Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Đầu tư công tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (494.48 KB, 38 trang )

Tiểu luận môn Tài chính tiền tệ GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng
MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ CÔNG 3
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ CÔNG TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ NĂM
2000 ĐẾN NAY 10
2.4.1.Một số vấn đề cơ bản 26
2.4.2.Hạn chế trong quản lý đầu tư công 28
a. Năng lực điều hành quản lý đầu tư công của nhà nước 28
b. Hệ thống quản lý đầu tư công: 29
c. Cơ chế quản lý nợ nước ngoài: 30
e. Khả năng đánh giá tình hình nợ nước ngoài 31
f. Khung pháp lý chưa hoàn thiện đối với việc áp dụng các hình thức của đầu tư công ở Việt
Nam 32
CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ CÔNG TẠI VIỆT NAM
33
LỜI KẾT 37
LỜI MỞ ĐẦU
1. Vấn đề nghiên cứu
Công cuộc đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế đã mang lại nhiều cơ hội phát triển
cũng như thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam. Trong quá trình này, đầu tư công
có một ý nghĩa quan trọng, đóng vai trò tạo nền tảng vật chất kỹ thuật quan trọng cho
đất nước, là “cú huých” đối với một số ngành và vùng trọng điểm, đồng thời thúc đẩy
thực hiện các chính sách phúc lợi xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng.
Nhóm 16 – Lớp Ngân hàng - đêm 4 – K22 1
Tiểu luận môn Tài chính tiền tệ GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng
Mặc dù có đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội, song đầu tư công
vẫn còn nhiều vấn đề cần được giải quyết. Trong những năm qua, việc chuyển từ mô
hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường đòi hỏi phải thay đổi một
cách căn bản cách thức quyết định, đối tượng mà Nhà nước phải đầu tư và phương


thức tiến hành đầu tư. Những thay đổi này tuy đã diễn ra, song chưa thực sự phù hợp
với thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và vẫn mang nhiều đặc tính của cơ
chế bao cấp và nguyên tắc “xin – cho” trong quy trình quyết định và phân phối vốn
đầu tư. Hiệu quả thấp trong đầu tư công đã được nói đến rất nhiều trên các phương tiện
thông tin đại chúng, trong các phiên chất vấn tại các kỳ họp Quốc hội, trong các cuộc
hội thảo, diễn đàn. Không ít hiện tượng tiêu cực trong lĩnh vực đầu tư công diễn ra rất
nghiêm trọng và gây ra mối quan ngại về tính hiệu quả của đầu tư công như lãng phí,
tham nhũng, đầu tư dàn trải, đầu tư không đúng mục tiêu… Tất cả những vấn đề này
bắt nguồn cả từ thể chế phân bổ và quản lý đầu tư công chưa hoàn thiện, lẫn từ sự yếu
kém của cơ quan quản lý.
Trong thời kỳ tới, nền kinh tế Việt Nam phải chuyển từ mô hình tăng trưởng theo
chiều rộng sang phát triển chủ yếu theo chiều sâu. Mặt khác, việc tham gia ngày càng
sâu và rộng hơn vào các quan hệ kinh tế quốc tế, sự mở cửa thị trường đầu tư theo các
hiệp định quốc tế đã ký kết (WTO, AFTA, CAFTA, song phương) tạo ra môi trường
và thị trường đầu tư khác hẳn so với trước đây. Việc nghiên cứu chính sách đầu tư
công của Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, là
nhiệm vụ có ý nghĩa cả về lý thuyết lẫn thực tiễn. Nghiên cứu, tổng kết và đánh giá
thực tiễn đầu tư công trong hơn 12 năm qua là công việc cần thết để thấy được những
điểm yếu, rút ra những bài học và đề xuất cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính
sách đầu tư công và hoàn thiện cơ chế quản lý nhằm đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh
tế. Đây là lý do nhóm chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài “Đầu tư công tại Việt
Nam – Thực trạng và giải pháp”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đầu tư công đóng vai trò rất quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước nên việc nghiên cứu, đánh giá tình hình đầu tư công, hiệu quả đầu
tư công để từ đó đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư công, góp phần thực
hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội là điều rất cần thiết. Do đó, chúng tôi đã
Nhóm 16 – Lớp Ngân hàng - đêm 4 – K22 2
Tiểu luận môn Tài chính tiền tệ GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng
chọn thực hiện đề tài này nhằm đưa ra cái nhìn tổng quan, những phân tích, đánh

giá về thực trạng đầu tư công tại Việt Nam giai đoạn 2000 đến nay; từ đó đưa ra
những kiến nghị, giải pháp nhằm tiếp tục phát huy những thành tựu đã đạt được,
khắc phục những hạn chế yếu kém còn tồn tại và không ngừng nâng cao hiệu quả
đầu tư công, góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
3. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được tiến hành nghiên cứu theo phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích,
đánh giá thông qua sử dụng các số liệu phản ánh thực tế đầu tư công tại Việt Nam
được công bố từ Tổng cục thống kê, các trang điện tử của Nhà nước, chính phủ và
tham khảo bài viết của các nhà kinh tế.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động đầu tư công tại Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: hoạt động đầu tư công là một phạm trù rộng, bao gồm
nhiều nội dung và có nhiều nhân tố liên quan. Nhóm nghiên cứu chủ yếu tập
trung vào việc tìm hiểu các yếu tố về nguồn vốn đầu tư công, sử dụng vốn đầu
tư công và hiệu quả kinh tế của đầu tư công.
5. Nội dung nghiên cứu
Nội dung đề tài gồm có 3 chương:
- Chương I. Tổng quan về đầu tư công.
- Chương II. Thực trạng đầu tư công tại Việt Nam .
- Chương III. Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư công tại Việt Nam.
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ CÔNG
1.1. Khái niệm đầu tư công
1.1.1 Khái niệm đầu tư
Theo cách hiểu thông thường nhất trong xã hội, đầu tư là việc bỏ vốn ra bằng các
tài sản hữu hình (tiền, nhà xưởng, máy móc, ) hoặc vô hình (phát minh, sáng chế,
thương hiệu, ) để kinh doanh nhằm đạt được lợi ích nào đó. Còn theo kinh tế học vĩ
mô thì đầu tư được hiểu là tăng vốn tư bản nhằm tăng cường sức sản xuất trong tương
lai. Có nghĩa là, đầu tư là việc bỏ tư bản, bỏ vốn vào hoạt động nào đó để đạt được
Nhóm 16 – Lớp Ngân hàng - đêm 4 – K22 3
Tiểu luận môn Tài chính tiền tệ GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng

mục đích kinh tế, là hoạt động mang lại lợi nhuận cho chủ đầu tư. Đầu tư còn được gọi
là hình thành tư bản hoặc tích lũy tư bản. Chỉ có tăng tư bản làm tăng năng lực sản
xuất vật chất mới được tính là đầu tư, còn tăng tư bản trong lĩnh vực tài chính tiền tệ
và kinh doanh bất động sản không được coi là đầu tư.
1.1.2 Khái niệm đầu tư công
Việc gia tăng tư bản tư nhân được gọi là đầu tư tư nhân, còn gia tăng tư bản xã
hội được gọi là đầu tư công. Việc làm gia tăng tư bản xã hội thuộc chức năng của
Chính phủ, vì vậy đầu tư công thường được đồng nhất với đầu tư mà Chính phủ thực
hiện. Ở Việt Nam, thuật ngữ “đầu tư công” được sử dụng từ sau khi nhà nước chuyển
sang nền kinh tế thị trường.
Theo thống kê hiện nay, đầu tư công ở nước ta bao gồm:
- Đầu tư từ ngân sách (phân chia cho các Bộ, ngành trung ương và các địa
phương).
- Đầu tư theo các chương trình hỗ trợ có mục tiêu (thường là các chương trình
mục tiêu trung và ngắn hạn) được thông qua trong kế hoạch ngân sách hằng
năm.
- Tín dụng đầu tư (vốn cho vay) của nhà nước có mức độ ưu đãi nhất định.
- Đầu tư của các DNNN mà phần vốn quan trọng của doanh nghiệp có nguồn gốc
từ ngân sách nhà nước.
Để có một khái niệm thống nhất về đầu tư công, Dự thảo Luật đầu tư công của Việt
Nam đang đề nghị áp dụng khái niệm sau: “Đầu tư công là việc sử dụng nguồn vốn
nhà nước để đầu tư vào các chương trình, dự án phục vụ phát triển kinh tế - xã hội,
không nhằm mục đích kinh doanh”.
Theo cách hiểu này thì lĩnh vực đầu tư công sẽ bao gồm:
- Chương trình mục tiêu, dự án phát triển kết cấu hạ tầng - kĩ thuật, kinh tế, xã
hội, an ninh, quốc phòng; các dự án đầu tư không có điều kiện xã hội hóa thuộc
các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục, đào tạo và các lĩnh vực
khác,
- Chương trình mục tiêu, dự án phục vụ hoạt động của các cơ quan nhà nước,
đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính trị - xã hội, kể cả việc mua sắm, sữa chữa các

tài sản cố định của các tổ chức này,
Nhóm 16 – Lớp Ngân hàng - đêm 4 – K22 4
Tiểu luận môn Tài chính tiền tệ GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng
- Các dự án đầu tư của cộng đồng dân cư, tổ chức chính trị - xã hội được hỗ trợ
tư vốn nhà nước theo qui định của pháp luật,
- Chương trình mục tiêu, dự án đầu tư công khác theo quyết định của Chính phủ.
Tuy nhiên, theo quan niệm này thì đầu tư nhằm mục đích kinh doanh của doanh
nghiệp thuộc sở hữu nhà nước không nằm trong đầu tư công, như vậy là không hoàn
toàn chính xác vì DNNN có nguồn vốn chủ yếu và quan trọng từ ngân sách nhà nước,
do đó không thể coi đó là đầu tư tư nhân được.
Cách hiểu phổ biến, dể hiểu, phản ánh được đúng bản chất của đầu tư công và thể
hiện được đầu tư công là đối tượng của chính sách đầu tư của nhà nước hiện nay có thể
được định nghĩa một cách đơn giản như sau: Đầu tư công bao gồm các khoản đầu tư
do Chính phủ và các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước thực hiện. Trong
quan niệm này, đầu tư công được xét từ góc độ sở hữu của nguồn vốn dùng để đầu tư.
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư công
- Năng lực của cơ quan nhà nước: đây là yếu tố mang tính quyết định đến kết quả
đạt được của dự án. Để dự án đạt được kết quả mong muốn các cơ quan thực hiện
đầu tư công và quản lý đầu tư công cần phải đảm bảo nguồn lực về số lượng và
chất lượng (sự hiểu biết, trình độ, năng lực). Phải đảm bảo những người phụ trách
chính trong dự án có trình độ, năng lực quản lý đáp ứng yêu cầu của dự án.
- Nguồn vốn đầu tư công: tại Việt Nam vốn đầu tư công bao gồm 5 nguồn chủ yếu
sau:
 Vốn từ nguồn thu trong nước của Ngân sách Nhà nước phân cho các Bộ ngành
và phân cho các địa phương. Vốn đầu tư này hướng vào đầu tư không hoàn lại
cho các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, phát triển nguồn nhân
lực, bảo vệ môi trường mà không có khả năng thu hồi vốn hoặc thu hồi vốn rất
chậm, cũng như các khoản đầu tư duy tu, bảo dưỡng các công trình công cộng.
Đối với một số dự án có thể tạo được nguồn thu khi đi vào hoạt động nhưng
không có khả năng hoàn trả đầy đủ vốn đầu tư thì nguồn vốn từ Ngân sách Nhà

nước chỉ đóng vai trò hỗ trợ một phần cho đầu tư
 Vốn ngân sách đầu tư theo các chương trình hỗ trợ có mục tiêu cũng được
thông qua trong kế hoạch ngân sách hằng năm, nhưng về chủ trương được
quyết định cho thời kỳ dài hơn 1 năm, thường từ 3 đến 5 năm. Đây cũng là vốn
không hoàn lại.
Nhóm 16 – Lớp Ngân hàng - đêm 4 – K22 5
Tiểu luận môn Tài chính tiền tệ GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng
Có hai loại chương trình quốc gia:
+ Chương trình mục tiêu quốc gia là những chương trình xuyên suốt các
ngành và địa phương, nhằm những mục tiêu được xác định cụ thể;
+ Chương trình ngành là chương trình thực hiện trong một số ngành hay vùng
cụ thể.
 Tín dụng đầu tư (vốn cho vay) của Nhà nước có mức độ ưu đãi nhất định.
Chính phủ cho vay theo lãi suất ưu đãi bằng nguồn vốn tự có hoặc vốn vay
ODA và cho vay lại để đầu tư vào các dự án thuộc lĩnh vực được ưu tiên trong
kế hoạch Nhà nước đối với một số doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.
Về mặt nguyên tắc, chủ đầu tư được vay vốn tín dụng Nhà nước có trách nhiệm
hoàn trả vốn và lãi đúng thời hạn do Nhà nước qui định và theo hợp đồng vay
vốn. Trên thực tế, do những nguyên nhân khách quan bất khả kháng và cả do
chủ quan, các đơn vị vay không có khả năng hoàn trả, thì trong không ít trường
hợp nhà nước phải hoãn nợ, khoanh nợ, cho vay đảo nợ và xóa nợ.
 Vốn vay trong nước và ngoài nước để dùng cho đầu tư.
+ Vốn đầu tư vay trong nước là từ trái phiếu chính phủ. Đây là vốn Nhà nước
vay của nhân dân để đầu tư cho phát triển theo một số mục tiêu nhất định
(như giáo dục, năng lượng ) và sẽ hoàn trả từ ngân sách sau một thời hạn
nhất định. Hiện có 6 loại trái phiếu Chính phủ: tín phiếu kho bạc, trái phiếu
kho bạc, trái phiếu ngoại tệ và công trái xây dựng Tổ quốc, trái phiếu đầu tư
và trái phiếu công trình trung ương.
+ Vốn ngoài nước là khoản tiền mà Chính phủ vay nợ, nhận viện trợ từ bên
ngoài thông qua kênh hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) để tập trung đầu tư

những dự án đã được cam kết với các nhà tài trợ. Trên thực tế, phần vốn
viện trợ không hoàn lại được đưa vào ngân sách để đầu tư, còn phần ODA
cho các doanh nghiệp vay lại thì đưa vào nguồn tín dụng đầu tư phát triển
của Nhà nước. Như vậy, vốn vay ODA hiện nay không được tính trong thu
ngân sách, nhưng khi hoàn trả thì lại tính là chi ngân sách; đồng thời khoản
chi đầu tư không nằm trong cân đối ngân sách của năm giải ngân và chi tiêu
vốn vay, mà chỉ được đưa vào cân đối ngân sách vào năm trả nợ lãi và gốc.
Nhóm 16 – Lớp Ngân hàng - đêm 4 – K22 6
Tiểu luận môn Tài chính tiền tệ GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng
Cách tính toán cân đối tài chính công như vậy không theo thông lệ. Tỷ lệ
thâm hụt ngân sách hiện báo cáo chính thức là thấp hơn nhiều so với trường
hợp đưa các khoản đầu tư bằng vốn vay ODA và vay trong nước vào hạch
toán ngân sách quốc gia.
 Đầu tư của các doanh nghiệp Nhà nước gồm vốn của doanh nghiệp mà phần
quan trọng có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước (vốn của các doanh nghiệp
Nhà nước từ khấu hao cơ bản để lại; từ lợi nhuận sau thuế; từ đất đai, nhà
xưởng còn chưa sử dụng đến, được huy động đầu tư phát triển sản xuất kinh
doanh) và vốn doanh nghiệp vay với sự bảo lãnh của Chính phủ.
- Thủ tục hành chính và các quy định pháp luật: việc thực hiện đầu tư công liên
quan đến một loạt các quy chế và thủ tục hành chính trong lĩnh vực đầu tư xây
dựng cơ bản, quản lý ngân sách. Về nguyên tắc, các thủ tục hành chính cần tạo ra
trình tự ổn định và rành mạch cho hoạt động quản lý tối ưu, tạo điều kiện cho việc
thực hiện dự án được thuận lợi. Các quy định pháp luật cần rõ ràng, minh bạch, có
cách hiểu thống nhất, bảo đảm định hướng hoạt động của dự án công đáp ứng đúng
mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội.
- Bối cảnh kinh tế - xã hội: các yếu tố kinh tế, xã hội, chính trị, tiến bộ khoa học
kỹ thuật,… đều có ảnh hưởng đến hoạt động, kết quả đạt được của dự án đầu tư.
Những biến động này đôi khi dẫn đến việc điều chỉnh dự án, hoặc ngưng không
thực hiện dự án nữa do không phù hợp.
- Công luận và các nhóm có liên quan: sự ủng hộ hay phản đối của công luận có

tác động không nhỏ đến việc thực hiện dự án. Các dự án công bị người dân phản
đối, ngăn chặn ngay từ khâu giải tỏa mặt bằng sẽ gặp rất nhiều khó khăn về sau.
Bên cạnh đó, mỗi dự án được thực hiện sẽ mang lại lợi ích và bất lợi cho những
nhóm đối tượng khác nhau và do vậy cũng sẽ nhận được sự ủng hộ và phản đối của
các nhóm đối tượng tương ứng.
1.3. Vai trò của đầu tư công đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
Như đã nói ở trên, đầu tư công có nghĩa là nhà nước sử dụng nguồn vốn thuộc sở
hữu của mình để tiến hành đầu tư nhằm đạt được các mục tiêu nhất định. Vậy một câu
hỏi được đặt ra là tại sao nhà nước lại phải dùng đến nguồn vốn của mình mà không để
cho khu vực tư nhân thực hiện các chương trình, dự án đó, có khả năng sẽ đạt hiệu quả
cao hơn trong đầu tư. Bởi trong thực tiễn đời sống kinh tế xã hội, có nhiều lĩnh vực,
Nhóm 16 – Lớp Ngân hàng - đêm 4 – K22 7
Tiểu luận môn Tài chính tiền tệ GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng
nhiều dự án mà tư nhân không đủ khả năng hoặc đủ khả năng mà không muốn thực
hiện.
Vai trò của đầu tư công được thể hiện trên ba khía cạnh quan trọng sau:
- Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế dựa trên việc đầu tư cho các công trình hạ tầng, cơ sở
vật chất – kĩ thuật tối thiểu chung cho xã hội. Đây cũng đồng thời tạo những điều
kiện thiết yếu cho các thành phần kinh tế ngoài nhà nước đầu tư và phát triển.
Ngoài ra, đầu tư công giúp cho có cơ hội được tập trung nguồn lực cao, hoặc Trung
ương có thể điều tiết được một cách hợp lý các nguồn đầu tư, tránh tình trạng cục
bộ, địa phương, nơi thừa nơi thiếu.
- Góp phần làm giảm khoảng cách giàu nghèo, giảm bất bình đằng, bất công trong
xã hội bằng các chương trình, dự án kinh tế hỗ trợ các vùng khó khăn, vùng sâu
vùng xa, các dân tộc thiểu số (chương trình 134, 135 của Chính phủ, các chương
trình xóa đói giảm nghèo, ), nâng cao và ổn định đời sống người dân.
- Đảm bảo ổn định và không ngừng tăng cường quốc phòng, an ninh. Các công trình,
dự án về an ninh quốc phòng đều không mang lại hiệu quả kinh tế trước mắt nên
khu vực tư nhân không thể và cũng không muốn đầu tư vào lĩnh vực này. Nhưng
đó lại là cơ sở quan trọng của đất nước để bảo vệ Tổ quốc, giữ vững độc lập, chủ

quyền quốc gia.
1.4. Chỉ số đo lường hiệu quả kinh tế của đầu tư công
Hệ số Incremental Capital-Output Ratio (viết tắt là hệ số ICOR) là một trong
những chỉ tiêu được sử dụng khá phổ biến để đo lường hiệu quả kinh tế của vốn đầu tư
nói chung và vốn đầu tư công nói riêng. Hệ số này cho biết muốn tăng thêm một đơn
vị sản lượng trong một thời kỳ nhất định cần phải bỏ ra thêm bao nhiêu đơn vị vốn đầu
tư trong kỳ đó. ICOR còn được gọi là hệ số sử dụng vốn, hay hệ số đầu tư tăng trưởng,
hay tỷ lệ vốn trên sản lượng tăng thêm. Do sự gia tăng sản lượng chịu tác động bởi
tổng hòa nhiều nhân tố nên khi tính hệ số ICOR cần dựa trên các giả định:
- Mọi nhân tố khác đều không thay đổi.
- Chỉ có gia tăng vốn mới dẫn đến gia tăng sản lượng.
Vì vốn đầu tư và đặc biệt là vốn đầu tư công thường có độ trễ và phải sau một
thời gian mới phát huy tác dụng nên hệ số ICOR thường được tính toán trong một giai
đoạn và được xác định bởi công thức:
Y
K
k
Δ
Δ
=
Nhóm 16 – Lớp Ngân hàng - đêm 4 – K22 8
Tiểu luận môn Tài chính tiền tệ GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng
Trong đó:
- k : hệ số ICOR
- ∆K :mức thay đổi vốn sản xuất (∆K = K
t
– K
t-1
)
- ∆Y :là mức thay đổi về kết quả sản xuất và ∆Y = Yt – Yt-1

- t :là năm nghiên cứu.
- t-1 :là năm mốc nghiên cứu.
Công thức tính khá đơn giản nhưng thành phần cấu tạo công thức thì rất khó xác định:
- Yếu tố ∆Y được xác định từ niên giám thống kê hàng năm.
- Mức tăng lên của vốn sản xuất ∆K. Để tính được ∆K chúng ta phải hiểu rõ nội dung
của chỉ tiêu vốn sản xuất. Vốn sản xuất là giá trị các tư liệu vật chất tham gia trực
tiếp vào quá trình sản xuất và dịch vụ của nền kinh tế, bao gồm vốn cố định (công
xưởng, nhà máy, trụ sở cơ quan, trang thiết bị, cơ sở hạ tầng) và vốn lưu động (có
cả hàng tồn kho) và các vốn đầu tư khác. Vốn sản xuất được đánh giá ở góc độ
hiện vật, thể hiện năng lực sản xuất, chỉ tính phần hiện còn tức là phần được tích
luỹ lại và chỉ tính những tài sản có liên quan trực tiếp đến sản xuất và dịch vụ. Như
vậy ∆K là phần tăng thêm trong năm bằng số vốn có đến cuối năm trừ đi số vốn có
đầu năm hay bằng phần đầu tư mới, sửa chữa, đưa thiết bị vào sản xuất, trừ đi
phần giảm trong năm bao gồm khấu hao tài sản cố định, hư hỏng, Trong thực tế
việc xác định vốn có đến cuối mỗi năm là rất khó khăn (bởi phải kiểm kê đánh giá
lại tài sản hàng năm) hoặc xác định số tăng và giảm trong năm rất khó đặc biệt là
phần tài sản đưa vào sản xuất hoặc hư hỏng nên thông thường ta thay ∆K bằng chỉ
tiêu vốn đầu tư phát triển được xem đó là số vốn tăng lên trong năm và được xác
định dựa trên số liệu công bố trong niêm giám thống kê hàng năm.
Nhóm 16 – Lớp Ngân hàng - đêm 4 – K22 9
Tiểu luận môn Tài chính tiền tệ GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ CÔNG TẠI VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN TỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY
2.1. Bối cảnh kinh tế - xã hội Việt Nam giai đoạn từ năm 2000 đến nay
Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam trong hơn 12 năm trở lại đây đã có những
biến đổi theo chiều hướng tích cực một cách rõ rệt, đời sống nhân dân đuợc cải thiện.
Bằng chứng là nền kinh tế liên tục tăng trưởng với tốc độ tăng tương đối khá, GDP
bình quân đầu người năm 2011 đạt 1.300 USD gấp hơn 3 lần so với năm 2000, đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát trỉên có mức
thu nhập trung bình. Từ năm 2000 đến năm 2007, tốc độ tăng trưởng GDP của nước ta

không ngừng tăng qua các năm ( từ 6,8% năm 200 lên 8,5% năm 2007). Đến năm
2008, do chịu tác động mạnh mẽ của cuộc khủng hoảnh tài chính và suy thoái toàn
cầu, tốc độ tăng trưởng GDP giảm xuống chỉ còn 6,2% và tiếp tục giảm ở năm 2009
với 5,3%. Sau những nỗ lực và chính sách phát triển của Nhà nước, đến năm 2010 nền
kinh tế đã có dấu hiệu phục hồi với tốc độ tăng trưởng GDP đạt 6,7%. Tuy nhiên, từ
năm 2011 đến nay, do chính sách ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô nên
tốc độ tăng trưởng GDP lại có xu hướng giảm còn 5,9% năm 2011 và đạt 4,7% trong 9
tháng đầu năm 2012. Trong năm 2012, với nhiều khó khăn ở phía trước nhưng tình
hình kinh tế - xã hội đã có những chuyển biến tích cực, đúng hướng với những điểm
sáng như lãi suất tín dụng giảm, tỷ giá cơ bản ổn định, dự trữ ngoại hối tăng, chỉ số tồn
kho giảm dần,
Cùng với việc duy trì tốc độ tăng trưởng GDP, cơ cấu kinh tế trong nước của Việt
Nam đã có sự thay đổi đáng kể theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cụ thể là:
Tỉ trọng khu vực công nghiệp trong cơ cấu GDP từ 36,73% (năm 2000) tăng lên
Nhóm 16 – Lớp Ngân hàng - đêm 4 – K22 10
Tiểu luận môn Tài chính tiền tệ GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng
40,79% (năm 2011); khu vực dịch vụ từ 38,73% (năm 2000) giảm nhẹ xuống còn
37,19% (năm 2011); khu vực nông nghiệp từ 25,53% (năm 2000) giảm xuống 20,06%
(năm 2011).
Hoạt động kinh tế đối ngoại được đẩy mạnh trên tất cả các lĩnh vực: hợp tác song
phương và đa phương; mở rộng quan hệ thương mại, thu hút vốn đầu tư, xuất khẩu lao
động, tiếp nhận kiều hối và tăng cường nhiều hoạt động kinh tế đối ngoại khác, đưa
nước ta hội nhập ngày càng đầy đủ với kinh tế khu vực và thế giới với sự kiện nổi bật
trong giai đoạn này là ngày 01/11/2007 Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150 của
WTO. Tất cả những việc này đã góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế.
Trong những năm vừa qua đời sống các tầng lớp dân cư tiếp tục được cải thiện,
sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế và các lĩnh vực xã hội khác có những tiến bộ đáng
kể.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được đó, trong giai đoạn này nước ta vẫn còn

xuất hiện nhiều hạn chế và bất cập. Đó chính là sự chậm đổi mới của cơ cấu kinh tế,
vẫn chưa ra khỏi cơ cấu ngành truyền thống , tỷ trong dịch vụ có xu hướng giảm
xuống, nông-lâm-thủy sản thì chỉ giảm nhẹ vẫn chưa xuống được như mục tiêu đề ra.
Ngoài ra, vốn đầu tư của khu vực Nhà nước chiếm tỷ trọng cao nhưng bố trí dàn trải,
đầu tư không đồng bộ, nhiều công trình đầu tư kéo dài hay khi đưa vào sử dụng thì
không phù hợp. Còn đầu tư của khu vực ngoài Nhà nước và khu vực có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài cũng gặp khó khăn do thủ tục đầu tư phiền hà; giải phóng và bàn
giao mặt bằng chậm nên tiến độ đầu tư thường kéo dài hơn nhiều so với kế hoạch ban
đầu. Về mặt đời sống, tuy tỷ lệ nghèo của nước ta đã giảm đáng kể nhưng đến nay vẫn
còn tương đối cao. Một số tệ nạn xã hội chưa được chắn đứng mà còn có nguy cơ gia
tăng. Tình trạng ùn tắc và tai nạn giao thông tiếp tục xảy ra nghiêm trọng. Ô nhiễm
môi trường ngày càng gia tăng do việc quản lý và xử lý còn nhiều bất cập.
2.2. Tình hình đầu tư công tại Việt Nam giai đoạn từ năm 2000 đến nay
a. Quy mô đầu tư công
Tổng vốn đầu tư trong xã hội đã liên tục tăng lên trong thời gian qua, tính theo
giá so sánh 1994, tổng vốn đầu tư tăng từ 115 nghìn tỷ đồng năm 2000 lên 363 nghìn
tỷ đồng năm 2011, gấp 3 lần, bình quân mỗi năm tăng 11,3%. Tăng nhanh nhất là khu
Nhóm 16 – Lớp Ngân hàng - đêm 4 – K22 11
Tiểu luận môn Tài chính tiền tệ GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng
vực kinh tế ngoài quốc doanh với 4,65 lần; sau đó là khu vực vốn đầu tư nước ngoài
với 4,6 lần; cuối cùng là khu vực kinh tế nhà nước, với 2,1 lần. Ngay cả vào năm
2008, do lạm phát cao và kinh tế suy thoái do chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài
chính toàn cầu, mặc dù Nhà nước có chủ trương cắt giảm đầu tư công, song số vốn đầu
tư công vẫn chỉ ở mức thấp hơn rất ít so với năm 2007, đến năm 2009 lại tăng vọt, bù
lại sự cắt giảm ít ỏi đó, nhằm thực hiện chủ trương "kích cầu đầu tư". Tuy nhiên, ngay
sau đó để cắt giảm lạm phát và do chịu ảnh hưởng nặng nề của suy thoái kinh tế, Nhà
nước phải cắt giảm chi tiêu công gần 28 nghìn tỷ đồng trong hai năm 2010 và 2011.
Biểu đồ 1: Tổng vốn đầu tư toàn xã hội
(theo giá so sánh năm 1994, tỷ đồng)
Nguồn: Tổng cục thống kê – Niên giám thống kê 2005 đến 2011.

Xét về cơ cấu thì khu vực kinh tế nhà nước vẫn chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng
đầu tư xã hội, mặc dù tỷ trọng của khu vực này đã giảm từ 59,2% vào năm 2000 xuống
còn 37,0% năm 2007 và 34% năm 2008, là hai năm duy nhất, tỷ trọng vốn đầu tư nhà
Nước xuống thấp nhất trong các thành phần (thấp hơn cả vốn đầu tư ngoài Nhà nước
với tỷ trọng 38% năm 2007 và 35% năm 2008) trong 12 năm qua. Tuy nhiên, đến năm
2009, vốn đầu tư Nhà nước lại tiếp tục dẫn đầu và tiếp tục ở vị trí số một trong cơ cấu
vốn đầu tư xã hội trong các năm qua (Bảng 1).
Bảng 1: Cơ cấu vốn đầu tư xã hội theo giá thực tế
Năm
Tổng vốn đầu
tư (tỷ đồng)
Kinh tế Nhà
nước
Kinh tế ngoài
Nhà nước
Khu vự có vốn đầu
tư nước ngoài
2000 151.183 0,59 0,23 0,18
Nhóm 16 – Lớp Ngân hàng - đêm 4 – K22 12
Tiểu luận môn Tài chính tiền tệ GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng
Năm
Tổng vốn đầu
tư (tỷ đồng)
Kinh tế Nhà
nước
Kinh tế ngoài
Nhà nước
Khu vự có vốn đầu
tư nước ngoài
2001 170.496 0,60 0,23 0,17

2002 200.145 0,57 0,25 0,18
2003 239.246 0,53 0,31 0,16
2004 290.927 0,48 0,38 0,14
2005 343.135 0,47 0,38 0,15
2006 404.712 0,46 0,38 0,16
2007 532.093 0,37 0,38 0,25
2008 616.735 0,34 0,35 0,31
2009 708.826 0,41 0,34 0,25
2010 830.278 0,38 0,36 0,26
2011 877.850 0,39 0,35 0,26
Nguồn: Tổng cục thống kê – Niên giám thống kê 2005 đến 2011.
Tính theo giá so sánh 1994, vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước đã tăng từ
68,1 nghìn tỷ đồng năm 2000 lên 145,2 nghìn tỷ đồng năm 2011, bình quân mỗi năm
tăng gần 7,7%; còn tính theo giá thực tế thì tăng từ 89,4 nghìn tỷ đồng lên 341,6 nghìn
tỷ đồng, bình quân mỗi năm 13,3%.
1
So sánh tốc độ tăng GDP và tốc độ tăng vốn đầu tư tính bình quân hàng năm
trong thời kỳ 2000-2011 (Bảng 2( có thể thấy:
- Tốc độ tăng vốn đầu tư ở cả nước và trong hầu hết các khu vực đều cao hơn
(gấp khoảng hai lần) so với tốc độ tăng GDP, ngoại trừ khu vực kinh tế Nhà
nước.
- Khu vực có vốn FDI có tốc độ tăng đầu tư cao nhất, bình quân mỗi năm 17,4%,
khu vực kinh tế ngoài nhà nước 15,7%, còn khu vực Nhà nước 7,7%.
Bảng 2: Tốc độ tăng GDP và tổng vốn đầu tư giai đoạn 2000-2011
(tính theo giá so sánh năm 1994)
Tiêu chí
Tốc độ tăng GDP
bình quân năm (%)
Tốc độ tăng vốn đầu tư
bình quân năm (%)

Toàn nền kinh tế 7,1 11,3
1
Theo số liệu thống kê của Tổng cụ thống kê về vốn đầu tư theo thành phần kinh tế.
Nhóm 16 – Lớp Ngân hàng - đêm 4 – K22 13
Tiểu luận môn Tài chính tiền tệ GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng
Tiêu chí
Tốc độ tăng GDP
bình quân năm (%)
Tốc độ tăng vốn đầu tư
bình quân năm (%)
Khu vực Nhà nước 6,1 7,7
Khu vực ngoài Nhà nước 7,5 15,7
Khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài
9,5 17,4
Nguồn: Theo tính toán từ số liệu của Tổng cục thống kê
Như vậy, việc giảm sút về tỷ trọng của vốn đầu tư công trong tổng số vốn đầu tư của
xã hội không phải do nhà nước đã hạn chế bớt đầu tư công, mà chỉ là do các khu vực
kinh tế khác có tốc độ tăng cao hơn. Do đầu tư công tăng nhanh nên vốn sản xuất và
tài sản cố định có nguồn công tăng lên nhanh chóng trong nền kinh tế, với tốc độ tăng
bình quân hàng năm vào khoảng 15%, mặc dù tỷ trọng tương đối đang có xu hướng
giảm đi (từ mức 2/3 năm 2000, giảm xuống còn khoảng 50% năm 2006) và tiếp tục
giảm thấp hơn trong các năm gần đây. Trong khi lao động trong khu vực nhà nước
không thay đổi bao nhiêu, thì trình độ trang bị vốn của lao động khu vực Nhà nước
đang tăng lên nhanh chóng. Tài sản cố định và vốn đầu tư dài hạn của một lao động
khu vực doanh nghiệp Nhà nước năm 2004 có 160 triệu đồng; năm 2005 là 239 triệu
đồng, năm 2006 tăng lên đến 418 triệu đồng và năm 2007 đạt 511 triệu đồng (trung
ương 613 triệu đồng và địa phương 225 triệu đồng), tức là trong 4 năm mà trang bị
vốn đã tăng hơn 3 lần cho lao động của khu vực kinh tế Nhà nước.
b. Cơ cấu nguồn vốn đầu tư công

Trong số 5 nguồn vồn đầu tư công, hai nguồn đầu tiên (vốn từ ngân sách và vốn
cho các chương trình mục tiêu và chương trình ngành) gộp vào mục "vốn ngân sách",
và hai nguồn tiếp theo (tín dụng và vốn Nhà nước vay) gộp vào mục "vốn vay".
Theo số liệu thống kê (Biểu đồ 2) vốn ngân sách chiếm từ 40% đến 65% trong
tổng số vốn đầu tư công, vốn vay chiếm từ 15% đến 30%, đầu tư của các doanh nghiệp
nhà nước khoảng từ 20% đến 30%, tỷ trọng của vốn vay giảm đi, đặc biệt trong mấy
năm gần đây tác động của lạm phát và chính sách thắt chặt tín dụng, trong khi đó vốn
đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước bắt đầu tăng tỷ trọng trong hai năm 2006-2007,
nhưng rồi lại giảm đi do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính.
Nhóm 16 – Lớp Ngân hàng - đêm 4 – K22 14
Tiểu luận môn Tài chính tiền tệ GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng
Tính theo giá so sánh năm 1994, khối lượng vốn đầu tư trực tiếp từ ngân sách
Nhà nước tăng từ 29.702 tỷ đồng năm 2000 lên 106.265 tỷ đồng năm 2009, tăng 3,58
lần, tức là bình quân mỗi năm tăng 15,6%. Đến năm 2010, do suy thoái kinh tế và
chính sách kiềm chế lạm phát, thắt chặt đầu tư công, vốn đầu tư từ ngân sách Nhà
nước có sự sụt giảm đáng kể; đến năm 2011, tổng vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước
chỉ còn 65.609 tỷ đồng, giảm 40.656 tỷ đồng so với năm 2009.
Vốn vay tăng 2,41 lần, bình quân năm tăng 12,46%; đặc biệt trong năm 2010
tổng vốn vay đã tăng vọt từ 28.961 tỷ đồng lên 58.735 tỷ đồng (tăng 2,1 lần, tương
đương tăng 29.774 tỷ đồng). Vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước tăng 1,7 lần, bình
quân năm tăng 6%.
Biểu đồ 2: Vốn đầu tư công theo nguồn vốn
(Tỷ đồng, theo giá so sánh năm 1994)
Nguồn: Tổng cục thống kê – Niêm giám thống kê 2005 đến 2011.
c. Phân bổ vốn đầu tư theo ngành và lĩnh vực
Trong những năm qua, các khoản đầu tư công được định hướng tập trung vào
việc nâng cấp cơ sở hạ tầng, cải thiện các điều kiện xã hội, môi trường và dành một
phần vốn đầu tư cho các Doanh nghiệp Nhà nước (chủ yếu làm nhiệm vụ công ích,
giảm nhanh việc cấp vốn để kinh doanh), tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế
tham gia đầu tư và kinh doanh một cách bình đẳng. Các định hướng sử dụng đầu tư

công này nói chung là thiết thực với một đất nước còn nghèo, đang trong quá trình
chuyển đổi và hội nhập, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững đất nước.
Tuy nhiên, định hướng này đến thực tế thực hiện còn một khoảng cách khá xa.
Nhóm 16 – Lớp Ngân hàng - đêm 4 – K22 15
Tiểu luận môn Tài chính tiền tệ GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng
Tổng hợp số liệu ở cấp độ lĩnh vực (Biểu đồ 3), đầu tư cho các ngành thuộc lĩnh
vực kinh tế chiếm tỷ trọng tương đối cao trong tổng chi của Nhà nước (thấp nhất là
72,1% năm 2008 và cao nhất là 80,2% năm 2003). Đầu tư trong các ngành thuộc lĩnh
vực xã hội, liên quan trực tiếp tới phát triển con người (khoa học, giáo dục và đào tạo,
y tế và cứu trợ xã hội, văn hóa, thể thao, phục vụ cá nhân và cộng đồng) có xu hướng
giảm từ 19% năm 2006 còn 16,2% năm 2011. Điều này cho thấy, hiện nước ta đang
tập trung chi đầu tư cho kinh tế và có xu hướng giảm đầu tư cho xã hội; đây được đánh
giá là xu thế không hợp quy luật, bởi vì một mặt cùng với sự tăng lên của mức sống,
các nhu cầu về phúc lợi cần phải được đảm bảo ở mức cao hơn, mặt khác sự phát triển
của khoa học – công nghệ và xu thế phát triển kinh tế tri thức đòi hỏi phải đầu tư ngày
càng nhiều cho phát triển nguồn lực con người.
Biểu đồ 3: Cơ cấu đầu tư công cho các lĩnh vực kinh tế, xã hội và quản lý Nhà nước
Nguồn: Tổng cục thống kê. Niêm giám thống kê từ năm 2005 đến 2011
Đầu tư cho quản lý Nhà nước, an ninh quốc phòng, Đảng, đoàn thể có xu hướng
tăng liên tục, tăng từ 5,2% năm 2000 lên 9,4% năm 2011. Đầu tư cho bộ máy quản lý
nhà nước và các đoàn thể xã hội tăng lên không ngừng, trái với chủ trương tiết kiệm
chi tiêu hành chính đã được ban hành. Đặc biệt, đầu tư xây dựng trụ sở và mua sắm ô
tô, trang thiết bị vượt quá tiêu chuẩn đã trở thành hiện tượng phổ biến, được nêu trên
diễn đàn Quốc hiệu nhiều lần, nhưng không khắc phục được triệt để mà vẫn tiếp tục tái
diễn. Đây chính là một kẽ hở cho lãng phí và tham nhũng.
Ở cấp độ ngành, do quy mô vốn đầu tư của Nhà nước liên tục tăng cao nên tương
ứng với nó, số vốn phân bổ cho các ngành cũng tăng lên qua các năm.
Biểu đồ 4: Vốn đầu tư Nhà nước phân theo ngành theo giá so sánh 1994
Nhóm 16 – Lớp Ngân hàng - đêm 4 – K22 16
Tiểu luận môn Tài chính tiền tệ GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng

(Đơn vị: tỷ đồng)
Nguồn: Tổng cục thống kê. Niêm giám thống kê từ năm 2005 đến 2011
Trong 12 năm, tính theo giá so sánh năm 1994, đầu tư công cho nông, lâm nghiệp
và thủy sản tăng thấp nhất với tỷ lệ tăng 1,12 lần, tiếp theo đó là công nghiệp khai thác
mỏ với 1,32 lần, chi đầu tư cho khoa học, giáo dục, đào tạo tăng 1,51 lần. Đây là
những nhành mà mức tăng đầu tư thấp hơn mức bình quân chung (2,12 lần).
Các ngành có mức tăng chi đầu tư tương đối cao là thương nghiệp, dịch vụ tài
chính, tín dụng với 3,8 lần; quản lý Nhà nước, an ninh, quốc phòng, đoàn thể là 3,86
lần và cao nhất là xây dựng với 4,14 lần (Biểu đồ ….).
Về cơ cấu, trong 12 năm vừa qua, trung bình khoảng 40% tổng số vốn đầu tư
công dành cho các ngành kết cấu hạ tầng như điện, nước, vận tải và thông tin. Công
nghiệp khai thác mỏ chiếm khoảng từ 7%-9% trong tổng vốn đầu tư công. Nông, lâm
nghiệp và thủy sản, mặc dù là lĩnh vực hoạt động của đại đa số dân cư nhưng hiện vẫn
không được chú trọng đầu tư, biểu hiện cũ thế là tỷ trọng của lĩnh vực này trong đầu tư
công đã giảm từ 12% năm 2000 xuống còn 7%-8% từ năm 2002 đến năm 2010 và đến
2011 chỉ còn 6%.
Bên cạnh đó, các ngành liên quan trực tiếp tới phát triển con người – khoa học,
giáo dục và đào tạo, y tế và trợ xã hội, văn hóa, thể thao, phục vụ cá nhân và cộng
Nhóm 16 – Lớp Ngân hàng - đêm 4 – K22 17
Tiểu luận môn Tài chính tiền tệ GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng
đồng không có sự thay đổi đáng kể vể tỷ trọng trong đầu tư công: chiếm 17,6% năm
2000, giao động trong khoảng 14,17% đến 19,2% từ năm 2001 đến năm 2008, từ năm
2009 đến nay giảm xuống còn khoảng 16,2%. Trong đó, đầu tư cho giáo dục đào tạo
giảm dần từ 8,5% năm 2000 xuống 4%-5% năm 2002-2003, sau đó lại tăng lên 6%-
7% những năm sau đó; Còn đầu tư vào y tế và cứu trợ xã hội phổ biến ở mức 2%-
3,5%, cao nhất là 3,87% năm 2004 (Biểu đồ 4).
Biểu đồ 5: Cơ cấu vốn đầu tư công phân theo ngành
(%, theo giá so sánh năm 1944)
Nguồn: Tổng cục thống kê. Niêm giám thống kê từ năm 2005 đến 2011
Như vậy, xét về cả tốc độ tăng và tỷ trọng tổng đầu tư Nhà nước thì những ngành

lớn quan trọng, có thế mạnh trong sự phát triển dài hạn của đất nước là nông, lâm
nghiệp, thủy sản và khoa học, giáo dục, đào tạo lại là những ngành chiếm vị thế yếu
nhất trong chính sách đầu tư của nhà nước. Điều này trái với chủ trương phải tạo ra
những điểm đột phá mạnh nhằm nâng cao sức cạnh tranh của đất nước về các sản
phẩm có thế mạnh trong nông nghiệp, thủy sản và nhanh chóng đào tạo nguồn nhân
lực kỹ thuật cao trong tương lai.
Việc không chú ý tới nông nghiệp, thậm chí hy sinh nông nghiệp để công nghiệp
hóa, trong thời gian qua đã gây nên nhiều vấn đề bất ổn trong nông nghiệp, nông thôn
và đời sống nông dân mà Nghị quyết 7 của Ban chấp hành Trung ương Đảng về phát
Nhóm 16 – Lớp Ngân hàng - đêm 4 – K22 18
Tiểu luận môn Tài chính tiền tệ GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng
triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã nêu. Trong thời gian trước năm 200, chi
tiêu công cho thủy lợi, nghiênn cứu nông nghiệp, khuyến nông, … đã được đánh giá là
quá thấp so với nhu cầu phát triển nông nghiệp và cả so với một số nước trong khu vực
châu Á. Hệ thống thủy lợi ít được mở rộng, lại xuống cấo do không đủ chi phí bảo
dưỡng. Các thành tựu khoa học ứng dụng trong nông nghiệp được chuyển giao cho
nông dân không nhiều về số lượng và không rộng rãi về phạm vi. Phần lớn giống cây
trồng, vật nuôi mới trong nông nghiệp đều phải nhập khẩu. Hệ thống cung cấp dịch vụ
khuyến nông hiện vẫn còn yếu. Khi Việt Nam gia nhập WTO, một số dạng tài trợ của
Nhà nước cho các khâu công nói trên trong nông nghiệp được các cam kết WTO cho
phép. Tuy vậy, đã không có sự chuyển biến rõ nét trong chính sách đầu tư của Nhà
nước cho Nông nghiệp, những thỏa thuận ưu đãi cho nông nghiệp chưa được tận dụng,
trong khu một số biện pháp giảm bớt bảo hộ đã được thực hiện (như giảm thuế nhập
khẩu nông sản).
Nền giáo dục chậm được cải cách và không được đầu tư thích đáng cũng đang là
điểm yếu trên con đường phát triển đất nước. Theo báo cáo 9 tháng đầu năm 2012 của
Tổng cục thống kê, hiện vẫn còn 30% số phòng học trong cả nước là nhà bán kiên cố
và nhà tạm. Việc sử dụng các khoản đóng góp của gia đình học sinh – một nguồn lực
đầu tư rất lớn của xã hội cho tương lai – còn thiếu minh bạch và không được thể chế
hóa chặt chẽ, tạo cơ hội cho các cơ sở giáo dục và đào tạo lạm dụng, gây ra gánh nặng

cho phí quá mức cho gia đình học sinh. Chi phí cho giáo dục còn ở mức cao đối với
các gia đình nghèo. Những khoản chi cao so với thu nhập của hộ gia đình tạo ra rào
cản đối với cơ hội học tập của trẻ em nghèo và trẻ em các dân tộc thiểu số.
Việc sử dụng đầu tư công như một công cụ thúc đẩy các ngành trọng điểm, then
chốt trong nền kinh tế đã được thực hiện ở một số phạm vi và mức độ nhất định, song
tác động đối với hiện đại hóa và chuyển dịch cơ cấu của toàn nền kinh tế còn hạn chế.
Những kết quả của việc nhà nước đầu tư cho các ngành công nghiệp tiên tiến, có công
nghệ cao và có tác dụng thúc đẩy, lan tỏa mạnh đối với sự phát triển chưa thấy rõ.
Trong khu vực nhà nước, các ngành công nghiệp chế tạo máy móc, thiết bị, chế tạo
dụng cụ y tế, cơ khí chính xác, thiết bị quang học, hóa chất đều có tốc độ tăng thấp
hơn mức bình quân toàn ngành công nghiệp thuộc khu vực nhà nước và tỷ trọng có xu
hướng giảm dần, cá biệt là ngành chế tạo dụng cụ y tế, cơ khí chính xác, thiết bị quang
Nhóm 16 – Lớp Ngân hàng - đêm 4 – K22 19
Tiểu luận môn Tài chính tiền tệ GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng
học giảm đi và hầu như không còn trong khu vực nhà nước. Trong khi đóm công
nghiệp khai thác mỏ lại tăng nhanh hơn mức bình quân chung và chiếm tỷ trọng ngày
càng lớn hơn. Việc chính phủ đã đầu tư một các ưu tiên cho các ngành như đóng tàu
thủy, khai thác khoáng sản (than, bô xít), xây dựng đường sắt cao tốc (chỉ để chở
khách chứ không vận chuyển hàng hóa) lại gây ra hậu quả không tốt về kinh tế và tâm
lý xã hội. Và gần như nguyên tắc “ Nhà nước đầu tư vào các ngành có khả năng thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu theo hướng hiện đại hóa và dẫn dắt sự phát triển trong tương
lai” đã không được thực thi trong chính sách đầu tư công trong thời gian qua.
Điểm dễ nhận thấy từ biểu đồ về cơ cấu đầu tư công là các đường biến thiên về tỷ
trọng của đầu tư theo ngành có rất ít sự thay đổi. Tuy một vài ngành có tăng giảm đầu
tư (như nông nghiệp, thủy sản bị giảm sút, đầu tư cho y tế có tăng giảm một ít), nhưng
dải biểu thị phần vốn đầu tư đều có chiều rộng tương đối ổn định. Ngay cả khi có
những thay đổi lớn trong bối cảnh phát triển kinh tế, ví dụ việc Việc Nam gia nhập
WTO năm 2007, thì cơ cấu cũng chỉ có vài dịch chuyển nhỏ. Chỉ có vào năm 2008, do
ảnh hưởng của lạm phát trong nước và khủng hoảng tài chính toàn cầu, tỷ trọng đầu tư
của một số ngành công nghiệp chế biến có giảm, nhưng từ năm 2009 lại phục hồi trở

lại mức của hai năm trước đó. Điều đó có nghĩa là về cơ bản hầu như không có sự
chuyển biến đáng kể của cơ cấu đầu tư trong suốt gần 12 năm qua. Như vậy, dường
như là Nhà nước đã không sử dụng một cách mạnh mẽ đầu công như một công cụ
nhằm làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế dài hạn và điều tiết sự phát triển xã hội.
d. Phân bổ vốn đầu tư công theo địa phương
Vốn đầu tư công được phân bổ theo hai cấp ngân sách: Trung ương và các tỉnh.
Tỷ lệ đầu tư cho hai cấp vào khoảng 60%:40% trong năm 2000, sau đó vốn cho cấp
trưng ương giảm xuống còn 50% và không có nhiều biến động cho đến năm 2010,
năm 2011 tỷ trọng vốn cấp cho trưng ương chỉ còn 44, 5% tổng vốn đầu tư.
Biểu đồ 6: Phân bổ vốn đầu tư theo trung ương và địa phương
Nhóm 16 – Lớp Ngân hàng - đêm 4 – K22 20
Tiểu luận môn Tài chính tiền tệ GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng
Nguồn: Tổng cục thống kê
Mặc dù trong chiến lược phát triển dài hạn có định hướng phát triển vùng và các
vùng kinh tế lớn đều có quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài hạn, nhưng trên thực
tế đã không sử dụng trực tiếp các công cụ đầu tư công để thúc đẩy sự phát triển vùng
theo những định hướng đã vạch ra. Chính vì vậy mà có sự đầu tư vốn chồng chéo,
trùng lặp ở một số vùng có điều kiện phát triển thuận lợi, trong khi ở một số vùng khác
có điều kiện khó khăn thì lại ít được đầu tư. Bên cạnh đó, tình trạng tỉnh nào cũng cố
gắng đầu tư để có khu công nghiệp, cảng biển, khu đô thị, khu kinh tế mở, v.v. diễn ra
trong những năm gần đây phản ảnh mặt tích cực chủ động của địa phương trong việc
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nhưng mặt khác lại là biểu hiện của việc thiếu chiến lược
đầu tư hợp lý theo vùng và sự phát triển mang tính cục bộ địa phương.
e. Hiệu quả kinh tế của đầu tư công
Để đánh giá hiệu quả đầu tư công đòi hỏi không chỉ đo đếm số lượng những kết
quả đạt được mà còn phải xem xét mối tương quan về lượng giữa số vốn đã bỏ ra và
kết quả đạt được. Một phương pháp phổ biến dùng để đánh giá vai trò của đầu tư nói
chung và đầu tư công nói riêng đối với tăng trưởng kinh tế là phân tích sự đóng góp
của các yếu tố vào sự tăng trưởng GDP. Sử dụng hàm sản xuất với hai yếu tố đầu vào
cơ bản là vốn (K) và lao động (L). Sự gia tăng sản lượng trong nền kinh tế do hai phần

chính là sự gia tăng các yếu tố đầu vào K, L và sự gia tăng về năng suất bằng hệ số
năng suất nhân tố tổng hợp (TFP).
Bảng 3: Đóng góp của các yếu tố vào tăng trưởng GDP
Nhóm 16 – Lớp Ngân hàng - đêm 4 – K22 21
Tiểu luận môn Tài chính tiền tệ GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng
(Theo giá so sánh năm 1994)
Năm Tốc độ tăng GDP (%) K (%) L (%) TFP (%)
2000 6,8 47,4 13,8 38,8
2001 6,9 59,8 20,8 19,4
2002 7,1 44,2 27,7 28,1
2003 7,3 72,1 43,7 -15,8
2004 7,8 61,5 21,0 17,5
2005 8,4 59,8 16, 4 23,8
2006 8,2 57,1 14,3 28,6
2007 8,4 59,5 14,8 25,7
2008 6,3 78,0 39,5 -17,5
2009 5,3 74,0 34,0 -8,0
2010 6,8 68,0 16,5 15,5
(Nguồn: Theo tính toán từ số liệu của Tổng cục thống kê)
Qua tính toán hệ số này cho hai giai đoạn 2000-2005 và 2006-2010 cho thấy hiệu
quả của nền kinh tế giảm rõ rệt. Nếu giai đoạn 2000-2005 hệ số TFP đóng góp vào
tăng trưởng khoảng trên 22%, thì đến giai đoạn 2006-2010 con số này chỉ còn dưới
8,8%. Sự sút giảm về năng suất được bù đắp bằng đầu tư. Nếu giai đoạn trước đóng
góp của vốn vào tăng trưởng khoảng trên 50%, thì giai đoạn sau đóng góp của vốn vào
tăng trưởng trên 60%.
Trong giai đoạn 2000-2010, nền kinh tế nước ta vận hành theo mô hình tăng
trưởng chủ yếu dựa vào yếu tố vốn, tổng số vốn đầu tư toàn xã hội lên đến 4.487.776
tỷ đồng, chiếm 41.3% GDP; Trong đó khu vực Nhà nước chiếm tỷ trọng cao nhất
khoảng 1.930.093 tỷ đồng, chiếm 43.01% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội theo giá thực
tế ( Bảng 1).

Qua đó cho thấy, hiện yếu tố vốn là nhân tố có tác động mạnh mẽ và đóng vai trò
chủ chốt nhất trong các nhân tố có tác động đến tăng trưởng kinh tế hay nói cách khác
vốn là nhân tố quan trọng nhất tạo ra tăng trưởng kinh tế. Và thước đo hiệu quả của
vốn đầu tư được dùng phổ biến nhất là hệ số suất đầu tư ( Incremental Capital Output
Ratio – ICOR), hệ số này phản ánh cần bao nhiêu đồng vốn tăng thêm để tạo ra một
Nhóm 16 – Lớp Ngân hàng - đêm 4 – K22 22
Tiểu luận môn Tài chính tiền tệ GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng
đơn vị tăng lên của GDP. Hệ số ICOR càng lớn thì hiệu quả đầu tư càng thấp và ngược
lại.
Việc tính ICOR thường giả định rằng mọi nhân tố khác không đổi và chỉ có gia
tăng vốn dẫn tới gia tăng GDP. Hệ số ICOR thường được tính cho một giai đoạn vì
đồng vốn thường có độ trễ, sau một giai đoạn mới phát huy tác dụng.
Trong 12 năm qua, lượng tiền bỏ ra nhằm mục đích đầu tư ngày càng ít tạo ra sản
lượng quốc gia, sản lượng tạo ra từ một đồng vốn ngày càng giảm. Nếu giai đoạn
2000-2005 bỏ ra gần 5 đồng có thể tạo ra 1 đồng tăng thêm của GDP, đến giai đoạn
2006-2010 phải bỏ ra 7,43 đồng mới tạo ra 1 đồng tăng thêm của GDP.
Biểu đồ 7: Chỉ số ICOR phân theo thành phần kinh tế
(Nguồn: Theo tính toán từ số liệu của Tổng cục thống kê)
Xét cả 3 giai đoạn, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) là khu vực hoạt động
kém hiệu quả nhất về mặt sử dụng vốn, mặc dù trên thực tế khu vực này nhận được
nhiều ưu đãi về mặt chính sách thu hút đầu tư và cũng là khu vực được kỳ vọng nhiều
về thu hút lao động và phát triển công nghệ. Nhưng trong cả giai đoạn 2000-2011, để
tạo ra 1 đồng giá trị tăng thêm, khu vực này phải bỏ ra 10,13 đồng vốn. Còn xét trong
giai đoạn 2006-2011, giá trị này phải là 17,42 đồng mới có được 1 đồng giá trị tăng
thêm. Một trong những nguyên nhân của thực trạng này là do việc chuyển giá giữa
công ty mẹ với các công ty con diễn ra khá phổ biến trong những năm qua, đã đẩy chi
phí sản xuất lên cao và làm giảm lợi nhuận trong các báo cáo tài chính. Cũng cần lưu ý
Nhóm 16 – Lớp Ngân hàng - đêm 4 – K22 23
Tiểu luận môn Tài chính tiền tệ GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng
thêm, trong nhiều nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng, khu vực FDI là khu vực có sự

tăng trưởng chủ yếu dựa vào các yếu tố khác như tận dụng nguồn nhân lực phổ thông,
giá rẻ, còn công nghệ chủ yếu là lạc hậu, đã khấu hao hết.
Đứng thứ 2 về mặt sử dụng vốn là khu vực Nhà nước. Trong cả giai đoạn 2000 -
2011, khu vực này bỏ ra 7.54 đồng để có được 1 đồng giá trị tăng thêm. Trong giai
đoạn 2006-2011, hiệu quả đầu tư vẫn tiếp tục giảm đi khi phải đầu tư 7.98 đồng mới
tạo ra được 1 đồng giá trị tăng thêm.
Ấn tượng nhất vẫn là khu vực ngoài Nhà nước, mặc dù trong giai đoạn vừa qua,
khu vực này chịu tác động nhiều nhất của khủng hoảng kinh tế, chính sách thắt chặt
tiền tệ của Chính phủ, lãi suất ngân hàng tăng, tiếp cận nguồn vốn vay khó khăn
nhưng hiệu quả sử dụng đồng vốn lại hiệu quả nhất. Ngay cả trong giai đoạn 2006-
2011, mức đầu tư để tạo ra 1 đồng giá trị tăng thêm của khu vực này cũng chỉ là 4.32
đồng. Đây phải chăng là một nghịch lý khi với đóng góp vào trong GDP lên đến
khoảng 50%, thực chất có thể thấy khu vực ngoài Nhà nước lại là đầu tàu kéo cả nền
kinh tế dù không được ưu đãi về mặt chính sách như khu vực doanh nghiệp Nhà nước
và FDI.
Điều hiển nhiên là đầu tư của khu vực nhà nước không thể có hiệu quả kinh tế
cao như đầu tư của khu vực tư nhân, bởi vì trong rất nhiều trường hợp mục đích của
đầu tư công không phải nhằm vào lợi nhuận và hiệu quả kinh tế, phải thực hiện một số
mục tiêu phi lợi nhuận như tạo điều kiện phát triển cho các vùng nghèo, có điều kiện
khó khăn, sản xuất và cung ứng các hàng hóa công cộng, các sản phẩm và dịch vụ ít
lãi, thậm chí lỗ vốn…Bên cạnh đó, tác động của đầu tư công lên tăng trưởng kinh tế
phải có độ trễ nhất định do đầu tư cho cơ sở hạ tầng chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng
vốn đầu tư công của Việt Nam. Tuy vậy, cũng không phải vì vậy mà có thể biện minh
cho việc đầu tư kém hiệu quả của khu vực nhà nước do những nguyên nhân chủ quan
như chiến lược kinh doanh và đầu tư sai lầm, quản lý kém, thiếu trách nhiệm, lãng phí,
tham nhũng….Các Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) được nhà nước hỗ trợ thông qua
các chính sách ưu đãi, được ưu tiên tiếp cận vốn tín dụng, vì vậy một số DNNN lớn
(tập đoàn, tổng công ty) đã trở thành những lực lượng mạnh chi phối các ngành kinh tế
chủ lực của Việt Nam. Song chính phủ chưa có cơ chế giám sát chặt chẽ đối với hoạt
động của các DNNN, nhất là đối với việc đầu tư. Vốn đầu tư của các doanh nghiệp

Nhóm 16 – Lớp Ngân hàng - đêm 4 – K22 24
Tiểu luận môn Tài chính tiền tệ GVHD: PGS.TS Vũ Thị Minh Hằng
nhà nước được coi là "tự chủ" của doanh nghiệp, nên quá trình kiểm tra, kiểm soát
chưa cao. Các bộ cũng không thể can thiệp vào quá trình sản xuất kinh doanh của các
DNNN. Nhiều DNNN vay nợ lớn để mở rộng quy mô, đầu tư dàn trải vào nhiều lĩnh
vực, nhiều ngành nghề, phát triển các hoạt động ngoài ngành nghề chính, độc quyền và
có khả năng lũng đoạn thị trường, quản lý kém gây thất thoát vốn, kinh doanh thua lỗ.
Tình trạng sử dụng chưa hiệu quả vốn đầu tư ở các DNNN đã trở thành phổ biến và
đáng báo động. Mặc dù những xu hướng xấu này đã được cảnh báo từ lâu, thậm chí
được Quốc hội phân tích và yêu cầu chấn chỉnh trong nhiều cuộc họp một số năm gần
đây, nhưng việc cải cách hoạt động của các DNNN hầu như chưa có chuyển biến đáng
kể. Hậu quả xấu không tránh khỏi là một số DNNN làm ăn không hiệu quả, thậm chí
đứng trên bờ vực phá sản.
2.3. Những thành tựu đã đạt được của quá trình đầu tư công
Thứ nhất, đầu tư công đã trở thành một động lực quan trọng trong việc thúc đẩy
tăng trưởng và quá trình chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế thời gian qua, tạo ra các tác
động lan tỏa lớn, nhất là các dự án phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, năng lượng
Đầu tư Nhà nước đã phát huy vai trò đặc biệt quan trọng trong những giai đoạn kinh tế
khó khăn, đầu tư từ các khu vực khác suy giảm (ví dụ như giai đoạn 2008-2009).
Thứ hai, cơ cấu đầu tư công đã có một số chuyển biến theo chiều hướng tích
cực. Đầu tư công trong những năng qua đã có xu hướng tăng cường đầu tư cho cơ sở
hạ tầng, góp phần tích cực cải thiện môi trường đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
xử lý bất hợp lý vùng miền; đã chú trọng đầu tư cho các ngành nghề có lợi thế cạnh
tranh trong nền kinh tế. Đầu tư công cũng đã tập trung nhiều hơn cho đầu tư phát triển
con người, nâng cao trình độ lực lượng lao động, hạn chế tình trạng thất nghiệp và cải
thiện chất lượng cuộc sống của người dân.
Cụ thể, trong tổng mức đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước, đầu tư cho phát
triển cơ sở hạ tầng chiếm một tỷ trọng khá lớn. Bình quân giai đoạn 2001-2011, chi
cho đầu tư xây dựng cơ bản chiếm trên 90% tổng chi đầu tư phát triển từ NSNN.
Nguồn lực NSNN đã được tập trung cho việc phát triển các dự án hạ tầng thiết yếu

trong nền kinh tế, các dự án không có khả năng hoàn vốn trực tiếp. Trong những năm
qua, nguồn vốn vay của Chính phủ được ưu tiên đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế xã
hội, cụ thể các dự án về giao thông, y tế, giáo dục… hoặc các dự án đầu tư cho nông
nghiệp và phát triển nông thôn, xoá đói giảm nghèo…, nhiều dự án đầu tư bằng nguồn
Nhóm 16 – Lớp Ngân hàng - đêm 4 – K22 25

×