Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

the nao la nuoc cong nghiep ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.75 KB, 12 trang )

THẾ NÀO LÀ MỘT NƯỚC CÔNG NGHIỆP
GS. Đỗ quốc Sam
Từ Đại hội VIII (năm 1991) đến nay, các văn bản chính thức của Đảng
và Nhà nước ta đều khẳng định chủ trương “đưa nước ta cơ bản trở thành
một nước công nghiệp (hay một nước công nghiệp theo hướng hiện đại) vào
năm 2020. Tuy nhiên, ngoài một định nghĩa định tính đã trở thành khá cũ
trong văn kiện Đại hội VIII cho đến nay, chưa có văn bản chính thức nào xác
định “thế nào là một nước công nghiệp” đủ rõ để có thể nhìn thấy chúng ta
đang đứng ở đâu trên con đường công nghiệp hóa và vào khoảng năm 2020
chúng ta có khả năng thực tế để “cơ bản trở thành một nước công nghiệp”
không. Một số ít công trình nghiên cứu về công nghiệp hóa
1
trong mấy năm
qua cũng chưa đề cập hoặc đi đến những kết luận cụ thể về vấn đề này. Có
thể coi đây là một món nợ khoa học còn thiếu đối với những nhà hoạch định
chính sách.
Thời điểm hiện nay cũng là thời gian thích hợp để chuẩn bị nghiên cứu
chiến lược phát triển 10 năm 2011-2020 mà năm kết thúc thời kỳ chiến lược
lại vừa trùng khớp với thời hạn dự kiến hoàn thành công nghiệp hóa đất
nước. Do vậy,chiến lược phát triển đến năm 2020 dù muồn hay không cũng
bắt buộc phải lấy công nghiệp hóa làm một mục tiêu phấn đấu, thậm chí làm
mục tiêu chính hay mục tiêu bao quát. Vì thế mà công việc nghiên cứu chiến
lược 10 năm hoặc nghiên cứu phát triển dài hạn hơn đều không thể tránh né
hay bỏ qua việc giải đáp các câu hỏi: “Thế nào là một nước công nghiệp”,
“Thế nào là một nước công nghiệp theo hướng hiện đại” và “Thế nào là cơ
bản trở thành một nước công nghiệp (theo hướng hiện đại)”. Người viết bài
này đã có dịp nêu vấn đề trên trong một bài báo năm 2006
2
và bài viết năm
2007
3


, trong bài viết lần này mong muốn đi sâu hơn cả về khía cạnh định
tính và định lượng của vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với nước ta.
1 Một vài khái niệm
a) Có thể giải thích một cách đơn giản rằng, nước công nghiệp là nước
đã hoàn thành quá trình công nghiệp hóa, hoặc ngược lại, công nghiệp hóa là
quá trình trở thành một nước công nghiệp, song rõ ràng là định nghĩa như
vậy không giải quyết được nguồn gốc của vấn đề. Tuy nhiên, câu trên cũng
có ý nghĩa ở chỗ, trong hai khái niệm “nước công nghiệp” và “công nghiệp
1
Đỗ hoài Nam chủ biên Một số vấn đề về Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa ở Việt nam. Nhà xuất bản Khoa
học xã hội, Hà nội, 2004.
. Nguyễn văn Đặng chủ biên. Phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện
đại vào năm 2020. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. Hà nội, 2007.
2
Đỗ quốc Sam. Về công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt nam. Tạp chí Cộng sản số 11, tháng 6-2006.
3
Đỗ quốc Sam. Một vài ý tưởng về xây dựng chiến lược phát triển đến năm 2020. Trong tập :Bàn về chiến
lược phát triển kinh tế xã hội của Việt nam trong thời kỳ mới.Bộ Kế hoạch và đầu tư. Hà nội, 2007.
hóa” chỉ cần định nghĩa cụ thể một khái niệm, còn khái niệm kia có thể tự
suy ra được.Vì vậy, ở đây sẽ xuất phát từ một khái niệm là “công nghiệp
hóa”.
Các nhà kinh tế học phát triển đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về
công nghiệp hóa, dựa vào các tiêu chuẩn khác nhau như thu nhập quốc dân,
cơ cấu kinh tế, cơ cấu công nghiệp, cơ cấu lao động, mức độ phát triển công
nghiệp chế tác, loại công cụ sản xuất, các hàm sản xuất cơ bản, phương thức
sản xuất, v.v, song cách trình bày tương đối gọn ghẽ mà làm nổi rõ được đặc
trưng chính của khái niệm có thể phát biểu như sau:
Theo nghĩa hẹp, công nghiệp hóa được hiểu là quá trình chuyển dịch từ
kinh tế nông nghiệp (hay tiền công nghiệp) sang nền kinh tế lấy công nghiệp
làm chủ đạo, từ chỗ tỷ trọng lao động nông nghiệp chiếm đa số giảm dần và

nhường chỗ cho lao động công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn hơn. Theo nghĩa
rộng, công nghiệp hóa là quá trình chuyển dịch từ kinh tế nông nghiệp (hay
tiền công nghiệp) sang kinh tế công nghiệp, từ xã hội nông nghiệp sang xã
hội công nghiệp, từ văn minh nông nghiệp sang văn minh công nghiệp.
Định nghĩa trên dùng trong trường hợp từ “công nghiệp hóa” là danh từ,
chỉ một quá trình. Còn trong trường hợp tính từ, từ công nghiệp hóa là chỉ
một trạnh thái, trạng thái đã hoàn thành quá trình công nghiệp hóa, hay nói
gọn hơn, là đã công nghiệp hóa.
b) Bên cạnh từ công nghiệp hóa, từ “hiện đại hóa” cũng có nhiều cách
định nghĩa. Công nghiệp hóa có từ gốc là công nghiệp, là một danh từ, còn
gốc của hiện đại hóa là hiện đại, là một tính từ. Công nghiệp chỉ có một
nghĩa, còn hiện đại lại có nhiều cách giải thích khác nhau. Về sử học, văn
học nghệ thuật, kiến trúc v.v., thời hiện đại được xác định không hoàn toàn
trùng hợp với nhau.
Theo cách dùng thông thường, hiện đại có nghĩa là “thuộc về thời đại
ngày nay” (Từ điển tiếng Việt 1996, Hoàng Phê chủ biên), đối lập với truyền
thống là thuộc về thói quen nhiều đời đã qua, tương tự như mới với cũ, tiên
tiến với lạc hậu. Theo nghĩa đó, hiện đại hóa là quá trình biến đổi từ tính chất
truyền thống cũ sang trình độ tiên tiến, hiện đại; hiện đại hóa chỉ có tính so
sánh về thời gian trước sau, còn thời gian khới đầu và thời gian kết thúc lại
xác định tuỳ theo ngữ cảnh cụ thể.
Theo ý nghĩa về kinh tế, hiện đại hóa được giải thích là quá trình
chuyển dịch căn bản từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại, kéo dài từ
thế kỷ 17-18 đến ngày nay còn chưa kết thúc. Hiện đại hóa về kinh tế vừa là
sự thay đổi về tính chất, vừa có tính xác định về thời gian (có thời gian khởi
đầu và sẽ có thời gian kết thúc của từng giai đoạn). Giai đoạn đầu của quá
trình hiện đại hóa được coi là trùng với thời kỳ công nghiệp hóa, nên nhiều
người cho rằng công nghiệp hóa là cốt lõi của hiện đại hóa trong giai đoạn
này. Nếu tính đến định nghĩa công nghiệp hóa theo nghĩa rộng, có xét đến
các mặt xã hội, văn minh, thì nội hàm của công nghiệp hóa với hiện đại hóa

giai đoạn đầu cũng không khác nhau bao nhiêu. Sau giai đoạn đầu, hiện đại
hóa sẽ chuyển sang giai đoạn “hậu công nghiệp hóa”, giai đoạn kinh tế tri
thức (có thể tạm gọi là giai đoạn “tri thức hóa”). Có người còn nói đến một
giai đoạn “hậu hiện đại”. Giữa hiện đại hóa và công nghiệp hóa có một mối
quan hệ ràng buộc không dễ tách bạch ra được.
Ở mỗi trình độ phát triển khác nhau, hiện đại hóa mang những đặc
trưng khác nhau. Đối với các nước phát triển, hiện đại hóa là quá trình
chuyển dịch từ xã hội kinh tế công nghiệp sang xã hội kinh tế tri thức. Đối
với các nước đang phát triển, hiện đại hóa là quá trình đẩy nhanh phát triển
để đuổi kịp các nước phát triển, trước mắt là giai đoạn công nghiệp hoá.
c) Như vậy, công nghiệp hóa là một quá trình biến đổi về chất của nền
kinh tế, hay nói rộng hơn, của cả nền kinh tế, xã hội, và nền văn minh
4
. Định
nghĩa trên không nêu hết các nội dung của công nghiệp hóa, song đủ để làm
nổi lên những khía cạnh đặc trưng chủ yếu của quá trình chuyển biến sang xã
hội công nghiệp, và các đặc trưng ấy còn cần được cụ thể hóa bằng những
tiêu chí có thể so sánh được.
Đến nay, công nghiệp hóa đã được thực hiện dưới nhiều hình thức và
mô hình khác nhau, nhưng nhìn chung có thể chia thành hai loại hình lớn:
loại hình thứ nhất là công nghiệp hóa kiểu truyền thống bao gồm công
nghiệp hoá cổ điển diễn ra ở các nước phương Tây từ cuối thế kỷ 18 cho đến
giữa thế kỷ 20 thì đã được hoàn thành ở một số nước và công nghiệp hóa dựa
trên cơ chế kế hoạch hóa tập trung của các nước xã hội chủ nghĩa thế kỷ 20 ;
loại hình thứ hai là công nghiệp hóa kiểu mới đang tiến hành từ những năm
60 của thế kỷ trước đến nay còn đang tiếp diễn.
2 Công nghiệp hóa cổ điển
Quá trình công nghiệp hóa đã bắt đầu từ nửa cuối thế kỷ 18 tại Anh với
cuộc cách mạng công nghiệp (1770-1780), khoảng 50 năm sau lan sang
Pháp, Bỉ (1820-1830) và chuyển sang Mỹ, Đức với cuộc cách mạng công

nghiệp lần thứ hai (1870-1880), sau đó lan truyền đến Nhật, Nga khoảng
năm 1890. Các nước khác ở châu Âu tiếp nối tiến hành vào thời gian liền
theo.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất dựa vào nguồn tài trợ từ cuộc
cách mạng nông nghiệp trước đó và từ phát triển thương mại hàng hải từ thế
kỷ trước. Nguồn năng lượng cho cuộc cách mạng này là than chạy máy hơi
nước thúc đẩy phát triển ngành đường sắt và nhiều ngành khác. Các công
nghiệp đặc trưng là công nghiệp dệt (chủ yếu là sợi bông) và công nghiệp
luyện kim (chủ yếu là sắt).
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai đi đầu là Mỹ và Đức. Khác với
cuộc cách mạng trước, lần này tài trợ chủ yếu là do cuộc cách mạng lần thứ
nhất; nguồn năng lượng là điện và dầu lửa; các ngành công nghiệp mới là
4
Hà truyền Khải. Báo cáo hiện đại hóa Trung quốc 2005, 2007. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Bắc kinh.
công nghiệp hóa chất giúp cho nông nghiệp về phân bón và cho ngành dệt về
sợi nhân tạo. Công nghiệp mới về cơ khí tác động đến ngành chế tạo ô tô và
máy nông nghiệp. Sáu quốc gia nổi trội trong đợt này là Mỹ, Anh, Pháp,
Đức, Nga và Nhật.
Công nghiệp hóa cổ điển có những đặc điểm sau:
Công nghiệp hóa cổ điển dựa vào cách mạng kỹ thuật với tiêu chí cơ
giới hóa, điện khí hóa, tự động hóa, luôn luôn theo đuổi hiệu quả và hiệu
suất, trình độ chuyên môn hóa ngày càng cao; đồng thời dựa vào mở rộng thị
trường với các cuộc chinh phục và khai thác thuộc địa, để lại những hậu quả
vô cùng bi thảm.
Công nghiệp hóa cổ điển chú ý nhiều đến mặt kinh tế, trong kinh tế
coi trọng tăng trưởng hơn phát triển, trong tăng trưởng chú ý phương thức
chiều rộng hơn.
Đi liền với công nghiệp hóa, biến đổi về mặt tổ chức xã hội là xu thế
đô thị hóa.
Thời gian thực hiện rất dài, hàng trăm năm.

Tạo ra bất công xã hội, phân cực giầu nghèo và thất nghiệp.
Lãng phí tài nguyên và hủy hoại môi trường.
3 Công nghiệp hóa theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung.
Đây là con đường công nghiệp hóa của Liên xô trước đây; Trung quốc,
nhiều nước Đông Âu và một số nước khác đã từng đi theo; Việt nam ta cũng
đã qua một vài bước đi ban đầu dựa vào vốn và kỹ thuật từ bên ngoài, song
chưa đáng kể. Một số nước trong thế giới thứ ba cũng đã thử nghiệm mô
hình này nhưng ít gặt hái được kết quả.
Nhờ tập trung cao độ các nguồn lực, ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng mà Liên xô đã tạo ra được một sức mạnh kinh tế rất lớn trong điều kiện
bao vây kinh tế bốn phía, góp phần làm nên chiến thắng trục phát xít từng đe
dọa cả thế giới. Tuy nhiên, chủ trương ưu tiên phát triển công nghiệp nặng
bằng mọi giá và kéo dài, được coi là mô hình công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa, bộc lộ một số nhược điểm không thể khắc phục được:
Cơ cấu kinh tế không cân đối, với tỷ lệ khoảng trên một nửa nền kinh
tế là công nghiệp nặng, có thể thích hợp trong một giai đoạn, nhưng không
thể kéo dài.
Công nghiệp hóa bằng cách hy sinh nông nghiệp, công nghiệp nhẹ,
tiết chế tiêu dùng quá mức để tích lũy lâu dài làm giảm phúc lợi cuộc sống
và lòng tin của nhân dân, ảnh hưởng cả đến sự bền vững của chế độ.
Công nghiệp hóa dựa vào phát triển khoa học, công nghệ mà không
dựa vào thị trường thì khó có thể phát triển ổn định lâu dài được.
Đáng chú ý là khi áp dụng mô hình công nghiệp hóa xô viết vào Việt
nam từ thập kỷ 60 của thế kỷ trước, chúng ta cũng thấy phần nào những
nhược điểm nêu trên nên đã chú ý hơn đến sản xuất hàng tiêu dùng và phát
triển nông nghiệp trong những năm 70 để chuyển hóa dần sang đường lối đổi
mới của những năm 80.
4 Công nghiệp hóa kiểu mới .
Từ giữa thế kỷ 20, nhiều nước của thế giới thứ ba vừa thoát ra khỏi chế
độ thuộc địa và thời kỳ chiến tranh, đều tìm con đường công nghiệp hóa để

bù đắp lại thời gian đã mất và sớm theo kịp đà phát triển của thế giới. Hướng
đi cơ bản là tìm cách khắc phục những nhược điểm của công nghiệp hóa cổ
điển, rút ngắn thời gian, tránh những tác hại đến môi trường.Trong những
năm đầu (1955-1975) tốc độ phát triển rất khả quan, nhưng 20 năm tiếp theo,
nhiều khó khăn, trắc trở dẫn đến giảm sút và các kế hoạch công nghiệp hóa
đạt được ít thành công, một phần do vẫn áp dụng mô hình công nghiệp hóa
cổ điển mà không đủ điều kiện để thực hiện, mặt khác mô hình “thay thế
nhập khẩu” đã tỏ ra ít hiệu quả
5
.
Một số nền kinh tế ở châu Á và châu Mỹ la tinh đã bứt ra khỏi những
trở ngại và thực hiện được quá trình công nghiệp hóa trong một thời gian
tương đối ngắn, trở thành những nước “công nghiệp hóa mới”. Riêng với
những con rồng và con hổ châu Á thì có thể rút ra một số đặc điểm chung là:
áp dụng chính sách phát triển hướng về xuất khẩu, coi trọng vai trò chỉ đạo
của nhà nước, ưu tiên chính sách phát triển công nghệ và nguồn nhân lực, tận
lực khai thác môi trường quốc tế thuận lợi. Cho đến nay cũng không có một
định nghĩa cụ thể cho các nước gọi là “công nghiệp hóa mới” mà số được đề
cử đã lên đến trên 10, song kinh nghiệm thành công của những nước này vẫn
luôn luôn được nhắc đến để so sánh với những nước công nghiệp hóa không
kết quả và gợi ý cho những nước mới nổi lên đang đi tìm một con đường
công nghiệp hóa thích hợp.
Rút kinh nghiệm về những mặt tiêu cực và trở ngại của loại hình công
nghiệp hóa cổ điển và những thành công của con đường công nghiệp hóa
mới trong một số nước đi sau, các nhà chiến lược công nghiệp hóa của nhiều
nước đang nghiên cứu và thực hiện một loại hình công nghiệp hóa kiểu mới,
vừa rút ngắn thời gian, vừa gắn kết với yêu cầu của nền kinh tế mới, nền
kinh tế tri thức, và đòi hỏi của thời đại phát triển bền vững.
Yêu cầu đối với công nghiệp hóa kiểu mới ở mỗi nước có thể đề ra khác
nhau, song nói chung không ngoài mấy điểm sau:

5
- Moises Ikonikoff Des obstacles a l’industrialisation du Tiers-Monde. Options mediterraneennes.2/1972.
- Bàn về trắc trở trên tiến trình công nghiệp hóa của các nước thế giới thứ ba.(www.dianliang.com)12-
2006.
Khắc phục được càng nhiều càng tốt những nhược điểm của công
nghiệp hóa cổ điển (thời gian kéo dài, bất công xã hội, lãng phí vật chất, hủy
hoại môi trường).
Gắn kết công nghiệp hóa với hiện đại hóa, phát triển song song kinh
tế và công nghệ, phát triển công nghệ thông tin, công nghệ cao, tiếp cận kinh
tế tri thức.
Phát triển bền vững, coi trọng cả kinh tế, xã hội và môi trường.
Ở Trung quốc, công nghiệp hóa kiểu mới được hiểu là “hàm lượng khoa
học kỹ thuật cao, hiệu ích kinh tế tốt, tiêu hao tài nguyên thấp, ô nhiễm môi
trường ít, phát huy đầy đủ ưu thế tài nguyên nhân lực”
6
. Nhiều nước khác đã
hoàn thành công nghiệp hóa, nay cũng đề ra chiến lược phát triển bền vững,
cũng có ý nghĩa là khắc phục những nhược điểm còn tồn tại của quá trình
công nghiệp hóa cổ điển.
Ở nước ta, con đường công nghiệp hóa không thể theo loại hình truyền
thống với những tồn tại và bất cập nêu trên. Văn kiện Đại hội VIII nêu ra
công thức “công nghiệp hóa. hiện đại hóa” và văn kiện Đại hội IX đặt vấn đề
“công nghiệp hóa theo hướng hiện đại” là thể hiện sự lựa chọn công nghiệp
hóa kiểu mới. Đến nay có thể hình dung ra những đặc điểm công nghiệp hóa
của chúng ta như sau:
Công nghiệp hóa phải rút ngắn thời gian, phát triển nhanh để sớm
đuổi kịp trình độ các nước.
Công nghiệp hóa gắn kết với hiện đại hóa, phát triển công nghệ mới,
công nghệ cao, công nghệ thông tin, tiếp cận kinh tế tri thức.
Phát triển kinh tế song song với phát triển xã hội, nâng cao chất lượng

cuộc sống, bảo đảm công bằng xã hội, định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phát triển bền vững, gìn giữ và cải thiện môi trường, tiết kiệm tài
nguyên thiên nhiên.
Đó cũng là mục tiêu và phương thức công nghiệp hóa của nước ta
5 Tiêu chí của một nước công nghiệp
Có nhiều kiểu loại công nghiệp hóa, chắc chắn sẽ có nhiều nét đặc trưng
khác nhau, do đó cũng sẽ có nhiều hình thức tiêu chí khác nhau.
Tiêu chí công nghiệp hóa có thể hiểu là những đặc trưng để nhận biết
hay để phân biệt trình độ đạt được trong tiến trình công nghiệp hóa. Thí dụ,
một nét đặc trưng của quá trình công nghiệp hóa là kinh tế phải phát triển, tỷ
trọng công nghiệp trong nền kinh tế phải được nâng cao, tỷ trọng nông
nghiệp, lao động nông nghiệp phải giảm v.v. đó là tiêu chí công nghiệp hóa
về kinh tế. Nếu xem xét nội dung công nghiệp hóa theo nghĩa rộng thì còn có
tiêu chí công nghiệp hóa về xã hội, văn hóa, văn minh v.v.
6
Văn kiện Đại hội 16 ĐCSTQ 2002.
Muốn ước lượng và so sánh trình độ công nghiệp hóa của một nước hay
một vùng lãnh thổ, cần phải lượng hóa các tiêu chí đánh giá. Phương pháp
thường dùng là phương pháp chỉ tiêu
78
, theo đó, mỗi tiêu chí lựa chọn ra một
số chỉ tiêu định lượng có thể tính toán được và thể hiện đầy đủ tính chất của
tiêu chí đó. Thí dụ với tiêu chí kinh tế đã nêu ở trên, có thể chọn các chỉ tiêu:
tổng sản phẩm bình quân đầu người, tỷ lệ cơ cấu nông nghiệp, công nghiệp,
dịch vụ, tỷ lệ cơ cấu lao động trong nền kinh tế v.v.
Một mặt, có thể dựa vào kinh nghiệm quốc tế để xác định đối với mỗi
chỉ tiêu cần đạt đến mức chuẩn nào là đủ thỏa mãn yêu cầu của một nước
công nghiệp hoặc hoàn thành quá trình công nghiệp hóa. Mặt khác, dựa vào
số liệu thống kê có thể thu thập được để tính toán các chỉ tiêu tương ứng của
nước ta và so sánh với chuẩn đã chọn để đánh giá xem hiện nay chúng ta

đang ở điểm nào trên con đường công nghiệp hóa. Ước lượng mỗi năm ta có
thể phát triển được bao nhiêu theo mỗi chỉ tiêu công nghiệp hóa, chúng ta sẽ
dễ dàng làm rõ được thời hạn công nghiệp hóa của nước ta còn cần bao nhiêu
năm và sắp xếp các nguồn lực ưu tiên hợp lý để đạt được trong thời gian
ngắn nhất.
Cũng có thể dùng phương pháp gia quyền, quy các chỉ tiêu đánh giá về
một chỉ số duy nhất (không thứ nguyên) để dễ so sánh quốc tế và so sánh
theo thời gian.
Những tiêu chí, chỉ tiêu, chỉ số trên không chỉ có ích trong khi nghiên
cứu xây dựng chiến lược phát triển toàn quốc và các khu vực, mà còn rất cần
thiết để đánh giá, theo dõi và điều chỉnh trong quá trình thực hiện chiến lược.
6 Hai thí dụ mẫu về hệ chỉ tiêu công nghiệp hóa
Có khá nhiều nhà nghiên cứu quan tâm xây dựng các bộ chỉ tiêu công
nghiệp hóa và hiện đại hóa. Ở đây, xin nêu 2 thí dụ, một hệ chỉ tiêu ứng với
công nghiệp hóa cổ điển và một hệ chỉ tiêu gần với khái niệm công nghiệp
hóa mở rộng.
Bộ chỉ tiêu công nghiệp hóa do giáo sư Mỹ H. Chenery, cố vấn Ngân
hàng thế giới, đề xuất cuối những năm 80 của thế kỷ 20 có thể coi là những
tiêu chí công nghiệp hóa tối thiểu để áp dụng cho loại công nghiệp hóa cổ
điển. Chenary chia thời kỳ công nghiệp hóa làm 3 giai đoạn, giai đoạn khởi
đầu, giai đoạn phát triển và giai đoạn hoàn thiện, không kể một thời đoạn
tiền công nghiệp hóa và một thời đoạn hậu công nghiệp hóa. Tương ứng với
mỗi giai đoạn có xác định chỉ tiêu GDP bình quân đầu người, tỷ lệ cơ cấu
kinh tế, cơ cấu ngành công nghiệp, cơ cấu lao động và cơ cấu không gian
(Biểu 1).
7
Bernard Perret Indicateurs sociaux , etats des lieux et perspectives. Rapport au CERC. 2002.
8
Tống khánh Phương và Ngô hàn Quang Hệ thống chỉ tiêu xã hội. NXB Khoa học xã hội. Bắc kinh,
2003.

Biểu 1 Các giai đoạn công nghiệp hóa theo H. Chenery
9
Chỉ tiêu cơ
bản
Tiền CNH Khởi đầu
CNH
Phát triển
CNH
Hoàn thiện
CNH
Hậu CNH
GDP/người
USD1964
USD 2004
1
00-200
100
100-200
77 7
720-1440
720-1440

200-400
1440-2880

400-800
2880-5760

800-1550
5760-10810

Cơ cấu ngành A>I A>20% A<I A<20% I>S A<10% I>S A<10% I<S
Tỷ trọng CN
chế tác
>
20%

20-40%

40-50%

50-60%
>60%
Lao động NN >60% 45-60% 30-45% 10-
30%
<10%
Đô thị hoá <30% 30-50% 50-60% 60-75% >75%
Ghi chú : A: Nông nghiệp; I: Công nghiệp; S: Dịch vụ.
Bộ chỉ tiêu tiêu biểu thứ hai được cho là do nhà xã hội học người Mỹ
A. Inkeles giới thiệu cũng vào những năm 80 thế kỷ 20, ngoài tiêu chí kinh
tế còn nêu ra nhiều chỉ tiêu về văn hóa và xã hội, phù hợp hơn với loại công
nghiệp hóa theo nghĩa rộng. Bộ chỉ tiêu này gồm 11 hạng mục, tuy đơn giản
và dễ sử dụng, song có nhược điểm là chưa chú ý đến các tiêu chí về chất
lượng và chưa đề cập đến các xu hướng tin học hóa, toàn cầu hóa, do đó
chưa đáp ứng được yêu cầu của loại hình công nghiệp hóa kiểu mới.
Biểu 2 Chỉ tiêu công nghiệp hóa do A.Inkeles
10
giới thiệu
Chỉ tiêu cơ bản Chuẩn CNH Trị số tham khảo
1. GDP/đầu người
2. Tỷ trọng A/GDP

3. Tỷ trọng S/GDP
4. Lao động phi NN
5. Tỷ lệ biết chữ
6. Tỷ lệ sinh viên ĐH
USD
%
%
%
%
%
>3000
12-15
>45
>75
>80
12-15
Mỹ 3243 (1965)
11 (1929)
48 (1929)
79 (1929)

16 (1945)
9
Chen Jiagui, Huang Qunhui and Zhong Hongưu The synthetic Evaluation and Analysis on Regional
Industrializa-tion. Economic Studies. Bẹijing.6-2006.
10
Tạ lập Trung. Nên đối xử thế nào với các chỉ tiêu tổng hợp đánh giá phát triển xã hội (Trung tâm thông tin
mạng Hỗ liên Trung quốc.
7. Bác sĩ / 1000 dân
8. Tuổi thọ trung bình

9. Tăng dân số
10. Tử vong sơ sinh
11. Đô thị hoá
%o

%
%
%
>1
>70
<1
<3
>50
1.3 (1960)
70 (1960)
1 (1965)
2.6 (1960)
66 (1960)
Chú thích : A: Nông nghiệp; S : Dịch vụ; ĐH : Đại học.
Các tài liệu nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu Hiện đại hoá thuộc
Viện Khoa học Trung quốc cũng dựa trên bộ chỉ tiêu của Inkeles để xây
dựng bộ chỉ tiêu đánh giá “hiện đại hoá lần thứ nhất” là giai đoạn tương
đương với thời kỳ công nghiệp hoá. Bộ chỉ tiêu của Trung quốc bỏ qua hạng
mục “Tăng dân số” và chọn chuẩn công nghiệp hoá tương đương với mức
bình quân của 19 nước công nghiệp hoá sớm nhất (khoảng năm 1960-1965),
trong đó mức GNP/đầu người quy đổi về năm 2000 là khoảng 6400 USD
11
.
Chỉ tiêu này cũng xấp xỉ với chỉ tiêu của Chenery và Inkeles nếu tính quy đổi
từ thập niên 60 và 80 của thế kỷ 20.

7 Nghiên cứu một bộ chỉ tiêu công nghiệp hóa cho Việt nam.
Nếu thử áp dụng hai bộ chỉ tiêu trên vào quá trình công nghiệp hóa
đang diễn ra ở nước ta, cũng có thể có một số đánh giá rất sơ bộ.
Theo bộ chỉ tiêu của H. Chenery, đối với Việt nam vào khoảng năm
2020 sẽ có hai chỉ tiêu tương đối khó đạt được hoàn toàn, đó là GDP bình
quân đầu người và tỷ lệ đô thị hóa, khả năng đạt mức công nghiệp hóa phát
triển (giai đoạn 2) hiện thực hơn.
Nếu theo các chỉ tiêu do A. Inkeles giới thiệu, cũng chỉ có hai chỉ tiêu
GDP bình quân đầu người và đô thị hóa là có khó khăn, nhưng cũng không
phải là không thể thực hiện được về “cơ bản”.
Theo các tính toán cụ thể của Trung tâm Hiện đại hoá Trung quốc thì
Việt nam năm 2004 trình độ công nghiệp hoá đạt mức 69% (năm 1960
khoảng 37%), đang đứng ở giai đoạn 2/4 của quá trình công nghiệp hoá 4
bước; trình độ hiện đại hoá mới bằng khoảng 36% của các nước tiên tiến.
Nếu coi trình độ công nghiệp hoá đạt 80-85 % là “cơ bản công nghiệp hoá”
thì đích đến năm 2020 không phải hoàn toàn là không khả thi.
Để đi đến một bộ chỉ tiêu công nghiệp hoá phù hợp yêu cầu phát triển
của nước ta và có thể so sánh quốc tế, cần tiến hành nhiều bước nghiên cứu
rất cụ thể và thu thập số liệu trong, ngoài nước thích hợp. Ở đây chỉ xin thử
nêu ra một mô hình tính toán tương đối đơn giản để làm thí dụ.
Trước hết cần căn cứ vào những đặc trưng công nghiệp hoá theo hướng
hiện đại của Việt nam đã nêu ở mục trên để đề ra các nhóm tiêu chí thích
hợp, ở đây gồm có: tiêu chí về kinh tế, về khoa học công nghệ, về xã hội văn
11
China Modernization Report Outlook (2001-2007). Peking University Press. 2007.
hoá, về môi trường tài nguyên, tương ứng với yêu cầu phát triển kinh tế
nhanh và bền vững, phát triển khoa học công nghệ tiến tới kinh tế tri thức,
phát triển xã hội hài hoà với phát triển kinh tế, sử dụng hợp lý tài nguyên và
bảo vệ, cải thiện môi trường sống.
Khi chọn chỉ tiêu, cần bảo đảm trước hết có đủ tính đại diện cho từng

tiêu chí, đồng thời có tính khả thi cao, nghĩa là có đủ các số liệu thống kê
tương ứng để tính toán và so sánh quốc tế. Đồng thời, số lượng chỉ tiêu
không nên tham nhiều và phải độc lập, không phụ thuộc lẫn nhau. Sơ bộ có
thể đề xuất để tham khảo cơ cấu tiêu chí và chỉ tiêu sau:
Tiêu chí kinh tế: 1) GDP bình quân đầu người; 2) Tỷ trọng giá trị gia
tăng nông nghiệp trong GDP; 3) Tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng
số lao động.
Tiêu chí khoa học công nghệ: 4) Tỷ lệ kinh phí R&D và giáo dục trong
GDP; 5) Số sinh viên đại học trên 10 000 dân; 6) Số sử dụng internet trên
dân số; 7) Tỷ lệ hàng công nghệ cao trong hàng công nghiệp chế tác xuất
khẩu.
Tiêu chí xã hội: 8) Tỷ trọng dân số đô thị trong tổng dân số; 9) Chênh
lệch thu nhập giữa nhóm 20% dân số cao nhất và nhóm thấp nhất; 10) Số bác
sĩ trên 10000 dân.
Tiêu chí tài nguyên môi trường: 11) Tỷ lệ sử dụng nước sạch; 12) Tỷ lệ
rừng che phủ.
Danh mục 12 chỉ tiêu gợi ý trên tuy vẫn chưa phản ảnh hết các đặc
trưng công nghiệp hoá của nước ta, song tương đối thuận tiện cho khâu tìm
kiếm số liệu trong, ngoài nước trong giai đoạn đầu nghiên cứu.
Các giá trị chuẩn của các chỉ tiêu công nghiệp hoá có thể chọn lựa dựa
theo số liệu bình quân của các nước đi trước khi đã hoàn thành quá trình
công nghiệp hoá, gồm khoảng gần 20 nước phát triển nhất vào những năm
60 và 70 của thế kỷ trước. Những chỉ tiêu liên quan đến công nghệ mới và
vấn đề môi trường có thể tham khảo số liệu của các nước công nghiệp hoá
mới vào đầu thập kỷ cuối cùng của thế kỷ 20. Sơ bộ số liệu ghi trong biểu
sau:
Biểu 3 Chỉ tiêu công nghiệp hoá dự kiến.

Số Chỉ tiêu Đơn vị Chuẩn CNH Mức 2005
1 GDP bình quân đầu người

USD
> 5000 640
2 Tỷ trọng NN/GDP
%
10 21
3 Tỷ lệ lao động NN
%
< 30 54
4 Tỷ lệ đô thị hoá
%
> 50 27
5 Chênh lệch thu nhập nhóm
20 % dân số cao/thấp nhất

lần
4 4,9
6 Số bác sĩ/1000 dân
số
1 0,62
7 Chi phí khoa giáo/GDP
%
8 6,4
8 Sinh viên/10000 dân
%
15 16,7
9 Sử dụng Internet/dân số
%
25 12.9
10 Tỷ lệ công nghệ cao trong
hàng chế tác xuất khẩu

%
12 6
11 Sử dụng nước sạch/dân số % 100 85
12 Độ phủ xanh rừng
%
42 38,8
Các số liệu trong bảng chỉ tiêu được lấy từ WDI của Ngân hàng Thế
giới, Niên giám Thống kê Việt nam, có tham khảo CHELEM, cơ sở dữ liệu
của Tổng uỷ Kế hoạch Pháp và PWT, cơ sở dữ liệu của Trường Đại học
Pennsyl-vania, Mỹ.
Bảng trên cũng cho thấy chỉ tiêu khó đạt nhất vẫn là GDP đầu người,
mặc dù con số 5000 USD mới chỉ là cận dưới của bình quân thu nhập của
các nước đã công nghiệp hoá (quy về giá USD 2005). Tuy nhiên, nếu tính
đến yêu cầu mềm dẻo “cơ bản trở thành một nước công nghiệp” và chuyển
sang tính GDP theo sức mua tương đương PPP gần với thực tế hơn thì bài
toán không phải là bất giải.
Vấn đề trước mắt ở đây là cần xác định tương đối rõ, thế nào là “cơ bản
trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Có thể có một số cách
tiếp cận.
Cách đơn giản là đánh giá trình độ công nghiệp hoá bằng “chỉ số công
nghiệp hoá”. Chỉ cần so sánh mức độ đã đạt của mỗi chỉ tiêu với giá trị
chuẩn đã ấn định để được một hệ số cụ thể (nhỏ hơn 1) và lấy bình quân số
học của các hệ số đó sẽ được chỉ số công nghiệp hoá. Cũng có thể cho mỗi
chỉ tiêu hay nhóm chỉ tiêu một trọng số phù hợp để được kết quả tốt hơn.
Nếu chỉ số đạt 100% là đã hoàn thành công nghiệp hoá. Còn nếu chỉ đạt 80-
85% thì có thể coi là “cơ bản công nghiệp hoá”.
Một cách khác là chia quá trình công nghiệp hoá làm 3 giai đoạn, như
trong sơ đồ của H. Chenery, gồm giai đoạn mở đầu chiếm khoảng 30-35 %
lộ trình, giai đoạn phát triển tiếp theo khoảng 50-55 %, giai đoạn hoàn thiện
kết thúc với khoảng 15-20 % .Hoàn thành giai đoạn 2 tức đã đạt 80-85 %, có

thể coi là cơ bản công nghiệp hoá.
Cách làm đơn giản hơn nữa là theo nghĩa hẹp của khái niệm công
nghiệp hoá, như trong sơ đồ của H. Chenery, coi đạt các chỉ tiêu kinh tế là
“cơ bản trở thành một nước công nghiệp”. Phương pháp này không xét đầy
đủ ý nghĩa của từ “công nghiệp hoá theo hướng hiện đại”,vì đã bỏ qua các
chỉ tiêu liên quan đến khoa học, công nghệ, môi trường, áp dụng vào hoàn
cảnh nước ta e không hoàn chỉnh.
Nói tóm tắt lại, vấn đề “thế nào là cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại” và lượng hoá tiêu chí công nghiệp hoá là những
vấn đề thời sự, cần được quan tâm nghiên cứu khẩn trương và nghiêm túc, để
làm cơ sở cho các định hướng chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển
những năm sắp đến. Bài viết này hy vọng đóng góp một phần nhỏ vào hướng
đó.
Ngày 15 tháng 8 năm 2008

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×