Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Tiểu luận về luật so sánh docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.38 KB, 5 trang )


1
Từ thế kỉ XV, Common Law đã bộc lộ nhiều yếu kém, không đảm đương được sứ mệnh
của mình, vì vậy mà đã có nguy cơ và đã bị thay thế bởi Equity.
I. Những bất cập của Common Law trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án
Hoàng gia.
1. Sự cứng nhắc của Common Law.
Vào thế kỉ thứ XIII, khi mới ra đời Common Law đã giải quyết rất tốt nhiệm vụ của
mình, là một luật rất mềm dẻo. Vì thẩm phán tự sáng tạo ra các quy phạm pháp luật để giải
quyết những vấn đề, vụ việc đưa đến tòa dựa trên các nguyên tắc chung đã được thỏa thuận
giữa các thẩm phán. Nhưng, đến cuối thế kỉ XIV, học thuyết tiền lệ pháp được tuân thủ và áp
dụng trong các Tòa án Hoàng gia của Anh.
Học thuyết tiền lệ pháp là học thuyết mà theo đó các thẩm phán khi giải quyết các vụ việc
tại thời điểm hiện tại, phải căn cứ những phán quyết, những quy định trong quá khứ, trong đó
có án lệ. Án lệ là đường lối áp dụng pháp luật của tòa án về một vấn đề pháp lý, đã trở thành
tiền lệ mà các thẩm phán có thể theo đó xét xử trong các trường hợp tương tự. Với những
nước theo hệ thống Civil Law, án lệ được xem như một cách giải thích pháp luật. Những bản
án này không được xem là luật, không mang tính ràng buộc pháp lý nhưng tòa cấp dưới phải
tham khảo, nếu không nguy cơ bị tòa cấp trên sửa án rất cao. Với những nước theo hệ thống
Common Law, án lệ có giá trị như luật, là căn cứ để tòa giải quyết án. Trong hệ thống pháp
luật Anh, một nguyên tắc ra đời từ khoảng thế kỉ XIII có tên Latinh là “stare decisis” có nghĩa
là tuân thủ các phán quyết trước đây và không phá vỡ những quy phạm pháp luật đã được
thiết lập trong án lệ. Theo nguyên tắc này,các Tòa án cấp dưới chịu sự ràng buộc bởi các
nguyên tắc pháp lí do Tòa án cấp trên sáng tạo ra được ghi nhận trong các bản án trong quá
trình xét xử các vụ việc trong quá khứ.

2
Vì sự ràng buộc của học thuyết tiền lệ pháp làm cho Common Law trở lên cứng nhắc, bởi
vì đến một thời điểm thẩm phán không còn đủ tự do để phát triển các quy phạm pháp luật giải
quyết những vấn đề đem đến tòa nữa. Khi tình tiết vụ việc khác đi thì các thẩm phán không
thể áp dụng tiền lệ pháp cũ nữa nhưng họ cũng không có khả năng sáng tạo ra tiền lệ pháp


mới vì bị bó buộc trong khuôn khổ của học thuyết tiền lệ pháp.
2. Sự phức tạp trong thủ tục tố tụng được sử dụng tại Tòa án Hoàng gia
Common Law phát triển gắn liền với hoạt động của Tòa án Hoàng gia, chính Tòa án
Hoàng gia đã sản sinh ra Common Law với nghĩa là luật chung áp dụng thống nhất trên toàn
nước Anh. Vì nó ra đời do hoạt động xét xử của nước Anh cho nên thủ tục tố tụng mà Tòa án
Hoàng gia sử dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của Common Law.
Bản thân Common Law được xây dựng trên thủ tục tố tụng khá phức tạp, đặc biệt trong
mối quan hệ với hệ thống trát. Trát được sử dụng như một loại giấy thông hành do vua cấp để
bên nguyên có thể bước qua cửa Tòa án Hoàng gia, tiếp cận với công lí nhằm giải quyết
những oan khuất của mình. Mỗi loại khiếu kiện sẽ có một loại trát tương ứng , vì vậy, tùy
thuộc vào bản chất của việc khiếu kiện mà bên nguyên cần giành được loại trát phù hợp mới
hi vọng đơn khiếu kiện của mình được Tòa án Hoàng gia thụ lí và giải quyết. Bước sang thế
kỉ XV, thủ tục tố tụng ngày càng bị chi phối mạnh bởi hệ thống trát, do đó, thủ tục tố tụng
thường được coi trọng hơn cả quyền lợi đang bị tranh chấp trong vụ kiện. Nếu đơn khiếu kiện
không rơi vào một trong những vụ việc đã có trát lưu hành, bên nguyên sẽ mất quyền khởi
kiện; hoặc nếu bên nguyên giành được trát nhưng trát đó không phù hợp với bản chất của vụ
kiện, bên nguyên cũng bị tòa bác đơn.
Mặt khác, từ cuối thế kỉ XIV, trong hoạt động xét xử ở Anh còn xuất hiện tệ nạn hối lộ
nhân chứng để bịp bợm trước tòa làm cho bên nguyên bị thua kiện một cách phi lí.

3
Bởi những lí do kể trên, bên nguyên thường tiếp tục khiếu kiện lên vua nhằm tìm khiến sự
trợ giúp đặc biệt. Vua thường thông qua viên Đại pháp quan của mình để giải quyết những
đơn kiện loại này và vì vậy Văn phòng đại pháp quan đã dần phát triển thành Tòa đại pháp.
Trong quá trình sử dụng công lí để giải quyết các vụ việc, cùng với thời gian, các phán quyết
của Đại pháp quan đã phát triển thành tập hợp những quy phạm đặc biệt, được nhắc đến dưới
danh nghĩa “equity”.
II. Equity đã khắc phục được những bất cập của Common Law.
Equity ra đời đã khắc phục được những bất cập của Common Law, giúp giải quyết được
các vụ việc không được giải quyết hoặc chưa được giải quyết tại Tòa án Hoàng gia. Với

Equity, những vụ khiếu kiện đều được giải quyết bởi vì: *Thứ nhất,
trong quá trình xét xử tại tòa, Đại pháp quan không áp dụng các án lệ của Tòa án Hoàng gia,
luật Đại pháp quan sử dụng là dựa vào lẽ phải. Nói đến lẽ phải tức là phải có người đúng,
người sai rõ ràng nên các vụ việc đưa ra bao giờ cũng được giải quyết.
*Thứ hai, khác với Tòa án Hoàng gia, Tòa đại pháp mở đầu quá trình tố tụng không phải
bằng trát mà bằng đơn thỉnh cầu, không có mẫu in sẵn, viết bằng thứ tiếng Pháp dùng ở Anh
thời trung cổ. Người thỉnh cầu nêu rõ lí do khiếu nại và khẩn cầu sự trợ giúp. Đơn thỉnh cầu
phải được gửi kèm theo vật làm tin mới có thể khởi kiện. Với đơn viết tay như thế, mọi oan
ức của người dân có thể nhờ công lí mà được giải quyết, tránh được tình trạng như việc sử
dụng hệ thống trát trong Tòa án Hoàng gia.
*Thứ ba, tại Tòa đại pháp, Đại pháp quan xét xử dựa vào nội dung vụ việc và quyền lợi của
các bên tranh chấp, còn tại Tòa án Hoàng gia thì lại rất coi trọng chứng cứ. Trong quá trình
xét xử, Đại pháp quan tiến hành thẩm vấn nhằm phát hiện tình trạng lương tâm của bị đơn để
gột rửa lương tâm cho bị đơn khi cần thiết. Bên bị sẽ phải trả lời những câu hỏi trên cơ sở

4
tuyên thệ do Đại pháp quan đưa ra. Những câu hỏi thông minh của Đại pháp quan buộc bị
đơn tự khai ra các tình tiết của vụ việc, trên cơ sở đó có thể khép bị đơn vào một tội, một lỗi
nào đó. Đây là thủ tục tố tụng đặc biệt không hề được sử dụng tại Tòa án Hoàng gia ở cùng
thời.
*Thứ tư, giải pháp được đưa ra bởi Tòa đại pháp rất khác so với giải pháp đưa ra bởi Tòa án
Hoàng gia. Đại pháp quan có thể phát lệnh dưới hình thức tuyên bố quyền của bên nguyên
hoặc dưới dạng lệnh buộc bên bị (bên có hành vi gây tổn hại) phải thực hiện hành vi nào đó
hoặc cấm bên bị thực hiện hành vi xâm phạm tới lợi ích của bên nguyên. Trong khi đó, Tòa
án Hoàng gia chỉ có thể ra phán quyết buộc bên bị có hành vi gây thiệt hại cho bên nguyên
phải bồi thường thiệt hại. Từ thực tế này có thể thấy Tòa đại pháp có quyền lực lớn hơn Tòa
án Hoàng gia.
Đóng góp lớn nhất của Equity đối với hệ thống pháp luật Anh là đã tạo ra chế định ủy thác.
Theo nguyên tắc của Common Law, đối với việc ủy thác đất đai, sau khi đã sang tên đất,
người ủy thác không còn quyền sử dụng hợp pháp đối với mảnh đất đã ủy thác, mà phần đất

đó đất thuộc về quyền sử dụng hợp pháp của người được ủy thác; quyền sử dụng đất của
người được ủy thác chỉ bị giới hạn bởi quy phạm đạo đức chứ không bị giới hạn bởi quy
phạm pháp luật. Nên khi có tranh chấp xảy ra thì Tòa án Hoàng gia chưa bao giờ giải quyết
được. Nhưng tại Tòa đại pháp, trước những vụ việc này Đại pháp quan cho rằng việc người
được ủy thác phủ nhận quyền đòi lại đất của người ủy thác là bất công, trái với giáo lí và
lương tâm; rằng người được ủy thác chỉ giữ mảnh đất đó vì lợi ích của người ủy thác và sẽ
phải trả lại cho người ủy thác khi có yêu cầu. Vì vậy, Đại pháp quan thường ra phán quyết
cưỡng chế thi hành những điều kiện theo đó hợp đồng ủy thác được thiết lập để buộc bên
được ủy thác thực hiện những cam kết của mình.

5
Như vậy, trước nhu cầu giải quyết tranh chấp tại Tòa án Hoàng gia, Common Law tỏ ra
bất lực, là một nguyên nhân làm Equity ra đời. Sự hình thành và phát triển của Equity nhằm
sửa đổi và bổ sung cho Common Law, hoàn tất Common Law chứ không nhằm mục đích
thay thế Common Law.
MỤC LỤC
Lời mở đầu.
I. Những bất cập của Common Law trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án Hoàng
gia.
1. Sự cứng nhắc của Common Law.
2. Sự phức tạp trong thủ tục tố tụng được sử dụng tại Tòa án Hoàng gia.
II. Equity đã khắc phục được những bất cập của Common Law.
Kết luận.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật so sánh, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội,
2008;
2. Michael Bogdan, Luật so sánh, Nxb. Kluwer, Norstedts Juridik, Tano, 2002;
3. Nông Quốc Bình, “Tìm hiểu về Common Law”, Tạp chí luật học số 4/1998.

×