Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

TÀI CHÍNH TIỀN TỆ NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (681.17 KB, 27 trang )

TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM GVHD: PGS. TS VŨ THỊ MINH HẰNG
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NỢ CÔNG 1
1.1. Khái niệm nợ công 1
1.2. Bản chất kinh tế của nợ công 1
1.3. Các đặc trưng cơ bản của nợ công 3
1.4. Phân loại nợ công 3
1.5 Tác động của nợ công 4
1.6 Giới hạn an toàn của nợ công 5
2. TÌNH HÌNH NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 8
2.1 Tình hình sử dụng nợ công ở Việt Nam 8
2.1.1 Quy mô nợ công 8
2.1.2 Cơ cấu nợ công 9
2.1.3 Tình hình sử dụng nợ công 10
2.1.4 Tình hình trả nợ công 11
2.2 Tình hình quản lý nợ công ở Việt Nam 12
2.2.1 Quản lý theo khía cạnh kỹ thuật 12
2.2.1.1 Nhu cầu vay mượn 12
2.2.1.2 Khả năng trả nợ 14
2.2.1.3 Nguồn vốn tài trợ 15
2.2.1.4 Danh mục nợ 15
2.2.1.5 Hoạt động giám sát và duy trì thông tin nợ 15
2.2.2 Quản lý theo khía cạnh thể chế 16
2.2.2.1 Khung pháp lý của quản lý nợ 16
2.2.2.2 Thể chế quản lý nợ 16
2.2.2.3 Việc thực thi chức năng nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nợ 16
2.3. Những thành tựu và hạn chế trong công tác quản lý nợ công ở Việt Nam 16
2.3.1. Thành tựu 16
2.3.2. Hạn chế 17
3. CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM 18


NHÓM 4 – LỚP ĐÊM 4 K 22 1
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM GVHD: PGS. TS VŨ THỊ MINH HẰNG
3.1. Hoàn thiện pháp chế về quản lý nợ công 18
3.2. Đổi mới đầu tư công hướng tới mục tiêu bền vững tài khóa 19
3.3. Nâng cao hiệu quả công tác quản lý nợ công, bảo đảm an toàn nợ công 20
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
NHÓM 4 – LỚP ĐÊM 4 K 22 2
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM GVHD: PGS. TS VŨ THỊ MINH HẰNG
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đã và đang trong quá trình toàn cầu hóa, theo đó là xu thế hội
nhập kinh tế quốc tế, mở rộng giao lưu, tăng cường hợp tác hóa, chuyên môn hóa và phân công lao
động như hiện nay. Toàn cầu hóa tạo động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội nói chung trên phạm vi
toàn cầu, mở ra nhiều cơ hội, thúc đẩy phát huy nội lực và ngoại lực một cách có hiệu quả nhằm
nâng tầm của một quốc gia. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm nêu trên, mặt trái của toàn cầu hóa
cũng thể hiện rõ rệt qua hiệu ứng domino, khi mà dưới tác động mạnh mẽ của nó, một biến cố xảy đến
với quốc gia này có thể là nguyên nhân gây ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế khác. Đặc biệt đối với
các quốc gia đang phát triển và nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào nợ vay nước ngoài như Việt Nam.
Năm 2008, nền kinh tế thế giới chao đảo với cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng xuất phát
từ “bong bóng thị trường bất động sản Mỹ”, đỉnh điểm là sự sụp đổ của Ngân hàng đầu tư Lehman
Brothers . Cuối năm 2009, hệ thống kinh tế toàn cầu lại một lần nữa chao đảo trước cuộc khủng hoảng
nợ công châu Âu. Bùng nổ trước tiên ở Hy Lạp, hiệu ứng domino của khủng hoảng nợ công nhanh
chóng lan rộng sang các quốc gia trong khối cộng đồng chung EU. Từ năm 2010 đến nay, rất nhiều
biện pháp được đưa ra để giảm thiểu nguy cơ vỡ nợ của các Chính phủ Châu Âu. Tuy nhiên, tình hình
vẫn khá bi quan và nguy cơ vỡ nợ vẫn luôn thường trực với các Chính phủ Châu Âu như Hy Lạp, Tây
Ban Nha,…. Với tình trạng này, khủng hoảng nợ công châu Âu còn biểu hiện nguy cơ lan truyền nhanh
và khả năng biến tướng thành khủng hoảng nợ công toàn cầu.
Những vấn đề nêu trên không chỉ tác động xấu đến nền kinh tế của các nước trong vòng xoáy nợ
công, mà hơn thế nữa, còn đe dọa nghiêm trọng tới sự phát triển của kinh tế thế giới nói chung và trở

thành mối quan tâm lo ngại to lớn đối với nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Chính vì lẽ đó, việc
nghiên cứu về khủng hoảng nợ công và rút ra bài học kinh nghiệm trong quản lý nợ công ở Việt Nam
là việc làm hết sức cần thiết và cấp bách đối với nước ta trong thời điểm hiện tại.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Đề tài nhằm phân tích tình hình nợ công ở Việt Nam hiện này bao gồm tình hình sử dụng nợ công
và tình hình quản lý nợ công. Từ đó nêu ra một số giải pháp và một số hướng đi khả thi nhằm góp phần
quản lý hiệu quả nợ công.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là tình hình sử dụng và quản lý nợ công ở Việt Nam
giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2010.
NHÓM 4 – LỚP ĐÊM 4 K 22 3
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM GVHD: PGS. TS VŨ THỊ MINH HẰNG
Kết cấu của tiểu luận
Đề tài được chia thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nợ công
Chương 2: Tình hình nợ công ở Việt Nam hiện nay
Chương 3: Các biện pháp quản lý nợ công ở Việt Nam
Ý nghĩa thực tiễn của đề tài:
Đưa ra một số khái niệm cơ bản về nợ công, về bản chất của nợ công và tác động của nợ công đối
với một nền kinh tế.
Là đề tài đánh giá tổng quan về tình hình sử dụng và quản lý nợ công ở Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay, là tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu tiếp theo về tình hình nợ công Việt Nam giai
đoạn sau khi vừa gia nhập WTO.
Đề tài đưa ra một số biện pháp nhằm quản lý nợ công một cách chặt chẽ nhất nhằm không để xảy
ra tình trạng khủng hoảng nợ công.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NỢ CÔNG
NHÓM 4 – LỚP ĐÊM 4 K 22 4
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM GVHD: PGS. TS VŨ THỊ MINH HẰNG
1.1 Khái niệm nợ công .
Khái niệm nợ công là một khái niệm tương đối phức tạp. Tuy nhiên, hầu hết những cách tiếp

cận hiện nay đều cho rằng, nợ công là khoản nợ mà Chính phủ của một quốc gia phải chịu trách
nhiệm trong việc chi trả khoản nợ đó. Chính vì vậy, thuật ngữ nợ công thường được sử dụng
cùng nghĩa với các thuật ngữ như nợ Nhà nước hay nợ Chính phủ. Tuy nhiên, nợ công hoàn toàn
khác với nợ quốc gia. Nợ quốc gia là toàn bộ khoản nợ phải trả của một quốc gia, bao gồm hai bộ
phận là nợ của Nhà nước và nợ của tư nhân (doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân). Như vậy, nợ công
chỉ là một bộ phận của nợ quốc gia mà thôi.
Theo cách tiếp cận của Ngân hàng Thế giới, nợ công được hiểu là nghĩa vụ nợ của bốn nhóm
chủ thể bao gồm: (1) nợ của Chính phủ Trung Ương và các Bộ, ban, ngành trung ương; (2) nợ
của các cấp chính quyền địa phương; (3) nợ của Ngân hàng trung ương; và (4) nợ của các tổ chức
độc lập mà Chính phủ sở hữu trên 50% vốn, hoặc việc quyết lập ngân sách phải được sự phê
duyệt của Chính phủ hoặc Chính phủ là người chịu trách nhiệm trả nợ trong trường hợp tổ chức
đó vỡ nợ
1
. Cách định nghĩa này cũng tương tự như quan niệm của Hệ thống quản lý nợ và phân
tích tài chính của Hội nghị của Liên hiệp quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD).
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, nợ công được hiểu bao gồm ba nhóm là nợ Chính phủ,
nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương. Nợ Chính phủ là khoản nợ phát sinh
từ các khoản vay trong nước, nước ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh
Chính phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, uỷ quyền phát hành theo
quy định của pháp luật. Nợ Chính phủ không bao gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Nợ được Chính phủ bảo lãnh
là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính
phủ bảo lãnh. Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương (gọi chung là UBND cấp tỉnh) ký kết, phát hành hoặc uỷ quyền phát hành.
Như vậy, khái niệm về nợ công theo quy định của pháp luật Việt Nam được đánh giá là hẹp
hơn so với thông lệ quốc tế. Nhận định này cũng được nhiều chuyên gia uy tín trong lĩnh vực
chính sách công thừa nhận.
1.2 Bản chất kinh tế của nợ công.
Nghiên cứu làm rõ bản chất kinh tế của nợ công và quan điểm của kinh tế học về nợ công sẽ
giúp các nhà làm luật xây dựng các quy định pháp luật phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội

nhằm đạt được hiệu quả trong sử dụng nợ công ở Việt Nam.
Xét về bản chất kinh tế, khi Nhà nước mong muốn hoặc bắt buộc phải chi tiêu vượt quá
khả năng thu của mình (khoản thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác) thì phải vay vốn và điều
đó làm phát sinh nợ công. Như vậy, nợ công là hệ quả của việc Nhà nước tiến hành vay vốn và
Nhà nước phải có trách nhiệm hoàn trả. Do đó, nghiên cứu về nợ công phải bắt nguồn từ quan
niệm về việc Nhà nước đi vay là như thế nào.
NHÓM 4 – LỚP ĐÊM 4 K 22 5
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM GVHD: PGS. TS VŨ THỊ MINH HẰNG
Trong lĩnh vực tài chính công, một nguyên tắc quan trọng của ngân sách nhà nước được
các nhà kinh tế học cổ điển hết sức coi trọng và hiện nay vẫn được ghi nhận trong pháp luật ở
hầu hết các quốc gia, đó là nguyên tắc ngân sách thăng bằng. Theo nghĩa cổ điển, ngân sách
thăng bằng được hiểu là một ngân sách mà ở đó, số chi bằng với số thu. Về ý nghĩa kinh tế,
điều này giúp Nhà nước tiết kiệm chi tiêu hoang phí, còn về ý nghĩa chính trị, nguyên tắc này
sẽ giúp hạn chế tình trạng Chính phủ lạm thu thông qua việc quyết định các khoản thuế.
Các nhà kinh tế học cổ điển như A.Smith, D.Ricardo, J.B.Say là những người khởi xướng và
ủng hộ triệt để nguyên tắc này trong quản lý tài chính công. Và chính vì thế, các nhà kinh tế học
cổ điển không đồng tình với việc Nhà nước có thể vay nợ để chi tiêu.
Ngược lại với các nhà kinh tế học cổ điển, một nhà kinh tế học được đánh giá là có ảnh
hưởng mạnh mẽ nhất ở nửa đầu thế kỷ XX là John M.Keynes (1883-1946) và những người ủng
hộ mình (gọi là trường phái Keynes) lại cho rằng, trong nhiều trường hợp, đặc biệt là khi nền
kinh tế suy thoái dẫn đến việc đầu tư của tư nhân giảm thấp, thì Nhà nước cần ổn định đầu tư
bằng cách vay tiền (tức là cố ý tạo ra thâm hụt ngân sách) và tham gia vào các dự án đầu tư công
cộng như đường xá, cầu cống và trường học, cho đến khi nền kinh tế có mức đầu tư tốt trở lại.
Học thuyết của Keynes (cùng với sự chỉnh sửa nhất định từ những đóng góp cũng như phản đối
của một số nhà kinh tế học sau này là Milton Friedman và Paul Samuelson) được hầu hết các
Chính phủ áp dụng để vượt qua khủng hoảng và tình trạng trì trệ của nền kinh tế.
Ngược lại với Keynes, Milton Friedman cho rằng, việc sử dụng chính sách tài khóa nhằm
tăng chi tiêu và việc làm sẽ không có hiệu quả và dễ dẫn đến lạm phát trong thời suy thoái vì
người dân thường chi tiêu dựa trên kỳ vọng về thu nhập thường xuyên chứ không phải thu nhập
hiện tại và mọi chính sách đều có độ trễ nhất định. Thay vì thực hiện chính sách tài khóa thiếu

hụt, Nhà nước nên thực thi chính sách tiền tệ hiệu quả. Còn Paul Samuelson, đã có những bổ
sung quan trọng trong quan niệm về chính sách tài khóa của Keynes. Ông cho rằng, để kích
thích nền kinh tế vượt qua sự trì trệ, cần thiết phải thực hiện cả chính sách tài khóa mở rộng và
chính sách tiền tệ linh hoạt.
Hiện nay trên thế giới, mặc dù tài chính công vẫn dựa trên nguyên tắc ngân sách thăng bằng,
nhưng khái niệm thăng bằng không còn được hiểu một cách cứng nhắc như quan niệm của các
nhà kinh tế học cổ điển, mà đã có sự uyển chuyển hơn. Ví dụ, theo quy định của pháp luật Việt
Nam, các khoản chi thường xuyên không được vượt quá các khoản thu từ thuế, phí và lệ phí;
nguồn thu từ vay nợ chỉ để dành cho các mục tiêu phát triển.
Hầu hết các quốc gia thực hiện nền kinh tế thị trường đều có hoạt động vay nợ. Việc vay nợ
của Nhà nước thường được thực hiện dựa trên quan điểm của Keynes, nhưng có hai điều chỉnh
quan trọng: một là, việc cố ý thâm hụt ngân sách và bù đắp bằng các khoản vay không được thực
hiện vĩnh viễn, bởi lẽ xét về lý thuyết thì những tác động từ các khoản vay chỉ có ích trong ngắn
hạn còn về dài hạn lại có ảnh hưởng tiêu cực và do đó Nhà nước cần phải có giới hạn về mặt thời
gian trong việc sử dụng các khoản vay; và hai là, các khoản nợ công phải được kiểm soát kỹ
lưỡng nhằm đảm bảo hiệu quả sử dụng, đồng thời hạn chế những tác động không mong muốn từ
việc sử dụng các khoản vay. Việc quản lý nợ công hiệu quả sẽ giúp mục đích vay vốn đạt được
với chi phí thấp nhất, đồng thời đảm bảo khả năng trả nợ đúng hạn.
NHÓM 4 – LỚP ĐÊM 4 K 22 6
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM GVHD: PGS. TS VŨ THỊ MINH HẰNG
1.3 Các đặc trưng cơ bản của nợ công
Tuy có nhiều cách tiếp cận rộng hẹp khác nhau về nợ công, nhưng về cơ bản, nợ công có
những đặc trưng sau đây:
- Nợ công là khoản nợ ràng buộc trách nhiệm trả nợ của Nhà nước
Khác với các khoản nợ thông thường, nợ công được xác định là một khoản nợ mà Nhà nước
(bao gồm các cơ quan nhà nước có thẩm quyền) có trách nhiệm trả khoản nợ ấy. Trách nhiệm trả
nợ của Nhà nước được thể hiện dưới hai góc độ trực tiếp và gián tiếp. Trực tiếp được hiểu là cơ
quan nhà nước có thẩm quyền sẽ là người vay và do đó, cơ quan nhà nước ấy sẽ chịu trách nhiệm
trả nợ khoản vay (ví dụ: Chính phủ Việt Nam hoặc chính quyền địa phương). Gián tiếp là trong
trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền đứng ra bảo lãnh để một chủ thể trong nước vay nợ,

trong trường hợp bên vay không trả được nợ thì trách nhiệm trả nợ sẽ thuộc về cơ quan đứng ra
bảo lãnh (ví dụ: Chính phủ bảo lãnh để Ngân hàng Phát triển Việt Nam vay vốn nước ngoài).
- Nợ công được quản lý theo quy trình chặt chẽ với sự tham gia của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền
Việc quản lý nợ công đòi hỏi quy trình chặt chẽ nhằm đảm bảo hai mục đích: một là, đảm
bảo khả năng trả nợ của đơn vị sử dụng vốn vay và cao hơn nữa là đảm bảo cán cân thanh toán vĩ
mô và an ninh tài chính quốc gia; hai là, để đạt được những mục tiêu của quá trình sử dụng vốn.
Bên cạnh đó, việc quản lý nợ công một cách chặt chẽ còn có ý nghĩa quan trọng về mặt chính trị
và xã hội. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, nguyên tắc quản lý nợ công là Nhà nước quản
lý thống nhất, toàn diện nợ công từ việc huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay đến việc trả nợ để
đảm bảo hai mục tiêu cơ bản như đã nêu trên.
- Mục tiêu cao nhất trong việc huy động và sử dụng nợ công là phát triển kinh tế - xã hội vì
lợi ích chung
Nợ công được huy động và sử dụng không phải để thỏa mãn những lợi ích riêng của bất kỳ
cá nhân, tổ chức nào, mà vì lợi ích chung của đất nước. Xuất phát từ bản chất của Nhà nước là
thiết chế để phục vụ lợi ích chung của xã hội, Nhà nước là của dân, do dân và vì dân nên đương
nhiên các khoản nợ công được quyết định phải dựa trên lợi ích của nhân dân, mà cụ thể là để
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và phải coi đó là điều kiện quan trọng nhất.
1.4 Phân loại nợ công.
Có nhiều tiêu chí để phân loại nợ công, mỗi tiêu chí có một ý nghĩa khác nhau trong việc
quản lý và sử dụng nợ công.
Theo tiêu chí nguồn gốc địa lý của vốn vay thì nợ công gồm có hai loại: nợ trong nước và nợ
nước ngoài. Nợ trong nước là nợ công mà bên cho vay là cá nhân, tổ chức Việt Nam. Nợ nước
ngoài là nợ công mà bên cho vay là Chính phủ nước ngoài, vùng lãnh thổ, tổ chức tài chính quốc
tế, tổ chức và cá nhân nước ngoài18. Như vậy, theo pháp luật Việt Nam, nợ nước ngoài không
được hiểu là nợ mà bên cho vay là nước ngoài, mà là toàn bộ các khoản nợ công không phải là
nợ trong nước.
NHÓM 4 – LỚP ĐÊM 4 K 22 7
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM GVHD: PGS. TS VŨ THỊ MINH HẰNG
Việc phân loại nợ trong nước và nợ nước ngoài có ý nghĩa quan trọng trong quản lý nợ. Việc

phân loại này về mặt thông tin sẽ giúp xác định chính xác hơn tình hình cán cân thanh toán quốc
tế. Và ở một số khía cạnh, việc quản lý nợ nước ngoài còn nhằm đảm bảo an ninh tiền tệ của Nhà
nước Việt Nam, vì các khoản vay nước ngoài chủ yếu bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi hoặc các
phương tiện thanh toán quốc tế khác.
Theo phương thức huy động vốn, thì nợ công có hai loại là nợ công từ thỏa thuận trực tiếp và
nợ công từ công cụ nợ.
Nợ công từ thỏa thuận trực tiếp là khoản nợ công xuất phát từ những thỏa thuận vay trực
tiếp của cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cá nhân, tổ chức cho vay. Phương thức huy động
vốn này xuất phát từ những hợp đồng vay, hoặc ở tầm quốc gia là các hiệp định, thỏa thuận
giữa Nhà nước Việt Nam với bên nước ngoài.
Nợ công từ công cụ nợ là khoản nợ công xuất phát từ việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền
phát hành các công cụ nợ để vay vốn. Các công cụ nợ này có thời hạn ngắn hoặc dài, thường có
tính vô danh và khả năng chuyển nhượng trên thị trường tài chính.
Theo tính chất ưu đãi của khoản vay làm phát sinh nợ công thì nợ công có ba loại là nợ công
từ vốn vay ODA, nợ công từ vốn vay ưu đãi và nợ thương mại thông thường.
Theo trách nhiệm đối với chủ nợ thì nợ công được phân loại thành nợ công phải trả và nợ
công bảo lãnh. Nợ công phải trả là các khoản nợ mà Chính phủ, chính quyền địa phương có
nghĩa vụ trả nợ. Nợ công bảo lãnh là khoản nợ mà Chính phủ có trách nhiệm bảo lãnh cho người
vay nợ, nếu bên vay không trả được nợ thì Chính phủ sẽ có nghĩa vụ trả nợ.
Theo cấp quản lý nợ thì nợ công được phân loại thành nợ công của trung ương và nợ công
của chính quyền địa phương. Nợ công của trung ương là các khoản nợ của Chính phủ, nợ do
Chính phủ bảo lãnh. Nợ công của địa phương là khoản nợ công mà chính quyền địa phương là
bên vay nợ và có nghĩa vụ trực tiếp trả nợ. Theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước năm
2002 thì những khoản vay nợ của chính quyền địa phương được coi là nguồn thu ngân sách và
được đưa vào cân đối, nên về bản chất nợ công của địa phương được Chính phủ đảm bảo chi trả
thông qua khả năng bổ sung từ ngân sách trung ương.
1.5 Những tác động của nợ công.
Như trên đã phân tích, nợ công vừa có nhiều tác động tích cực nhưng cũng có một số tác
động tiêu cực. Nhận biết những tác động tích cực và tiêu cực nhằm phát huy mặt tích cực, hạn
chế mặt tiêu cực là điều hết sức cần thiết trong xây dựng và thực hiện pháp luật về quản lý nợ

công.
Những tác động tích cực chủ yếu của nợ công bao gồm:
- Nợ công làm gia tăng nguồn lực cho Nhà nước, từ đó tăng cường nguồn vốn để phát triển
cơ sở hạ tầng và tăng khả năng đầu tư đồng bộ của Nhà nước. Việt Nam đang trong giai
đoạn tăng tốc phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó
cơ sở hạ tầng là yếu tố có tính chất quyết định. Muốn phát triển cơ sở hạ tầng nhanh
chóng và đồng bộ, vốn là yếu tố quan trọng nhất. Với chính sách huy động nợ công hợp
NHÓM 4 – LỚP ĐÊM 4 K 22 8
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM GVHD: PGS. TS VŨ THỊ MINH HẰNG
lý, nhu cầu về vốn sẽ từng bước được giải quyết để đầu tư cơ sở hạ tầng, từ đó gia tăng
năng lực sản xuất cho nền kinh tế.
- Huy động nợ công góp phần tận dụng được nguồn tài chính nhàn rỗi trong dân cư. Một bộ
phận dân cư trong xã hội có các khoản tiết kiệm, thông qua việc Nhà nước vay nợ mà
những khoản tiền nhàn rỗi này được đưa vào sử dụng, đem lại hiệu quả kinh tế cho cả khu
vực công lẫn khu vực tư.
- Nợ công sẽ tận dụng được sự hỗ trợ từ nước ngoài và các tổ chức tài chính quốc tế. Tài
trợ quốc tế là một trong những hoạt động kinh tế - ngoại giao quan trọng của các nước
phát triển muốn gây ảnh hưởng đến các quốc gia nghèo, cũng như muốn hợp tác kinh tế
song phương. Nếu Việt Nam biết tận dụng tốt những cơ hội này, thì sẽ có thêm nhiều
nguồn vốn ưu đãi để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, trên cơ sở tôn trọng lợi ích nước bạn,
đồng thời giữ vững độc lập, chủ quyền và chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước.
Bên cạnh những tác động tích cực nêu trên, nợ công cũng gây ra những tác động tiêu cực
nhất định. Nợ công sẽ gây áp lực lên chính sách tiền tệ, đặc biệt là từ các khoản tài trợ ngoài
nước. Nếu kỷ luật tài chính của Nhà nước lỏng lẻo, nợ công sẽ tỏ ra kém hiệu quả và tình trạng
tham nhũng, lãng phí sẽ tràn lan nếu thiếu cơ chế giám sát chặt chẽ việc sử dụng và quản lý nợ
công.
1.6 Giới hạn an toàn của nợ công.
 Tổng quan về nợ công trên thế giới
Giới hạn nợ được cho là an toàn ở mỗi nước cũng khác nhau, không có công thức hay tỷ lệ
chung cho nợ chính phủ, nợ nước ngoài của quốc gia, cũng như nợ công của mọi nền kinh tế mà

tùy thuộc vào khả năng kinh tế, tài chính của từng nền kinh tế, đặc biệt là tùy thuộc vào hiệu quả
sử dụng vốn vay và khả năng trả nợ khi đến hạn. Khi nợ công tăng cao, vượt quá xa giới hạn
được coi là an toàn, nền kinh tế rất dễ bị tổn thương và chịu nhiều sức ép cả bên trong và bên
ngoài. Xung quanh diễn biến về cuộc khủng hoảng nợ công hiện nay với tâm chấn là Hy Lạp, có
thể rút ra một số điều:
Thứ nhất, nợ công không chỉ là vấn đề của những nước chậm hoặc đang phát triển. So khoản
nợ công với GDP, hiện nay, gánh trên vai gánh nặng nợ công lớn nhất là các nền kinh tế phát
triển.
Ví dụ: Khu vực đồng euro đang đứng trước những thử thách to lớn khi Hy Lạp phải viện đến
gói cứu trợ của EU và IMF để tránh rơi vào tình trạng vỡ nợ.
Vào ngày 02/06/2010, Bộ Tài chính Mỹ thông báo nợ công của Hoa Kỳ tính đến đầu tháng
sáu năm nay đã vượt quá kỷ lục 13 ngàn tỉ USD. Khoản công nợ này đã tăng khoảng 1.600 tỉ
USD so với năm ngoái, tăng hơn gấp đôi trong vòng 10 năm qua và chiếm tới 90% tổng sản
phẩm quốc nội (GDP) hàng năm của Mỹ.
Thứ hai, khi nợ công quá lớn, việc thắt chặt chi tiêu, thực hiện chính sách "thắt lưng buộc
bụng" để giảm thâm hụt ngân sách là điều kiện phải đáp ứng để được nhận sự hỗ trợ cần thiết từ
các tổ chức tín dụng quốc tế, thế nhưng, "thắt lưng buộc bụng" lại dẫn tới những cuộc biểu tình
phản đối của quần chúng, gây căng thẳng, bất ổn chính trị, xã hội, bởi những người nghèo, những
NHÓM 4 – LỚP ĐÊM 4 K 22 9
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM GVHD: PGS. TS VŨ THỊ MINH HẰNG
người yếu thế trong xã hội là những người bị tác động mạnh nhất từ chính sách cắt giảm phúc lợi,
cắt giảm chi tiêu của chính phủ. Chẳng hạn, để được nhận gói cứu trợ nhằm giải quyết khủng
hoảng nợ, Chính phủ Hy Lạp đã phải quyết định tăng nhiều loại thuế, từ thuế giá trị gia tăng đến
thuế thu nhập, thuế bất động sản; và đánh thuế vào nhiều sản phẩm như rượu, thuốc lá…, đồng
thời chấp nhận áp dụng các biện pháp cắt giảm chi tiêu mạnh tay.
Ví dụ: Cách đây mười một năm, năm 2001, Ác-hen-ti-na đã phải đối mặt với tình trạng rối
loạn cghiêm trọng do các làn sóng biểu tình khắp nơi phản ứng các biện pháp "thắt lưng buộc
bụng", để rồi Tổng thống Ác-hen-ti-na khi đó là ông Féc-nan-đô đơ la Rua đã phải từ chức, và 4
ngày sau đó, người kế nhiệm là A-đôn-phơ Rô-ri-get Saa phải tuyên bố tình trạng vỡ nợ quốc gia,
với khoản nợ 90 tỉ USD – mức nợ lớn nhất trong lịch sử đất nước này.

Thứ ba, trong thời điểm hiện nay, khi nền kinh tế toàn cầu mới thoát khỏi khủng hoảng, bắt
đầu có dấu hiệu phục hồi do kết quả của các gói kích thích kinh tế mà chính phủ các nước đã chi
ra trong những năm trước đây, thì việc cắt giảm chi tiêu, tăng thuế sẽ làm giảm đầu tư, kìm hãm
sự phục hồi của nền kinh tế, làm chậm tốc độ tăng trưởng, thậm chí có thể đẩy nền kinh tế vào
"khủng hoảng kép". Nghiêm trọng hơn, việc tung ra các gói kích thích kinh tế chính là một trong
những nguyên nhân làm tăng nợ công của các chính phủ, vậy nếu như khủng hoảng “tái xuất” thì
liệu các chính phủ có còn đủ khả năng xoay xở, cứu vãn nền kinh tế của mình? Vấn đề đặt ra cho
các chính phủ là phải chèo lái để giải quyết được thâm hụt ngân sách nhưng không đẩy nền kinh
tế trở lại tình trạng suy thoái, trong khi các biện pháp để giải quyết hai vấn đề này lại có tác động
không thuận chiều.
Thứ tư, khi nợ công liên tục tăng cao, nền kinh tế bị hạ bậc tín nhiệm theo báo cáo của các tổ
chức chuyên đi đánh giá tín nhiệm các công ty và quốc gia khác, niềm tin của người dân và giới
đầu tư bị lung lay, khi đó nền kinh tế dễ trở thành mục tiêu tấn công của các thế lực đầu cơ quốc
tế.
Ví dụ: đối với Hy Lạp, khi tổ chức xếp hạng tín dụng Standard & Poor’s hạ bậc tín nhiệm đối
với trái phiếu chính phủ của A-ten, các quỹ đầu tư lớn lập tức bán ra loại trái phiếu này, đồng
thời từ chối mua vào trong các đợt phát hành tiếp theo. Nếu chính phủ muốn huy động tiền từ thị
trường tài chính sẽ phải chấp nhận chi phí vốn cao hơn và sau đó, rơi vào vòng xoáy: tiếp tục bị
tụt bậc tín nhiệm. Việc đưa ra xếp hạng tín nhiệm trong thời điểm nhạy cảm, dễ tổn thương của
nền kinh tế có nguy cơ làm cho cuộc khủng hoảng thêm trầm trọng, có tác dụng như một "cú
huých", đẩy nền kinh tế lún sâu thêm vào khó khăn, bế tắc.
Thứ năm, việc căn cứ vào mức nợ công trên GDP để xác định tình trạng nợ công là hết sức
quan trọng, tuy nhiên, điều quan trọng không kém là phân tích "thực chất" nợ công. Đó là: nợ
chính phủ là vay nợ trong nước hay vay nợ nước ngoài; tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, hay
tình trạng "sức khỏe" nói chung của nền kinh tế; lượng dự trữ quốc gia…
Ví dụ: hiện nay, dư luận đang lo ngại liệu Nhật Bản có thể trở thành “một Hy Lạp thứ hai”,
thế nhưng, một số nhà phân tích, khi phân tích nợ công của Nhật Bản đã cho thấy có sự khác biệt
khá lớn giữa nợ công của nước này với nợ công của Hy Lạp, thể hiện ở chỗ, 95% trái phiếu chính
phủ của Nhật Bản do người dân nước này nắm giữ, trong khi 70% nợ chính phủ Hy Lạp do người
nước ngoài nắm giữ. Bên cạnh đó, Nhật còn tự chủ về tỷ giá hối đoái, dự trữ ngoại tệ của Nhật

cũng ở mức rất cao (theo con số mà Bộ Tài chính Nhật Bản công bố, tính đến cuối tháng 4-2010,
NHÓM 4 – LỚP ĐÊM 4 K 22 10
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM GVHD: PGS. TS VŨ THỊ MINH HẰNG
dự trữ quốc gia của Nhật là 1.046,873 tỉ USD). Do vậy, nền kinh tế Nhật Bản, mặc dù ngoài nợ
công cao còn đứng trước nhiều khó khăn khác nữa, nhưng vẫn được dự báo là khó có thể trở
thành mục tiêu tấn công của giới đầu cơ quốc tế.
Như vậy, việc đánh giá đúng nợ công và “thực chất” nợ công của một nền kinh tế, một quốc
gia là vô cùng quan trọng, đặc biệt trong những thời điểm nhạy cảm. Bởi lẽ, nếu chỉ chú trọng
vào con số tỷ lệ nợ công cao một cách thuần túy sẽ gây nên hiệu ứng tâm lý hoang mang, kích
động, thiếu tin tưởng, làm gia tăng căng thẳng xã hội, bị giới đầu cơ lợi dụng tấn công, dễ gây rối
loạn nền kinh tế, thậm chí dẫn nền kinh tế đến bên bờ vực phá sản. Ngược lại, nếu yên tâm với tỷ
lệ nợ công còn trong giới hạn an toàn, mà không phân tích cẩn trọng, chú ý đúng mức đến khoản
nợ đó được hình thành như thế nào, bằng cách nào, thực trạng nền kinh tế ra sao và khả năng trả
nợ thế nào…, cũng sẽ dễ đẩy nền kinh tế rơi vào vòng xoáy thâm hụt ngân sách – "thắt lưng buộc
bụng" – tác động tiêu cực đến tăng trưởng.
 Giới hạn nợ công ở Việt Nam
Hiện tại, theo khuyến cáo của một số chuyên gia kinh tế và kinh nghiệm của một số nước thì
nợ công Việt Nam vẫn đang nằm mức dưới giới hạn an toàn là 60% GDP. Tuy nhiên, tình hình
nợ công có xu hướng gia tăng, đặc biệt là nợ nước ngoài do chính sách tiền tệ, tín dụng trong
nước thắt chặt, huy động vốn trong nước khó khăn, đã khiến cho Chính phủ phải lo ngại. Mặc dù
vậy, không thể phủ nhận rằng Việt Nam đang cần vốn để tiến hành công nghiệp hóa và hiện dại
hóa, việc vay nợ nước ngoài là rất cần thiết. Song, vay mượn và sử dụng nguồn vốn vay mượn đó
như thế nào để có hiệu quả là vấn đề phải được chú trọng. Sử dụng vốn vay nợ công có hiệu quả
hay không là tùy thuộc vào những quyết định sáng suốt từ phía Chính phủ về việc cắt giảm đầu
tư ở những dự án kém hiệu quả, dồn vốn cho những dự án có hiệu quả để nâng cao chất lượng
đầu tư. Đầu tư kém hiệu quả sẽ dẫn đến việc phải đối mặt với những rủi ro, nguy hiểm của các
khoản nợ mà bài học của Hy Lạp là một minh chứng điển hình trong sử dụng nợ công. Việc đánh
giá tình hình kinh tế, sự phát triển của một quốc gia không thể chỉ dựa trên số vay nợ mà cần phải
xem xét đến chất lượng của việc sử dụng vốn vay cho các dự án đầu tư mới là vấn đề quan trọng.
Với cơ cấu nợ công chủ yếu là nợ dài hạn và hiện nay vẫn đủ khả năng trả nợ nên nợ công của

Việt Nam vẫn nằm trong ngưỡng an toàn. Nhưng do dư nợ hiện nay đã ở mức cao, xu thế được
vay nợ trung và dài hạn với lãi suất ưu đãi sẽ giảm dần, cùng với hiệu quả đầu tư hiện nay chưa
cao, nên cần thay đổi cơ cấu nguồn vốn, bảo đảm trả nợ đến hạn, giảm dần vay nợ và điều mấu
chốt nhất là phải tăng cường hiệu quả đầu tư, đảm bảo duy trì các chỉ số nợ ở trong giới hạn an
toàn, phù hợp với tiềm lực của đất nước.
CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
NHÓM 4 – LỚP ĐÊM 4 K 22 11
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM GVHD: PGS. TS VŨ THỊ MINH HẰNG
2.1 Tình hình sử dụng nợ công ở Việt Nam
Việt Nam mở cửa kinh tế được 25 năm và đã đạt được những bước phát triển vượt bậc. Chỉ
trong vòng 10 năm, GDP của Việt Nam đã tăng lên gấp 3 lần, từ 32,7 tỷ USD năm 2001 lên 102
tỷ USD năm 2010 (bảng 1). Tuy nhiên, Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước đang phát triển, quy
mô nền kinh tế của Việt Nam vẫn là nhỏ so với mặt bằng chung của thế giới; nền kinh tế phụ
thuộc nhiều vào xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp thô và công nghiệp nhẹ là chủ yếu. Do đó,
hiện tại và trong tương lai gần, việc tăng vay nợ chính phủ nói riêng và nợ công nói chung là
một nhu cầu tất yếu vì Việt Nam vẫn rất cần sự hỗ trợ về mặt tài chính (tức là vay nợ và viện trợ
phát triển chính thức) từ các tổ chức đơn phương, đa phương trên thế giới để phát triển nền kinh
tế hơn nữa.
2.1.1 Quy mô nợ công
Theo The Economist Intelligence Unit, nợ công của Việt Nam năm 2001 mới là 11,5 tỷ
USD, tương đương 36% GDP, bình quân mỗi người gánh số nợ công xấp xỉ 144 USD. Nhưng
tính đến hết năm 2010, nợ công đã tăng lên 55,2 tỷ USD, tương đương 54,3% GDP và hiện tại,
Việt Nam được xếp vào nhóm nước có mức nợ công trên trung bình. Như vậy, trong vòng 10
năm từ 2001 đến nay, quy mô nợ công đã tăng gấp gần 5 lần với tốc độ tăng trưởng nợ trên 15%
mỗi năm (Biểu đồ 1). Nếu tiếp tục với tốc độ này thì chỉ trong vòng 5 năm nữa, đến năm 2016,
nợ công của Việt Nam sẽ vượt quá 100% GDP như hai nước thành viên EU mới lâm vào khủng
hoảng nợ công gần đây là Hy Lạp (133,6%), Ailen (129,2%). Nợ công đạt trên 100% GDP là
một con số không nhỏ đối với một nền kinh tế đang phát triển và quy mô nhỏ, phụ thuộc nhiều
vào xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp thô và công nghiệp nhẹ như Việt Nam.
2.1.2 Cơ cấu nợ công

NHÓM 4 – LỚP ĐÊM 4 K 22 12
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM GVHD: PGS. TS VŨ THỊ MINH HẰNG
Theo số liệu trong bản tin nợ nước ngoài số 07 do Bộ Tài chính phát hành vào tháng
07/2011, nợ công tại Việt Nam năm 2010 ước tính là 55,2 tỷ USD (bảng 1), tương đương 54,3%
so với GDP Việt Nam. Tỷ lệ nợ công/GDP tại Việt Nam tăng khá đều đặn trong khoảng thời
gian từ năm 2006 đến năm 2010. Nếu như năm 2006, tỷ lệ nợ công/GDP là 45,9% thì đến năm
2010 tỷ lệ này đã là 54,3% (bảng số 2)
Theo khoản 2 Điều 1 Luật Quản lý nợ công của Việt Nam, nợ công bao gồm tất cả các
khoản nợ chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương. Cơ cấu nợ
công của Việt Nam hai năm 2009 và 2010 bao gồm nợ chính phủ chiếm lần lượt là 79,2% và
82,1% nợ công. Phần còn lại là nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương
(bảng số 3)
Bảng 1: Cơ cấu nợ công Việt Nam từ năm 2006 - 2010 (theo số liệu)
ĐVT: tỷ USD
Năm 2006 2007 2008 2009 2010
GDP 60.8 71.3 85.5 93.6 101.6
Nợ công 27.9 35.4 40.9 47.7 55.2
Nợ chính phủ 23.7 24.1 31.2 37.8 45.3
Nợ được chính phủ bảo lãnh 1.03 1.98 2.90 3.99 4.64
Nợ chính quyền địa phương 3.2 9.3 6.8 5.9 5.3
Nguồn: Bộ tài chính
Bảng 2: Cơ cấu nợ công Việt Nam từ năm 2006 - 2010 (tỷ lệ phần trăm)
Năm 2006 2007 2008 2009 2010
GDP 100% 100% 100% 100% 100%
Nợ công 45.9% 49.6% 47.8% 51.0% 54.3%
Nguồn: Bộ tài chính
Bảng 3: Cơ cấu nợ công Việt Nam từ năm 2006 - 2010 (tỷ lệ phần trăm)
Năm 2006 2007 2008 2009 2010
Nợ công 100% 100% 100% 100% 100%
Nợ chính phủ 84.9% 68.1% 76.3% 79.2% 82.1%

Nợ được chính phủ bảo lãnh 3.7% 5.6% 7.1% 8.4% 8.4%
NHÓM 4 – LỚP ĐÊM 4 K 22 13
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM GVHD: PGS. TS VŨ THỊ MINH HẰNG
Nợ chính quyền địa phương 11.4% 26.3% 16.6% 12.4% 9.5%
Nguồn: Bộ tài chính
Năm 2010, trong nợ chính phủ, nợ nước ngoài là 27,8 tỷ USD, tương đương 61,4%; nợ
trong nước là 17,5 tỷ USD, tương đương 38,6%. Trong nợ nước ngoài, ODA chiếm tỷ trọng lớn,
thường khoảng chiếm trên 80% tổng dư nợ nước ngoài.
Bảng 5: Cơ cấu nợ công Việt Nam từ năm 2006 - 2010 (theo số liệu)
ĐVT: tỷ USD
Năm 2006 2007 2008 2009 2010
Nợ chính phủ 23.7 24.1 31.2 37.8 45.3
Dư nợ nước ngoài của chính phủ 14.6 17.3 18.9 23.9 27.8
Dư nợ trong nước của chính phủ 9.1 6.8 12.3 13.9 17.5
Nguồn: Bộ tài chính
Bảng 6: Cơ cấu nợ công Việt Nam từ năm 2006 - 2010 (tỷ lệ phần trăm)
Năm 2006 2007 2008 2009 2010
Nợ chính phủ 100% 100% 100% 100% 100%
Dư nợ nước ngoài 61.6% 71.8% 60.6% 63.2% 61.4%
Dư nợ trong nước 38.4% 28.2% 39.4% 36.8% 38.6%
2.1.3 Tình hình sử dụng nợ công
Thông qua các chương trình đầu tư công, nợ công của Việt Nam được chuyển tải vào các dự
án đầu tư nhằm cải thiện cơ sở hạ tầng, tạo nền tảng cho sự phát triển kinh tế bền vững. Tuy
nhiên, tình hình sử dụng nợ công ở Việt Nam không đạt hiệu quả cao, thể hiện ở hai khía cạnh
sau:
Thứ nhất, tình trạng dự án, công trình thi công dở dang, chuyển tiếp, kéo dài, chậm tiến độ
vẫn chậm được khắc phục. Điều này cùng với sự thiếu kỷ luật tài chính trong đầu tư công và
trong hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước cũng như các tập đoàn lớn, dẫn đến đầu tư dàn
trải, lãng phí, thất thoát vốn đầu tư ở tất cả các khâu của quá trình quản lý dự án đầu tư.
NHÓM 4 – LỚP ĐÊM 4 K 22 14

TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM GVHD: PGS. TS VŨ THỊ MINH HẰNG
Thứ hai, hiệu quả đầu tư thấp, thể hiện qua chỉ số ICOR (Biểu đồ 2): Năm 2009, trong khi
tổng mức đầu tư toàn xã hội lên tới 42,2% GDP, thì tốc độ tăng trưởng lại chỉ đạt 5,2%. Chỉ số
ICOR năm 2009 đã tăng tới mức quá cao, trên 8 so với 6,6 của năm 2008. Điều này có nghĩa là,
nếu năm 2001 Việt Nam cần 5,24 đồng vốn để tạo ra được 1 đồng sản lượng, thì giờ đây cần
phải đầu tư thêm gần 3 đồng vốn nữa.
2.1.4 Tình hình trả nợ công
Từ năm 2006 đến nay, tình hình trả nợ công của Việt Nam không ổn định và hầu như không
có sự gia tăng đáng kể về giá trị, trung bình hàng năm Việt Nam dành ra trên 3,5% GDP để chi
trả nợ và viện trợ. Tỷ lệ trả nợ/tổng nợ công giảm dần qua các năm, từ 9,09% năm 2006 xuống
còn 6,53% năm 2010. Trong khi đó, quy mô của các khoản nợ công ngày càng tăng lên với tốc
độ chóng mặt với gần 20%/năm; mặt khác, tình hình sử dụng nợ công ở Việt Nam còn đang tồn
tại nhiều bất cập như chậm trễ trong giải ngân và sự kém hiệu quả trong sử dụng vốn vay vào
các dự án đầu tư. Điều này tác động tiêu cực tới khả năng trả nợ của Việt Nam trong tương lai.
NHÓM 4 – LỚP ĐÊM 4 K 22 15
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM GVHD: PGS. TS VŨ THỊ MINH HẰNG
Tình hình trả nợ nước ngoài của chính phủ được thể hiện tại bảng số 7. Từ năm 2006 đến
năm 2010, nợ nước ngoài đã tăng từ 14,6 tỷ USD lên đến 27,8 tỷ USD, tương ứng tăng 90%. Tỷ
lệ trả nợ/ tổng nợ nước ngoài tăng dần qua các năm, từ 2,98% năm 2006 lên 3,80% năm 2010.
Tuy nhiên, con số tuyệt đối cho thấy việc trả nợ nước ngoài của Việt Nam là khá thấp. Hơn nữa,
việc chậm trễ trong tiến độ giải ngân vốn và kém hiệu quả trong sử dụng vốn vay đã làm lãi và
phí phát sinh trong kỳ tăng cao.
Bảng 7: Tình hình trả nợ nước ngoài của chính phủ
Đvt: triệu USD
Năm 2006 2007 2008 2009 2010
Nợ nước ngoài
14,600 17,300 18,900 23,900 27,800
Tổng trả nợ trong kỳ 764.5 885.9 1,103.9 1,290.9 1,672.3
+ Tổng trả gốc trong kỳ 435.5 504.8 679.5 806.6 1,056.1
+ Tổng trả lãi và phí trong kỳ 329.0 381.1 424.4 484.4 616.2

2.2 Tình hình quản lý nợ công của Việt Nam
Hiệu quả quản lý nợ công được đánh giá trên hai khía cạnh: khía cạnh kỹ thuật và khía cạnh
thể chế. Khía cạnh kỹ thuật tập trung vào định mức nợ cần thiết và đảm bảo các điều khoản và
điểu kiện vay mượn sao cho phù hợp với khả năng trả nợ trong tương lai. Khía cạnh kỹ thuật
gồm hai phần chính: quản lý quy mô, cơ cấu nợ và giám sát, duy trì thông tin nợ. Khía cạnh thể
chế liên quan đến khía cạnh luật pháp, sắp xếp thể chế, chức năng nhiệm vụ mà các cơ quan quản
lý nợ phải đảm nhiệm.
2.2.1 Theo khía cạnh kỹ thuật
2.2.1.1 Nhu cầu vay mượn
Nhu cầu vay mượn của nước ta chủ yếu là để bù đắp ba cân đối lớn của nền kinh tế: cân đối
giữa tiết kiệm và đầu tư, cân đối giữa thu và chi ngân sách, cân đối giữa xuất khẩu và nhập khẩu,
rộng hơn là cân đối trong cán cân thanh toán.
Cân đối giữa tiết kiệm và đầu tư
Tiết kiệm ròng của Việt Nam đang ở mức âm rất lớn. Thực ra Việt Nam không phải là nước
có tỷ lệ tiết kiệm thấp, theo Viện Khoa học Xã hội Việt Nam – VASS (2011), tỷ lệ tiết kiệm của
Việt Nam còn cao hơn mức trung bình chung của các nước có thu nhập thấp (khoảng 21%), các
nước có thu nhập trung bình thấp (khoảng 23%) và bình quân chung của thế giới (khoảng 25%).
Thủ phạm chính là đầu tư nội địa ở mức quá cao.
NHÓM 4 – LỚP ĐÊM 4 K 22 16
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM GVHD: PGS. TS VŨ THỊ MINH HẰNG
Việt Nam đang duy trì tăng trưởng bằng cách dựa vào vốn đầu tư nhưng hiệu quả đầu tư
thiếu hiệu quả. Vì vậy, tổng đầu tư toàn xã hội liên tục tăng và duy trì ở mức cao để đạt mục tiêu
về tăng trưởng.
Tiết kiệm ròng nội địa bao gồm tiết kiệm ròng khu vực Chính phủ và tiết kiệm ròng khu vực
tư nhân (các hộ gia đình và doanh nghiệp - bao gồm cả DNNN). Thâm hụt ngân sách (tiết kiệm
ròng của Chính phủ mang dấu âm) ở mức cao và dai dẳng trong thời gian dài để phục vụ cho mô
hình tăng trưởng đã đóng góp lớn vào tỉ lệ tiết kiệm nội địa thấp.
Tuy nhiên, đóng vai trò quan trọng không kém, và được “hỗ trợ” từ chính sách vĩ mô và
những vấn đề nội tại của khu vực tài chính ngân hàng (cũng là hệ quả của mô hình tăng trưởng
và cấu trúc kinh tế), là chênh lệch đầu tư - tiết kiệm (tiết kiệm ròng âm) của khu vực tư nhân gia

tăng cao.
Số liệu công bố về tiết kiệm ròng khu vực tư nhân không có sẵn, nhưng có thể quan sát hành
vi của hộ gia đình và khu vực doanh nghiệp trong các năm qua để đánh giá.
Đối với khu vực hộ gia đình, do thị trường tài chính còn non trẻ, yếu kém, chứa đựng nhiều
rủi ro trong bối cảnh lạm phát và bất ổn vĩ mô gia tăng trong những năm gần đây được coi là một
nguyên nhân khiến tiết kiệm ròng của khu vực này không lớn.
Đặc biệt từ năm 2007, khi Việt Nam đón nhận một nguồn vốn lớn từ nước ngoài, nhưng
NHNN chưa có kinh nghiệm trong trung hoà dòng tiền tăng đột biến này đã dẫn đến lạm phát và
bong bóng trên thị trường tài sản như thị trường chứng khoán và bất động sản. Điều này đã kích
thích tiêu dùng thái quá đối với một bộ phận người tiêu dùng, đặc biệt ở khu vực thành thị.
Trong khi đó, khu vực doanh nghiệp lại có mức đầu tư rất lớn so với tiết kiệm - có thể nhìn
thấy qua quy mô vay nợ tín dụng tăng cao trong những năm qua.
Nếu không thay đổi mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế, trong đó có tái cơ cấu hệ
thống tài chính ngân hàng thì tình trạng nhập siêu và tiết kiệm ròng âm khó có thể giải quyết triệt
để và bền vững.
Cân đối trong cán cân thanh toán
Nhìn tổng quát, cán cân thanh toán tổng thể của Việt Nam năm 2009 bị thâm hụt 8,8 tỷ
USD, năm 2010 bị thâm hụt 3,07 tỷ USD. Nhờ vậy, dự trữ ngoại tệ của Việt Nam đã tăng so với
2 năm trước. Đây là một trong những chuyển biến tích cực trong thời điểm khó khăn vừa qua.
Đạt được kết quả trên, có 2 nhóm nguyên nhân chủ yếu.
+ Nguyên nhân thứ nhất: Trước hết là sự mất cân đối của cán cân thương mại đã giảm so với
các năm trước. Nhập siêu hàng hoá đã giảm cả về kim ngạch tuyệt đối, cả về tỷ lệ nhập siêu so
với xuất khẩu.
Về kim ngạch tuyệt đối, nhập siêu năm 2011 thấp nhất trong 5 năm qua. Nhập siêu năm
2011 đã giảm 2,61 tỷ USD, hay giảm 20,7% so với năm 2010. Tỷ lệ nhập siêu so với xuất khẩu
của năm 2011 ở mức thấp nhất trong 10 năm qua (tính từ năm 2002).
Tỷ lệ nhập siêu năm 2011 đã thấp hơn mục tiêu theo Nghị quyết của Quốc hội (18%) và thấp
hơn mục tiêu theo Nghị quyết 11 của Chính phủ (16%).
+ Nhóm nguyên nhân thứ hai là lượng ngoại tệ vào Việt Nam đạt kết quả khá và lượng ngoại
tệ thu hút được từ doanh nghiệp và người dân cũng đạt khá.

NHÓM 4 – LỚP ĐÊM 4 K 22 17
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM GVHD: PGS. TS VŨ THỊ MINH HẰNG
Cụ thể là nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thực hiện năm 2011 ước cao hơn mức
11 tỷ USD của năm 2010. Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) giải ngân ước đạt 3,65
tỷ USD trong năm nay, cao hơn năm 2010 (2,94 tỷ USD).
Nguồn ngoại tệ thu được từ khách quốc tế có thể đạt khoảng 5,2 tỷ USD, cao hơn kỷ lục
4,45 tỷ USD của năm 2010. Lượng kiều hối ước đạt khoảng 9 tỷ USD, vượt kỷ lục 8,26 tỷ USD
của năm 2010. Bên cạnh đó, hồi giữa năm, lượng ngoại tệ mua được ở trong nước cũng đạt khá.
Thông qua thu chi ngân sách nhà nước
Tính theo nguồn thu, thu ngân sách chưa đa dạng và không vững chắc do hiệu quả kinh tế
chưa cao, tình trạng nợ đọng thuế còn lớn, chủ yếu thu từ dầu thô. Thu từ khối doanh nghiệp
quốc doanh không cao, số địa phương tự cân đối tài chính và đóng góp vào cho ngân sách trung
ương ít. Các sắc thuế như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng, thuế nhập khẩu
không còn thu nhiều như trước nên Việt Nam phải tìm kiếm nguồn thu khác để bảo đảm cân đối
ngân sách.
Chi đầu tư phát triển đang nổi lên thành vấn đề nhức nhối vì đầu tư thiếu tập trung, hiệu quả
đầu tư thấp. Chi đầu tư xây dựng cơ bản lãng phí ngay từ khâu thiết kế, lựa chọn dự án đẩu tư,
còn chú trọng đến số lượng mà chưa chú ý đến chất lượng nên hiệu quả đầu tư không cao. Ngoài
ra ngân sách còn chi cấp vốn lưu động, gia hạn nợ, đảo nợ… cho các doanh nghiệp nhà nước.
Chi trả lãi vay và nợ vay trong nước và ngoài nước mỗi năm một tăng là xu hướng đáng lo
ngại và làm thâm hụt ngân sách ngày càng trầm trọng. Khoản chi trả lãi tính trực tiếp trong chi
ngân sách, các khoản chi trả nợ gốc trong nước, chi trả nợ gốc vay ngoài nước thì lại được tài trợ
bằng khoản vay mới, điều này có thể gây nợ nần chồng chất trong tương lai.
Hiệu quả hoạt động của các khoản chi ngân sách còn hạn chế, chưa có một cơ chế cụ thể để
giám sát kết quả chi tiêu công cũng như thu nhập thông tin phản hồi, yếu kém về tính minh bạch
và tính chịu trách nhiệm, gây tham nhũng và lãng phí.
2.2.1.2 Khả năng trả nợ
Tại bản thảo nghiên cứu Nợ công Việt Nam - Quá khứ và Tương lai do Ủy ban Kinh tế Quốc
hội và Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) thực hiện có ghi nhận, số liệu ước tính
đến hết năm 2011, tổng nợ công của Việt Nam vào khoảng 58,7% GDP. Trong đó, nợ công nước

ngoài và nợ công trong nước lần lượt là 31,1% và 17,6% GDP.
Nợ nước ngoài của Việt Nam hiện đang nằm trong phạm vi giới hạn an toàn. Tuy nhiên,
những vấn đề đáng lo ngại về nợ nước ngoài đang tăng lên do quy mô nợ, lãi suất, nghĩa vụ trả
nợ… đang tăng nhanh. Do vậy, phải sớm tìm ra những giải pháp hữu hiệu để không những sử
dụng hiệu quả vốn vay, mà còn tránh gánh nặng nợ nần cho thế hệ tương lai, nhất là qua những
"điển hình" khủng hoảng nợ công ở châu Âu.
“Theo tiêu chuẩn đánh giá của Liên minh châu Âu (EU) về tình trạng tài chính quốc gia, tỷ
lệ thâm hụt tài chính dưới 3% GDP và tỷ lệ nợ công chiếm dưới 60% GDP được coi là bình
NHÓM 4 – LỚP ĐÊM 4 K 22 18
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM GVHD: PGS. TS VŨ THỊ MINH HẰNG
thường.”. Vậy nợ nước ngoài của Việt Nam không có dấu hiệu nguy hiểm và do đó Việt Nam
không được hưởng những trợ giúp từ sáng kiến HIPCs.
Những đánh giá trên chỉ dừng lại ở mức nhận dạng các dấu hiệu của các Tổ chức tài chính
chứ chưa nghiên cứu sâu về khía cạnh thể chế và kỹ thuật của việc quản lý nợ nước ngoài của
Việt Nam. Vì vậy cần có nghiên cứu sâu hơn, chi tiết hơn và đưa ra giải pháp phù hợp.
2.2.1.3 Nguồn vốn tài trợ
Mặc dù việc thu hút nguồn vốn ưu đãi còn một số tồn tại nhưng Việt Nam đã khai thác khác
hiệu quả lợi thế của một nước thu nhập thấp trong việc sử dụng nguồn tài trợ. Nguồn vốn ưu đãi
đang được ưu tiên thu hút và sử dụng trong danh mục vay nợ của Việt Nam vì đây là nguồn vốn
rẻ, lãi suất thấp, thời gian ân hạn dài so với vốn vay thương mại.
Theo chủ trương của Quyết định 958 của Chính phủ: cơ cấu danh mục nợ, điều kiện vay, sử
dụng vốn vay cần điều chỉnh theo hướng tăng tỉ lệ nợ trong nước, giảm dần sự phụ thuộc vào nợ
nước ngoài của quốc gia, đảm bảo khả năng trả nợ, cơ cấu tỉ lệ dư nợ nước ngoài của Chính phủ
giảm xuống dưới 50%. Tập trung huy động tối đa nguồn vốn vay viện trợ phát triển (ODA), thận
trọng với nguồn vốn vay thương mại nước ngoài.
2.2.1.4 Danh mục nợ
Hầu như toàn bộ nợ dài hạn của Việt Nam là nợ của chính phủ và nợ được chính phủ bảo
lãnh và nợ chính quyền địa phương. Cơ cấu vốn vay nước ngoài trong khu vực doanh nghiệp
chưa thật sự hợp lý. Vốn vay nước ngoài chủ yếu tập trung vào khu vực Chính phủ, khu vực tư
nhân chiếm một tỷ trọng nhỏ, mặc dù, khả năng hấp thụ vốn cũng như hiệu quả kinh tế của khu

vực chính phủ là thấp nhất. Nợ thương mại nước ngoài của khu vực tư nhân chưa được khuyến
khích, chưa tương xứng với năng lực vay nợ của khu vực này trong giai đoạn hiện nay cũng như
trong tiến trình đổi mới kinh tế thời gian tới.
Điều đáng lo ngại là hiện nay Ngân hàng nhà nước vẫn chưa kiểm soát được khối lượng nợ
tư nhân trên thực tế do đó chưa đánh giá được tình hình sử dụng vốn vay nước ngoài của các
doanh nghiệp. Thực tế này chứa đựng những nguy cơ tiềm ẩn đến an toàn tài chính quốc gia Việt
Nam.
2.2.1.5 Hoạt động giám sát và duy trì thông tin nợ
Việt Nam chưa có hệ thống giám sát hoàn trả hiệu quả với đầy đủ các chi tiết giám sát và
chưa thực hiện đúng quy trình giám sát, vẫn chưa xây dựng một cơ sở dữ liệu nợ đầy đủ. Nếu
tình trạng yếu kém của hệ thống thông tin đặc biệt là thông tin nợ còn kéo dài chẳng những sẽ
gây khó khăn cho việc phân tích hiện trạng nợ và hoạch định chính sách mà còn làm giảm niềm
tin của nhà đầu tư do họ e ngại một chính sách tài chính thiếu minh bạch sẽ chứa đựng trong đó
nhiều rủi ro. Chính vì vậy, việc cải thiện hệ thống thông tin nợ là việc khá cấp bách.
NHÓM 4 – LỚP ĐÊM 4 K 22 19
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM GVHD: PGS. TS VŨ THỊ MINH HẰNG
2.2.2 Theo khía cạnh thể chế
2.2.2.1 Khung pháp lý của quản lý nợ
Những nghị định của chính phủ về quản lý vay và trả nợ nước ngoài như nghị định 58/CP
ngày 30/08/1993, nghị định 87/CP ngày 05/08/1997, nghị định 90/1998/NĐ-CP ngày
07/11/1998, nghị định 17/2001/NĐ-CP ngày 04/05/2001…nhưng khung pháp lý quản lý nợ vẫn
còn nhiều tồn tại.
Chưa có văn bản pháp quy quy định việc công bố thông tin về mục tiêu, chính sách quản lý
nợ, các văn bản thiếu tính nhất quán, khái niệm chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, các giai đoạn
của chu kỳ vay mượn thì chưa có cơ sở pháp lý để điều chỉnh.
2.2.2.2 Thể chế quản lý nợ
Việt Nam chưa có một cơ quan chịu trách nhiệm tổng hợp, tiếp cận với hệ thống quản lý nợ
để thu thập những thông tin cần thiết từ các cơ quan khác nhau để báo cáo kịp thời và chính xác
tình hình nợ quốc gia. Sự phân công phối hợp và cung cấp thông tin giữa các bộ ngành chưa chặt
chẽ và rõ ràng. Hoạt động còn chồng chéo, chức năng quản lý nợ thì dàn trải cho nhiều cơ quan

cùng trực tiếp tham gia, nhiều cơ quan ngoài quản lý nợ còn đảm nhận những chức năng khác
dẫn đến kết quả công việc không cao. Bộ máy nhân sự chưa đáp ứng được yêu cầu.
2.2.2.3 Việc thực thi chức năng nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nợ
Chưa thiết kế được chính sách vay mượn, định hướng vay mượn ưu tiên tài trợ đầu tư bằng
nguồn vốn ưu đãi, các khoản vay không ưu đãi sẽ được quyết định tùy trường hợp, chưa xây
dựng được hệ thống chỉ tiêu cảnh báo nợ, chưa bao quát hết các lĩnh vực cần quản lý như nợ
công, bảo lãnh chính phủ, nợ tư nhân.
2.3 Những thành tựu và hạn chế trong công tác quản lý nợ công ở Việt Nam
2.3.1 Thành tựu
- Thông qua hoạt động vay nợ, Chính phủ và chính quyền địa phương các cấp đã huy động
được nguồn vốn khá lớn cho đầu tư phát triển, đồng thời vẫn đảm bảo quản lý nợ trong
các giới hạn an toàn.
- Hoạt động huy động vốn trong nước của Chính phủ thông qua phát hành trái phiếu, tín
phiếu Chính phủ cũng đã giúp hình thành thị trường trái phiếu Chính phủ trong nước, một
thành tố khá quan trọng để hình thành thị trường tài chính hoàn chỉnh. Trái phiếu Chính
phủ được niêm yết và giao dịch trên thị trường chứng khoán đã góp phần làm tăng tính
thanh khoản của thị trường trái phiếu Chính phủ nói riêng và phát triển thị trường vốn
trong nước nói chung.
NHÓM 4 – LỚP ĐÊM 4 K 22 20
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM GVHD: PGS. TS VŨ THỊ MINH HẰNG
- Trong công tác quản lý nợ công, các văn bản pháp lý ngày càng được hoàn thiện, đồng bộ
hơn và tiến gần đến các chuẩn mực và thông lệ quốc tế, nhất là trong lĩnh vực quản lý nợ
nước ngoài. Chính phủ đã thực hiện nguyên tắc thống nhất quản lý nợ Chính phủ, nợ
quốc gia trên cơ sở phân công, xác định trách nhiệm rõ ràng hơn giữa các cơ quan quản
lý.
- Công tác trả nợ Chính phủ trong và ngoài nước luôn được thực hiện đầy đủ, đúng hạn,
không để xảy ra nợ quá hạn như những năm trước. Việc tích cực đàm phán xử lý các
khoản nợ cũ với các chủ nợ nước ngoài (thuộc Câu lạc bộ Paris, Câu lạc bộ London) đã
giúp giảm đáng kể nghĩa vụ nợ của Việt Nam.
2.3.2 Hạn chế

- Thị trường trái phiếu trong nước còn phát triển hạn chế. Thực tế cho thấy tỷ lệ huy động
vốn thông qua trái phiếu còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế và tiềm
năng trong xã hội.
- Công tác huy động vốn ODA còn thụ động, nhiều khoản vay ODA còn gắn với những
ràng buộc làm tăng chi phí đầu vào. Nhiều dự án phải cùng lúc thực hiện hai hệ thống thủ
tục: một thủ tục giải quyết vấn đề nội bộ trong nước, một thủ tục với nhà tài trợ, gia tăng
chi phí chuẩn bị dự án, chi phí đầu tư do lạm phát trong thời gian bị kéo dài.
- Phân bổ vốn vay còn dàn trải, chủ trương huy động và sử dụng vốn cần gắn kết hơn với
ngưỡng an toàn nợ.
- Hiệu quả sử dụng vốn vay chưa cao, chưa được quản lý giám sát chặt chẽ.
- Các chỉ tiêu nợ trong tầm kiểm soát nhưng một số rủi ro thị trường cần được tính toán đo
lường chính xác hơn, rủi ro tín dụng chưa được phản ánh trong phí cho vay lại và phí bảo
lãnh của Chính phủ.
- Cơ chế cảnh báo sớm còn hạn chế.
- Quyền hạn quản lý của các cơ quan còn chồng chéo, năng lực cán bộ cần được cải thiện.
- Chính phủ chưa có chính sách đối với nợ công, có sự nhầm lẫn giữa chính sách và nguyên
tắc quản lý nợ. Chính sách nợ công là một trong những kim chỉ nam quan trọng để tăng
cường hiệu quả của quản lý nợ công, do đó cần được quy định cụ thể, nhất quán hơn.
- Chưa có quy định về chiến lược nợ dẫn đến chưa minh bạch được chủ trương và quan
điểm của Nhà nước đối với các nhà tài trợ và đối với hoạt động quản lý, sử dụng hiểu quả
nợ công.
- Nhầm lẫn giữa chức năng quản lý nhà nước và chức năng giám sát. Chức năng quản lý
nhà nước thể hiện bởi khả năng cho phép, cấm đoán, xử phạt. Chức năng giám sát là việc
đánh giá, phân tích và đưa ra khuyến nghị nên nó không cần mang yếu tố quản lý nhà
nước.
- Hoạt động quản lý nợ công ở địa phương không minh bạch, ngân sách địa phương được
phép ghi các khoản huy động vốn như là nguồn thu ngân sách chứ không phải là để bù
đắp bội chi ngân sách.
NHÓM 4 – LỚP ĐÊM 4 K 22 21
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM GVHD: PGS. TS VŨ THỊ MINH HẰNG

CHƯƠNG 3: CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM
3.1 Hoàn thiện pháp chế quản lý nợ công
Hoàn thiện pháp luật về quản lý nợ công
- Cần sửa đổi khái niệm về nợ công. Theo đó, nợ công không chỉ bao gồm nợ Chính phủ,
nợ chính quyền địa phương, nợ do Chính phủ bảo lãnh mà còn bao gồm nợ của Ngân
hàng Phát triển Việt Nam và nợ của doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu 100% vốn hoặc
giữ vốn chi phối. Tuy nhiên, để hạn chế sự chồng chéo trong thống kê (ví dụ: nợ doanh
nghiệp nhà nước cũng là nợ Chính phủ bảo lãnh…) thì cần xây dựng và ban hành quy chế
thống kê và thông tin về nợ công sao cho khoa học, chính xác và hợp lý. Điều này là hết
sức quan trọng trong quản lý nhà nước về nợ công cũng như hoạch định chính sách đối
với nợ công.
- Cần bổ sung các quy định về chính sách nợ công cũng như chiến lược nợ công. Về chính
sách nợ công, cần nêu rõ cơ quan quyết định chính sách, nội dung cơ bản của chính sách
là gì và chính sách đó được xây dựng dựa trên những cơ sở khoa học nào. Cần bổ sung
quy định để định nghĩa chiến lược nợ theo những khuyến nghị của các chuyên gia WB và
IMF, đồng thời phù hợp với điều kiện của nền kinh tế Việt Nam hiện nay.
- Cần phân tách rõ chức năng quản lý nhà nước về nợ công với giám sát nợ công. Đối với
hoạt động giám sát nợ công, cần quy định rõ các cơ quan có thẩm quyền giám sát, nội
dung và phương thức giám sát nhằm đảm bảo cho hoạt động giám sát diễn ra hiệu quả.
Hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý nợ công, hiện đại hóa và nâng cao hiệu quả hoạt
động của các cơ quan quản lý nợ công
- Chuyên nghiệp hoá, hiện đại hoá bộ máy tổ chức, hoàn thiện quy chế hoạt động. Nâng
cao năng lực quản lý nợ thông qua hình thức đào tạo mới và đào tạo lại cán bộ quản lý nợ
có đủ đức, đủ tài. Trong những năm gần đây, trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý nợ tại
các bộ, ngành và ban quản lý dự án tuy được cải thiện nhưng vẫn cần phải thường xuyên
cập nhật kiến thức nâng cao trình độ để đáp ứng với yêu cầu công tác. Lực lượng cán bộ
quản lý nợ của hầu hết các cơ quan có liên quan còn mỏng và kiến thức quản lý còn nhiều
điểm yếu dẫn đến hiệu quả quản lý chưa cao, đặc biệt ở các địa phương. Do vậy, cần tăng
cường tổ chức các hội thảo, tọa đàm, mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cán bộ làm
công tác quản lý nợ nước ngoài một cách đồng bộ, đáp ứng yêu cầu thực tế như các kỹ

năng giám sát số liệu và phân tích nợ, quản lý hành chính, nâng cao hiểu biết về pháp
luật, ứng dụng công nghệ tin học, sử dụng ngoại ngữ thành thạo , từ đó nâng cao lòng
yêu nghề, tạo động lực quản lý nợ nước ngoài hiệu quả, tránh được hiện tượng bòn rút,
hối lộ. Ngoài ra, Chính phủ nên tạo điều kiện cho cán bộ đi khảo sát, thực tập nghiệp vụ
NHÓM 4 – LỚP ĐÊM 4 K 22 22
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM GVHD: PGS. TS VŨ THỊ MINH HẰNG
để tiếp thu kinh nghiệm tại các nước có nhiều thành công trong công tác quản lý nợ nước
ngoài.
- Nâng cao tinh thần trách nhiệm của các cán bộ quản lý. Cần có một chế tài nghiêm khắc
với những cán bộ quản lý nợ công khi họ mắc những sai phạm. Tổ chức kiểm điểm và xử
lý nghiêm túc các sai phạm của tập thể và cá nhân có liên quan.
- Trang bị các công cụ, thiết bị hiện đại phục vụ công tác ghi chép nợ; tính toán chi phí và
rủi ro; đánh giá bền vững nợ; các công cụ theo dõi cập nhật thị trường. Hiện đại hóa quy
trình thu thập, tổng hợp, phân tích cơ cấu nợ để đáp ứng yêu cầu quản lý nợ tiên tiến. Xây
dựng những cơ chế phối hợp trong việc quản lý thông tin nợ quốc gia, tăng cường đầu tư
cung cấp đầy đủ những phương tiện, thiết bị nhằm phục vụ cho đội ngũ cán bộ hoàn
thành tốt nhiệm vụ, thường xuyên cập nhật các phương pháp thu thập, tổng hợp, phân tích
cơ cấu nợ một cách tiên tiến mang tính chính xác cao cũng như phù hợp với điều kiện đất
nước để có thể đưa ra những con số phản ánh đúng thực trạng của nợ nước ngoài cho các
cấp lãnh đạo có thể có những quyết định đúng đắn.
3.2 Đổi mới đầu tư công hướng tới mục tiêu bền vững tài khóa
Nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn vay
- Kiểm soát chặt chẽ tốc độ tăng và hiệu quả sử dụng nợ công, trên cơ sở kiểm soát thâm
hụt ngân sách hợp lý và có chiến lược cụ thể về huy động và sử dụng hiệu quả. Tiếp tục
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay. Huy động, sử dụng vốn vay đáp ứng các mục tiêu và
nguyên tắc quản lý nợ; Vay cho ngân sách phải kiểm soát chặt chẽ đảm bảo bù đắp bội
chi ngân sách Nhà nước không quá 5% GDP; Rà soát danh mục dự án sử dụng vốn trái
phiếu Chính phủ, vay lại vốn vay nước ngoài và bảo lãnh; Nâng cao chất lượng công tác
thẩm định, đấu thầu; Tăng cường theo dõi, giám sát và dự báo thị trường. Tránh việc vay
nợ quá nhiều, đầu tư công quá lớn và quá dàn trải. Do vậy, đối với các dự án đầu tư dài

hạn bằng vốn vay ODA ở Việt Nam cần được giám sát chặt chẽ về điều kiện vay nợ, hiệu
quả đầu tư, khả năng trả nợ.
Thay đổi cơ cấu nợ công
- Có phương án huy động nguồn lực trong nước mà không phải tìm đến các nguồn nước
ngoài. Việt Nam thực sự nên thay đổi cơ cấu nợ công theo hướng tăng tỷ trọng nợ trong
nước nhiều hơn nữa. Để thay đổi cơ cấu nợ công, Chính phủ Việt Nam cần làm những
công việc sau đây:
+ Tăng cường phát hành trái phiếu chính phủ trong nước. Nâng cao chất lượng các đợt
đấu thầu mua trái phiếu chính phủ, chính phủ nên đưa ra một mức lãi suất phù hợp hơn
với lãi suất thị trường và yêu cầu của nhà đầu tư.
+ Phát triển thị trường chứng khoán một cách bền vững. Đây là thị trường hỗ trợ tốt cho
việc huy động nguồn vốn trong nước của Chính phủ.
Tái cấu trúc đầu tư công
NHÓM 4 – LỚP ĐÊM 4 K 22 23
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM GVHD: PGS. TS VŨ THỊ MINH HẰNG
- Thực hiện có hiệu quả việc tái cấu trúc đầu tư công. Phát huy vai trò định hướng của đầu
tư công trong phát triển kinh tế - xã hội, thu hút các nguồn lực khác. Từng bước điều
chỉnh cơ cấu đầu tư theo hướng giảm dần tỷ trọng đầu tư công trong tổng đầu tư xã hội,
nhất là đầu tư từ nguồn vốn NSNN. Ưu tiên sử dụng vốn NSNN tập trung đầu tư các dự
án lớn, quan trọng quốc gia, đặc biệt là hạ tầng giao thông, hạ tầng đô thị quy mô lớn, dự
án có tính chiến lược quốc gia và vùng kinh tế Nguồn vốn vay nước ngoài của DNNN
có bảo lãnh của Chính phủ cần tập trung cho các dự án trọng điểm trong sản xuất kinh
doanh có tính hiệu quả và tính khả thi cao.
- Thực hiện rà soát, đánh giá thực trạng và kết quả cụ thể của công tác thực hiện quy hoạch
một số ngành then chốt, các vùng kinh tế để có quy hoạch tổng thể, đồng bộ về ngành,
lĩnh vực và vùng miền. Trên cơ sở đó, đưa ra một số danh mục dự án đầu tư quan trọng
trên phạm vi cả nước để làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch đầu tư trung và dài hạn và
đảm bảo việc thực hiện trên thực tế được gắn với kế hoạch này. Đồng thời, phải tăng
cường kỷ cương trong việc thực hiện quy hoạch, dự án.
- Hình thành các tiêu chí xác định các ưu tiên ngân sách cũng như xây dựng hệ thống tiêu

chí đánh giá hiệu quả chi NSNN cho các dự án đầu tư. Trên cơ sở đó thực hiện phân loại
các nhiệm vụ chi theo thứ tự ưu tiên gắn với các định hướng phát triển trong từng lĩnh
vực, từng vùng, miền. Xây dựng kế hoạch tài chính trung hạn và kế hoạch chi tiêu trung
hạn, bảo đảm việc phân bổ nguồn lực hàng năm định hướng vào các mục tiêu kinh tế - xã
hội trong trung và dài hạn, tăng cường tính tiên đoán, chủ động, tính hệ thống trong phân
bổ nguồn lực.
- Sửa đổi các quy chế về phân cấp đầu tư, quy định rõ về quyền quyết định đầu tư của từng
cấp gắn với quyền phân bổ nguồn lực và cân đối vốn. Thực hiện bảo đảm nguyên tắc chỉ
quyết định đầu tư khi dự án có đủ thủ tục theo quy định, xác định rõ nguồn vốn và khả
năng cân đối nguồn vốn ở từng cấp ngân sách. Nghiên cứu hình thành cơ chế mở cho tất
cả các địa phương trong thu hút các nguồn lực cho phát triển phù hợp với quy hoạch,
năng lực cũng như đặc điểm của từng địa phương cùng với việc hoàn thiện các các cơ chế
giám sát, bảo đảm sự phù hợp trong định hướng phát triển của địa phương với định hướng
phát triển của từng vùng, miền.
- Thực hiện tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước. Thực hiện tái cấu trúc các tập đoàn, tổng
công ty nhà nước, định vị lại vai trò của khu vực này trong nền kinh tế, xác định rõ vai trò
chủ sở hữu của nhà nước, lành mạnh hóa năng lực tài chính của các DNNN, qua đó góp
phần lành mạnh hóa năng lực tài chính của nhà nước. Thực hiện đẩy nhanh quá trình cổ
phần hóa, giảm bớt số lượng doanh nghiệp mà Nhà nước cần nắm giữ cổ phần chi phối
trên cơ sở thực hiện rà soát lại ngành, nghề kinh doanh. Kiên quyết khắc phục tình trạng
các DNNN đầu tư ra các ngành mà không phải ngành nghề chính.
3.3 Nâng cao hiệu quả công tác quản lý nợ công, bảo đảm an toàn nợ công
Thiết lập ngưỡng an toàn nợ công, duy trì giới hạn nợ ở mức an toàn, đảm bảo an ninh
tài chính quốc gia
NHÓM 4 – LỚP ĐÊM 4 K 22 24
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ - NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM GVHD: PGS. TS VŨ THỊ MINH HẰNG
- Đảm bảo tính bền vững về quy mô và tốc độ tăng trưởng của nợ công, có khả năng thanh
toán trong nhiều tình huống khác nhau và hạn chế rủi ro, chi phí. Muốn vậy, cần thiết lập
ngưỡng an toàn nợ công; đồng thời thường xuyên đánh giá các rủi ro phát sinh từ các
khoản vay nợ Chính phủ trong mối liên hệ với GDP, thu ngân sách nhà nước, tổng kim

ngạch xuất khẩu, cán cân thương mại, dự trữ ngoại hối, dự trữ tài chính, quỹ tích lũy để
trả nợ…
- Bảo đảm kỷ luật tài khóa, an ninh, an toàn tài chính. Từng bước giảm dần mức bội chi
NSNN theo lộ trình xác định trước với các bước đi thích hợp, bảo đảm cân đối giữa mục
tiêu bảo đảm tổng vốn đầu tư toàn xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững nhưng
vẫn lành mạnh hóa được tình hình tài khóa. Trong điều hành ngân sách hàng năm cần ưu
tiên sử dụng số tăng thu so với dự toán để giảm bội chi ngân sách hoặc dành để trả nợ
trước hạn.
- Tăng cường sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và tiền tệ, bảo đảm việc thực hiện các
chính sách này được gắn với các mục tiêu và định hướng thống nhất. Cụ thể là nâng cao
sự phối hợp và trao đổi thông tin giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa ngay từ
khâu xây dựng và hoạch định chính sách. Thiết lập cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các bộ,
ngành trong điều hành chính sách kinh tế vĩ mô, trong việc giám sát và duy trì các cân đối
lớn của nền kinh tế; ứng phó hiệu quả với những tác động bất lợi đối với nền kinh tế.
Củng cố năng lực tổ chức thực hiện, đánh giá tác động và dự báo chính sách tài chính.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, thông tin chính sách. Hình thành hệ thống thu nhận
thông tin phản hồi về các chính sách, cơ chế tài chính từ người dân và doanh nghiệp để
khắc phục kịp thời những bất cập và hạn chế của chính sách và quá trình thực hiện chính
sách.
- Đổi mới phương thức và cách thức giám sát tài chính vĩ mô thông qua việc thiết lập hệ
thống cảnh báo sớm về tài chính - tiền tệ để kịp thời cảnh báo những nguy cơ làm mất an
ninh trong hệ thống tài chính trên cả ba cấp độ: quốc gia, ngành và doanh nghiệp. Hoàn
thiện cơ sở thông tin dữ liệu và hệ thống hóa các chỉ tiêu thu thập thông tin, phân tích và
xử lý các dữ liệu kinh tế - tài chính vĩ mô để phục vụ cho công tác hoạch định chính sách
tài chính và tiền tệ. Xây dựng và ứng dụng các mô hình phân tích và dự báo kinh tế - tài
chính vĩ mô.
- Tổ chức thực hiện trả nợ đầy đủ, đúng hạn, không để xảy ra tình trạng nợ quá hạn, mất
kiểm soát. Muốn vậy, cần phải kiểm soát thường xuyên và nghiêm ngặt luồng vốn vào
nước ta, nhất là các khoản vay thương mại. Xử lý dứt điểm nguồn vốn vay bị chi tiêu lãng
phí, thất thoát, sử dụng sai mục đích, không đạt hiệu quả; gạt bỏ dự án rủi ro cao, không

có điều kiện thu hồi vốn , chú trọng biện pháp giảm chi phí vốn vay. Đảm bảo cân đối
giữa vốn vay và trả nợ, giữa huy động vốn vay nước ngoài với vốn vay trong nước (vốn
vay trong nước dưới hình thức phát hành trái phiếu chính phủ, công trái quốc gia, tín
phiếu kho bạc và vay nợ nước ngoài dưới hình thức ODA, vay thương mại, phát hành trái
phiếu chính phủ trên thị trường quốc tế). Về lâu dài, điều chỉnh cơ cấu dư nợ của Chính
phủ theo hướng giảm dần sự phụ thuộc vào vay nợ nước ngoài, tăng tỷ lệ nợ trong nước,
khuyến khích tiết kiệm và đầu tư nhiều hơn.
NHÓM 4 – LỚP ĐÊM 4 K 22 25

×