổi hướng từ
Đ-Tsang ĐB-TN vào cuối Oligocene. Các quá trình này đã gia tăng các hoạt
động tách giãn và đứt gãy ở bể Cửu Long trong Oligocene và nén ép vào cuối
Ologocene.
Do các hoạt động kiến tạo nêu trên, ở bể Cửu Long các đứt gãy chính
điển hình là các đứt gãy dạng gàu xúc, phương ĐB-TN cắm về ĐN, một số có
hướng Đ-T, nhiều bán đòa hào, đòa hào cùng hướng phát triển theo các đứt gãy
được hình thành. Các bán đòa hào, đòa hào này được lấp đầy nhanh chóng bằng
các trầm tích vụn thô, phun trào chủ yếu thành phần bazơ – trung tính và trầm
tích trước núi. Trong thời gian đầu tạo bể có lẽ do chuyển động sụt lún khối
tảng, phân dò nên tại các đới trũng khác nhau có thể có các thời kỳ gián đoạn,
bào mòn và trầm tích khác nhau. Do khu vực tích tụ trầm tích và cung cấp trầm
tích nằm kế cận nhau nên thành phần trầm tích ở các đới trũng khác nhau có thể
khác biệt nhau. Đặc điểm phát triển các bề mặt không chỉnh hợp ở thời kỳ này
mang tính đòa phương cao và cần được lưu ý khi tiến hành liên kết, đối sánh
thạch đòa tầng. Vào Oligocene sớm, bao quanh và nằm kề áp lên các khối nhô
móng kết tinh phổ biến là trầm tích lục đòa – sông ngòi và đầm hồ, với các tập
SVTH: Nguyễn Anh Quyền 23
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths. Bùi Thò Luận
sét dày đến một vài chục mét (như trên cấu tạo Sư Tử Trắng và cánh Đông Bắc
mỏ Bạch Hổ).
Quá trình tách giãn tiếp tục phát triển làm cho bể lún chìm sâu, rộng hơn.
Các hồ, trũng trước núi trước đó được mở rộng, sâu dần, liên thông nhau và có
chế độ trầm tích khá đồng nhất. Các tầng trầm tích hồ dày, phân bố rộng được
xếp vào hệ tầng Trà Tân được thành tạo, mà chủ yếu là chất hữu cơ màu nâu,
nâu đen tới đen. Các hồ phát triển trong các đòa hào riêng biệt được liên thông

nhau, mở rộng dần và có hướng phát triển kép dài theo phương ĐB-TN, đây
cũng là phương phát triển ưu thế của hệ thống đứt gãy mở bể. Các trầm tích giàu
sét của tầng Trà Tân dưới có diện phân bố hẹp, thường vắng mặt ở phần rìa bể,
phần kề với các khối cao đòa lũy và có dạng nêm điển hình, chúng phát triển dọc
theo các đứt gãy với bề dày thay đổi nhanh. Các trầm tích giàu sét của tầng Trà
Tân giữa được tích tụ sau đó, phân bố rộng hơn, bao phủ trên hầu khắp các khối
cao trong bể và các vùng cận rìa bể.
Hoạt động nén ép vào cuối Oligocene muộn đã đẩy trồi các khối móng
sâu, gây nghòch đảo trong các tầng trầm tích trong Oligocene ở trung tâm các đới
trũng chính, làm tái hoạt động của các đứt gãy thuận chính ở dạng ép chờm,
trượt bằng và tạo nên các cấu trúc “trồi”, các cấu tạo dương/âm hình hoa, phát
sinh các đứt gãy nghòch ở một số nơi như trên cấu tạo Rạng Đông, phía Tây cấu
tạo Bạch Hổ và một số khu vực mỏ Rồng. Đồng thời xảy ra hiện tượng bào mòn
và vát mỏng mạnh các trầm tích thuộc tầng Trà Tân trên.
Các nếp uốn trong trầm tích Oligocene ở bể Cửu Long được hình thành
với 4 cơ chế chính:
1. Nếp uốn gắn với đứt gãy căng giãn phát triển ở cánh sụt của các đứt
gãy chính và thường thấy ở rìa các đới trũng.
SVTH: Nguyễn Anh Quyền 24
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Ths. Bùi Thò Luận
2. Phủ chờm của trầm tích Oligocene lên trên các khối móng cao. Đây là
đặc điểm phổ biến nhất ở bể Cửu Long, các cấu tạo Rạng Đông, Hồng
Ngọc, Sư Tử Đen, Sư Tử Vàng và Bạch Hổ, Rồng, .v..v. đều thuộc
kiểu này.
3. Các cấu tạo hình hoa được thành tạo vào Oligocene muộn và chỉ được
phát hiện trong các đòa hào chính (Cấu tạo Gió Đông, Sông Ba (15B),
v.v.)
4. Các nếp lồi, bán lồi gắn với nghòch đảo trầm tích được thành tạo vào
cuối Oligocene, được phát hiện ở phía Bắc trũng chính bể Cửu Long.
Sự kết thúc hoạt động của phần lớn các đứt gãy và không chỉnh hợp góc

rộng lớn ở nóc trầm tích Oligocene đã đánh dấu sự kết thúc thời kỳ đồng
tạo rift.
Thời kỳ sau tạo rift. Vào Miocene sớm, quá trình giãn đáy biển Đông theo
phương TB-ĐN đã yếu đi và nhanh chóng kết thúc vào cuối Miocene sớm (17
tr.năm), tiếp theo là quá trình nguội lạnh vỏ. Trong thời kỳ đầu Miocene sớm
các hoạt động đứt gãy vẫn còn xảy ra yếu và chỉ chấm dứt hoàn toàn từ Miocene
giữa đến hiện tại. Các trầm tích của thời kỳ sau rift có đặc điểm chung là: phân
bố rộng, không bò biến vò, uốn nếp và gần như nằm ngang.
Tuy nhiên, ở bể Cửu Long các quá trình này vẫn xảy ra các hoạt động tái
căng giãn yếu, lún chìm từ từ trong Miocene sớm và hoạt động núi lửa ở một số
nơi, đặc biệt ở phần Đông Bắc bể. Vào cuối Miocene sớm trên phần lớn diện
tích bể, nóc trầm tích Miocene dưới – hệ tầng Bạch Hổ được đánh dấu bằng biến
cố chìm sâu bể với sự thành tạo tầng “sét Rotalid” biển nông rộng khắp và tạo
nên tầng đánh dấu đòa tầng và tầng chắn khu vực khá tốt cho toàn bể. Cuối
Miocene sớm toàn bể trãi qua quá trình nâng khu vực và bóc mòn yếu, bằng
SVTH: Nguyễn Anh Quyền 25

×