Nâng cao hiệu quả trong việc bồi dưỡng
học sinh giỏi môn Văn
I/ĐẶT VẤN ĐỀ :
Dạy văn và học văn là giúp con người hình thành nên nhân cách đẹp . Với đặc
điểm tâm hồn và truyền thống của người Việt Nam có lẽ không lâu nữa môn văn
sẽ được coi trọng hơn và trở về đúng vị trí của nó trong đời sống xã hội .Vì vậy
việc rèn luyện học sinh giỏi văn cũng là một trong những vấn đề khá quan trọng ,
chiếm vị trí không nhỏ trong nhà trường phổ thông .
Thế nhưng trước thực trạng hiện nay phan nhiều học sinh chưa thực sự yêu
thích môn văn , các em thường đầu tư vào các môn tự nhiên nhằm mục đích chọn
ngành nghề sau này .Theo quan điểm các em và cả không ít bậc phụ huynh đều
hướng vào
việc luyện thi đại học các ngành thuộc khối A. Vì vậy môn văn ít được các em đặt
nặng.
Việc tuyển chọn học sinh giỏi văn bước đầu gặp không ít khó khăn ,có những
học sinh thực sự giỏi văn nhưng lại không chọn thi môn văn, lại có những học sinh
chọn thi môn văn thì lại không giỏi lắm. Vấn đề đặt ra cho mỗi giáo viên tham gia
bồi dưỡng học sinh giỏi môn văn chúng tôi là phải luôn tìm giải pháp thích hợp để
làm sao cho việc rèn luyện học sinh đạt kết quả trong các kỳ thi chọn học sinh giỏi
của ngành. Được sự phân công của Ban giám hiệu , thực hiện bồi dưỡng học sinh
giỏi văn cấp THCS nhiều năm qua , tôi tự rút ra được một ít kinh nghiệm trong
việc hướng dẫn các em học tập môn văn và dự thi học sinh giỏi đạt kết quả khá
cao .
II/ BIỆN PHÁP VÀ QUÁ TRÌNH TỔ CHỨC :
Dạy văn đã khó, dạy học sinh giỏi văn lại là một công việc vô cùng khó khăn.
Làm thế nào để học sinh say mê học tập , ngày càng hứng thú với môn học mình
đã chọn là một việc không dễ chút nào . Người giáo viên phải là người khơi mở
tâm hồn các em ,làm cho các em biết rung động trước vẻ đẹp của văn chương ,
cảm thụ được sâu sắc trong từng tác phẩm . Trước những khó khăn đó đòi hỏi
người thầy phải có nhiều tâm huyết , phải kiên trì từ những ngày đầu tiên rèn
luyện.
Để việc giảng dạy HS giỏi đạt hiệu quả , chúng tôi tiến hành qua các bước
sau:
1/ Phát hiện và tuyển chọn học sinh :
Đây là khâu đầu tiên vô cùng quan trọng trong công tác bối dưỡng HS giỏi
.Được sự quan tâm của Ban giám hiệu trường , vấn đề phát hiện HS giỏi được đặt
ngay từ năm học đầu cấp . Căn cứ vào điểm trúng tuyển , căn cứ thành tích học
tập của học sinh ở bậc tiểu học , trường đã có hướng đầu tư cho các em ở tất cả các
môm từ năm lớp 6 . Sau khi tuyển học sinh vào , trường xếp riêng các em HS giỏi
vào một lớp .Việc phân loại HS để dạy cũng có nhiều thuận lợi , giáo viên rất dễ
mở rộng kiến thức cho các em , với trình độ tương đương nhau ở lớp này , học
sinh cũng dễ tiếp thu và thường tranh nhau học tập để vươn lên , kết quả học tập
của các em cuối năm đạt loại khá giỏi từ 90 đến 100 % . Đến năm lớp 8, trường
đẩy mạnh công tác bồi dưỡng HS giỏi , phân công giáo viên phụ trách bồi dưỡng
trực tiếp dạy lớp này ở tất cả các môn . Đối với môn văn , từ chương trình lớp 8
các em bắt đầu học văn nghị luận .Vì vậy việc bắt tay vào việc rèn luyện học sinh
từ năm lớp 8 là kịp thời và đúng lúc . Dạy HS giỏi cần phải mở rộng cho các em ở
các phân môn . Chẳng hạn , đối với môn giảng văn ngoài việc hướng dẫn các em
hiểu nội dung tác phẩm , giáo viên liên hệ thêm các vấn đề có liên quan đến tác
phẩm đó hoặc cùng một tác giả giáo viên có thể giảng thêm một số bài ngoài
chương trình . Dần dần các em sẽ có tầm nhìn xa hơn , cảm nhận tác phẩm với
chiều sâu hơn về mọi mặt , hiểu thêm về phong cách riêng của từng tác giả , điều
này chỉ có học sinh giỏi mới nắm bắt kịp . Đối với môn tập làm văn , ngoài dàn bài
cơ bản của văn nghị luận , ngoài kĩ năng viết văn theo yêu cầu thông thường , giáo
viên cũng cần trang bị cho các em kĩ năng cao hơn trong bài viết . Chẳng hạn khi
hướng dẫn HS làm bài văn chứng minh : Ở các lớp đại trà chỉ yêu cầu các em hiểu
nội dung đề bài , nắm dược yêu cầu bài văn chứng minh và thực hiện theo dàn bài
chung là đạt . Nhưng dạy học sinh lớp chọn , yêu cầu các em phải biết sáng tạo
thêm , sưu tầm thêm những dẫn chứng mới lạ , khi đưa dẫn chứng vào bài còn
phải biết phân tích dẫn chứng bằng góc độ hiều biết của các em , chứ không chỉ
nêu dẫn chứng là đủ . Qua thực tế cho thấy , bao giờ bài làm của các em lớp chọn
cũng có những nét nổi bật, sâu sắc, mới lạ hơn bài của học sinh các lớp khác .
Được trực tiếp dạy đối tượng học sinh lớp chọn từ năm lớp 8, nên việc phát
hiện và tuyển chọn các em vào đội tuyển học sinh giỏi văn của trường gặp nhiều
thuận lợi. Thế là đến đầu năm lớp 9, trường đưa ra chỉ tiêu chọn học sinh giỏi ở
các môn để bồi dưỡng trái buổi. Qua một năm giảng dạy, tôi đã phát hiện ra những
em có năng khiếu đặc biệt từ các bài viết, tôi khuyến khích các em đăng ký dự thi
môn văn. Tuy nhiên việc lựa chọn này cũng gặp khó khăn bước đầu : có những
học sinh yêu thích môn văn tự nguyện đăng ký vào đội tuyển, nhưng bên cạnh đó
một số học sinh có năng khiếu lại không thích thi văn. Đứng trước hiện trạng này,
giáo viên cần khéo léo giảng giải cho các em hiểu, thuyết phục các em bằng việc
chỉ ra những yếu tố cần có của một học sinh giỏi văn. Chẳng hạn giáo viên nêu ra :
học sinh giỏi văn là học sinh thực sự có năng khiếu môn văn, ngoài ra các em phải
biết rung động trước bài văn hay, có cảm xúc thẩm mỹ và biết sáng tạo trong bài
văn, những trường hợp này không phải ai cũng có được. Khi học sinh hiểu được
mình thuộc những tiêu chuẩn trên, các em sẽ thấy phấn khởi và lựa chọn ngay.
Phát hiện và tuyển chọn học sinh thực sự có năng khiếu và yêu thích môn văn
cùng với việc đã được đầu tư kiến thức từ những năm học trước sẽ thuận lợi rất
nhiều cho người giáo viên giảng dạy. Đây là khâu đầu tiên quan trọng góp phần
nâng cao hiệu quả trong việc bồi dưỡng học sinh giỏi. Trước thuận lợi này nhiều
năm qua đội tuyển học sinh giỏi trường tôi luôn chiếm ưu thế trong các kỳ thi
chọn học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh. Có năm, học sinh đạt giải với số điểm cao
nhất, nhì trong tỉnh.
2. Nội dung giảng dạy :
Sau khi chọn học sinh vào đội tuyển, chúng tôi tiến hành bồi dưỡng các em
bằng những giờ phụ đạo trái buổi từ đầu năm lớp 9 . Trường lên thời khoá biểu cụ
thể mỗi tuần 2 buổi. Đối với môn văn, mỗi buổi giáo viên chỉ cần dạy 3 tiết là đủ,
không nên dạy nhiều tiết trên 1 buổi, tránh dồn ép quá tải các em sẽ không tiếp
nhận hết.
Vấn đề đặt ra là nội dung giảng dạy : cần phải dạy học sinh những kiến thức
gì? Phương pháp dạy như thế nào? Đây cũng là một khâu không kém phần quan
trọng. Từ trước đến giờ chưa có ai biên soạn một chương trình nào riêng cho việc
bồi dưỡng học sinh giỏi, có chăng chỉ là những phạm vi giới hạn chung cho một
cấp học. Vì vậy mỗi giáo viên tự biên soạn cho mình nội dung kiến thức và tự vận
dụng phương pháp truyền đạt của mình cho học sinh cảm nhận.
Ở mặt này tôi chia làm 2 khâu :
- Trước tiên là hệ thống lại kiến thức cho học sinh, giảng kỹ từng phần cho
các em nắm vững. Ngoài kiến thức đã học trên lớp, tôi tổng hợp lại cho các em cả
các giai đoạn văn học suốt các thời kỳ từ trước đến nay : Từ văn học dân gian, văn
học trung đại, đến văn học hiện đại, mỗi thời kỳ chọn lọc những nét trọng tâm nổi
bật cần nhớ cho các em khắc sâu. Dạy những bài trong tâm trong chương trình và
cả những bài đọc thêm có trong từng giai đoạn văn học. Mặc dù ở mỗi năm học,
mỗi phần giáo viên đều có ôn tập, tổng hợp lại kiến thức nhưng thực tế cho thấy
học sinh vẫn còn rất yếu về khả năng khái quát, các em dễ nhầm lẫn các tác phẩm
các tác phẩm khác nhau trong các giai đoạn văn học nên khi đưa ra dẫn chứng
thường sai lệch.
Chẳng hạn có một lần thi học sinh giỏi cấp tỉnh, đề bài yêu cầu phân tích hình
ảnh người phụ nữ trong văn học thời phong kiến giai đoạn từ thế kỉ V đến hết thế
kỉ XIX. Rất nhiều học sinh đưa vào phân tích hình ảnh chị Dậu trong tác phẩm
“Tắt Đèn” của Ngô Tất Tố. Điều này cho thấy các em chưa nắm rõ các giai đoạn
văn học cụ thể.
Giáo viên cũng cần hướng dẫn các em phân biệt rõ nét đặc điểm văn học của
từng thời kỳ, mỗi thời đại văn học sẽ gắn liền với lịch sử, từ đó nội dung phản ánh
trong từng tác phẩm cũng theo xu hướng của thời đại. Có thế các em sẽ không bị
lạc đề khi gặp đề bài tổng hợp cả giai đoạn văn học.
Trong quá trình khái quát từng giai đoạn văn học cũng cần giảng lại nội dung
chính của mỗi tác phẩm, mở rộng các vấn đề có liên quan đến tác phẩm. Ví dụ khi
ôn bài “chạy giặc” của Nguyễn Đình Chiểu cần liên hệ đến bài khác nhưng cùng
tác giả đó và cùng thể hiện nội dung như bài “Xúc cảnh” chẳng hạn.
Khi dạy bài “Qua Đèo Ngang” cũng cần liên hệ thêm bài “Chiều hôm nhớ
nhà” của bà Huyện Thanh Quan. Dạy bài “Thu điếu” của Nguyễn Khuyến cũng
phải giới thiệu thêm bài “Thu vịnh”, “Thu ẩm”… Có thế học sinh mới có tầm nhìn
xa hơn về nội dung tác phẩm, hiểu sâu thêm về phong cách sáng tác của từng tác
giả, khi gặp dạng đề tổng hợp yêu cầu phân tích một vài tác phẩm hoặc phân tích
sánh đôi hai tác phẩm một lúc, các em sẽ không bở ngở.
Nói chung, về phần kiến thức khi dạy cho học sinh giỏi, tôi soạn kỹ nội dung
văn học suốt các thời kỳ, kể cả các tác phẩm học sinh đã học ở những năm lớp 6,
lớp 7, làm sao cho các em hình thành cả một nền văn học Việt Nam trong trí nhớ
và sắp xếp có hệ thống, buộc các em phải nhớ. Ngoài ra học sinh cũng cần phải
thuộc một số tác phẩm tiêu biểu để làm tư liệu dẫn chứng.
- Khi học sinh đã nắm được nội dung kiến thức, bước tiếp theo là luyện cho
các em kỹ năng làm bài. Phần nhiều học sinh còn vụng về trong cách viết văn, các
em chưa biết sắp xếp hợp lý theo lô gích trong quá trình làm bài, từ đó diễn đạt lan
man không rõ ý, hoặc còn lập lại ý vừa diễn đạt, có khi đưa đến sai yêu cầu của đề
bài. Vì vậy tập cho các em có thói quen thực hiện theo trình tự là việc làm trước
tiên trong quá trình rèn luyện kỹ năng.
Trước tiên , tập cho HS cách nhận dạng đề , tìm hiểu các yêu cầu của đề bài ,
phân tích tích đề và lập dàn ý trước khi làm bài . Muốn làm được việc này , giáo
viên cần sưu tầm nhiều đề bài với nhiều dạng khác nhau để các em phân biệt thể
loại , xong rồi chọn vài đề cụ thể hướng dẫn các em phân biệt thể loại , xong rồi
chọn vài đề cụ thể hướng dẫn các em thực hiện . Trước một đề bài , HS xác định
được đề bài có mấy yêu cầu ? ( yêu cầu về thể loại , yêu cầu về nội dung ) , xác
định từ ngữ trọng tâm của đề bài , gạch dưới để nhấn mạnh , xong tiến hành chọn
dàn ý . Cần phải cho HS có thói quen lập dàn ý trước khi làm bài , có thế khi tiến
hành viết văn các em sẽ không lúng túng vì có chỗ dựa để làm , bài viết sẽ đi đúng
hướng .
Khi học sinh đã định hướng được những việc cần làm , bước tiếp theo cần
luyện cho các em cách sử dụng ngôn ngữ diễn đạt . Việc lựa chọn từ ngữ không
khéo sẽ dẫn đến bài văn thiếu mạch lạc hoặc bình luận không rõ vấn đề . Vì vậy
phải rèn luyện cho học sinh ngay trong từng câu văn , khi các em viết chưa lưu
loát . Giáo viên sẽ chọn một vài câu điển hình để sửa chung cho cả nhóm , sửa cả
những trường hợp các em dùng lỗi lặp , có thể chỉ cách cho các em cùng một tên
gọi nhưng có thể diễn đạt bằng nhiều kiểu khác nhau , tránh lặp lại từ đã dùng .
Nắm vững kĩ năng làm bài , diễn đạt ý lưu loát bài văn học sinh sẽ gây sức thu
hút cho người đọc .
3/ Thực hành trên bài viết :
Học sinh nắm vững nội dung kiến thức, hiểu rõ kĩ năng làm bài , giáo viên bắt
đầu hướng dẫn các em thực hành một số đề bài cụ thể . Đề bài phải được chọn lọc
mới, lạ có tính chất khơi mở cho các em tìm tòi . Có thể chọn những đề chìm cho
học sinh tự tìm ra những yêu cầu của đề hoặc các đề có tính chất tổng hợp cả giai
đoạn , cũng có thể chọn các đề phân tích , bình luận sánh đôi , các đề có đối chiếu
với vấn đề khác…
Tập cho các em quen dần với những vấn đề khó nhận dạng để các em thực hành .
Xong, giáo viên chấm và chỉ ra những thiếu sót cho học sinh rõ .
Chẳng hạn : ở đề bài chứng minh hay phân tích đòi hỏi HS phải biết vận dụng
sáng tạo từ vốn kiến thức sẳn có của mình về văn học và xã hội . Bài viết phải có ý
mới mẻ , xuất phát từ khả năng hiểu biết của các em .
Đối với đề bài bình luận , yêu cầu HS có vốn kiến thức về đời sống xã hội
phong phú , có cái nhìn sâu xa về thực tế , bài viết phải có sức thuyết phục cao .
Có được điều này học sinh phải biết biến kiến thức của thầy , của tài liệu thành
kiến thức của mình , phải có được những ý kiến thuyết phục trước vấn đề đặt ra .
Việc chấm và sửa bài HS đòi hỏi giáo viên phải tốn nhiều thời gian và công
sức , bởi lẽ qua quá trình rèn luyện, thành quả đạt được là từ bài làm mà các em
thể hiện lên . Vì vậy phải xem xét kĩ từ nội dung đến hình thức diễn đạt, sửa cho
các em trong từng câu văn khi viết chưa lưu loát hoặc liên kết ý trong từng đoạn
chưa rõ ràng . Điều này phải căn cứ vào thực tế bài làm của học sinh để chỉ ra cho
các em thấy khuyết điểm của mình . Sau mỗi bài làm được giáo viên sửa kĩ , học
sinh sẽ có thêm kinh nghiệm để làm ở những bài tiếp theo .
4/ Hướng dẫn học sinh tự học :
Ngoài việc được giáo viên giảng dạy trên lớp , được tiếp cận kiến thức từ sách
giáo khoa , học sinh cũng cần có thời gian tự học ở nhà.
Trong việc tích luỹ kiến thức , bước tự học có vai trò quan trọng. Một trong
những “tiêu chuẩn” của học sinh giỏi là vốn kiến thức ( về văn chương , về cuộc
đời ) phải phong phú , sâu rộng , chắc chắn và có hệ thống. Những kiến thức mà
các em thu lượm được trong nhà trường , trong bài giảng của giáo viên chưa đủ.
Các em còn phải tích luỹ thêm qua con đường tự đọc sách. Tuy nhiên việc tự học
này, cũng phải theo trình tự, cần có sự hướng dẫn của giáo viên : phải chọn tài liệu
gì để đọc? Khi đọc phải đảm bảo yêu cầu : đọc có hệ thống, đọc theo mục đích,
đọc theo đề tài, đọc để mở rộng… có thế các em mới nắm vững kiến thức vừa đọc.
Giáo viên còn phải hướng dẫn các em sưu tầm thêm những câu ca dao, tục
ngữ, những bài thơ hoặc các câu thơ trong những bài thơ dài, ghi lại để làm tư liệu
dẫn chứng, các em phải biết ghi lại theo nhóm cùng thể hiện nội dung.
Ví dụ: - Những câu ca dao, tục ngữ mang tính triết lý, mang ý nghĩa giáo
dục
- Những câu ca dao, tục ngữ nói về thân phận của người phụ nữ trong
xã hội xưa.
- Những bài thơ nói lên tình yêu thiên nhiên của các tác giả thời trung
đại…
Biết phân nhóm theo cùng nội dung và thuộc bài các em sẽ dễ dàng vận dụng
trong quá trình làm bài không phải mất nhiều thời gian chọn lọc.
Ở khả năng tự học còn yêu cầu học sinh phải đọc thêm những bài văn mẫu
được chọn lọc từ các kỳ thi học sinh giỏi để các em bổ sung vốn kiến thức của
mình, đọc cả những bài bình luận văn học của các tác giả lớn để mở rộng tầm hiểu
biết, học tập cách bình luận ở góc độ cao hơn. Học sinh cần phải hiểu tầm quan
trọng của việc tự học để các em có sự cố gắng tìm tài liệu và tự nghiên cứu.
Tóm lại, muốn đạt được kết quả cao trong kỳ thi chọn học sinh giỏi môn văn,
không chỉ nhờ sự hướng dẫn của thầy mà còn có sự kết hợp về khả năng tự rèn
luyện của các em.
III/ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC :
Qua thực tế bồi dưỡng học sinh giỏi văn trong các kỳ thi chọn học sinh của
nghành, áp dụng theo cách dạy trên, đúc kết kinh nghiệm của từng năm tôi thấy
kết quả có sự gia tăng, thành tích đạt được năm sau luôn cao hơn năm trước.
Thống kê kết quả của học sinh giỏi văn cấp tỉnh những năm qua như sau :
NĂM HỌC TỔNG SỐ HS DỰ
THI
KẾT QUẢ ĐẠT
ĐƯỢC
DANH HIỆU
1998 - 1999
1999 - 2000
2001 - 2002
04 (HS)
07 (HS)
07 (HS)
03
06
06
1 giải nhì, 2 giải
ba
2 giải nhì, 4 giải
ba
3 giải nhì, 3 giải
ba
IV/ BÀI HỌC KINH NGHIỆM :
Để đạt được kết quả cao trong quá trình bồi dưỡng học sinh dự thi chọn học sinh
giỏi chúng tôi phải bỏ nhiều tâm huyết , kiên trì , chịu khó tìm tòi và phát hiện
những điều mới lạ để truyền đạt cho học sinh . Đi vào thực tế việc bồi dưỡng học
sinh giỏi có nhiều khâu phong phú và phức tạp như kỹ năng viết , kỹ năng trình
bày … Tuy nhiên ở phàm vi giới hạn tôi chỉ trình bày những suy nghĩ riêng của
mình trong quá trình thực hiện nhiều năm qua, những việc trọng tâm mình đã làm :
- Thực tế cho thấy việc phát hiện và chọn học sinh giỏi phải có sự hổ trợ
của Ban giám hiệu trường , phải được đầu tư từ những năm học trước , đồng thời
phải có sự tự nguyện của học sinh khi tham gia học tập cũng như khi đăng kí dự
thi .
- Nội dung giảng dạy được biên soạn chu đáo , mở rộng các vấn đề xa hơn
và truyền đạt có hệ thống , kết hợp với việc rèn luyện kĩ năng viết văn cho học
sinh , tập cho các em có thói quen sắp xếp theo trình tự trước khi làm để đi đúng
hướng .
-Hướng dẫn học sinh thực hành trên cơ sở chọn lọc kĩ các dạng đề , chấm và
sửa bài cụ thể từng chi tiết cho học sinh , rèn luyện phong cách viết văn theo yêu
cầu .
- Học sinh tự học, tự tìm tòi nghiên cứu tài liệu theo sự hướng dẫn của giáo
viên,
bổ sung thêm kiến thức cho phong phú .
Muốn việc bối dưỡng học sinh giỏi đạt kết quả tốt theo tôi cần phải có sự
kết hợp nhiều mặt :
+ Trước tiên giáo viên phải yêu nghề , có bản lĩnh và có tinh thần trách
nhiệm cao .
+ Học sinh phải có năng khiếu , biết đam mê và chịu khó học tập . Các
em phải biết rung động trước vẻ đẹp của văn chương và biết biến những rung cảm
ấy thành lời , thành bài làm văn qua cách tiếp nhận của chính mình .
+ Có sự hổ trợ của lãnh đạo trong việc chọn lựa học sinh .
Đó là những điều kiện không thể thiếu được để đạt kết quả tốt .
V/ KẾT LUẬN :
Trãi qua thực tế giảng dạy mỗi giáo viên đều rút ra được cho mình một ít kinh
nghiệm trong việc bồi dưỡng HS giỏi . Tuy nhiên đây chỉ là kinh nghiệm cá nhân ,
còn tuỳ thuộc vào điều kiện của từng trường, từng địa phương khác nhau sẽ có
thêm những kinh nghiệm hay và mới mẽ hơn nữa. Rất mong được trao đổi, học
tập, bổ sung thêm từ các kinh nghiêm của đồng nghiệp để công tác bồi dưỡng học
sinh giỏi ngày càng đạt thành tích cao hơn.
-