Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Phân tích phân loại hang hóa xuất khẩu, nhập khẩu pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.24 KB, 29 trang )



LỜI NÓI ĐẦU
Hoạt động phân tích phân loại hang hóa xuất khẩu, nhập khẩu của Hải quan là một khâu
công tác nghiệp vụ của quy trình thủ tục hải quan, tiến hành kiểm tra mẫu hang hóa bằng
nghiệp vụ kỹ thuật trong Phòng thí nghiệm hải quan, nhằm xác định chính xác tên hang, mã
số của hang hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu và theo
Hệ thống hài hòa mô tả và mã hóa hàng hóa ( gọi tắt là Danh mục HS ).
Việc xác định đúng mã số thuế hàng hóa trong quá trình làm thủ tục hải quan đối với
hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu luôn có một vai trò quan trọng đặc biệt. Nó giúp cho cơ quan
hải quan ( kết hợp với các yếu tố về giá, về số lượng, trọng lượng, xuất xứ của hàng hóa ) xác
định đúng số thuế phải nộp, xác định hàng hóa đó có vi phạm chính sách quản lý nhà nước
hay không; kết hợp với kết luận kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước về chất lượng chuyên
ngành khác xác định được hàng hóa đó có đáp ứng được các yêu cầu về chất lượng không,
đảm bảo chính xác hơn số liệu thống kê hải quan theo cơ cấu mặt hàng.
Tuy nhiên việc xác định đúng tên hàng, mã số thuế trong biểu thuế xuất khẩu, nhập
khẩu của hàng hóa xuất nhập khẩu luôn là vấn đề khó khăn nhất đối với những mặt hàng có
tính chất phức tạp như hóa chất, thực phẩm, các mặt hàng công nghệ cao mới xuất hiện trên
thị trường. Đối với những mặt hàng như vậy thì việc nắm vững các qui tắc phân loại hàng hóa
theo công ước HS hoặc của pháp luật về thuế chưa đủ mà phải biết được tính chất hóa lý,
thành phần cấu tạo… của hàng hóa thì mới có thể xác định được đúng mã số hàng hóa theo
HS cũng như theo Biểu thuế xuất khẩu, nhập khẩu. Những phân tích như vậy chỉ có thể thực


hiện được thông qua công tác phân tích hàng hóa bằng các phương tiện máy móc chuyên
dùng. Các Trung tâm phân tích phân loại hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu miền Bắc, miền
Trung, miền Nam được thành lập theo Quyết định 32/2003/QĐ/BTC, ngày 17/3/2003 của Bộ
trưởng Bộ Tài chính đã giải quyết được một phần lớn khó khăn trong công tác này.
Với thực trạng hiện nay, kim ngạch XNK của Việt Nam tăng bình quân từ 13% đến 16%
năm. Tổng kim ngạch XK hàng hóa và dịch vụ tới năm 2010 sẽ đạt khoảng 58 tỷ USD. Tổng
kim ngạch nhập khẩu và dịch vụ tới năm 2010 là 57,14 tỷ USD, các hoạt động XNK và xuất


nhập cảnh tăng lên phong phú và đa dạng. Theo đó, các thủ đoạn buôn lậu gian lận thương
mại cũng tinh vi và phát triển lên rất nhiều.
Một trong các công cụ rất có hiệu lực, hiệu quả của ngành Hải quan sử dụng nhằm phát
hiện, ngăn chặn và góp phần giảm bớt các hiện tượng gian lận thương mại, tránh thất thu thuế
cho nhà nước là hoạt động phân tích phân loại hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu trong ngành
Hải quan.
Các Trung tâm phân tích phân loại đã hỗ trợ đắc lực, thực sự trở thành một địa chỉ đáng
tin cậy cho Hải quan địa phương trong công tác kiểm tra thực tế hàng hóa và đã tham mưu
trách nhiệm, tích cực, có chất lượng trong việc phân loại mã số hàng hóa xuất khẩu. nhập
khẩu. Các Trung tâm còn góp phần chấn chỉnh lại một số kết quả giám định không chính xác
và trở thành đối trọng với các đơn vị giám định khác.




A- TÌNH HUỐNG
Xử lý tình huống Công ty TNHH Thương mại Việt Thắng khiếu nại Chi cục Hải quan
AH áp mã thuế nhập khẩu Gạch lát nền bằng bột đá ép.
I.Hoàn cảnh ra đời
Tình huống xảy ra năm 2008 liên quan tới vấn đề áp mã số thuế nhập khẩu vật liệu xây
dựng của Công ty TNHH Thương mại Việt Thắng.
II. Diễn biến tình huống
Ngày 12/04/2008 Trung tâm phân tích phân loại hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu Miền
Bắc nhận được yêu cầu phân tích phân loại 01 mặt hàng nhập khẩu theo khai báo là Gạch lát
nền bằng bột đá ép của chi cục Hải quan AH miền Bắc thuộc tờ khai 204/NK/KD/AH ngày
2/3/2008 do công ty TNHH thương mại Việt Thắng nhập khẩu với mã số thuế hàng hóa tự
khai báo là 6810.19.10 với thuế suất 30%.
Trung tâm đã tiến hành phân tích xác định các thông số kỹ thuật của mẫu gạch trên, so
sánh đối chiếu với các mẫu gạch thực tế sản xuất được trong nước kết luận mẫu phân tích là
Gạch lát nền bằng gốm Granit. Do có sự sai khác giữa khai báo của chủ hàng với kết quả

phân tích phân loại nên Trung tâm phân tích phân loại miền Bắc đã gửi mẫu trên đến Viện
khoa học Công nghệ vật liệu xây dựng – Bộ Xây dựng để trưng cầu giám định thêm. Ngày
04/05/2008 Viện KHCN Vật liệu xây dựng đã kết luận :
1. Các chỉ tiêu cơ lý


STT Tên chỉ tiêu Đơn vị Kết luận Ghi chú
1 Độ cứng Mohs 7
2 Độ hút nước % 3,2
3 Nhiệt độ nung
o
C 1000
2.Nhận xét
- Mẫu gạch đã được nung đến nhiệt độ 100
o
C song không bị phá hủy, chứng tỏ gạch
không có liên kết bằng xi măng pooclăng hay chất hữu cơ.
- Độ cứng bề mặt tốt ( 7Mohs ) tương đương độ cứng đá thạch anh.
- Độ hút nước còn khá lớn ( 3,2% ) tuy nhiên với độ hút nước này gạch đã kết khối.
 Kết luận : Qua các chỉ tiêu kỹ thuật đã xác định cho thấy mẫu gạch là loại gạch gốm
Granit đã nung tới nhiệt độ kết khối, bề mặt gạch được mài và đánh bóng. Mẫu gạch không
phải là gạch bột đá ép không nung.
Căn cứ vào các kết quả phân tích trên ngày 20/05/2008 Trung tâm phân tích phân loại miền
Bắc đã ra Thông báo kết quả phân tích phân loại hàng hóa số 3264/TCHQ/PTPLMB gửi
chi cục Hải quan AH miền Bắc với nội dung như sau : Mẫu phân tích phân loại là gạch lát
nền bằng gốm Granit, đã nung tới nhiệt độ kết khối, bề mặt gạch được mài và đánh bóng, mã


số thuế 6907.90.10 với thuế suất 50%.Chi cục Hải quan AH miền Bắc đã ra quyết định truy
thu thuế với lô hàng nhập khẩu trên. Doanh nghiệp không đồng ý với quyết định trên nên đã

gửi đơn khiếu nại lên Cục Hải quan AH miền Bắc, lên Tổng cục Hải quan, lên Bộ Tài chính
về việc áp mã tính thuế lô hàng Gạch lát nền bằng bột đá. Trong đơn khiếu nại doanh nghiệp
có gửi kèm các chứng thư giám định của các cơ quan giám định khác do doanh nghiệp tự đi
trưng cầu như sau :
a.Chứng thư giám định về chủng loại số 245/NĐ/2008E ngày 21/04/2008 của
HAVICONTROL :
Theo yêu cầu của công ty TNHH Thương mại Việt Thắng, chúng tôi HAVICONTROL
đã tiến hành xác định chủng loại của 01 viên gạch lát nền kích thức (20x10) cm có dán niêm
phong bằng giấy của chi cục Hải quan AH miền Bắc ký ngày 08/04/2008 ( do khách hàng
đem đến ). Căn cứ kết quả kiểm tra thực tế và quy trình sản xuất gạch Granit, chúng tôi xác
định rằng :
- Viên gạch ốp lát (20x10)cm nêu trên được làm từ bột đá ép có nhuộm màu và được
qua công đoạn mài bóng bề mặt.
- Mã số thuế theo Quyết định số 110/2003/QĐ/BTC của Bộ Tài chính ban hành ngày
25/07/2007 : 6810.19.10
b. Chứng thư của Trung tâm Dịch vụ kỹ thuật số 132/KT2/K4-TBKQ , ngày 04/06/2008 :
 Kết quả thử nghiệm


TT Tên chỉ tiêu Đơn vị tính Phương pháp Kết luận
1 Kích thước
+ Chiều dài mm TCVN 6074 : 1995 600
+ Chiều rộng mm 600
+ Chiều dày mm 9,4
2 Độ hút nước % TCVN6355-3: 1995 0,078
3 Độ cứng Mohs TCVN 6415 : 1998 7
4 Độ bền hóa với dung
dịch axit HCl 5%
TCVN 6415 : 1998 Không bị phá hủy
5 Khả năng chịu nhiệt

nung ở t
o
= 1000
o
C
Không bị biến dạng
6 Thành phần hóa


+ SiO
2
% 65,92
+ Al
2
O
3
% 20,87
7 Độ mài mòn g/cm
2
TCVN 6065 : 1995 0,30

 Sau khi tiến hành thử nghiệm các chỉ tiêu kỹ thuật của mẫu gạch nói trên, Trung tâm Dịch
vụ kỹ thuật xin thông báo như sau :
- Qua quan sát bằng trực quan cho thấy mẫu gạch được kiểm tra là loại đá ốp lát nhân
tạo qua ép tạo hình và qua nung.
- Kết quả các chỉ tiêu đã kiểm tra cho thấy mẫu được nung kết khối rắn chắc và không
phải là đá bột ép chưa qua nung.
- Kết quả phân tích thành phần khoáng cho thấy thành phần chủ yếu của gạch là SiO
2


khoáng ( 3Al
2
O
3
.SiO
2
) đã hình thành trong quá trình nung tạo ra liên kết bền vững và
có độ cứng bề mặt cũng như độ bền cơ học cao.
 Kết luận : Mẫu gạch đá lát nền đã được kiểm tra có kích thước (600x600)mm không phải
là đá Granit tự nhiên. Đây là mẫu đá Granit nhân tạo. Thuộc nhóm mã hàng 6810.19.10 theo
Quyết định số 110/2003/QĐ-BTC ban hành ngày 25 tháng 7 năm 2003.


Đơn khiếu nại cùng các chứng thư trên đã được Lãnh đạo Bộ Tài chính và Lãnh đạo
Tổng cục Hải quan chuyển cho Trung tâm phân tích phân loại miền Bắc kiểm tra, nghiên cứu,
báo cáo và đề xuất Lãnh đạo Bộ, Lãnh đạo Tổng cục Hải quan hướng giải quyết.
B. PHÂN TÍCH XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
I/ Xác định mục tiêu xử lý tình huống
Hiện nay, có 3 loại hình hoạt động cơ bản liên quan trực tiếp đến việc phân tích xác định
bản chất hàng hóa XNK, đó là hoạt động giám định thương mại, hoạt động kiểm tra chất
lượng nhà nước đối với hàng hóa NK, hoạt động phân tích phân loại hàng hóa của Hải quan.
Ở đây có một số điểm đáng lưu ý như sau :
- Các tổ chức giám định thương mại chủ yếu phục vụ cho mục đích thương mại, các đơn
vị sự nghiệp kỹ thuật chủ yếu phục vụ cho mục đích quản lý chuyên ngành của các Bộ,
ngành. Các tổ chức giám định, đơn vị kiểm tra hàng hóa chuyên ngành đều không có
chức năng phân loại áp mã số hàng hóa XK, NK theo Danh mục HS và Biểu thuế XK,
NK.
- Một số chứng thư giám định không đáp ứng được yêu cầu phục vụ việc phân loại, áp
mã số hàng hóa của cơ quan hải quan, thậm chí có cả những chứng thư không bảo đảm
tính khách quan, trung thực hoặc hàng hóa bị từ chối giám định với nhiều lý do khác

nhau.Chức năng của hoạt động phân tích phân loại của Hải quan là xác định tên và mã
số hàng hóa theo hệ thống HS và Biểu thuế trên cơ sở kết quả phân tích hàng hóa trong
phòng thí nghiệm hải quan.


Tuy nhiên, trước kia các cơ quan Hải quan thường căn cứ vào chứng thư giám định về
thành phần, bản chất, tính năng, thông số kỹ thuật của các cơ quan bên ngoài để tiến hành
phân loại áp mã hàng hóa xuất khẩu nhập khẩu. Hiện nay, tuy đã có các Trung tâm phân tích
phân loại hải quan nhưng trong thực tế các Trung tâm phân tích phân loại cũng không thể đáp
ứng được tất cả các yêu cầu giám định phục vụ cho công tác quản lý nhà nước của ngành Hải
quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu cho nên trong Luật Hải quan sửa tại khoản 4
điều 27 quy định : Lấy mẫu hàng hóa với sự có mặt của người khai hải quan để cơ quan hải
quan phân tích hoặc trưng cầu giám định phục vụ kiểm tra hàng hóa; sử dụng kết quả phân
tích, kết quả giám định để xác định mã số và chất lượng hàng hóa. Như vậy theo Luật Hải
quan cơ quan Hải quan các địa phương sẽ là người quyết định kết quả phân loại áp mã đối với
hàng hóa XNK và tự chịu trách nhiệm với quyết định của mình sau khi tham khảo kết quả
giám định.
Chính vì vậy, những bất đồng trong hoạt động phân loại áp mã đối với hàng xuất nhập
khẩu giữa cơ quan Hải quan với các doanh nghiệp hoặc giữa các cơ quan hải quan trong
ngành là lẽ đương nhiên, đây cung là nguồn gốc phát sinh những vụ việc khiếu kiện về phân
loại áp mã hàng hóa giữa doanh nghiệp và các cơ quan Hải quan.
Đối với vụ việc Gạch lát nền bằng bột đá ép trên do có các kết luận khác nhau về mã số
thuế giữa các cơ quan giám định cho nên chúng ta phải xem xét đánh giá một cách khách
quan trên cơ sở các căn cứ khoa học và các văn bản qui phạm pháp luật hiện hành đảm bảo
tính công khai, công bằng, đúng pháp luật.
II. Cơ sở lý luận


Thực hiện chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa với nhiều thành phần kinh tế khác
nhau, chủ động hội nhập kinh tế thế giới và khu vực, Việt nam đã có quan hệ thương mại với

nhiều nước trên Thế giới thông qua các Hiệp định song phương, đa phương. Có thể nói, hiện
nay tại các cửa khẩu hàng hóa được nhập khẩu vào Việt Nam từ nhiều nước, nhiều vùng khác
nhau trên Thế giới, rất đa dạng về chủng loại, mẫu mã, đa tính năng sử dụng trên một sản
phẩm. Vì vậy, phân tích phân loại hàng hóa nhập khẩu trở nên phức tạp, khó khăn hơn nếu
việc kiểm tra thực tế hàng hóa chỉ bằng phương pháp trực quan. Là lực lượng “Gác cửa nền
kinh tế” với nhiệm vụ thực hiện kiểm tra, giám sát hàng hóa, phương tiện vận tải, phòng
chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới; tổ chức thực hiện pháp luật về
thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu ( Điều 11 – Luật Hải quan ) đòi hỏi nghành Hải
quan phải lỗ lực phấn đấu nâng cao năng lực, hiệu quả về phân tích phân loại hàng hóa xuất
khẩu, nhập khẩu để thu đúng, thu đủ các loại thuế đối với hàng hóa nhập khẩu, đảm bảo
nguồn thu cho ngân sách, chống gian lận thương mại qua áp mã; ngăn chặn, phát hiện kịp
thời hàng hóa cấm nhập khẩu, đồng thời đảm bảo quyền lợi chính đáng của cá nhân, tổ chức,
doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu.
Từ yêu cầu thực tiện khách quan, chủ quan, công tác phân tích phân loại hàng hóa xuất
nhập khẩu đã được coi là công cụ nghiệp vụ quan trọng, có tính đột phá trong xây dựng lực
lượng Hải quan hiện đại, đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ của ngành và góp phần thực hiện
những cam kết mà Việt Nam đã ký kết về Công ước HS của Tổ chức Hải quan Thế giới (
WCO ). Chính vì vậy, Quốc hội Chính phủ, Bộ Tài chính, Tổng cục Hải quan thực sự quan
tâm, tạo điều kiện cho hoạt động phân tích phân loại hàng hóa xuất khẩu với những hệ thống
quy định pháp luật có tính pháp lý cao như :


- Điều 27, 72 Luật Hải quan số 29/2001/QH10 ngày 29/06/2001.
- Nghị định số 101/2001/NĐ-CP ngày 31/12/2001.
- Nghị định 06 /2003/NĐ-CP ngày 22/12//01/2003 của Chính phủ.
- Thông tư số 85/2003/TT-BTC ngày 29/08/2003 của Bộ Tài chính.
- Quyết định số 32/2003/QĐ-BTC ngày 17/03/2003 của Bộ Tài chính quy địn về chức
năng nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các Trung tâm PTPL hàng hóa XNK.
- Quyết định số 710/2003/QĐ-TCHQ/PTPL ngày 03/06/2003 ban hành quy chế PTPL
hàng hóa XNK trong ngành Hải quan.

- Quyết định số 1711/2003/QĐ-TCHQ ngày 18/12/2003 ban hành quy chế phối hợp
giữa các đơn vị trong ngành Hải quan về việc thực hiện phân loại hàng hóa XK, NK.
- Luật Hải quan đã được sửa đổi, bổ sung năm 2005.
- Các văn bản hướng dẫn PTPL hàng hóa XNK của Tổng cục Hải quan.
III. Phân tích tình huống
Sự phát triển mạnh mẽ về khoa học công nghệ trên thế giới đã tạo ra nhiều chủng loại hàng
hóa mới với nhiều tính năng, trong khi trình độ của cán bộ hải quan cũng như cơ sở vật chất
phục vụ cho việc giám định hàng hóa chưa theo kịp cùng nhiều nguyên nhân khách quan, chủ
quan khác khiến cho công tác phân tích phân loại hàng hóa xuất nhập khẩu còn nhiều bất cập.
Những bất cập chính trong công tác phân tích phân loại hàng hóa hiện nay như sau :


- Tình trạng một mặt hàng được phân loại vào các mã số khác nhau ở các chi cục hải
quan khác nhau hoặc ở các hải quan địa phương khác nhau vẫn còn tồn tại và rơi vào
nhiều mặt hàng ( chẳng hạn mặt hàng biến điện áp loại cao thế, màn hình dẹt, chất tạo
hương cho thực phẩm … ).
- Cùng một mặt hàng nhưng kết quả giám định của các cơ quan giám định hàng hóa
không thống nhất dẫn đến kết quả phân loại khác nhau, gây khiếu kiện kéo dài từ phía
doanh nghiệp. Một số cơ quan giám định hàng hóa chưa làm tốt chức năng giám định,
cá biệt có trường hợp có biểu hiện giám định theo “đặt hàng” của doanh nghiệp.
- Đối với mặt hàng khó phân biệt giữa dược phẩm và mỹ phẩm, giữa dược phẩm và chất
bổ dưỡng thường phát sinh tranh chấp giữa cơ quan hải quan và đối tượng nộp thuế.
Tình trạng này cũng diễn ra phổ biến đối với các mặt hàng hóa chất, giấy, sắt thép…
Đối với, các mặt hàng dược phẩm, tình trạng áp mã chưa thống nhất một phần cũng do
việc xác nhận của Bộ Y tế chưa nhất quán. Chẳng hạn, như trường hợp viên sủi HASS
và viên PLUS có thành phần tương tự nhưng viên sủi PLUS được Cục Dược – Bộ Y tế
xác nhận là dược phẩm, còn viên sủi HASS lại được Cục Vệ sinh an toàn thực phẩm
xác nhận là thực phẩm.
Có rất nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan khiến cho công tác phân tích phân
loại hàng hóa xuất nhập khẩu còn nhiều bất cập. Chúng ta có thể đề cập đến một số

nguyên nhân cơ bản sau :


- Trong Biểu thuế xuất nhập khẩu Việt Nam hiện nay còn có nhiều mức thuế suất khác
nhau trong một nhóm hàng do nhu cầu bảo hộ khác nhau, chênh lệch giữa các mức
thuế trong biểu thuế còn rất lớn làm cho các doanh nghiệp luôn tìm cách gian lận trong
khai báo. Một số mặt hàng vẫn được phân theo mục đích sử dụng ( chẳng hạn loại sử
dụng trong gia đình hay không sử dụng trong gia đình …. ), đây cũng là một khó khăn
cho công tác phân tích phân loại.
Trong vụ việc Gạch lát nền bằng bột đát ép trên nguyên nhân của việc khiếu kiện cũng
là do chênh lệch mức thuế của nhóm hàng gạch lát nền qua lớn như mã số thuế 681019.10 có
thuế suất 30%, còn mã số thuế 6907.90.10 có thuế suất 50% ( so sánh Thái Lan là nước trong
nhóm các nước ASEAN trong biểu thuế XNK chỉ còn chủ yếu 2 mức thuế là 0% và 5% ).
- Việc biên dịch, phát hành các tài liệu, chú giải giải thích của Danh mục HS còn chưa
chính xác, đầy đủ, kịp thời gây khó khăn cho công tác phân tích phân loại hàng hóa
XNK.
- Hệ thống thông tin nối mạng trong toàn ngành Hải quan còn chưa có dẫn đến các
thông tin về kết quả phân tích phân loại chưa được trao đổi, cập nhật giữa các chi cục
Hải quan các điạ phương.
- Việc phối hợp giữa các Bộ, ngành, giữa các Trung tâm phân tích phân loại Hải quan
với các đơn vị giám định thương mại, các đơn vị sự nghiệp kỹ thuật chuyên ngành còn
chưa tốt trong hoạt động phân tích phân loại hàng hóa XNK.


- Chưa xây dựng được phương pháp chuẩn thống nhất toàn quốc để làm cơ sở so sánh
đối chiếu kết quả phân tích mẫu hàng khi có khác nhau về kết quả giám định hàng hóa
XNK. Việc này cần có sự chủ trì của Bộ Khoa học công nghệ nòng cốt là Tổng cục
Tiêu chuẩn đo lường Chất lượng.
- Cần nâng cao trình độ về thương phẩm học, về kiến thức phân loại hàng hóa theo HS,
về các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực phân tích phân loại hàng

hóa cho các công chức hải quan làm nhiệm vụ kiểm tra thực tế hàng hóa XNK.
IV. Phương án giải quyết
Sau khi nhận được đơn khiếu nại và chứng thư giám định liên quan đến vụ Gạch lát nền
bằng bột đá ép Trung tâm phân tích phân loại miền Bắc đã xem xét kiểm tra lại các kết quả
phân tích mẫu, tiến hành thu nhập các mẫu gạch lát nền bằng bột đá ép sản xuất trong nước
cùng các tài liệu kỹ thuật, so sánh mẫu phân tích với các mẫu thu thập được, đã kết luận kết
quả phân tích phân loại của Trung tâm hoàn toàn chính xác.
Thực hiện sự chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ Tài chính và Lãnh đạo Tổng cục Hải quan về
việc trả lời đơn khiếu nại số 56/KN/BĐ ngày 26/12/2008 đối với mặt hàng Gạch lát nền bằng
bột đát ép thuộc tờ khai hải quan số 204/NK/KH/AH của công ty TNHH Thương mại Việt
Thắng, trong nội dung đơn có đề cập đến việc lấy mẫu và giám định mẫu của cơ quan Hải
quan và nguyên tắc áp mã hàng hóa để tính thuế. Trung tâm phân tích miền Bắc đã tiến hành
các bước giải quyết như sau :


Bước 1 : Về vấn đề phân tích, phân loại cho mẫu hàng theo khai báo Gạch lát nền bằng
bột đá ép thuộc tờ khai hải quan số 204/NK/KH/AH của công ty TNHH Thương mại Việt
Thắng và một số sự khác biệt giữa các thông báo kết quả phân tích phân loại của các tổ chức
giám định với thông báo kết quả của Trung tâm phân tích phân loại miền Bắc, Trung tâm đã
có công văn số 3986/TCHQ/PTPLMB ngày 25/08/2008 trình Lãnh đạo Tổng cục Hải quan và
gửi Vụ GSQL, cục Hải quan AH miền Bắc, chi cục Hải quan Ah miền Bắc, Tổng cục Tiêu
chuẩn – Đo lường – Chất lượng, Havicontrrol và Viện Khoa học Vật liệu Xây dựng biết để
phối hợp.
Nội dung Công văn như sau :
1.Về kết quả phân tích và phân loại áp mã hàng hóa
- Qua phân tích mẫu hàng nêu trên, kết quả của Trung tâm Dịch vụ Kỹ thuật, của Viện Vật
liệu Bộ Xây dựng và của Trung tâm phân tích phân loại miền Bắc đều thống nhất kết luận :
mẫu hàng là loại sản phẩm đã được nung kết khối rắn chắc và không phải là đá bột ép chưa
qua nung. Tuy nhiên tịa chứng thư 245 nêu trên ; HVICONTROL lại chỉ kết luận gạch này
“được làm từ bột đá ép có nhuộm màu và được qua công đoạn mài bón bề mặt” xin đề nghị

Havicontrol xem xét lại kết luận này.
- Về phân loại áp mã số hàng hóa, cả Havicontrol và cả Trung tâm Dịch vụ Kỹ thuật tuy có
kết quả phân tích khác nhau; nhưng lại kết luận giống nhau về mã số hàng là 6810.19.10;
Trong khi đó, Trung tâm phân tích phân loại miền Bắc lại phân lọai mặt hàng này vào mã số
6907.90.10.


Việc phân loại hàng hóa phải căn cứ vào Biểu thuế xuất nhập khẩu ban hành theo Quyết
định số 110/2003/QĐ-BTC của Bộ Tài chính và chú giải HS. Trong trường hợp cụ thể này,
Trung tâm phân tích phân loại miền Bắc đã dựa vào các căn cứ sau :
+ Mẫu gạch này đã được qua nung kết khối rắn chắc và khi giám định, mẫu đã được nung tới
1000
o
C mà không bị phá hủy và không biến dạng. Về mặt lý thuyết, quá trình nung là quá
trình gia nhiệt phải đạt tới nhiệt độ bằng hoặc lớn hơn 800
o
C; sau khi nung, các hạt bao lấy
nhau do kết quả của quá trình khuyếch tán, biến đổi hóa học hoặc chảy lỏng một phần, tạo ra
liên kết bền vững và có độ cứng, độ bền cơ học cho mẫu.
+ Chú giải chương 68 của HS ( bản Tiếng Anh, phiên bản 2002, trang 1112 ) và của Biểu
thuế quy định : loại trừ ra khỏi chương 68 các sản phẩm từ đất đá đã qua quá trình nung sau
khi tạo hình ( ví dụ như các mặt hàng gốm sứ), những sản phẩm đó phải xếp vào chương 69 (
trừ các sản phẩm được làm từ gốm dùng cho mục đích mài mòn, cắt, đánh bóng…thuộc nhóm
68.04).
+ Chú giải chương 69 của HS ( bản Tiếng Anh, phiên bản 2002, trang 1112 ) và của Biểu
thuế quy định : chương này áp dụng đối với các sản phẩm gốm sứ đã qua quá trình nung sau
khi tạo hình dạng( trừ sản phẩm thuộc nhóm 68.04). Như vậy, quá trình nung sau khi tạo
hình sản phẩm là đặc trưng cơ bản để phân biệt hàng hóa thuộc chương 69 với hàng hóa
thuộc chương 68.
+ Nhóm 69.07 là những sản phẩm được làm từ gốm sứ ( tức là các sản phẩm đã qua quá trình

nung sau khi tạo hình dáng).


+ Nhóm 68.10 quy định đối với những mặt hàng được làm từ đá nhân tạo, giả đá tự nhiên
được tạo ra bằng cách kết khối các phần đá tự nhiên dạng khối, cục hay bột đá tự nhiên ( như
đá vôi, đá cẩm thạch…) bằng vôi, xi măng hoặc các chất kết dính khác như plastic; sản phẩm
thuộc nhóm này được tạo ra bằng phương pháp nung, tuy nhiên nhóm này cũng bao gồm các
sản phẩm gạch lát được làm từ hỗn hợp dạng vữa bao gồm cát, vôi tôi và nước, qua quá trình
ép thành khuôn, sau đó được đưa qua lò sấy ở nhiệt độ khoảng 140
o
C việc sử dụng quá trình
gia nhiệt chỉ ở nhiệt độ 140
o
C đối với các sản phẩm ở nhóm mặt hàng 68.10 chỉ nhằm mục
đích làm bay hơi các chất lỏng, thoát các chất khí hoặc làm tăng nhanh quá trình đóng rắn,
không phải là quá trình nung như đã nêu trên đây.
Với những căn cứ đó, Trung tâm phân tích phân loại miền Bắc xác định mã hàng là
6907.90.10. Việc Trung tâm Dịch vụ kỹ thuật, HAVICONTROL phân loại mặt hàng nêu trên
vào chương 68 ( mã 6810.19.10 ) là không phù hợp với quy định HS, của Biểu thuế về phân
loại đối với mặt hàng này và không đúng với bản chất của mặt hàng.
2.Về chức năng phân loại áp mã số hàng hóa :
Tại Công văn số 109 /TĐC-THPC ngày 12/02/2006 của Tổng cụ Tiêu chuẩn Đo lường
Chất lượng về việc áp mã HS cho hàng hóa đã nêu rõ : “ Việc áp mã HS để tính thuế đối với
hàng hóa nhập khẩu không thuộc chức năng của các Trung tâm kỹ thuật và các chi cục
TCĐLCL” và “Khi cấp kết quả kiểm tra hàng hóa, các đơn vị không xác định mã số HS hàng
hóa, kể cả đề xuất ý kiến có tính chất tham khảo “ ( trích nguyên văn ). Trung tâm Dịch vụ kỹ
thuật đưa ra mã số nêu trên đây của mặt hàng này là không phù hợp với qui định của Tổng
cục Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng.



Trung tâm phân tích phân loại miền Bắc gửi kèm theo đây các văn bản liên quan, xin đề
nghị Quý cơ quan xem xét lại các vấn đề trên đây và mong tiếp tục nhận được sự công tác.
Bước II : Ngày 05/01/2009 Trung tâm đã viết tờ trình xin làm rõ thêm những vấn đề được
nêu tại đơn khiếu nại số 56/KN/BĐ ngày 26/12/2008 của Công ty TNHH Thương mại Việt
Thắng và trình bảy quan điểm của mình xin ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ và Lãnh đạo
Tổng cục Hải quan như sau :
a. Trong Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi năm 2003 ban hành theo Quyết định 110/QĐ/BTC
có chi tiết như sau :
6907.10
- Gạch lát, khối và các sản phẩm tương tự dạng chữ nhật hoặc dạng khác, mà
diện tích bề mặt lớn nhất của nó có thể nằm gọn trong hình vuông có cạnh dưới
7cm
6907.90
- Loại khác
Căn cứ vào nội dung chi tiết của nhóm 69.07 thì phân nhóm 6907.90 là các mặt hàng tương
tự nhưng có diện tích bề mặt lớn nhất của nó không thể nằm gọn trong hình vuông có cạnh
dưới 7cm (70mm). Như vậy, “ Gạch công ty TNHH Thương mại Việt Thắng nhập khẩu có
kích cỡ 600x600mm” không thể là mặt hàng nằm gọn trong hình vuông có cạnh dưới 70mm
và do đó thuộc mã số thuế 6907.90.10 ( Gạch ốp, lát tường, sàn nhà, lò sưởi ).


Việc công ty cho rằng mã 6907.90.10 “là gạch mà có diện tích bề mặt lớn nhất của nó có
thể nằm gọn trong hình vuông có cạnh dưới 7cm” là hiểu sai qui định của Biểu thuế nhập
khẩu.
b. Tên hàng “ Gạch lát nền 600x600 mm bằng đá Granit nhân tạo” do các cơ quan giám
định kết luận, mà công ty TNHH Thương mại Việt Thắng dẫn trong đơn khiếu nại chưa
đủ cơ sở để phân loại áp mã theo biểu thuế vì các lý do sau đây :
- Các khối đá lớn được xẻ thành các tấm, lát, sau đó mài đánh bóng sử dụng để ốp lát được
gọi là Gạch lát nền bằng đá Granit tự nhiên, loại này được xếp vào nhóm 6802.23
Các mảnh vụn, bột đá Granit thu được từ quá trình khai thác và chế biến được đem xay,

nghiền thành bột dùng để sản xuất 2 loại sản phẩm sau :
- Gạch lát nền bằng bột ép từ Granit không nung : Sản phẩm này thu được bằng cách
trộn bột đá Granit với một số chất kết dính như vôi, xi măng…đem đúc khuôn, ép hoặc
phương pháp ly tâm. Loại gạch này được xếp vào nhóm 6810.
- Gạch lát nền bằng bột ép từ Granit đã nung đến nhiệt độ kết khối ( khoảng 100
o
C ) –
Loại gạch này còn được gọi là Gạch lát nền bằng gốm Granit và được xếp vào nhóm
69.07
Như vậy, tên hàng “Gạch lát nền 600x600 mm bằng đá Granit nhân tạo” mà công ty viện
dẫn chưa đủ thông tin để xác định mặt hàng này thuộc loại nào trong ba loại trên và rất khác
với tên hàng do chính chủ hàng tự khai báo : “ Gạch lát nền 600x600 mm( bằng bột đá ép )”.


c. Chức năng, tư cách của Trung tâm phân tích phân loại miền Bắc được qui định tại
khoản 2.2, điều 2, mục III, phần B, của Thông tư số 85/2003/TT-BTC ngày 29/08/2003
Hướng dẫn thực hiện việc phân loại hàng hóa theo Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi, Biểu
thuế xuất khẩu như sau :
- Trường hợp có căn cứ cho rằng việc phân loại của người khai hải quan không chính xác
nhưng Chi cục Hải quan cũng không có khả năng phân loại thì đề nghị Trung tâm phân tích
phân loại hàng hóa trực thuộc Tổng cục Hải quan thực hiện việc phân loại hàng hóa. Thủ tục
trưng cầu Trung tâm phân tích phân loại thực hiện theo Quy chế phân tích, phân loại hàng
hóa do Tổng cục Hải quan ban hành”.
Điểm b, c điều 9, nghị định 101/2001/NĐ-CP qui địn chi tiết thi hành một số điều của
Luật Hải quan qui định quyền của người khai hải quan như sau :
- Trường hợp người khai hải quan không nhất trí kết quả kiểm tra, phân tích hoặc giám
định do cơ quan hải quan kết luận thì được lựa chọn một cơ quan, tổ chức giám định
chuyên ngành khác giám định lại và phải trả phí giám định.
- Khi chưa có kết quả giám định lại, kết luận lần đầu là cơ sở để cơ quan Hải quan căn
cứ, làm thủ tục hải quan, khi có kết quả giám định lại, cơ quan Hải quan căn cứ kết

quả giám định lại để làm thủ tục hải quan hàng hóa.
Do không đồng ý với kết quả phân tích phân loại của Trung tâm phân tích phân loại miền
Bắc, theo điểm b, điều 9 nghị định 101/2001/NĐ-CP doanh nghiệp đã đi trưng cầu tái giám


định ở 2 cơ quan khác nhau và 2 kết quả tái giám định này không giống nhau thậm chí còn
mâu thuẫn.
+ Chứng thư giám định số 245/NĐ/2008E ngày 21/04/2008 của Havicontrol kết luận : Viên
gạch ốp lát (20x10)cm nêu trên được làm từ bột đá ép có nhuộm màu và được qua công đoạn
mài đánh bóng bề mặt. Mã số thuế 6810.18.10
+ Phiếu thông báo kết quả giám định mẫu gạch lát nền số 132/KT2/K4, TBKQ ngày
04/06/2008 của Trung tâm Dịch vụ kỹ thuật kết luận : Mẫu gạch kiểm tra là loại đá ốp lát
nhân tạo qua ép tạo hình và qua nung. Mẫu được nung kết khối rắn chắc và không phải là đá
bột ép chưa qua nung. Thành phần chủ yếu của gạch là SiO
2
và khoáng Mullite (
3Al
2
O
3
2SiO
2
) đã hình thành trong quá trình nung tạo ra liên kết bền vững và có độ cứng bề
mặt cũng như độ bền cơ học cao. Mã số thuế : 6810.19.10.
Như vậy, cùng một mẫu gạch nhưng 2 kết quả phân tích khác nhau hoàn toàn nhưng lại
cố ý xếp vào một mã như nhau 6810.19.10- Gạch làm từ bột đá ép chưa nung.
Với kết quả tái giám định như thế cơ quan hải quan không thể sử dụng làm căn cứ để áp
mã được.
d. Trung tâm phân tích phân loại miền Bắc không phải là cơ quan giám định mà là đơn vị
sự nghiệp vụ của ngành Hải quan tiến hành phân tích phân loại hàng hóa xuất nhập

khẩu phục vụ cho công tác quản lý nhà nước về hải quan.
Theo điều 27 luật Hải quan : “Khi làm thủ tục Hải quan công chức hải quan có nhiệm vụ
và quyền hạn sau đây: Lấy mẫu hàng hóa với sự có mặt của người khai hải quan để cơ quan


hải quan phân tích hoặc trưng cầu giám định phục vụ kiểm tra hàng hóa, sử dụng kết quả
phân tích, kết quả giám định để xác định đúng mã số và chất lượng hàng hóa…”.
Như vậy, việc phân tích phân loại hàng hóa là quyền đương nhiên của mọi công chức hải
quan chứ không phải của riêng Trung tâm phân tích phân loại miền Bắc. Việc Trung tâm ra
thông báo 2960/TCHQ/PTPLMB tạm thời dừng chưa tiếp nhận một số loại mẫu do kinh phí
cấp phát và biên chế chưa đủ để tiếp nhận giải quyết một số loại mẫu.
e. Chứng thư giám định số 245/NĐ/2008E ngày 21/04/2004 của Havicontrol kết luận :
Viên gạch ốp lát (20x10)cm nêu trên được làm từ bột đá ép có nhuộm màu và được qua
công đoạn màu đánh bóng bề mặt. Mã số thuế 6810.18.10
Kết quả giám định trên của Havicontrol là không đúng với bản chất của hàng hóa vì đây là
loại gạch làm từ bột đá ép được nung đến nhiệt độ tạo kết khối và trái với kết quả phân tích
của Trung tâm Dịch vụ kỹ thuật do chính Doanh nghiệp trưng cầu lần2.
g. Việc phân loại hàng hóa căn cứ vào bản chất hàng hóa, Biểu thuế nhập khẩu, chú giải
HS và các qui định khác nếu có. Chương 69 qui định cho các mặt hàng đồ gốm, sứ nên chỉ
có các loại gạch được tạo hình và nung đến nhiệt độ kết khối ( còn gọi là những sản phẩm đồ
gốm, sứ ). Tên hàng “ Đá Granit nhân tạo mà công ty viện dẫn trong công văn thực chất là tên
gọi thương mại ( không nói lên được bản chất của hàng hóa ) dùng để chỉ loại đá Granit làm
giả đá tự nhiên chứ không phải tên gọi của sản phẩm hàng hóa ở từng chương và phân
chương để áp dụng theo nguyên tắc 1, phụ lục 1 trong Thông tư 85/2003/NĐ-CP ngày
22/01/2003 quy định.


h. Trong Quyết định số 110/2003/QĐ-BTC ngày 25/7/2003 của Bộ Tài chính về việc ban
hành Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi không hề có điểu khoản nào quy định về nung và không
nung đối với gạch Granit nhân tạo.

k. Thông báo kết quả phân tích phân loại số 3264/TCHQ/PTPLMB ngày 20/5/2008 của
Trung tâm phân tích phân loại miền Bắc chỉ có giá trị với mẫu yêu cầu phân tích phân loại
đối với lô hàng thuộc tờ khai số 204/NK/KD/AH ngày 02/03/2008 việc sử dụng kết quả thông
báo này đối với lô hàng thuộc tờ khai 80/NK/KD/AH là thuộc thẩm quyền của chi cục Hải
quan AH miền Bắc dựa trên kết quả kiểm tra hàng hóa thực nhập.
Trung tâm trình bày quan điểm về loại mặt hàng nêu trên và xin ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo
Bộ và Lãnh đạo Tổng cục.
Bước III : Tổng cục Hải quan đã có Công văn số 790/TCHQ-GSQL ngày 03/03/2009 hướng
dẫn về việc phân loại mặt hàng gạch lát nền bằng bột đá ép như sau :
Kính gửi : CỤC HẢI QUAN CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ
Tổng cục Hải quan nhận được Công văn số 939/HQĐNg-Ttra ngày 15/09/2008 của Cục
Hải quan AH miền Bắc phản ánh vướng mắc liên quan đến việc phân loại mặt hàng gạch lát
nền bằng gốm Granit. Về việc này, Tổng cục Hải quan có ý kiến như sau:
Căn cứ Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi được ban hành kèm theo Quyết định số
110/2003/QĐ-BTC ngày 25/7/2003; Thông tư 85/2003/TT-BTC ngày 29/8/2003 của Bộ Tài
chính hướng dẫn thực hiện việc phân loại hàng hóa theo Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập


khẩu và biểu thuế nhập khẩu ưu đãi, biểu thuế xuất khẩu. Tham khảo chú giải chi tiết chương
68, chương 69 của Tổ chức Hải quan thế giới thì :
Mặt hàng gạch gốm Granit đã qua nung, không tráng men, kích thước 60x60cm, bề mặt
đã được mài và đánh bóng thuộc nhóm 6970, mã số 6907.90.10.
Mặt hàng gạch lát nền bằng đá Granit nhân tạo ( gạch làm bằng phương pháp ép bột đá
granit ), đã hoặc chưa mài hoặc đánh bóng thuộc nhóm 6810, mã số 6810.19.10
Tổng cục Hải quan yêu cầu Cục hải quan các tỉnh, thành phố kiểm tra lại việc phân loại
mặt hàng nên trên nhập khẩu tại đơn vị. Nếu đã thu thuế nhập khẩu khác với hướng dẫn trên
thì tổng hợp báo cáo về Tổng cục để Tổng cục nghiên cứu hướng dẫn xử lý.
KT. TỔNG CỤC TRƯỞNG TỔNG CỤC HẢI QUAN
Phó tổng cục trưởng
C. KIẾN NGHỊ

Công tác phân tích phân loại hàng hóa xuất nhập khẩu là một lĩnh vực rất quan trọng nó
liên quan trực tiếp đến Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu Việt Nam và Biểu thuế xuất
khẩu, nhập khẩu Việt Nam. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác phân tích phân loại hàng
hóa XNK chính là làm cho Biểu thuế xuất khẩu, nhập khẩu Việt Nam tiếp tục phát huy vai trò
quản lý vĩ mô toàn bộ hoạt động xuất nhập khẩu, huy động nguồn thu cho ngân sách nhà
nước, tạo điều kiện và cơ sở pháp lý cho việc thực hiện các cam kết quốc tế. Việc xây dựng,
hoàn thiện Danh mục và Biểu thuế CNK Việt nam, việc ban hành các văn bản, quy phạm


pháp luật hướng dẫn việc phân loại áp mã hàng hóa XNK là các yếu tố quyết định đảm bảo
cho công tác phân tích phân loại đạt hiệu quả cao trong thực tế.
Những giải pháp nhằm hỗ trợ cho công tác phân tích phân loại ở giác độ chính sách là :
Thứ nhất : Biểu thuế nhập khẩu
- Rà soát toàn bộ Biểu thuế nhập khẩu, giảm thiểu việc quy định mức thuế chênh lệch
lớn giữa những mặt hàng có tính chất gần giống nhau để hạn chế tình trạng cố tình
khai báo vào dòng thuế có mức thuế suất thấp hơn…Phát hiện những bất hợp lý về mặt
Danh mục để kiến nghị với Ban thư ký ASEAN sửa lại Danh mục AHTN.
- Vụ Chính sách thuế phối hợp với Tổng cục Hải quan và các cơ quan quản lý chuyên
ngành xây dựng tiêu chuẩn để phân biệt một số chủng loại hàng trong quá trình phân
loại ( chẳng hạn giữa dây điện và cáp điện, máy lọc nước dùng trong gia đình và máy
lọc nước không dùng trong gia đình … )
Thứ hai: Việc biên dịch và phát hành các tài liệu của Tổ chức Hải quan thế giới WCO
phục vụ cho phân loại hàng hóa :
Hiện nay Tổng cục Hải quan đã biên dịch và phát hành bản dịch chú giải HS, phiên bản
1996. Tuy nhiên bản dịch này còn nhiều sai sót, hơn nữa Biểu thuế hiện hành được xây dựng
trên cơ sở Danh mục HS, phiên bản 2001 (HS2K), do vậy cần phải biên dịch, hiệu đính phát
hành rộng rãi chú giải HS2K.

×