Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Khủng hoảng tài chính và tác động của khủng hoảng đến VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (932.37 KB, 25 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Các cuộc khủng hoảng kinh tế luôn là vấn đề được quan tâm của các chuyên gia , các nhà
chính trị, những người hoạch định chính sách của các quốc gia trên toàn cầu từ cả trăm năm nay.
Sự kiện khủng hoảng tài chính Mỹ diễn ra từ năm 2007 kéo dài cho đến 2009 đến nay đã tác
động nghiêm trọng đến nền kinh tế của hàng loạt quốc gia trên phạm vi toàn thế giới. Mức độ
thiệt hại về kinh tế của cuộc khủng hoảng là rất lớn, đặc biệt tác động mạnh đến hệ thống tài
chính ngân hàng.
Nối tiếp theo đó là cuộc khủng hoảng nợ công ở Châu Âu dẫn đến sự sụp đổ của một số quốc
gia và đe dọa các quốc gia khác trong hệ thống Liên Minh Châu Âu. Triển vọng giải quyết khủng
hoảng nợ công châu Âu trong thời gian tới được dự báo vẫn đang gặp phải một số thách thức
lớn.
Sau khi gia nhập WTO năm 2007, nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu hơn với thế
giới. Điều này thể hiện qua quy mô nền kinh tế, mức độ giao lưu liên kết với các nền kinh tế trên
thế giới ngày càng gia tăng. Do mức độ hội nhập ngày càng gia tăng nền kinh tế Nền kinh tế
Việt Nam nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng cũng không thể tránh khỏi những ảnh
hưởng trực tiếp và gián tiếp của các cuộc khủng hoảng này.
Để có cái nhìn cụ thể hơn về các tác động của các cuộc khủng hoảng đã diễn ra và từ đó đưa
ra một số bài học cho Việt Nam. Nhóm 9-k22 đêm 44 đã chọn đề tài “Khủng hoảng tài chính và
tác động của khủng hoảng đến VN”
Kết cấu bài gồm 3 phần :
Chương 1. Khái quát về khủng hoảng tài chính
Chương 2. Ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính đến Việt Nam
Chương 3. Những bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
1.1. Khái niệm về Khủng hoảng tài chính
1.1.1. Khái niệm
Khủng hoảng tài chính (KHTC) là sự đổ vỡ trầm trọng các bộ phận của thị trường tài chính
kéo theo sự vỡ nợ của hàng loạt ngân hàng và tổ chức tài chính do sự sụt giảm nhanh chóng về
gía tài sản mà kết quả cuối cùng của nó là sự đông cứng và bất lực của thị trường tài chính, sự
sụt giảm nghiêm trọng các hoạt động kinh tế.
Khủng hoảng tài chính là kết quản trực tiếp của một sự mất mát phúc lợi “giấy”; chúng


không phải là kết quả trực tiếp của sự thay đổi trong nền kinh tế trừ khi hệ quả của nó là một sự
suy thoái hoặc khủng hoảng kinh tế tiếp theo sau.
Phân biệt giữa khủng hoảng tài chính và khủng hoảng kinh tế:
Khủng hoảng tài chính Khủng hoảng kinh tế
- Nền kinh tế tiền tệ
- Liên quan đến cấu trúc tài
chính.
- Mức giá tài sản tài chính
( S&P 500, NasDaq, )
- Đầu tư tài chính.
- Bong bóng giá tài sản
( chứng khoán, bất động sản, )
- Thường liên quan đến dòng
chu chuyển vốn quốc tế ( FDI,
FII, vay nợ quốc tế, )
- Tác động đến nền kinh tế
thực.
- Nền kinh tế thực
- Liên quan đến cấu trúc kinh
tế.
- Sản lượng (GDP)
- Đầu tư thực.
- Mức giá chung của nền kinh
tế (lạm phát, CPI, )
- Thường liên quan đến xuất
nhập khẩu hàng hóa dịch vụ.
- Tác động đến nền kinh tế tiền
tệ.
1.1.2. Ảnh hưởng:
Khủng hoảng tài chính nói chung thường gây ra những tác động lớn đối với cả xã hội. Bởi

kinh tế đóng vai trò then chốt trong việc ổn định trật tự xã hội, nên khi nền kinh tế bị tác động
mạnh, nó sẽ kéo theo những ảnh hưởng ( cả tích cực lẫn tiêu cực) trong mọi lĩnh vực, khía cạnh
của đời sống.
Xét về mặt tiêu cực, khủng hoảng tài chính góp phần không nhỏ làm đảo lộn trật tự xã hội.
Trong tất cả các doanh nghiệp, tài chính luôn là vấn đề cốt lõi nhằm duy trì sự hoạt động của
doanh nghiệp và cả cuộc sống của người lao động. Khi gặp phải khủng hoảng tài chính, các
doanh nghiệp khó có khả năng mở rộng đầu tư và phát triển, gây ra sự đình trệ công việc, thậm
chí còn có thể phá sản. Sự phá sản của doanh nghiệp này sẽ tác động tới doanh nghiệp khác, và
cao hơn nữa là tác động đến toàn bộ nền kinh tế theo hiệu ứng dây chuyền. bên cạnh đó, khủng
hoảng tài chính còn góp phần gây ra những bất ổn về xã hội do lượng người thất nghiệp gia tăng.
Tuy nhiên, khủng hoảng tài chính cũng có những tác động tích cực đến nền kinh tế. Nó báo
hiệu sự chấm dứt thế độc tôn của các “ông lớn” trên thị trường tài chính, góp phần làm thay đổi
diện mạo của nền kinh tế. Đồng thời khủng hoảng tài chính cũng buộc người ta phải xem xét, rút
ra bài học; sửa đổi các nguyên tắc đã quy định lên hệ thống tài chính từ trước đến nay, loại bỏ
những nguyên tắc đã không còn thích hợp để theo kịp những biến đổi trong xã hội, từ đó có cài
nhìn đúng đắn và chủ động ứng phó với những cuộc khủng hoảng khác trong tương lai.
1.2. Các nguyên nhân dẫn đến Khủng khoảng tài chính
1.2.1. Nguyên nhân khủng hoảng tài chính
 Đòn bẩy tài chính
Đòn bẩy tài chính có nghĩa là việc vay mượn để tài trợ cho đầu tư. Đòn bẩy tài chính thường
cũng bị chỉ trích như là nhân tố đóng góp cho khủng hoảng tài chính. Khi một nhà đầu tư dùng
tiền của mình để đầu tư thì nếu thua lỗ, trong tình huống xấu nhất, người này chỉ mất tiền của
mình mà thôi. Nhưng khi vay nợ để đầu tư thì kết quả có thể làm cho thu nhập tiềm năng tăng
lên nhưng cũng có thể thua lỗ nhiều hơn những gì nhà đầu tư có. Do đó, đòn bẩy tài chính có thể
khuếch đại thu nhập nhưng cũng có thể tạo ra rủi ro phá sản. Nếu sự phá sản xảy ra thì có nghĩa
là công ty đã thất bại trong việc đáp ứng các lời hứa trả nợ cho các công ty khác, tức có nghĩa là
từ rắc rối tài chính của công ty này có thể lan sang thành của công ty khác.
 Sự không tương thích giữa nợ và tài sản
Một yếu tố khác được cho là có đóng góp đến khủng hoảng tài chính là sự không tương thích
giữa nợ và tài sản. Chẳng hạn, các ngân hàng thương mại huy đô các tài khoản tiền gửi ngắn hạn

nhưng lại cho các doanh nghiệp hay gia đình vay dài hạn. Sự không tương thích giữa nợ ngắn
hạn và tài sản dài hạn của ngân hàng được xem là một trong những lý do có sự tháo chạy ngân
hàng xảy ra (khi người gửi tiền hoảng loạn và quyết định rút tiền của mình nhanh hơn là ngân
hàng có thể thu hồi nợ vay).
Đứng ở phương diện quốc gia, một vài chính phủ ở các nền kinh tế mới nổi, vì một lý do nào
đó, không thể bán trái phiếu có mệnh giá nội tệ, thay vào đó họ bán trái phiếu có mệnh giá ngoại
tệ. Điều này có thể tạo ra sự không tương thích giữa mệnh giá ngoại tệ của nợ với tài sản hay
thu nhập có thể kiếm được (doanh thu thuế bằng nội tệ). Do đó, các chính phủ này sẽ gặp rủi ro
vỡ nợ quốc gia nếu tỷ giá có sự dao động mạnh hoặc khi nguồn dự trữ ngoại tệ yếu.
 Sự không chắc chắn và tâm lý bầy đàn
Nhiều phân tích về khủng hoảng tài chính nhấn mạnh đến vai trò của các sai lầm trong đầu tư
gây ra bởi sự thiếu hiểu biết và sự không hoàn hảo trong lý lẽ của con người. Khủng hoảng
thường phát sinh ngay sau các cuộc cách tân tài chính hay cách mạng kỹ thuật. Các cuộc cách tân
này cho phép các nhà đầu tư tìm thấy những cơ hội đầu tư mới được gọi là “sự chuyển hoán”
các kỳ vọng của nhà đầu tư, như sự sụp đổ của các bong bóng dot-com năm 2001, cuộc khủng
hoảng 2008 có dấu ấn của những chứng khoán phái sinh phức tạp như các hợp đồng hoán đổi rủi
ro tín dụng (credit default swaps hay CDS).
Sự xa lạ với các cách tân tài chính và kỹ thuật có thể giúp giải thích lý do các nhà đầu tư lại
ước tính quá cao giá trị của các tài sản. Chẳng hạn, một số nhà đầu tư lớp đầu biết được tiềm
năng của internet nên đã đầu tư vào các công ty dot-com. Các khoản lợi nhuận bắt đầu được tạo
ra do sự tăng giá cổ phiếu dot-com. Những nhà đầu tư lớp thứ hai nhanh chóng nhảy vào để tìm
kiếm lợi nhuận tương tự mặc dù những người này có thông tin rất hạn chế về tiềm năng của các
công ty dot-com. Tâm lý bầy đàn như vậy ban đầu đã làm giá cổ phiếu tăng và thực tế họ đã thu
được lợi nhuận. Giá cổ phiếu tăng cao vượt ra ngoài những tiềm năng thực sự mà ngành có thể
tạo ra và đến một lúc nào đó thì sự đổ vỡ là không thể tránh khỏi. Khi đó, chỉ cần một số nhỏ nhà
đầu tư nhận ra vấn đề và bắt đầu bán ra thì ngay lập tức gây nên làn sóng bán tháo cổ phiếu và
hậu quả là sự sụp đổ của thị trường.
 Thất bại trong việc điều tiết
Các chính phủ cố gắng loại bỏ hoặc làm giảm nhẹ khủng hoảng tài chính bằng sự điều tiết
đối với khu vực tài chính. Một mục tiêu lớn của sự điều tiết là làm tăng tính minh bạch: buộc

các định chế tài chính phải công bố rộng rãi các báo cáo tài chính một cách thường xuyên theo
các tiêu chuẩn kế toán. Một mục tiêu khác của sự điều tiết là đảm bảo các định chế tài chính có
đủ tài sản để đáp ứng các nghĩa vụ tài chính theo hợp đồng, chẳng hạn như yêu cầu dự trữ, yêu
cầu về vốn, và các giới hạn khác về vay nợ.
Một số cuộc khủng hoảng tài chính đã nổ ra do thiếu một hệ thống điều tiết hữu hiệu.Chẳng
hạn, theo cựu Giám đốc điều hành của IMF, ông Dominique Strauss-Kahn, cuộc khủng hoảng
2008 nổ ra là do “sự thất bại của hệ thống điều tiết nhằm chống lại những hành vi chấp nhận rủi
ro quá mức trong hệ thống tài chính, đặc biệt là ở Mỹ”. Tờ New York Times thì cho rằng sự thiếu
điều tiết đối với các hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng (CDS) là một nguyên nhân của khủng
hoảng.
Tuy nhiên, nhiều khi sự điều tiết quá mức cũng có thể bị chỉ trích là nguyên nhân của
khủng hoảng tài chính. Chẳng hạn như Hiệp ước Basel II thường bị chỉ trích bởi yêu cầu các
ngân hàng tăng vốn tự có khi rủi ro tăng lên, mà điều này có thể buộc ngân hàng giảm vay
mượn xuống khi không thể tăng vốn tự có. Điều này, ở một phương diện nào đó, có thể làm gia
tăng các tiềm năng gây ra sự trói buộc tín dụng như đã trình bày mà hệ quả của nó có thể là
khủng hoảng tài chính.
 Sự lừa dối
Sự lừa dối đóng một vai trò quan trọng trong việc làm sụp đổ một số tổ chức tài chính. Chẳng
hạn nhiều công ty thu hút đầu tư với lời hứa hảo huyền về các cơ hội đầu tư, hoặc che đậy kết
quả thu nhập thực sự của mình. Chẳng hạn như sự sụp đổ của các chứng khoán đầu tư của
Madoff năm 2008. Sự lừa dối này có nguyên nhân do sự bất cân xứng thông tin với các hệ quả
như vấn đề ủy quyền-tác nghiệp hay rủi ro đạo đức.
Sự lừa dối trong các khoản tài trợ bất động sản thế chấp cũng bị chỉ trích là một khả năng
gây ra khủng hoảng tín dụng dưới chuẩn năm 2008. Tương tự, người ta cho rằng nhiều công ty
tài chính đã phá sản trong cuộc khủng hoảng này do các giám đốc của họ không thể (hoặc
không muốn) thực hiện các nhiệm vụ được giao phó.
 Sự lây lan
Người ta cho rằng các trục trặc tài chính có thể lây lan từ tổ chức này sang tổ chức khác
giống như các căn bệnh truyền nhiễm vậy. Chẳng hạn như khi một ngân hàng bị rơi vào tình
trạng tháo chạy thì các ngân hàng khác cũng có nguy cơ bị rơi vào tình trạng tương tự. Khi sự

sụp đổ của một tổ chức tài chính nào đó đe dọa đến sự ổn định của nhiều tổ chức tài chính khác,
người ta gọi đó là rủi ro hệ thống.
Sự lây lan còn mang tính chất quốc gia, ở đó sự khủng hoảng tài chính từ quốc gia này có thể
lan sang các quốc gia khác. Chẳng hạn như khi có khủng hoảng tiền tệ, sự vỡ nợ quốc gia, hay
sự sụp đổ của thị trường chứng khoán nó ngay lập tức sẽ lan sang các thị trường tài chính ở các
quốc gia khác.
1.2.2. Các mô hình khủng hoảng
 Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ 1
Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ nhất được P. Krugman (1979) xây dựng và chủ yếu đặc
trưng cho các cuộc khủng hoảng cán cân vãng lai trong điều kiện tỷ giá cố định bị các hoạt động
đầu cơ tấn công. Mô hình này xảy ra ở một số nước có nền tảng kinh tế vĩ mô quá yếu kém, ngân
sách thâm hụt trầm trọng, cung tiền tăng quá mức (có thể do Chính phủ in tiền để bù đắp thâm
hụt ngân sách) khiến lạm phát gia tăng; những điều này dẫn đến cán cân vãng lai thâm hụt trầm
trọng. Trước nguy cơ đồng nội tệ bị giảm giá, Chính phủ buộc phải liên tục can thiệp bằng cách
bán ngoại tệ ra thị trường để duy trì tỷ giá cố định. Khi lượng dự trữ ngoại hối giảm xuống một
mức thấp nhất định nào đó, các cuộc tấn công mang tính đầu cơ bắt đầu xảy ra, cùng với các điều
kiện nền tảng kinh tế vĩ mô quá yếu kém và thậm chí là sự gia tăng căng thẳng về chính trị và xã
hội, đến một thời điểm nào đó, Chính phủ buộc phải chấm dứt chế độ tỷ giá cố định và chuyển
sang thả nổi tỷ giá làm cho đồng nội tệ bị mất giá liên tục và khủng hoảng tiền tệ xảy ra. Mô hình
này được thể hiện rõ nhất trong các cuộc khủng hoảng ở một số nước châu Mĩ La Tinh vào cuối
những năm 1970, đầu những năm 1980 và trong những năm 1990.
 Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ 2
Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ hai được Obstfeld (1994 và 1995) xây dựng. Khủng hoảng
dạng này còn được gọi là khủng hoảng tự phát sinh (self-fulfilling crisis), có thể xảy ra ở những
nước có mức độ yếu kém về tài chính và vĩ mô vừa phải, song cam kết duy trì chế độ tỷ giá cố
định của Chính phủ bị suy yếu do các biện pháp bảo vệ tỷ giá quá tốn kém (chẳng hạn do thắt
chặt tiền tệ, lãi suất bị đẩy lên cao, gây tác động xấu tới tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm).
Trước tín hiệu đó, các nhà đầu cơ có thể bán tháo đồng nội tệ để mua ngoại tệ. Những sức ép này
buộc Chính phủ không có cách nào khác là phải từ bỏ chế độ tỷ giá cố định để thực thi chính
sách tiền tệ mở rộng trước những cuộc tấn công quy mô của giới đầu cơ tiền tệ, và hậu quả là

khủng hoảng bùng phát. Biến thể khác của mô hình khủng hoảng thế hệ thứ hai xuất phát từ tình
trạng thông tin không hoàn hảo và mất đối xứng. Trong điều kiện một hoặc một số ngân hàng có
“vấn đề”, tình trạng này dẫn đến hành vi “bầy đàn”, gây hoảng loạn tài chính và rốt cuộc dẫn đến
khủng hoảng tài chính - tiền tệ. Mô hình này có thể thấy trong cuộc khủng hoảng của Hệ thống
tiền tệ châu Âu năm 1992-1993.
 Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ 3
Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ ba được Yoshitomi và Ohno (1999) xây dựng, đặc trưng cho
các cuộc khủng hoảng tài khoản vốn trong cán cân thanh toán quốc tế. Khủng hoảng tài khoản
vốn thường dẫn đến khủng hoảng “kép”: khủng hoảng tiền tệ và khủng hoảng ngân hàng. Việc tự
do hoá tài khoản vốn thiếu một trình tự thích hợp đã dẫn đến hai hệ quả là tiền đề cho cuộc
khủng hoảng kép: Luồng vốn đổ vào ồ ạt vượt quá mức thâm hụt cán cân vãng lai; và Vốn ngắn
hạn chiếm tỷ trọng quá lớn.
Luồng vốn đổ vào ồ ạt vượt quá mức thâm hụt cán cân vãng lai đã khiến cán cân thanh toán
thặng dư và dự trữ ngoại hối tăng. Điều này dẫn tới sự bành trướng tín dụng, đầu tư và tiêu dùng
trong nước. Điểm mấu chốt ở đây là việc đầu tư quá mức (dư thừa năng lực sản xuất), đầu tư
kém hiệu quả (vào các lĩnh vực như bất động sản…), đã dẫn tới hậu quả là thâm hụt cán cân
vãng lai tăng, xuất hiện nền “kinh tế bong bóng” và mức cung dư thừa. Khi các nhà đầu tư nhận
thức được những yếu kém kể trên và những dấu hiệu bất ổn khác như sự sụt giảm giá bất động
sản và cổ phiếu cũng như các hoạt động tấn công đầu cơ tiền tệ, họ đồng loạt rút vốn ra khỏi nền
kinh tế. Hậu quả là cán cân thanh toán trở nên thâm hụt trầm trọng và dự trữ ngoại hối dần cạn
kiệt, báo hiệu về một cuộc khủng hoảng tiền tệ xảy ra.
Trong điều kiện tự do hoá cán cân vốn, một lượng vốn ngắn hạn với tỷ trọng quá lớn (lớn
hơn nhiều dự trữ ngoại hối) đã đổ vào nền kinh tế. Trong điều kiện giám sát các khoản vay nợ
kém hiệu quả, một lượng lớn vốn vay ngắn hạn bằng ngoại tệ đã được cho vay bằng nội tệ để đầu
tư dài hạn vào những dự án kém hiệu quả đã dẫn đến vấn đề “sai lệch kép” trầm trọng. Bảng cân
đối tài sản của các công ty cũng như của hệ thống ngân hàng - tài chính xấu đi một cách trầm
trọng khi đồng nội tệ mất giá và một lượng vốn lớn của các nhà đầu tư nước ngoài bị rút ra đột
ngột; đến lượt nó, tài sản ròng của các ngân hàng bị sụt giảm, dẫn đến tín dụng càng bị thắt chặt
và bảng cân đối tài sản của các ngân hàng càng tồi tệ hơn. Quá trình tác động vòng xoáy và cộng
hưởng này gây nên khủng hoảng bùng phát trong một thời gian rất ngắn và đẩy các nền kinh tế

ngập sâu vào vòng suy thoái. Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á 1997-1998 được coi là
ví dụ điển hình của mô hình khủng hoảng thế hệ thứ ba.
 Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ 4
Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ tư được David Mayer và Foules xây dựng năm 2009 sau khi
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nổ ra năm 2008. Nguyên nhân trực tiếp của cuộc khủng
hoảng là do tình trạng kinh doanh thua lỗ và sụp đổ hàng loạt theo dây chuyền của các tổ chức
tài chính hàng đầu và khủng hoảng niềm tin của người dân vào nền kinh tế.
Khi nền kinh tế bước vào thời kỳ suy thoái, kinh tế khó khăn, giá bất động sản giảm mạnh,
người đi vay đã không có khả năng trả được nợ lại cũng rất khó bán bất động sản để trả nợ. Như
vậy, các tổ chức tín dụng cho vay phải đối mặt với nguy cơ mất vốn. Thêm vào đó, việc các hợp
đồng cho vay bất động sản dùng để bảo đảm cho các các chứng khoán MBS là nợ khó đòi dẫn
đến các chứng khoán MBS mất giá trên thị trường, khiến cho các ngân hàng, các nhà đầu tư nắm
giữ những chứng khoán này không những bị lỗ mà còn dần rơi vào tình trạng khó khăn về tính
thanh khoản. Đến một mức độ nhất định, các tổ chức tài chính không còn chịu đựng được sức ép
của tính thanh khoản và các khoản thua lỗ, nên đã buộc phải tìm sự cứu trợ từ tất cả các nguồn
và thậm chí giải pháp cuối cùng là đệ đơn pháp sản.
Một nguyên nhân khác dẫn đến cuộc khủng hoảng thị trường chứng khoán ngày càng sâu
rộng là sự khủng hoảng về niềm tin của người dân Mỹ đối với sự không nhất quán của đội ngũ
lãnh đạo của đất nước này. Nhiều chính sách điều tiết thị trường đã không còn phù hợp và không
theo kịp được sự phát triển của thị trường. Khi lòng tin vào vai trò của Chính phủ đã bị giảm sút
và những dấu hiệu của một cuộc cuộc đại khủng hoảng và suy thoái trong dài hạn vẫn còn hiển
hiện thì những giải pháp tài chính tức thời cũng khó làm thay đổi được thị trường.
Nguyên nhân sâu xa của cuộc khủng hoảng là tình trạng phát triển bong bóng của thị trường
tài chính, trong đó tập trung là thị trường tín dụng bất động sản và chứng khoán hoá các khoản
tín dụng bất động sản. Trong một thời gian dài, các tổ chức tài chính đã tăng cường cho vay đối
với thị trường bất động sản, đi kèm với đó là tình trạng nới lỏng các điều kiện vay vốn dẫn đến
việc bùng nổ hoạt động cho vay bất động sản. Các khoản tín dụng đầu tư bất động sản sau đó
được chứng khoán hoá và được giao dịch rộng rãi trên thị trường. Kết quả là tình trạng bong
bóng tín dụng bất động sản và chứng khoán được đẩy lên rất cao, lôi kéo sự tham gia của nhiều
chủ thể khác nhau như ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán, các quỹ đầu tư Hệ

quả là, những biến động tiêu cực của thị trường tài chính-tiền tệ lại tạo sức ép lên hoạt động sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp làm cho họ vốn đã khó khăn lại ngày càng khó khăn thêm.
Lạm phát và tình trạng tín dụng bị co rút lại làm cho các doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn khi tiếp
cận vốn, số doanh nghiệp rơi vào tình trạng phá sản ngày càng tăng. Vốn đầu tư không những
không được bơm thêm vào thị trường mà lại còn được rút bớt ra, thị trường đi xuống trong tình
trạng tính thanh khoản giảm.
CHƯƠNG 2. ẢNH HƯỞNG KHTC ĐỐI VỚI VIỆT NAM
2.1.Các cuộc khủng hoảng lớn trên thế giới
2.1.1. Khủng hoảng giai đoạn 1929 -1930
Đại khủng hoảng là thời kỳ suy thoái kinh tế toàn cầu diễn ra từ năm 1929 đến hết các năm
1930 và lấn sang đầu thập kỷ 1940, bắt đầu sau sự sụp đổ của thị trường chứng khoán Phố Wall
vào 29 tháng 10 năm 1929 (còn được biết đến như Thứ Ba Đen tối). Nó bắt đầu ở Hoa Kỳ và
nhanh chóng lan rộng ra toàn Châu Âu và mọi nơi trên thế giới, phá hủy cả các nước phát triển.
Thương mại quốc tế suy sụp rõ rệt, từ thu nhập cá nhân, thuế, lợi tức đều bị ảnh hưởng và suy
thoái. Xây dựng gần như bị tê liệt ở nhiều nước.Từ thành thị đến nông thôn đều phải đối mặt với
mất mùa, giảm từ 40 đến 60 phần tram. Các lĩnh vực khai mỏ và khai thác gỗ bị ảnh hưởng lớn
nhất. Đại Suy thoái kết thúc vào các thời gian khác nhau tùy theo từng nước. Nó bị coi là "đêm
trước" của Thế chiến thứ hai.
Đại Suy thoái không hoàn toàn đột nhiên nổ ra; sự suy thoái đến thành các đợt, bắt đầu 3 năm
một thời kỳ và đạt đến điểm tận cùng vào tháng 3 năm 1933.
• Nguyên nhân:
Chu kỳ kinh tế là một phần bình thường của đời sống thế giới do sự thiếu cân bằng giữa cung
và cầu. Theo trường phái Áo, nguyên nhân bắt nguồn từ sự can thiệp của Chính phủ vào thập kỷ
1920. Sự dễ dãi trong tăng tín dụng đẩy các ngân hàng dễ dàng cho vay, dẫn tới bùng nổ quá
mức cung tiền ngay trước khi khủng hoảng, đẩy thị trường chứng khoán bùng nổ quá mức, ngân
hàng cho vay quá nhiều, rủi ro quá mức không được quản lý. Khi thị trường chứng khoán sụp đổ,
kéo theo sụp đổ dây chuyền của các thể chế tài chính do các khoản nợ xấu không đòi được.
Theo trường phái Keynes, cơ chế tự điều chỉnh của thị trường tự do không hoạt động được.
Dù lãi suất giảm nhưng đầu tư không tăng được do kỳ vọng về tương lai quá bi quan.
Theo trường phái của kinh tế tiền tệ (monetarist), khủng hoảng là do sự xiết chặt quá mức

của cung tiền năm 1930, và rằng Cục dự trữ Liên Bang đã sử dụng sai chính sách tiền tệ, đáng lẽ
phải tăng cung tiền, thay vì đã giảm cung tiền.
Một số lý thuyết riêng rẽ khác giải thích Đại Khủng hoảng:
o Khủng hoảng nợ dưới chuẩn (Deft Deflation): Khi nợ bị đánh giá khó đòi, việc bán ra số
lượng lớn với giá rẻ, làm cho tài sản nhìn chung lại càng mất giá, khiến các khoản nợ còn tồn lại
càng giảm chất lượng (do tài sản thế chấp bị giảm giá). Vòng xoáy này như quả bóng tuyết càng
ngày càng to, đẩy cả thị trường nợ và tài sản xuống, làm cho các thể chế tài chính và cá nhân trên
thị trường vỡ nợ. Khi vỡ nợ nhiều quá, đẩy sản xuất và lợi nhuận xuống thấp, đầu tư đình trệ,
việc làm mất và dẫn tới bẫy đói nghèo.
o Sự bất công bằng trong giàu nghèo và thu nhập: Sự bất công bằng trong giàu nghèo được
Waddill Catchings và William Trufant Foster cho là nguyên nhân của Đại Khủng Hoảng. Sản
xuất ra quá nhiều hơn khả năng mua của thị trường (vốn đa số là người nghèo). Lương tăng
chậm hơn so với mức tăng năng suất, dẫn tới lợi nhuận cao, nhưng lợi nhuận lại bị rót vào thị
trường chứng khoán, mà không phải đưa tới cho người tiêu dùng. Do thị trường chứng khoán
tăng nhanh, các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, FED lại để mức lãi xuất cho vay rất thấp, làm
đẩy mạnh đầu tư quá mức. Nền kinh tế tăng nóng trong một thập kỷ, đến mức khả năng sản xuất
quá cao so với mức hiệu quả và so với mức cầu. Như vậy, nguyên nhân của khủng hoảng là do
đầu tư quá mức vào các ngành công nghiệp nặng thay vì vào lương và doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Nền kinh tế tăng quá mức hiệu quả và lạm phát quá cao.
o Cấu trúc thể chế tài chính: Các ngân hàng bị cho là quá rủi ro, khi dự trữ quá ít, đầu tư
quá nhiều vào thị trường chứng khoán và các tài sản rủi ro. Khối nông nghiệp thì quá rủi ro khi
giá đất tăng quá cao, hiệu suất nông nghiệp thấp, trong khi nông dân đi vay quá nhiều để sản
xuất, khi lãi suất đột ngột tăng cao thì họ lâm vào phá sản vì không thể sản xuất để trả lãi vay
cao. Một số nhà kinh tế cho rằng nguyên nhân có thể là từ Bẫy Thanh khoản (khi các chính sách
tiền tệ như giảm lãi suất và tăng cung tiền không thể thúc đẩy nền kinh tế).
o Chế độ bản vị Vàng: Để chống lạm phát, các nước sau Thế chiến Thứ nhất áp dụng bản
vị vàng (đồng tiền gắn chặt với một lượng vàng nhất định). Sốc bắt đầu từ vụ Sụp đổ của thị
trường chứng khoán Mỹ, nhưng vì chế độ bản vị vàng mà khủng hoảng từ Mỹ lan rộng ra khắp
thế giới. Chính vì các chính phủ tiếp tục giữ chế độ bản vị vàng, họ không thể đưa ra các chính
sách tiền tệ nới lỏng để chữa khủng hoảng. Những nước nào thoát khỏi bản vị vàng sớm chính là

những nước khôi phục kinh tế sớm.
o Sụp đổ thương mại quốc tế: Do các nước châu Âu sau Thế chiến Thứ nhất nợ Mỹ nhiều,
họ phải trả nợ hàng năm. Họ cũng xuất khẩu sang Mỹ để lấy ngoại hối trả nợ, đồng thời họ cũng
nhập khẩu hàng từ Mỹ cho nhu cầu. Đến cuối thập kỷ 1920, nhu cầu nhập hàng Mỹ giảm do
khủng hoảng và do thiếu tiền để trả nợ. Đồng thời khi hàng rào thuế quan của Mỹ tăng cao
theoLuật Thuế quan Smoot–Hawley, xuất khẩu vào Mỹ giảm, dẫn tới các nước trên thế giới càng
gặp khó khăn. thương mại quốc tế đình trệ càng làm cho khủng hoảng kinh tế năm 1930 thêm tồi
tệ.
o Chủ nghĩa bảo hộ
o Dân số giảm
2.1.2. Khủng hoảng tài chính Đông Á 1997
Khủng hoảng tài chính Đông Á là cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ tháng 7 năm 1997 ở
Thái Lan rồi ảnh hưởng đến các thị trường chứng khoán, trung tâm tiền tệ lớn, và giá cả của
những tài sản khác ở vài nước châu Á, nhiều quốc gia trong đó được coi như là "những con Hổ
Đông Á". Cuộc khủng hoảng này còn thường được gọi là Cuộc khủng hoảng tiền tệ Đông Á,
hoặc cục bộ, là Cuộc khủng hoảng quỹ tiền tệ quốc tế, tuy nhiên, ở một điểm nào đấy, cái tên sau
còn gây nhiều tranh cãi.
Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan là những nước bị ảnh hưởng mạnh nhất bởi cuộc khủng
hoảng này. Hồng Kông, Malaysia, Lào, Philippines cũng bị ảnh hưởng bởi sự sụt giá bất thình
lình. Còn Đại lục Trung Hoa, Đài Loan, Singapore và Việt Nam không bị ảnh hưởng mấy.Nhật
Bản cũng không bị ảnh hưởng nhiều bởi sự khủng hoảng, song nền kinh tế Nhật phải kinh qua
những khó khăn kinh tế dài hạn của chính bản thân mình.
Mặc dù được gọi là cơn khủng hoảng "Đông Á" bởi vì nó bắt nguồn từ Đông Á, nhưng ảnh
hưởng của nó lại lan truyền toàn cầu và gây nên sự khủng hoảng tài chính trên toàn cầu, với
những tác động lớn lan rộng đến cả các nước như Nga, Brazin và Hoa Kỳ.
• Nguyên nhân :
Cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á, xét theo cả cấp độ quốc gia lẫn khu vực, chính là kết
quả “hợp lực” của sự tác động qua lại giữa ba nhóm nguyên nhân chủ yếu : từ phía các chính
sách vĩ mô của Chính phủ, các nhà đầu tư trong nước và các nhân tố bên ngoài vượt khỏi tầm
kiểm soát của các nước trong khu vực.

 Nhóm nguyên nhân thứ nhất : Nền tảng kinh tế vĩ mô yếu kém của Chính phủ.
Trong một thời gian dài, các nước châu Á đã đạt được những thành tựu kinh tế mà các nhà
kinh tế đã gọi là hiện tượng châu Á hay một “châu Á diệu kỳ”. Từ giữa những năm 1960 đến
giữa những năm 1990, thu nhập bình quân đầu người tăng hơn 4 lần ở Malaysia, Indonesia và
Thái Lan; 7 lần ở Hàn Quốc. Nhìn chung trong giai đoạn này cho đến trước khủng hoảng, chúng
ta thấy một Đông Á được quản lí tốt, tốc độ tăng trưởng cao liên tục, lạm phát thấp, ngân sách
cân đối về cơ bản, nền kinh tế được tự do hóa ở một mức độ cao. Không có gì cho ta thấy là các
nước này sẽ trượt ra khỏi quỹ đạo tăng trưởng mạnh trong suốt những thập kỷ đó.
Các chỉ số kinh tế vĩ mô năm 1996
Các nước Mức tăng
GDP
Lạm phát Thặng dư tài
khoản vãng lai
(%GDP)
Thặng dư khối
hành chính
(%GDP)
Hàn Quốc 7,1 4,5 -4,7 +0,0
Indonesia 8,0 6,6 -3,4 +0,6
Thái Lan 5,5 4,8 -8,1 +2,2
Malaysia 8,6 3,3 -4,9 +4,0
Song đằng sau những thành công mà cả thế giới đều phải ghi nhận là những “tảng đá ngầm”
chứa đựng những nguy cơ tiềm tang dẫn đến sự bất ổn. Có thể thấy rõ, đó là :
Sự chậm trễ và cứng nhắc trong điều hành chính sách tỷ giá khiến các đồng bản tệ bị định giá
cao giả tạo trong một thời gian dài so với đồng đôla Mỹ. Tỷ giá được giữ ổn định quá lâu và sự
gia tăng một khối lượng lớn vốn nước ngoài ngắn hạn vào trong nước do chính sách lãi suất cao
đã kích thích sự gia tăng giá trị tài sản và cổ phiếu. Nền kinh tế trở nên nóng hơn, sự tăng giá tài
sản, bất động sản và cổ phiếu đã tiềm ẩn trong nó nguy cơ làm phát sinh một nền kinh tế ảo.
Từ năm 1995-1997, đồng USD đổi chiều liên tục, tăng giá tới 50% so với đồng yên, với
Trung Quốc phá giá đồng nhân dân tệ hơn 30% vào cuối năm 1994 cùng chính sách neo giữ tỷ

giá vào USD nói trên khiến các đồng bản tệ tăng giá giả tạo.
Chính sách tự do hóa các hoạt động kinh tế khong được tiến hành đồng bộ đi đôi với việc
tăng cường giám sát hoạt động của các cơ sở kinh doanh và các tổ chức tài chính ngân hàng.
Tình trạng chung của các nước châu Á lúc bấy giờ là :
o Nền kinh tế thị trường chưa hoàn hảo.
o Sự can thiệp khá sâu vào nền kinh tế thông qua chính sách công nghiệp dẫn đến tình
trạng bao cấp và cắt giảm thuế cho một số ngành Công nghiệp trong khu vực.
o Tình trạng thị trường lao động kém linh hoạt (Hàn Quốc); hệ thống giám sát ngân hàng
không hợp lý, thiếu minh bạch.
o Thiếu đồng bộ và tính minh bạch trong hệ thống pháp luật, tình trạng tham nhũng và kinh
tế ngầm phát triển.
Có sự mất cân đối lớn trong nền kinh tế như là kết quả của những sai lầm nêu trên. Mất cân
đối lớn nhất và đe dọa trực tiếp đến sự ổn định của hệ thống tài chính – tiền tệ mỗi nước là sự
thâm hụt tài sản vãng lai và cơ cấu vốn nước ngoài đổ vào trong nước. Ngoài ra còn có sự kém
phát triển của hệ thống giáo dục cộng với tình trạng thiếu lao động lành nghề, từ đó đẩy mức
lương lao động lên nhanh hơn so với tốc độ tăng sản lượng, làm hao mòn sức cạnh tranh quốc tế
và gây khó khăn cho việc phát triển những ngành công nghệ cao.
 Nhóm nguyên nhân thứ hai: Sai lầm của các nhà đầu tư trong nước.
Trước hết phải khẳng định rằng một trong những nguyên nhân hàng đầu gây ra cơn bùng
phát khủng hoảng tài chính tiền tệ hiện nay ở châu Á là do sự “nóng lên” dẫn đến “khủng hoảng
nợ” ở khu vực kinh tế tư nhân. Sự tăng lên ồ ạt của các khoản nợ đã làm cho nền kinh tế trở nên
khó kiểm soát cộng thêm sự quản lí lỏng lẻo của Chính phủ đã làm méo mó cơ chế thị trường
dẫn đến sự sút giảm kim ngạch xuất khẩu, đồng thời cơ hội kinh doanh của các doanh nghiệp
cũng giảm đáng kể.
Trên khía cạnh cơ bản nhất, lý do chủ yếu của cuộc khủng hoảng Đông Á là việc không làm
chủ được quá trình mở cửa tiếp cận vốn nước ngoài.
Kindleberger đã nhận xét rằng : chi phí sử dụng đồng tiền quá thấp dường như là một yếu tố
quan trọng trong sự bùng nổ của nhiều cuộc khủng hoảng tài chính, yếu tố này khiến các nhà đầu
tư tìm cách lao vào các hoạt động rủi ro hơn nhằm kiếm những khoản lợi nhuận khá hơn.
 Nhóm nguyên nhân thứ ba : Các nhân tố bên ngoài vượt khỏi tầm kiểm soát của các nước

trong khu vực.
Trước hết, chính sách tiền tệ tín dụng của các nước lớn trong và ngoài khu vực châu Á, đặc
biệt là Mỹ.
Ảnh hưởng của những hoạt động tiền tệ tín dụng nước ngoài có tính đầu cơ đã thổi phồng các
cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ và làm tăng khả năng lây nhiễm. Chính phủ cũng đưa lượng
cung bản tệ lên quá cao. Theo tính toán của IMF, hầu hết các nước Đông Nam Á và Đông Bắc Á
đều có mức tăng lượng cung tiền hàng năm từ 2-5 lần tốc độ tăng trưởng GDP.
Sự tham gia của một số nước mới đặc biệt là Trung Quốc và Ấn Độ vào thị trường xuất khẩu
của các nước Đông Nam Á. Điều đó làm cho hàng hóa của những nước này mất đi lợi thế cạnh
tranh trên trường quốc tế, xuất khẩu đình trệ.
Cuối cùng là sự biến đổi nhanh chóng của tương quan cung cầu và vòng đời sản phẩm trên
thị trường thế giới mà trình độ phát triển năng lực sản xuất hiện tại của các nước châu Á chưa thể
thích ứng kịp trong ngày một ngày hai.
Tóm lại, xét cho cùng thì những nguyên nhân từ phía bản than các nước đang chịu khủng
hoảng nặng nề mới là lý do chính yếu gây nên cuộc khủng hoảng này.
• Diễn biến :
 Thái Lan – ngòi nổ của cuộc khủng hoảng :
Từ năm 1985 đến năm 1995, kinh tế Thái Lan có một nền kinh tế mạnh, tăng trưởng với tốc
độ bình quân hàng năm là 9%, được xem là tấm gương về quản lí kinh tế hiệu quả. Thái Lan
được xếp vào nhóm các nền kinh tế đạt thành tựu cao của châu Á, lạm phát thấp, ngân sách
Chính phủ luôn dư thừa, cán cân thanh toán có thể kiểm soát được, đầu tư tăng vọt, tình trạng
thất nghiệp hầu như không có. Cuối năm 1996, báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới của IMF đã
cảnh báo nền kinh tế Thái Lan tăng trưởng quá nóng và bong bóng kinh tế có thể không giữ được
lâu. Cuối năm 1996, thị trường chứng khoán Thái Lan bắt đầu có sự điều chỉnh. Cả mức vốn hóa
thị trường vốn lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều giảm đi.
Ngày 4&5 / 3 / 1997, hơn 21,4 tỷ baht đã được rút khỏi các ngân hàng và công ty tài chính.
Ngày 9 / 4 / 1997, Chính phủ ra lệnh đóng cửa 16 công ty tài chính, nâng tổng số công ty tài
chính bị đóng cửa lên 58/91 (chiếm 64% toàn quốc). Chính phủ bán ngoại tệ làm dự trữ ngoại tệ
giảm.
Ngày 14&15 / 5 / 1997, đồng baht Thái bị tấn công đầu cơ quy mô lớn.

Ngày 30 / 6 / 1997, thủ tướng Thái Lan Chavalit Yongchaiyudh tuyên bố sẽ không phá giá
baht
Ngày 2 / 7 / 1997, thấy trước nguy cơ, Chính phủ Thái Lan thả nổi đồng baht. Baht ngay lập
tức mất giá gần 50%.
Vào tháng 1 / 1998, giá đồng baht đã xuống đến mức 56 baht mới đổi được 1 dollar Mỹ. Chỉ
số thị trường chứng khoán Thái Lan đã tụt từ mức 1.280 cuối năm 1995 xuống còn 372 cuối năm
1997. Đồng thời, mức vốn hóa thị trường vốn giảm từ 141,5 tỷ USD xuống còn 23,5 tỷ USD.
Finance One, công ty tài chính lớn nhất của Thái Lan bị phá sản.
Ngày 11 / 8 /1998, IMF tuyên bố sẽ cung cấp một gói cứu trợ trị giá 16 tỷ dollar Mỹ cho Thái
Lan.
Ngày 20 / 8 / 1998, IMF thông qua một gói cứu trợ nữa trị giá 3,9 tỷ dollar.
 Indonesia – Hiệu ứng lan truyền của cuộc khủng hoảng :
Indonesia phát triển liên tục trong suốt 30 năm với nhịp độ tăng trưởng trung bình
6%GDP/năm. Tuy nhiên cuộc khủng hoảng tài chính bùng nổ ở Thái Lan đã nhanh chóng lan
truyền vào Indonesia.
Khủng hoảng tài chính được khởi đầu bằng việc mất giá của đồng Rupiah.
Tháng 7 / 1997, khi Thái Lan thả nổi đồng Baht, cơ quan hữu trách tiền tệ của Indonesia đã
nới rộng biên độ dao động của tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar Mỹ từ 8% lên 12%. Tháng 8
/ 1997, đồng Rupiah bị giới đầu cơ tấn công.
Ngày 14 / 8 / 1997,chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý được thay thế bằng chế độ thả
nổi hoàn toàn. Đồng Rupiah liên tục mất giá. IMF đã thu xếp một gói viện trợ tài chính khẩn cấp
cho Indonesia lên tới 23 tỷ Dollar, nhưng đồng Rupiah vẫn rớt giá không cứu vãn được do đồng
Rupiah bị bán ra ồ ạt và lượng cầu Dollar Mỹ ở Indonesia tăng vọt. Thời điểm rớt giá cao nhất
lên tới trên 625%.
Tháng 9 / 1997, cả giá Rupiah lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều giảm xuống mức thấp
lịch sử. Rupiah mất giá làm suy yếu bảng cân đối tài sản của các công ty Indonesia, đặc biệt là
làm cho món nợ ngân hàng nước ngoài của các công ty tăng lên. Trước tình hình đó, nhiều công
ty đẩy mạnh mua Dollar vào (có nghĩa là bán Rupiah ra) khiến cho nội tệ thêm mất giá và tỷ
lệ lạm phát tăng vọt.
Trước khủng hoảng, tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar vào khoảng 2000 : 1. Nhưng trong

thời kỳ khủng hoảng, tỷ giá đã giảm xuống mức 18.000 : 1. Do thay đổi tỷ giá hối đoái và do
nhiều nhân tố khác, GDP theo Dollar Mỹ của Indonesia đã giảm đi.
 Malaysia :
Năm 1997, Malaysia có một lương lớn tài khoản vãng lai thâm hụt 6% GDP.
Ngay sau khi Thái Lan thả nổi đồng Baht (ngày 2 / 7 / 1997), đồng Ringgit bị tấn công bởi
những kẻ đầu cơ bằng việc bán đi một cách bất hợp pháp các cổ phần có nguồn gốc Malaysia ở
Singapore. Ringgit đã giảm từ mức 3,75 Ringgit/Dollar Mỹ xuống còn 4,20 Ringgit/Dollar.
Những người tham gia thị trường tiền duy trì tài khoản bằng đồng Ringgit ở trạng thái bán ra
nhiều hơn mua vào với dự tính về sử giảm giá của đồng Ringgit trong tương lai. Kết quả là lãi
suất trong nước của Malaysia giảm xuống khuyến khích dòng vốn chảy ra nước ngoài. Lượng
vốn chảy ra đạt tới mức 24,6 tỷ Ringgit vào quý hai và quý ba năm 1997.
Ngày 6 / 7 / 1997, Standard & Poor’s đánh giá thấp tỷ lệ nợ của Malaysia.
Ngày 13 / 7 / 1997, thị trường chứng khoán Kuala Lumpur sụt xuống còn 856 điểm, thấp
nhất từ năm 1993.
Ngày 2 / 10 / 1997, đồng Ringgit lại một lần nữa rớt giá, thủ tướng Mahathir bin Mohamad
ngay lập tức đưa ra chương trình kiểm soát vốn, Tuy nhiên, hệ thống tiền tệ cũng không tránh
khỏi sự sụp đổ vào cuối năm 1997 khi thủ tướng tuyên bố sẽ sử dụng 10 tỷ Ringgit vào các kế
hoạch đường bộ, tàu điện và ống dẫn dầu.
Năm 1998, sản lượng đầu ra của nền kinh tế bị suy giảm. Sản lượng của khu vực xây dựng
rút xuống 23,5%, ngành công nghiệp thu hẹp 9% còn nông nghiệp là 5,9%. Xét tổng thể thì GDP
của Malaysia giảm mạnh 6,2% năm 1998.
 Philippines :
Sau khi khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, ngày 3 tháng 7 ngân hàng trung ương
Philippines đã cố gắng can thiệp vào thị trường ngoại hối để bảo vệ đồng peso bằng cách nâng
lãi suất ngắn hạn (lãi suất cho vay qua đêm) từ 15% lên 24%. Đồng peso vẫn mất giá nghiêm
trọng, từ 26 peso/USD xuống còn 38 peso/USD vào năm 2000 và còn 40 peso/USD vào cuối
cuộc khủng hoảng.
Khủng hoảng tài chính nghiêm trọng thêm do khủng hoảng chính trị liên quan tới các vụ bê
bối của tổng thống Joseph Estrada. Do khủng hoảng chính trị, vào năm 2001, Chỉ số Tổng hợp
PSE của thị trường chứng khoán Philippines giảm xuống còn khoảng 1000 điểm từ mức cao

khoảng 3000 điểm hồi năm 1997. Nó kéo theo việc đồng peso thêm mất giá.
Cuộc khủng hoảng đã dẫn tới sự ra đi của tổng thống Joseph Estrada, thay thế vị trí đó là bà
Gloria Macapagal-Arroyo, bà là người đưa đất nước Philippines thoát khỏi cuộc khủng hoảng
này.
 Hàn Quốc – Sự sụp đổ của các tập đoàn kinh tế (Chaebol) :
Các tập đoàn kinh tế lớn (chaebol) được coi là những trụ cột của nền kinh tế Hàn Quốc. Thế
nhưng chưa đầy 10 tháng, 7/30 tập đoàn lớn nhất đã gục ngã. Phải đến khi tập đoàn thép Hanbo –
tập đoàn lớn thứ 14 cũa Hàn Quốc gục ngã vì không đủ sức thanh toán tổng số vốn nợ thì nền
kinh tế Hàn Quốc mới thật sự bị chấn động. Như một bệnh dịch có khả năng lan truyền cao, hàng
loạt các tập đoàn khác lần lượt gục ngã. Sự đổ vỡ của một loạt tập đoàn lớn đã giáng một đòn
nặng nề vào hệ thống tài chính ngân hàng của nước này vốn vẫn được coi là tụt hậu nhiều so với
nền kinh tế. Mối lo ngại cho ngành tài chính ngân hàng là khả năng trả nợ nước ngoài, và việc
đồng won mất giá.
Tháng 11 / 1997, các nhà đầu tư bắt đầu bán ra chứng khoán của Hàn Quốc ở quy mô lớn.
Ngày 17 / 11 / 1997, đồng won giảm quá mức dự đoán là 1000 won/USD và tiếp tục giảm
trong nhiều ngày sau đó.
Ngày 17 / 11 / 1997, đồng won giảm xuống mức kỷ lục là 1153 won/USD, tức là giảm 36,6%
so với cuối năm 1996 và 19,5% so với mức cuối tháng 10 / 1997.
Ngày 28 / 11 / 1997, tổ chức đánh giá tín dụng Moody đã hạ thứ hạng của Hàn Quốc từ A1
xuống A3, sau đó vào ngày 11 / 12 / 1997, lại hạ tiếp xuống B2. Điều này góp phần làm cho giá
chứng khoán của Hàn Quốc thêm giảm giá. Riêng trong ngày 7 tháng 11, thị trường chứng khoán
Seoul tụt 4%. Ngày 24 / 11 / 1997, lại tụt 7,2% do tâm lý lo sợ IMF sẽ đòi Hàn Quốc phải áp
dụng các chính sách khắc khổ.
Trong khi đó, đồng Won giảm giá xuống còn khoảng 1700 KRW/USD từ mức 1000
KRW/USD.
 Nhật Bản – Sự sụt giá của đồng Yên :
Vượt qua Hàn Quốc, cơn bão khủng hoảng tài chính tiền tệ tràn vào đất nước mặt trời mọc –
Nhật Bản. Một số công ty chứng khoán ở Nhật Bản bị phá sản, hàng ngàn người lao động mất
việc và buộc thủ tướng Hashimoto phải từ chức.
Khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Nhật Bản khởi đầu bằng việc sụt giá của đồng yên từ tháng 5

/ 1998, vào cuối tháng 8 / 1998 ở mức 145,5 yên/USD. Tốc độ tăng trường chậm một cách đáng
nhớ trong năm 1997, từ 5% xuống cón 1,6% và chìm đắm trong suy thoái 1998.
Như vậy sự yếu kém và mức độ bất ổn cao của đồng yên đã làm thay đổi tính chất của cuộc
khủng hoảng. Không còn đơn thuần là cuộc khủng hoảng tài chính mà nó biến thành cuộc khủng
hoảng kép (khủng hoảng tài chính tiền tệ), kèm theo nguy cơ của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn
diện.
Trên phạm vi toàn cầu, cơn bão tiền tệ Nhật Bản cũng đang chứng tỏ sức tàn phá của mình.
Thị trường chứng khoán khắp nơi rung lên theo động thái thất thường của đồng yên. Số phận của
đồng đôla và thị trường chứng khoán Hồng Kông đang đứng trước một thử thách mới gay
gắt.Thực tế là tháng 10 / 1997, thị trường chứng khoán Hồng Kông sụp đổ. Ngày 27 / 10 / 1997
chỉ số công nghiệp Dow Jones giảm mạnh 554 điểm, thị trường chứng khoán tại New York tạm
thời đóng băng.
 Trung Quốc – một bức tường thành :
Kể từ khi biến động tài chính nổ ra ở Thái Lan vào tháng 7 / 1997 gây ra cuộc khủng hoảng
tài chính tiền tệ khu vực châu Á, đến nay Trung Quốc là nước Đông Á duy nhất đứng ngoài cuộc
khủng hoảng tài chính này và luôn là điểm sang tăng trưởng của khu vực.
Do cuộc khủng hoảng, kim ngạch xuất nhập khẩu của Trung Quốc bắt đầu giảm từ tháng 7 /
1997, xong mức giảm sút không nghiêm trọng lắm. Tỷ giá hối đoái của đồng yuan về cơ bản vẫn
ổn định. Chỉ số tháng 1, tháng 6 và tháng 12 năm 1996 tương ứng là 105,82%; 107,16%;
109,08%. Như vậy sự biến động ở mức khá ổn định trong năm nay. Do tỷ giá hối đoái của các
đồng tiền Đông Nam Á và đồng Won nối đuôi nhau giảm sút làm cho thị trường Trung Quốc có
thể bị ảnh hưởng chút ít nhưng có một điều chắc chắn rằng thị trường tàu chính của Trung Quốc
sẽ vẫn ổn định và đồng yuan sẽ được duy trì một cách an toàn.
 Singapore:
Luôn được coi là nền kinh tế tương đối khỏe mạnh so với các nước trong khu vực trong suốt
thời kì khủng hoảng nhưng đương nhiên là quốc gia này vẫn bị ảnh hưởng ít nhiều.Tuy nhiên,
xét về tổng thể thì khả năng chèo lái đất nước ra khỏi cuộc khủng hoảng vẫn được chú ý rộng rãi,
chính sách tài khóa cùa Singapore rất đáng để các quốc gia láng giềng học tập. Là một nền kinh
tế mở, đồng đôla Singapore cũng được mở tự do cho thị trường đầu cơ ngay từ 1985. Nền kinh tế
đủ năng động để khiến Singapore trở thành một quốc gia có chỗ đứng độc lập, Chính phủ

Singapore quản lý tỉ giá hối đoái để tránh khả năng tấn công của đầu cơ.Tuy đồng tiền của quốc
gia này được coi là đồng tiền mạnh nhất ASEAN vậy mà vẫn bị rớt giá 10% so với đồng đôla Mỹ
trong suốt thời kì khủng hoảng.
2.1.3. Khủng hoảng tài chính năm 2007 đến nay
Khủng hoảng tài chính 2007–nay là một cuộc khủng hoảng bao gồm sự đổ vỡ hàng loạt hệ
thống ngân hàng, tình trạng đói tín dụng, tình trạng sụt giá chứng khoán và mất giá tiền tệ quy
mô lớn ở nhiều nước trên thế giới, có nguồn gốc từ khủng hoảng tài chính ở Hoa Kỳ.
• Nguyên nhân
Bong bóng nhà ở cùng với giám sát tài chính thiếu hoàn thiện ở Hoa Kỳ đã dẫn tới một cuộc
khủng hoảng tài chính ở nước này từ năm 2007, bùng phát mạnh từ cuối năm 2008. Thông qua
quan hệ tài chính nói riêng và kinh tế nói chung mật thiết của Hoa Kỳ với nhiều nước. Cuộc
khủng hoảng từ Hoa Kỳ đã lan rộng ra nhiều nước trên thế giới, dẫn tới những đổ vỡ tài chính,
suy thoái kinh tế, suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế ở nhiều nước trên thế giới.
• Tình trạng
 Hoa Kỳ
Hoa Kỳ là điểm xuất phát và là trung tâm của cuộc khủng hoảng. Ngay khi bong bóng nhà ở
vỡ cuối năm 2005, kinh tế Hoa Kỳ bắt đầu tăng trưởng chậm lại. Tuy nhiên, bong bóng vỡ đã
dẫn tới các khoản vay không trả nổi của người đầu tư nhà ở đối với các tổ chức tài chính ở nước
này. Giữa năm 2007, những tổ chức tài chính đầu tiên của Hoa Kỳ liên quan đến tín dụng nhà ở
thứ cấp bị phá sản. Giá chứng khoán Hoa Kỳ bắt đầu giảm dần. Sự đổ vỡ tài chính lên đến cực
điểm vào tháng 10 năm 2008 khi ngay cả những ngân hàng khổng lồ và lâu đời từng sống sót qua
những cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế trước đây, như Lehman Brothers, Morgan Stanley,
Citigroup, AIG, … cũng lâm nạn. Tình trạng đói tín dụng xuất hiện làm cho khu vực kinh tế thực
của Hoa Kỳ cũng rơi vào tình thế khó khăn, điển hình là cuộc Khủng hoảng ngành chế tạo ô tô
Hoa Kỳ 2008-2010.
Chỉ số bình quân công nghiệp Dow Jones lúc đóng cửa ngày 9 tháng 3 năm 2009 là 6.547,05,
mức thấp nhất kể từ tháng 4 năm 1997. Chỉ trong vòng 6 tuần lễ, chỉ số này sụt tới 20%.
 Các nước khác
o Hệ thống ngân hàng
Nhiều tổ chức tài chính của các nước phát triển, nhất là các nước ở châu Âu, cũng tham gia

vào thị trường tín dụng nhà ở thứ cấp ở Hoa Kỳ. Chính vì vậy, bóng bóng nhà ở của Hoa Kỳ bị
vỡ cũng làm các tổ chức tài chính này gặp nguy hiểm tương tự như các tổ chức tài chính của Hoa
Kỳ. Những nước châu Âu bị rối loạn tài chính nặng nhất là Anh, Iceland, Ireland, Bỉ và Tây Ban
Nha.
Ngay từ tháng 9 năm 2007, Northern Rock của Anh bị tình trạng đột biến rút tiền gửi và hậu
quả là phải chịu quốc hữu hóa.Đột biến rút tiền gửi còn làm căng thẳng các ngân hàng khác của
nước này.Sang năm 2008, đến lượt Bradford & Bingley plc của Anh phải chịu chia nhỏ thành 2
công ty riêng biệt.Các ngân hàng khác phải chịu đổi chủ sở hữu bao gồm Catholic Building
Society, Alliance & Leicester.London Scottish Bank và Dunfermline Building Society phải chịu
sự giám sát đặc biệt của Chính phủ Anh.
Ở Iceland đã xảy ra một cuộc khủng hoảng ngân hàng trên diện rộng. Ngay quý I năm 2008,
GDP của Iceland giảm 1,5%, mức giảm lớn nhất kể từ năm 1983 tới thời điểm này. Glitnir,
Straumur Investment Bank, Reykjavík Savings Bank phải chịu quốc hữu hóa.Kaupthing,
Landsbanki của nước này phải chịu đặt dưới sự quản lý của cơ quan giám sát tài chính quốc gia.
Đầu năm 2008, xếp hạng tín dụng của Ngân hàng Ireland bị giảm, khiến cho giá cổ phiếu của
ngân hàng này sụt ghê gớm, giá cổ phiếu tại thời điểm đầu tháng 3 Năm 2008 giảm tới 99% so
với giá đỉnh cao vào năm 2007. Đầu năm 2009, Anglo Irish Bank bị quốc hữu hóa.Allied Irish
Banks cũng phải chịu tình trạng cổ phiếu mất giá ghê gớm và phải chấp nhận cải cách để nhận
được khoản vay tái cơ cấu của Chính phủ.
Cuối năm 2008, Fortis của Bỉ bắt đầu bị bán dần, chỉ còn lại các bộ phận kinh doanh dịch vụ
bảo hiểm.Dexia chịu khoản lỗ 3,3 tỷ euro và phải xin Chính phủ Bỉ cho vay để củng cố.
Ở Hà Lan, để đảm bảo hệ số an toàn vốn, ING Group đã phải xin Chính phủ Hà Lan cho vay.
Ở Đức, ngày từ đầu năm 2008, người ta phát hiện ra rằng BayernLB đã chịu những khoản lỗ lớn
do tham gia vào thị trường tín dụng nhà ở thứ cấp ở Hoa Kỳ. Sau đó, ngân hàng này đã phải cầu
xin sự giúp đỡ của Chính phủ Liên bang Đức.
o Thị trường chứng khoán
Các thị trường chứng khoán lớn của thế giới ở New York, London, Paris, Frankfurt, Tokyo đều
có thời điểm sụt giá lớn lịch sử.
Ở châu Âu, chỉ số FTSE 100 từ mức 4789,79 xuống còn 4699,82. Chỉ số DAX hôm 2 tháng
3 năm 2009 chỉ còn 3666,4099 điểm so với 8067,3198 hôm 27 tháng 12 năm 2007. Chỉ số CAC

40 hôm 2 tháng 3 năm 2009 cũng xuống mức thấp kỷ lục 2534,45 điểm.
Nhật Bản có một hệ thống tài chính tương đối vững vàng đã trải qua một thời kỳ tái cơ cấu
sau khủng hoảng 1996-1997.Tuy nhiên, tác động tiêu cực từ khủng hoảng tài chính Hoa Kỳ vẫn
khiến cho thị trường chứng khoán của nước này rối loạn.Chỉ số giá cổ phiếu bình quân Nikkei đã
xuống mức thấp lịch sử vào các ngày 8 và 10 tháng 10 năm 2008.
o Thị trường tiền tệ
Ở Hàn Quốc tháng 9 năm 2008, won Hàn Quốc bị mất giá mạnh, có lúc tới mức 1.500 won/đô la Mỹ
Diễn biến chỉ số Down Jones
Đoàn người xếp hàng rút tiền gửi khỏi Northern Rock
Diễn biến chỉ số OMX Iceland 15
o
Diễn biến chỉ số Nikkei225
Diễn biến tỷ giá KRW/USD
• Ảnh hưởng
Tình trạng tồi tệ của các tổ chức tài chính đã khiến cho tình trạng đói tín dụng xảy ra ở nhiều
nước, ảnh hưởng nghiêm trọng tới khu vực sản xuất thực.Khủng hoảng tài chính toàn cầu đã dẫn
tới suy thoái kinh tế ở nhiều nước.
2.2.Các giai đoạn khủng hoảng ở Việt Nam
2.2.1. Cuộc khủng hoảng và chuyển vị thế lần thứ nhất
Cuộc khủng hoảng thứ nhất tiềm ẩn từ cuối thập kỷ 70, bùng phát trong thập kỷ 80, kéo dài
đến đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước. Cuộc khủng hoảng này biểu hiện trên 4 mặt - cả 4 đỉnh của
“tứ giác mục tiêu” - đều bị “lùn” xuống:
o Tăng trưởng kinh tế thấp, có những năm còn bị “tăng trưởng âm”. Bình quân thời kỳ
1977-1980, GDP chỉ tăng 0,4%/năm (trong đó năm 1979 giảm 2%, năm 1980 giảm 1,4%) - thấp
xa so với tốc độ tăng 2,31%/năm- làm cho GDP bình quân đầu người bị sụt giảm (giảm
1,87%/năm).
o Lạm phát phi mã và kéo dài. Lạm phát ngầm đã diễn ra từ cuối những năm 70, đầu những
năm 80 khi chênh lệch giữa giá trong và ngoài ngày một lớn. Tính phi thị trường càng rõ khi
phân phối thì bao cấp hiện vật, ngân hàng thì không theo nguyên tắc lấy vay để cho vay, ngân
sách thì không theo nguyên tắc lấy thu để chi, nên để bù đắp bội chi tiền mặt, bội chi ngân sách

đã phải in tiền; lại gặp sai lầm khi cải cách “giá-lương-tiền” năm 1985, đã làm cho siêu lạm phát
xuất hiện, lên tới 774,7% năm 1986 và kéo dài với mức 3, rồi 2 chữ số cho đến đầu thập kỷ 90.
o Cán cân thanh toán bị mất cân đối nghiêm trọng, khi sản xuất trong nước chỉ đáp ứng 80-
90% sử dụng trong nước, chẳng những không có tích lũy trong nước mà còn không đủ tiêu dùng
- tức là toàn bộ quá trình tích lũy và một phần quỹ tiêu dùng phải dựa vào viện trợ và vay nợ
nước ngoài.
o Thất nghiệp cao, tỷ lệ lên đến 12,7% tổng số lao động. Do quy mô sản xuất thấp và giảm,
dân số tăng nhanh, nên GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái chỉ có 86
USD, nằm trong vài ba chục nước có GDP bình quân đầu người thấp nhất thế giới.
Nhờ đổi mới, sản xuất lương thực đạt được kết quả thần kỳ, dầu thô khai thác và xuất khẩu,
Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội, bước vào giai đoạn ổn định và phát triển. Tăng
trưởng kinh tế của thời kỳ 1992-1997 đã cao gấp hơn hai lần của thời kỳ 1977-1991 (8,77%/năm
so với 4,07%/năm).
o Lạm phát của thời kỳ này cũng đã giảm mạnh so với thời kỳ 1986-1991 (bình quân năm
là 9,5% so với 180,2%). Tỷ lệ thất nghiệp đã giảm từ 2 chữ số xuống còn một chữ số; đến năm
1996 còn 5,88%. Mất cân đối cán cân thương mại giảm dần và đến 1992, lần đầu tiên đã xuất
siêu nhẹ. GDP bình quân đầu người tính bằng USD năm 1997 đạt 361 USD, cao gấp gần 4,2 lần
năm 1988.
Việt Nam đã chuyển vị thế từ nước kém phát triển sang nhóm nước đang phát triển, từ chỗ bị
bao vây, cấm vận sang bước đầu mở cửa hội nhập, tiếp nhận ODA (từ 1993 đến 1997, lượng vốn
ODA cam kết là 10,8 tỷ USD, giải ngân gần 3,85 tỷ USD), FDI (từ 1991-1996 thu hút 27,8 tỷ
USD vốn đăng ký, bình quân 1 năm trên 4,63 tỷ USD, cao gấp 8,7 lần mức bình quân trong 3
năm trước đó, vốn thực hiện đạt trên 9,2 tỷ USD); lượng kiều hối gửi về nước từ 1993 đến 1997
đạt gần 1,55 tỷ USD,
2.2.2. Cuộc khủng hoảng và chuyển vị thế lần thứ hai
Việt Nam đang trên đà phát triển và mở cửa hội nhập thì xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính -
tiền tệ khu vực. Cuộc khủng hoảng này bắt đầu từ Thái Lan lan sang Hàn Quốc, Indonesia,
Do tác động của cuộc khủng hoảng, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đang ở mức cao trong thời
kỳ 1995-1997, thì đến năm 1998 chỉ tăng 5,76%, năm 1999 chỉ tăng 4,77%. Vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài đăng ký, nếu năm 1995 đạt trên 6,9 tỷ USD, năm 1996 đạt gần 10,2 tỷ USD, thì năm

1997 còn gần 5,6 tỷ USD, năm 1998 còn gần 5,1 tỷ USD, năm 1999 còn gần 2,6 tỷ USD.
Lạm phát nếu năm 1996 ở mức 4,5%, năm 1997 ở mức 3,6%, thì năm 1998 lên mức 9,2%. Giá
USD nếu năm 1995 giảm 0,6%, 1996 tăng 1,2%, thì năm 1997 tăng 14,2%, năm 1998 tăng
9,6%, Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu năm 1996 ở mức 33,2%, năm 1997 ở mức 26,6%, đến
năm 1998 chỉ còn 1,9%.
Nhập khẩu nếu năm 1996 còn tăng 36,6%, thì năm 1997 chỉ còn tăng 4% và năm 1998 giảm
0,8%, năm 1999 chỉ tăng 2,1%.
Do độ mở của kinh tế Việt Nam lúc này chưa cao (xuất khẩu so với GDP mới đạt 30%, đồng
tiền chưa chuyển đổi), do đã có dầu thô, gạo, xuất khẩu với khối lượng lớn, do có sự chủ động
ứng phó từ trong nước, nên Việt Nam đã không bị cuốn hút vào vòng xoáy của cuộc khủng
hoảng này và dần dần đã vượt qua. Tăng trưởng kinh tế cao dần lên, bình quân thời kỳ 2000 -
2007 đã đạt 7,63%/năm.
GDP bình quân đầu người năm 2007 tính bằng USD đã đạt 843 USD, cao gấp gần 2,3 lần
năm 1999. Bình quân năm FDI nếu thời kỳ 1998 - 1999 vốn đăng ký chỉ có trên 3,8 tỷ USD thì
thời kỳ 2000 - 2008 đã đạt gần 12,9 tỷ USD và thực hiện đạt 4 tỷ USD; ODA cam kết đạt gần 3,5
tỷ USD, giải ngân đạt 1,75 tỷ USD.
Xuất khẩu tăng liên tục với tốc độ cao (năm 2008 cao gấp trên 5,4 lần năm 1999, bình quân 1
năm thời kỳ 2000 - 2008 lên đến 20,7%). So với GDP năm 2008 xuất khẩu đạt 70%; nhập khẩu
đạt 90%; cộng cả xuất khẩu và nhập khẩu so với GDP lên tới 160%, thuộc loại cao thứ 3 ở Đông
Nam Á và thứ 5 trên thế giới - chứng tỏ độ mở của nền kinh tế Việt Nam khá rộng.
Dự trữ ngoại hối tăng khá: nếu cuối năm 2002 đạt chưa được 3,7 tỷ USD, thì đến cuối năm 2007
đã đạt trên 21 tỷ USD. Lượng kiều hối bình quân năm thời kỳ 2000 - 2008 đạt tỷ USD. Vị thế
của Việt Nam đã chuyển sang mở cửa hội nhập đầy đủ với thế giới, ký hiệp định thương mại
Việt-Mỹ, gia nhập WTO
2.2.3. Cuộc khủng hoảng và chuyển vị thế lần thứ ba
Cuộc khủng hoảng thứ ba đến từ nước Mỹ, tiềm ẩn từ cuối năm 2007, bùng phát vào cuối
2008, bắt đầu từ khủng hoảng nhà đất, lan sang hệ thống tài chính, sang kinh tế thực, sang lĩnh
vực lao động việc làm, lan sang các nước trên thế giới. Cuộc khủng hoảng này xảy ra trong điều
kiện Việt Nam vừa mới gia nhập WTO từ đầu năm 2007.
Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2008 giảm xuống còn 6,31%, năm 2009 còn 5,32%.

Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm mạnh về vốn đăng ký (từ 71,7 tỷ USD năm 2008 còn 21,5
tỷ USD năm 2009) và vốn thực hiện (từ 11,5 tỷ USD xuống 10 tỷ USD). Lượng khách quốc tế
giảm từ trên 4,2 triệu lượt người xuống còn trên 3,7 triệu lượt người. Lượng kiều hối giảm từ 7,2
tỷ USD xuống còn gần 6,3 tỷ USD, vốn đầu tư gián tiếp sụt giảm mạnh,
Tốc độ tăng giá tiêu dùng cao trong năm 2007 (12,63%), bùng phát trong năm 2008 đã tăng tới
19,89% (tính bình quân năm đã tăng tới 22,97%). Giá USD nếu năm 2007 giảm nhẹ, thì năm
2008 tăng 6,31% và năm 2009 đã tăng 10,7%. Nhập siêu năm 2007 lên trên 14,2%, năm 2008 đã
lên đến trên 18 tỷ USD và năm 2009 cũng gần 12,9 tỷ USD.
Đứng trước tình hình trên, Việt Nam đã linh hoạt chuyển đổi mục tiêu ưu tiên; áp dụng các
biện pháp phù hợp; có giải pháp xử lý kịp thời các hiệu ứng phụ; bảo đảm sự đồng thuận, phối
hợp chặt chẽ, chia sẻ trách nhiệm giữa Chính phủ, doanh nghiệp, người dân; chọn nông nghiệp,
nông thôn làm trọng điểm; kết hợp giữa nội lực và ngoại lực; kết hợp sử dụng biện pháp cơ bản
và biện pháp tình thế; kết hợp sử dụng “bàn tay hữu hình” và “bàn tay vô hình”; minh bạch thông
tin, xử lý nghiêm tin đồn; làm tốt công tác thông tin, phân tích kinh tế và dự báo.
Nhờ vậy, Việt Nam đã không bị rơi vào vòng xoáy của cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế thế
giới, đã đạt được những kết quả tích cực từ giữa năm 2009 đến nay.
o Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế sau khi rơi xuống đáy (tăng 3,1%) trong quý 1/2009, từ
quý II đã thoát đáy vượt dốc đi lên để cả năm đạt 5,32%, quý 1 năm nay tăng trưởng kinh tế đã
cao lên một cách rõ ràng. Biểu hiện tổng quát nhất là tăng trưởng GDP đạt 5,83%, cao hơn nhiều
so với tốc độ tăng 3,1% của năm trước. Tăng trưởng cao lên của GDP đạt được ở cả 3 nhóm
ngành: nhóm ngành công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng lớn nhất, có số điểm phần trăm tăng
nhiều nhất (từ 1,5% lên 5,65%); nhóm ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản cũng tăng cao hơn
nhiều so với tốc độ tăng của cùng kỳ (3,45% so với 0,4%); nhóm ngành dịch vụ có số điểm phần
trăm tăng ít hơn (6,64% so với 5,4%), nhưng lại có tốc độ tăng cao hơn tốc độ chung.
o Thứ hai, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giải ngân 3 tháng đó đạt 2,5 tỷ USD, trong đó
tháng 3 đạt kỷ lục tháng (1,4 tỷ USD) báo hiệu cả năm sẽ tăng so với năm trước (10 tỷ USD),
thậm chí vượt kỷ lục (12 tỷ USD) của năm 2008. Nguồn vốn trong nước cùng với nguồn vốn này
là yếu tố vật chất trực tiếp quyết định xu hướng cao lên của tăng trưởng kinh tế.
o Thứ ba, tiêu thụ trong nước - biểu hiện chủ yếu là tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh
thu dịch vụ tiêu dùng - sau khi loại trừ yếu tố tăng giá đó tăng rất cao (tăng 14,5%, cao gấp hơn 2

lần tốc độ tăng 6,5% của cùng kỳ năm trước) và trở thành động lực, cứu cánh của tăng trưởng
kinh tế.
o Thứ tư, lượng khách quốc tế tăng khá, báo hiệu cả năm sẽ vượt qua kỷ lục của năm 2008,
đưa đến một lượng ngoại tệ từ du lịch tăng lên, cùng với sự tăng lên của kiều hối, ODA, đầu tư
gián tiếp sẽ giảm sức ép tăng tỷ giá.
o Thứ năm, nếu bằng giờ này năm ngoái tình trạng mất và thiếu vịêc làm gia tăng đáng lo
ngại, thì năm nay nhiều khu công nghiệp, khu đô thị lớn đang gặp khó khăn trong việc tuyển
dụng lao động! Đây là yếu tố quan trọng tác động về hai mặt: một mặt đóng góp vào tăng trưởng
kinh tế do góp phần làm tăng sức mua có khả năng thanh toán; mặt khác góp phần giảm bớt khó
khăn về đời sống của người lao động.
Mặc dù còn những hạn chế, bất cập và cả năm khó đạt mục tiêu về nhập siêu, lạm phát,
nhưng cũng có thể nói đến Việt Nam đã cơ bản thoát khỏi cuộc khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế thế giới.
Mỗi lần vượt qua được khủng hoảng là mỗi lần Việt Nam chuyển được vị thế của mình. Sau
cuộc khủng hoảng thứ nhất, Việt Nam đã chuyển từ nhóm nước gồm vài ba chục nước có thu
nhập thấp nhất thế giới (kém phát triển) sang nhóm nước đang phát triển (có thu nhập thấp). Sau
cuộc khủng hoảng thứ hai, Việt Nam đã chuyển từ một nước mở rộng cửa trong nước sang mở
rộng cửa hội nhập với thế giới. Sau cuộc khủng hoảng thứ ba này, Việt Nam đã chuyển sang
nhóm nước có thu nhập trung bình (thấp), hướng tới mục tiêu đến năm 2020 cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
CHƯƠNG 3. BÀI HỌC KINH NGHIỆM DÀNH CHO VIỆT NAM
Thứ nhất, phải luôn coi trọng ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế
và an toàn của hệ thống tài chính, ngân hàng. Mất cân đối vĩ mô luôn là mối đe dọa đối với nền
kinh tế toàn cầu nói chung cũng như từng quốc gia nói riêng. Do đó, quá trình hoạch định và
thực thi các chính sách kinh tế vĩ mô cần kết hợp sự tăng trưởng và ổn định trên cơ sở hiệu quả
của nền kinh tế. Bảo đảm sự phát triển bền vững, tính hệ thống, cấu trúc của nền kinh tế trong
mỗi thời kỳ theo hướng kết hợp hài hòa lợi ích trước mắt và lâu dài, lợi ích các khu vực, các
ngành kinh tế, lợi ích mỗi cá nhân và cộng đồng.
Thứ hai, phát huy vai trò của hệ thống giám sát tài chính quốc gia. Cuộc khủng hoảng vừa
qua đã cho thấy sự yếu kém của công tác giám sát, dự báo và cảnh báo về khả năng xảy ra khủng

hoảng. Do vậy, cần tăng cường nguồn lực để làm tốt công tác này ở cấp quốc gia, khu vực và
trên phạm vi toàn cầu. Hệ thống này với các mục tiêu bảo đảm sự an toàn và lành mạnh của các
định chế tài chính, giảm thiểu rủi ro hệ thống, bảo đảm sự công bằng và hiệu quả của thị trường,
bảo vệ quyền lợi của người sử dụng dịch vụ tài chính và nhà đầu tư nên có vai trò quan trọng
trong phát triển và ổn định kinh tế vĩ mô. Hệ thống giám sát quốc gia bao gồm các cơ quan giám
sát được xây dựng theo các mô hình: dựa trên cơ sở thể chế; theo hướng chức năng và theo
hướng hợp nhất. Mỗi mô hình có những ưu, nhược điểm riêng, được xây dựng gắn với bối cảnh
lịch sử về cấu trúc hệ thống tài chính, cấu trúc và truyền thống chính trị, quy mô quốc gia và quy
mô lĩnh vực tài chính. Khi các tập đoàn ra đời và phát triển, kinh doanh đa ngành, các sản phẩm
tài chính ngày càng trở nên phức tạp hơn thì mô hình thể chế, mô hình theo chức năng sẽ bộc lộ
những hạn chế cần được thay thế bằng mô hình theo hướng hợp nhất.
Thứ ba, hệ thống ngân hàng luôn đóng vai trò trụ cột trong thị trường tài chính, vì vậy, cần
nâng cao vai trò, vị thế của ngân hàng nhà nước trong việc thực hiện chức năng ngân hàng trung
ương và chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động tiền tệ, ngân hàng trên cơ sở hoàn thiện
thể chế theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế, phối hợp với các cơ quan trong xây dựng và thực
hiện chính sách kinh tế vĩ mô, tăng cường hoạt động thanh tra, giám sát, phát triển các công cụ
dự báo, phòng ngừa rủi ro, bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng.
Thứ tư, coi trọng quản trị rủi ro tín dụng và rủi ro thanh khoản đối với các ngân hàng thương
mại. Tín dụng là hoạt động cơ bản đem lại nhiều lợi nhuận cho các ngân hàng thương mại, song
cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro với những hậu quả khó lường. Quản trị rủi ro tín dụng trước hết cần tập
trung kiểm soát các hoạt động cho vay vào các lĩnh vực mạo hiểm, như bất động sản, chứng
khoán, các sản phẩm tín dụng phái sinh. Mặt khác, cần hoàn thiện hệ thống chấm điểm tín dụng
và xếp hạng khách hàng trên cơ sở liên kết giữa các ngân hàng thương mại để xây dựng và hoàn
chỉnh hệ thống dữ liệu đầy đủ và chính xác nhất về tài chính và quan hệ của khách hàng với các
ngân hàng thương mại.
Thanh khoản là khả năng của ngân hàng trong việc bảo đảm đáp ứng đầy đủ, kịp thời các nhu
cầu về ngân quỹ. Khả năng thanh khoản là một dấu hiệu quan trọng cho biết tình trạng hoạt động
của ngân hàng. Quản trị rủi ro thanh khoản cần tập trung vào việc dự tính thay đổi tổng tiền gửi
và tổng cho vay trên cơ sở xây dựng các mô hình toán học và phân tích các kịch bản dẫn đến sự
thay đổi đó để có những biện pháp phù hợp trong huy động vốn và cho vay.

Thứ năm, chuẩn hóa hệ thống thông tin. Cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội và
toàn cầu hóa, hệ thống thông tin ngày càng trở nên quan trọng. Mọi chính sách, quyết định điều
tiết nền kinh tế cần dựa trên luồng thông tin chuẩn xác, minh bạch và kịp thời. Vì vậy, cần hình
thành các cơ quan chuyên biệt trong việc thu thập, cung cấp thông tin và quy định các tổ chức, cá
nhân cần có trách nhiệm cung cấp, công bố thông tin có liên quan, tránh tình trạng thông tin phân
tán và thiếu chính xác gây ảnh hưởng đến việc ra quyết định.
Thứ sáu, tuy khó tránh khỏi hoàn toàn các cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, nhưng việc
xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ trong hội nhập cũng cần được quan tâm, nhất là coi
trọng các yếu tố tạo nên sự phát triển bền vững của nền kinh tế; bảo đảm tăng trưởng kinh tế
nhanh phải đi liền với nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội, gắn tăng trưởng với giải quyết tốt các
vấn đề xã hội và môi trường. Đẩy mạnh xuất khẩu phải đi liền với phát triển đồng đều thị trường
trong nước. Muốn vậy, phải phát triển mạnh hệ thống an sinh xã hội và giám sát các tác động
môi trường của quá trình phát triển. Tuy vừa qua có không ít những biểu hiện lệch lạc về phân
hóa giàu nghèo, xâm hại môi trường nghiêm trọng , nhưng chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng
rằng, mô hình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một sự lựa chọn đúng
đắn của Đảng và của dân tộc.
Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Như Ý, Trần thị Bích Dung, Kinh tế Vĩ mô, NXB Kinh Tế TP.HCM, 2013.
2. Nguyễn Văn Ngọc, Bài giảng “Kinh tế vĩ mô”, NXB ĐH Kinh Tế Quốc Dân, 2013.
3. Các website trong nước: sbv.gov.vn; mof.gov.vn; moit.gov.vn; ssc.gov.vn;
vneconomy.com.vn.
4. Frederic S.Mishkin, The Economics of Money, Banking and Financial Markets,
Columbia University, 2004.

×