Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Cơ hội và thách thức của doanh nghiệp thương mại điện tử việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.39 KB, 25 trang )

Đề tài: Cơ hội và thách thức của doanh nghiệp thương mại điện tử Việt Nam.
Mục Lục
Phần 1: Cơ sở lý luận chung về thương mại điện tử
1. Gọi tên và định nghĩa thương mại điện tử.
2. Lịch sử hình thành và phát triển của thương mại điện tử.
a. Ở trên thế giới.
b. Ở Việt Nam.
3. Phân loại và các cấp bậc phát triển của thương mại điện tử.
a. Các loại mô hình thương mại điện tử.
b. Các cấp bậc phát triển thương mại điện tử theo 6 cấp bậc.
Phần 2: Cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp thương mại điện tử Việt
Nam
1. Tổng quan về các doanh nghiệp thương mại điện tử Việt Nam.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến các doanh nghiệp thương mại điện tử Việt
Nam.
a. Cơ sở pháp lý và luật liên quan đến thương mại điện tử.
b. Cơ sở hạ tầng và mức độ phát triển dịch vụ bưu chính-viễn thông.
c. Nguồn nhân lực cho thương mại điện tử.
3. Cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp thương mại điện tử Việt Nam.
Phần 3: Các kiến nghị
1. Về phía cơ quan quản lý nhà nước.
a. Về luật pháp, cơ sở pháp lý.
b. Về hoạt động quản lý và điều hành.
2. Về phía các doanh nghiệp thương mại điện tử.
a. Về quản lý và điều hành trong nội bộ doanh nghiệp.
b. Về việc xây dựng và phát triển nguồn nhân lực.
Cơ hội và thách thức của doanh nghiệp thương mại điện tử Việt Nam Trang 1
c. Về sự gắn kết và hợp tác giữa các doanh nghiệp trong ngành.
3. Về phía các doanh nghiệp ngoài ngành nhưng có ảnh hưởng đến thương
mại điện tử ở Việt Nam.
a. Đối với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ bưu chính-viễn thông.


b. Đối với các doanh nghiệp chưa áp dụng thương mại điện tử.
Lời Mở Đầu
Trong kỷ nguyên kỹ thuật số, cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học-kỹ thuật
và công nghệ, đã mở ra những cơ hội mới cho sự phát triển nền thương mại trên toàn
thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Trong bối cảnh đó, Thương mại điện tử đã
ra đời và đóng vài trò ngày càng quan trọng trong giao thương trên thế giới. Thế giới
đã quá quen thuộc với khái niệm Thương mại điện tử, và Thương mại điện tử cũng
dần có được chỗ đứng xứng đáng trong nền kinh tế Việt Nam. Hiểu rõ về các cơ hội
và thách thức do thương mại điện tử mang lại là điều rất cần thiết trong bối cảnh nền
kinh tế Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế trên thế giới, giúp
các doanh nhân và doanh nghiệp Việt Nam có được những nhận thức chung nhất, hiểu
rõ về thương mại điện tử để tận dụng triệt để các cơ hội và tiện lợi do thương mại điện
tử mang lại. Bên cạnh đó, cũng giúp các cơ quan quản lý có những sự điều chỉnh phù
hợp nhằm tạo dựng một môi trường tốt nhất, tạo điều kiện cho thương mại điện tử
phát triển.
Phần 1: Cơ sở lý luận chung về thương mại điện tử.
1. Gọi tên và định nghĩa thương mại điện tử.
Thương mại điện tử là một lĩnh vực tương đối mới; ngay tên gọi cũng có nhiều;
có thể gọi là "thương mại trực tuyến" (online trade), "thương mại điều khiển học"
(cybertrade), "kinh doanh điện tử" (electronic business), "thương mại không có giấy
tờ" (paperless commerce, hoặc paper trade); gần đây, tên gọi "thương mại điện tử"
(electronic commerce) được sử dụng nhiều rồi trở thành quy ước chung, đưa vào văn
bản pháp luật quốc tế, dù rằng các tên gọi khác vẫn có thể dùng và được hiểu với cùng
một nội dung.
Thương mại điện tử (còn gọi là E-Commerce hay E-Business) là quy trình mua bán
thông qua việc truyền dữ liệu giữa các thiết bị truyền tin trong chính sách phân phối
Cơ hội và thách thức của doanh nghiệp thương mại điện tử Việt Nam Trang 2
của tiếp thị. Tại đây một mối quan hệ thương mại hay dịch vụ trực tiếp giữa người
cung cấp và khách hàng được tiến hành thông qua việc truyền tin. Hiểu theo nghĩa
rộng, thương mại điện tử bao gồm tất cả các loại giao dịch thương mại mà trong đó

các đối tác giao dịch sử dụng các kỹ thuật thông tin trong khuôn khổ chào mời, thảo
thuận hay cung cấp dịch vụ.
Thương mại điện tử (Electronic Commerce), một yếu tố hợp thành của nền "Kinh tế
số hóa", là hình thái hoạt động thương mại bằng các phương pháp điện tử; là việc trao
đổi thông tin thương mại thông qua các phương tiện công nghệ điện tử mà nói chung
là không cần phải in ra giấy trong bất cứ công đoạn nào của quá trình giao dịch (nên
còn gọi là "Thương mại không có giấy tờ").
"Thông tin" trong khái niệm trên được hiểu là bất cứ gì có thể truyền tải bằng kỹ thuật
điện tử, bao gồm cả thư từ, các tệp văn bản, các cơ sở dữ liệu, các bản tính, các bản vẽ
thiết kế bằng máy tính điện tử, các hình đồ họa, quảng cáo, hỏi hàng, đơn hàng, hóa
đơn, biểu giá, hợp đồng, các mẫu đơn, các biểu mẫu, hình ảnh động, âm thanh, v.v
"Thương mại" (commerce) trong khái niệm thương mại điện tử được hiểu (như quy
định trong "Đạo luật mẫu về thương mại điện tử" của Liên hiệp quốc) là mọi vấn đề
nảy sinh ra từ mọi mối quan hệ mang tính chất thương mại (commercial), dù có hay
không có hợp đồng. Các mối quan hệ mang tính thương mại bao gồm bất cứ giao dịch
thương mại nào về cung cấp hoặc trao đổi hàng hóa, dịch vụ; thoả thuận phân phối,
đại diện hoặc đại lý thương mại; ủy thác hoa hồng, cho thuê dài hạn; xây dựng các
công trình; tư vấn; kỹ thuật công trình; đầu tư; cấp vốn; ngân hàng; bảo hiểm; thỏa
thuận khai thác hoặc tô nhượng; liên doanh và các hình thức khác về hợp tác công
nghiệp hoặc kinh doanh; chuyên chở hàng hóa hay hành khách bằng đường biển,
đường không, đường sắt, đường bộ; và v.v Như vậy, phạm vi của thương mại điện
tử (E-commerce) rất rộng, bao quát hầu như mọi hình thái hoạt động kinh tế, mà
không chỉ bao gồm buôn bán hàng hóa và dịch vụ; buôn bán hàng hoá và dịch vụ chỉ
là một trong hàng nghìn lĩnh vực áp dụng của thương mại điện tử.
Theo nghĩa hẹp, Thương mại điện tử chỉ đơn thuần bó hẹp thương mại điện tử
trong việc mua bán hàng hóa và dịch vụ thông qua các phương tiện điện tử, nhất là
qua Internet và các mạng liên thông khác.
Theo Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), "Thương mại điện tử bao gồm việc sản
xuất, quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm được mua bán và thanh toán trên
mạng Internet, nhưng được giao nhận một cách hữu hình, cả các sản phẩm giao nhận

cũng như những thông tin số hoá thông qua mạng Internet".
Cơ hội và thách thức của doanh nghiệp thương mại điện tử Việt Nam Trang 3
Theo Ủy ban Thương mại điện tử của Tổ chức Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình
Dương (APEC), "Thương mại điện tử là công việc kinh doanh được tiến hành thông
qua truyền thông số liệu và công nghệ tin học kỹ thuật số".
Thương mại điện tử hiểu theo nghĩa rộng là các giao dịch tài chính và thương
mại bằng phương tiện điện tử như: trao đổi dữ liệu điện tử, chuyển tiền điện tử và các
hoạt động như gửi/rút tiền bằng thẻ tín dụng.
Theo quan điểm này, có hai định nghĩa khái quát được đầy đủ nhất phạm vi hoạt động
của Thương mại điện tử:
Luật mẫu về Thương mại điện tử của Ủy ban Liên hợp quốc về Luật Thương mại
quốc tế định nghĩa: "Thuật ngữ thương mại cần được diễn giải theo nghĩa rộng để bao
quát các vấn đề phát sinh từ mọi quan hệ mang tính chất thương mại dù có hay không
có hợp đồng. Các quan hệ mang tính thương mại(commercial) bao gồm, nhưng không
chỉ bao gồm, các giao dịch sau đây: bất cứ giao dịch nào về cung cấp hoặc trao đổi
hàng hóa hoặc dịch vụ; thoả thuận phân phối; đại diện hoặc đại lý thương mại, ủy thác
hoa hồng (factoring), cho thuê dài hạn (leasing); xây dựng các công trình; tư vấn, kỹ
thuật công trình (engineering); đầu tư; cấp vốn, ngân hàng; bảo hiểm; thỏa thuận khai
thác hoặc tô nhượng, liên doanh và các hình thức về hợp tác công nghiệp hoặc kinh
doanh; chuyên chở hàng hóa hay hành khách bằng đường biển, đường không, đường
sắt hoặc đường bộ".
Theo định nghĩa này, có thể thấy phạm vi hoạt động của thương mại điện tử rất rộng,
bao quát hầu hết các lĩnh vực hoạt động kinh tế, trong đó hoạt động mua bán hàng hóa
và dịch vụ chỉ là một phạm vi rất nhỏ trong thương mại điện tử.
Theo Ủy ban châu Âu: "Thương mại điện tử được hiểu là việc thực hiện hoạt động
kinh doanh qua các phương tiện điện tử. Nó dựa trên việc xử lý và truyền dữ liệu điện
tử dưới dạng text, âm thanh và hình ảnh".
Thương mại điện tử trong định nghĩa này gồm nhiều hành vi trong đó: hoạt động mua
bán hàng hóa; dịch vụ; giao nhận các nội dung kỹ thuật số trên mạng; chuyển tiền điện
tử; mua bán cổ phiếu điện tử, vận đơn điện tử; đấu giá thương mại; hợp tác thiết kế;

tài nguyên trên mạng; mua sắm công cộng; tiếp thị trực tiếp với người tiêu dùng và
các dịch vụ sau bán hàng; đối với thương mại hàng hoá và thương mại dịch vụ; các
hoạt động truyền thống và các hoạt động mới.
2. Lịch sử hình thành và phát triển của thương mại điện tử.
Cơ hội và thách thức của doanh nghiệp thương mại điện tử Việt Nam Trang 4
a. Ở trên thế giới.
Thuật ngữ "thương mại điện tử" được nói đến rất nhiều và nhiều người nghĩ rằng
thương mại điện tử là sản phẩm của xã hội hiện đại. Tuy nhiên, theo nghĩa rộng,
thương mại điện tử, tức tiến hành kinh doanh bằng cách gửi và nhận thông điệp qua
mạng đã hình thành từ cách đây một thế kỷ
Năm 1910, 15 người bán hoa của Đức đã tập hợp lại cùng nhau để trao đổi theo đường
điện báo những đơn hàng hoa đặt mua từ ngoại thành. Tổ hợp Điện báo Giao nhận của
những người bán hoa nói trên, ngày nay là công ty FTD Inc, có thể đã là mạng thương
mại điện tử thực sự đầu tiên.
Tuy nhiên đối với các hệ thống thương mại điện tử được kết nối bằng máy tính, một
yêu cầu quan trọng là cần có những tài liệu kinh doanh đã được chuẩn hoá để các máy
tính ở mỗi đầu dây đều có thể hiểu được nhau. Cội nguồn của loại hình thương mại
điện tử này cũng bắt đầu rất sớm, từ năm 1948, khi Liên bang Xô Viết, kiểm soát
Đông Đức cắt đứt đường thuỷ, đường sắt và đường bộ giữa Tây Đức và Berlin, phần
lãnh thổ do Mỹ, Anh và Pháp kiểm soát sau chiến tranh thế giới lần thứ II.
Kết quả là Cầu hàng không Berlin ra đời. Trong 13 tháng tiếp theo, hơn 2 triệu tấn
thực phẩm và những đồ tiếp tế khác đã được chuyển vào Tây Berlin bằng đường hàng
không. Tuy nhiên, việc theo dõi hàng hoá mà việc bốc dỡ phải tiến hành thật nhanh,
đã không thể tiến hành được với những bản kê khai hàng hoá vận chuyển theo những
biểu mẫu khác nhau và đôi khi được viết bằng những ngôn ngữ khác nhau.
Để giải quyết vấn đề này, một sĩ quan quân đội Mỹ Edward A. Guilbert và các sĩ quan
hậu cần khác đã phát triển một hệ thống kê khai chuẩn có thể truyền bằng telex, máy
vô tuyến điện báo hoặc điện thoại. Họ đã theo dõi hàng ngàn tấn hàng trong một ngày
cho đến khi các tuyến đường khác vào Berlin được mở lại vào năm 1949.
Thương mại điện tử - con đường hình thành và phát triểnGuilbert đã không quên giá

trị của những kê khai chuẩn. Đầu những năm 1960, trong khi đang làm việc tại Công
ty Du Pont, ông đã phát triển một chuẩn dành cho các thông điệp điện tử để gửi thông
tin hàng hoá giữa Công ty Du Pont và hãng vận chuyển Chemical Leahman Tank
Lines. Năm 1965, hãng vận chuyển Steamship Line (liên doanh giữa một hãng của
Mỹ và một hãng của Hà Lan) bắt đầu gửi cho hãng vận chuyển Atlantic những bản kê
khai chuyển hàng dưới dạng những thông điệp telex mà sau đó có thể in ra giấy hoặc
nhập vào máy tính.
Đến năm 1968, rất nhiều các công ty vận chuyển đường sắt, hàng không, đường bộ và
vận chuyển đường biển đã sử dụng những chuẩn kê khai điện tử liên ngành do Uỷ ban
Phối hợp Truyền dữ liệu (Transportation Data Coordinating Committee - TDCC) của
Cơ hội và thách thức của doanh nghiệp thương mại điện tử Việt Nam Trang 5
Mỹ khởi xướng và vào năm 1975, TDCC đã xuất bản tài liệu đặc tả kỹ thuật thuật trao
đổi dữ liệu điện tử (EDI) đầu tiên của mình.
Ngành lương thực và thực phẩm bắt đầu một dự án thử nghiệm về trao đổi dữ liệu
điện tử vào năm 1977. Đến đầu những năm 1980, Tập đoàn ô tô Ford Motor và Tập
đoàn ô tô General Motor yêu cầu những nhà cung cấp của họ sử dụng EDI. Những
nhà bán lẻ lớn như Sears, Roebuck và Co. và Kmart Corp. cũng bắt đầu sử dụng EDI.
Tuy nhiên, trong khi EDI tiết kiệm cho khách hàng rất nhiều tiền bạc bằng cách loại
bỏ tất cả các thủ tục giấy tờ, thì nó lại tỏ ra rất đắt đối với những nhà cung cấp. Nó đòi
hỏi nhà cung cấp phải sử dụng phần mềm đắt tiền và những mạng gia tăng giá trị
(VAN). Ngoài ra, những nhà cung cấp thường phải sử dụng những hệ thống EDI khác
nhau cho các khách hàng lớn của mình vì không có khách hàng nào hoàn toàn tuân
thủ tập chuẩn con EDI trong ngành của mình. Trước tình hình phần lớn khách hàng
lớn đều yêu cầu các nhà cung cấp phải sử dụng EDI, sự lựa chọn trở nên khá đơn
giản: Không có EDI, không có doanh thu.
Đến năm 1991, khoảng 12.000 doanh nghiệp Mỹ đang sử dụng EDI. Đó cũng là năm
chính phủ Mỹ bãi bỏ hạn chế thương mại sử dụng Internet, và là năm Tim Berners-
Lee đã tạo ra trình duyệt web đầu tiên. Một kiểu thương mại điện tử mới, từ doanh
nghiệp đến người tiêu dùng, trên web đã bùng nổ.
Năm 1994, trình duyệt web Netscape Navigator, với tính năng hỗ trợ "cookies",

những tệp dữ liệu nhỏ được lưu trên máy tính của người sử dụng đã tạo điều kiện cho
việc tạo những cửa hàng trên Web có khả năng nhận dạng những khách hàng, tập hợp
dữ liệu về họ và cá nhân hoá việc bán hàng để phủ hợp với khách hàng.
Hoạt động trực tuyến:
Trong khi những cửa hàng lớn trên mạng như Amazon.com Inc. bán những sản phẩm
trực tuyến với giá thoả thuận và không cần phải cất giữ hàng hoá trong kho hàng,
những doanh nghiệp kinh doanh truyền thống lại đổ xô như điên để tạo sự hiện diện
của mình trên web. Một cơ sở hạ tầng tổng thể đã phát triển và đủ độ chín để hỗ trợ
những công ty dotcom: United Parcel Service Inc. và FedEx Corp., chuyên về chuyển
hàng; một số công ty bên thứ ba cung cấp các dịch vụ thẻ tín dụng, những hệ thống
tiền điện tử và thậm chí American Express Co. còn giới thiệu Blue, một "thẻ thông
minh" đặc biệt được thiết kế cho việc mua hàng trên mạng.
Internet cũng làm một cuộc cách mạng hoá nền thương mại điện tử doanh nghiệp đến
doanh nghiệp. EDI thông qua Internet đã rẻ hơn rất nhiều so với VANs và những
người sử dụng EDI ở qui mô lớn đã phát triển những hệ thống giao dịch trực tuyến
của họ dựa trên web dựa trên những ngôn ngữ đánh dấu tương thích với Web thay cho
những tài liệu EDI cứng nhắc. Năm 2001, một phiên bản của XML được thiết kế cho
Cơ hội và thách thức của doanh nghiệp thương mại điện tử Việt Nam Trang 6
thương mại điện tử, được gọi là ebXML, đã chính thức được chuẩn hoá và những
người sử dụng ngày nay đang tiến hành kết hợp những yếu tố tốt nhất của EDI và
ebXML để tạo ra một loại hình thương mại điện tử hoàn hảo hơn.
Và đây là toàn bộ câu chuyện về thương mại điện tử:
Đầu những năm 1960: Edward A. Guilbert lần đầu tiên gửi những thông điệp giống
EDI về thông tin hàng hoá cho việc trao đổi hàng giữa Du Pont và Chemical Leahman
Tank Lines.
Năm 1965: Hãng vận chuyển Steamship Line gửi những bản kê khai chuyển hàng
dưới dạng những tin nhắn qua telex và được tự động chuyển thành dữ liệu lưu trong
máy tính.
Năm 1968: Uỷ ban phối hợp truyền dữ liệu của Mỹ ra đời kết hợp các chuẩn kê khai
hàng hoá cho từng ngành: ngành vận tải hàng không, đường bộ, đường thuỷ và đường

sắt.
Năm 1977: Ngành lương thực và thực phẩm khai trương một dự án EDI thử nghiệm.
Năm 1982: GM và Ford yêu cầu những đại lý cung cấp sử dụng EDI.
Năm 1991: Mỹ bãi bỏ những hạn chế về thương mại sử dụng Internet.
Năm 1994: Netscape Navigator 1.0 có tính năng hỗ trợ "cookies".
Năm 1995: Amazon.com, do Jeff Bezos thành lập, khai trương cửa hàng bán sách và
âm nhạc trực tuyến.
Năm 1999: American Express giới thiệu Blue, một thẻ thông minh tích hợp thanh toán
trên mạng và ví trực tuyến.
Năm 2000: 3 nhà chế tạo ô tô lớn nhất nước Mỹ (Ford, GM and DaimlerChrysler)
thiết lập chương trình thanh toán thương mại điện tử B2B Covisint.
b. Ở Việt Nam.
Trên thế giới, Thương mại điện tử đã ra đời từ rất sớm. Tuy nhiên, ở Việt Nam,
Thương mại điện tử mới hình thành và phát triển được gần 10 năm do các ứng dụng
viễn thông ở Việt Nam phát triển rất muộn so với thế giới. Tới năm 1997, Việt Nam
mới chính thức kết nối Internet ra toàn thế giới, đây là một thiệt thòi không nhỏ cho
toàn bộ nền kinh tế Việt Nam nói chung và thương mại điện tử nói riêng.
Có thể nói cách đây 7-8 năm, thương mại điện tử vẫn còn là một khái niệm khá mới
mẻ đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Thế nhưng đến bây giờ, bức tranh thương mại
Cơ hội và thách thức của doanh nghiệp thương mại điện tử Việt Nam Trang 7
điện tử Việt Nam hiện tại đã có rất nhiều thay đổi theo chiều hướng tích cực. Những
biến chuyển ấy thể hiện rõ qua những con số thống kê của Bộ Công Thương.
Từ tháng 4 năm 2008, Bộ Công Thương đã hoàn thành báo cáo về thương mại điện tử
năm 2007. Bộ đã điều tra trên quy mô lớn về tình hình ứng dụng thương mại điện tử
của các doanh nghiệp trong nước và kết quả thu được khá khả quan.
Thứ nhất, gần 40 % doanh nghiệp có doanh thu từ thương mại điện tử, và mức doanh
thu ấy chiếm 15% tổng doanh thu. Đây là một con số rất là đáng khích lệ cho thấy
thương mại điện tử đã thực sự đem lại những cái lợi ích cụ thể cho các doanh nghiệp
bằng những giá trị cụ thể.
Thứ hai, một nửa số doanh nghiệp cho biết đã đầu tư cho những ứng dụng thương mại

điện tử trong đơn vị mình. Hơn 60% doanh nghiệp tin rằng doanh thu của họ nhờ
thương mại điện tử sẽ còn tăng hơn nữa trong thời gian tới chứng tỏ niềm tin và sự lạc
quan của doanh nghiệp đối với việc ứng dụng thương mại điện tử để đẩy mạnh hoạt
động kinh doanh. Nhằm tăng cường khả năng tiếp cận với thị trường, hơn 40% doanh
nghiệp đã lập website riêng và khoảng 15% doanh nghiệp có các hoạt động e-
marketing.
Vậy bằng những con số cụ thể, chúng ta có thể đưa ra một cái kết luận là hiệu quả ứng
dụng thương mại điện tử trong doanh nghiệp rất là rõ ràng và xu hướng đó ngày càng
tăng. Như vậy, có thể thấy rằng các doanh nghiệp bây giờ rất quan tâm tới việc ứng
dụng thương mại điện tử, đặc biệt là trong cái bối cảnh kinh doanh hiện tại rất khó
khăn và nhiều sự cạnh tranh.
3. Phân loại và các cấp bậc phát triển của thương mại điện tử.
a. Các loại mô hình thương mại điện tử.
B2B (Business to Business): được hiểu đơn giản là Thương mại điện tử giữa các
doanh nghiệp với nhau. Đây là mô hình Thương mại điện tử gắn với mối quan hệ giữa
các doanh nghiệp với nhau. Mô hình này chiếm tới trên 80% doanh số Thương mại
điện tử trên toàn cầu và ngày càng trở nên phổ biến. Mô hình này đã giúp hỗ trợ rất
nhiều cho các doanh nghiệp Việt nam trong việc kinh doanh với các doanh nghiệp
nước ngoài dựa trên các lợi ích mà nó đem lại. Một trong những mô hình điển hình
trên thế giới đã thành công trong hoạt động theo mô hình B2B là Alibaba.com của
Trung Quốc.
B2C (Business to Consumer): được hiểu là thương mại giữa các doanh nghiệp và
người tiêu dùng liên quan đến việc khách hàng thu thập thông tin, mua các hàng hoá
hữu hình (như sách, các sản phẩm tiêu dùng ) hoặc sản phẩm thông tin hoặc hàng
hoá về nguyên liệu điện tử hoặc nội dung số hoá như phần mềm, sách điện tử và các
thông tin, nhận sản phẩm qua mạng điện tử. Một trong những công ty kinh doanh
Cơ hội và thách thức của doanh nghiệp thương mại điện tử Việt Nam Trang 8
thành công trên thế giới theo mô hình này là Amazon.com với việc kinh doanh bán lẻ
qua mạng các sản phẩm như sách, đồ chơi, đĩa nhạc, sản phẩm điện tử, phần mềm và
các sản phẩm gia đình.

C2C (Consumer to Consumer): được hiểu là Thương mại điện tử giữa các cá nhân
và người tiêu dùng với nhau. Đây cũng được coi là mô hình kinh doanh có tốc độ tăng
trưởng nhanh chóng và ngày càng phổ biến. Hình thái dễ nhận ra nhất của mô hình
này là các Website bán đấu giá trực tuyến, rao vặt trên mạng. Một trong những thành
công vang dội của mô hình này là trang Web đấu giá eBay. Được thành lập tháng
9/1995, hiện nay eBay là chợ đấu giá điện tử lớn nhất thế giới dành cho việc mua bán
các sản phẩm cho các khách hàng riêng lẻ và các doanh nghiệp nhỏ. Trên eBay có tới
55 triệu sản phẩm nằm trong 50.000 danh mục ngành hàng với 157 triệu thành viên
trên toàn thế giới.
B2G (Business to Government): Thương mại điện tử giữa doanh nghiệp và chính
phủ được hiểu chung là thương mại giữa các doanh nghiệp và khối hành chính công.
Nó bao hàm việc sử dụng Internet cho mua bán công, thủ tục cấp phép và các hoạt
động có liên quan tới chính phủ. Hình thái này của thương mại có hai đặc tính: thứ
nhất, khu vực hành chính công có vai trò dẫn đầu trong việc thiết lập thương mại điện
tử; thứ hai, người ta cho rằng khu vực này có nhu cầu lớn nhất trong việc biến các hệ
thống mua bán trở nên hiệu quả hơn.
Các chính sách mua bán trên mạng giúp tăng cường tính minh bạch của quá trình mua
hàng. Tuy nhiên, hiện nay kích cỡ của thị trường Thương mại điện tử B2G như là một
thành tố của tổng thương mại điện tử thì không đáng kể, khi mà hệ thống mua bán của
chính phủ còn chưa phát triển.
b. Các cấp bậc phát triển thương mại điện tử theo 6 cấp bậc.
Cấp độ 1 - Hiện diện trên mạng
Doanh nghiệp có website trên mạng. Ở mức độ này, website rất đơn giản, chỉ là cung
cấp một thông tin về doanh nghiệp và sản phẩm mà không có các chức năng phức tạp
khác.
Cấp độ 2 – Có website chuyên nghiệp
Website của doanh nghiệp có cấu trúc phức tạp hơn, có nhiều chức năng tương tác với
người xem, hỗ trợ người xem, người xem có thể liên hệ với doanh nghiệp một cách
thuận tiện.
Cấp độ 3 - Chuẩn bị Thương mại điện tử

Cơ hội và thách thức của doanh nghiệp thương mại điện tử Việt Nam Trang 9
Doanh nghiệp bắt đầu triển khai bán hàng hay dịch vụ qua mạng. Tuy nhiên, doanh
nghiệp chưa có hệ thống cơ sở dữ liệu nội bộ để phục vụ các giao dịch trên mạng. Các
giao dịch còn chậm và không an toàn.
Cấp độ 4 – Áp dụng Thương mại điện tử
Website của doanh nghiệp liên kết trực tiếp với dữ liệu trong mạng nội bộ của doanh
nghiệp, mọi hoạt động truyền dữ liệu được tự động hóa, hạn chế sự can thiệp của con
người và vì thế làm giảm đáng kể chi phí hoạt động và tăng hiệu quả.
Cấp độ 5 - Thương mại điện tử không dây
Doanh nghiệp áp dụng thương mại điện tử trên các thiết bị không dây như điện thoại
di động, Palm v.v… sử dụng giao thức truyền không dây WAP (Wireless Application
Protocal). Tức là, các ứng dụng thương mại điện tử của doanh nghiệp có thể hoạt động
được trên các thiết bị bỏ túi, nhỏ gọn hơn rất nhiều so với một chiếc máy tính hay
laptop.
Cấp độ 6 - Cả thế giới trong một máy tính
Chỉ với một thiết bị điện tử, người ta có thể truy cập vào một nguồn thông tin khổng
lồ, mọi lúc, mọi nơi và mọi loại thông tin (hình ảnh, âm thanh, phim, v.v…) và thực
hiện các loại giao dịch. Toàn bộ cơ sở dữ liệu của doanh nghiệp được kết nối với
nhau, toàn bộ hoạt động quản lý, điều phối nguồn lực được thực hiện hoàn toàn trên
máy tính.
Phần 2: Cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp thương mại
điện tử Việt Nam
1. Tổng quan về các doanh nghiệp thương mại điện tử Việt Nam.
Mặc dù chưa phải là thước đo trình độ triển khai ứng dụng thương mại điện tử của
doanh nghiệp, nhưng số lượng và chất lượng các website kinh doanh cũng là một tiêu
chí quan trọng để đánh giá mức độ phát triển thương mại điện tử, đặc biệt trong bối
cảnh doanh nghiệp Việt Nam còn tương đối bỡ ngỡ với các phương thức tiến hành
thương mại điện tử của thế giới. Khi việc kết nối hệ thống giữa các đối tác chiến lược
để tiến hành trao đổi dữ liệu điện tử trực tiếp ở Việt Nam hiện còn chưa phát triển, thì
các website là kênh phổ biến nhất để doanh nghiệp quảng bá sản phẩm, xúc tiến dịch

vụ và tiến hành giao dịch thương mại điện tử cả theo hình thức B2B lẫn B2C. Do vậy,
nếu một doanh nghiệp xây dựng và duy trì được một website hiệu quả để phục vụ hoạt
động sản xuất kinh doanh của đơn vị mình, điều này đã nói lên một trình độ nhất định
về triển khai ứng dụng thương mại điện tử trong doanh nghiệp đó.
Cơ hội và thách thức của doanh nghiệp thương mại điện tử Việt Nam Trang 1 0
Hàng năm, Vụ Thương mại điện tử – Bộ Thương mại đều tiến hành các hoạt động
điều tra, đánh giá hiện trạng hoạt động thương mại điện tử ở Việt Nam, đặc biệt là tình
hình ứng dụng thương mại điện tử ở của các doanh nghiệp. Theo Báo cáo thương mại
điện tử năm 2005, trong tổng số 504 doanh nghiệp được khảo sát thì có 46,2% doanh
nghiệp đã thiết lập website. Tuy nhiên hầu hết các doanh nghiệp được khảo sát đều tập
trung ở những thành phố hoặc khu công nghiệp trọng điểm của các tỉnh, nơi hạ tầng
công nghệ thông tin và truyền thông tương đối tốt. Chiếm phần lớn (68,7%) trong
những doanh nghiệp đã thiết lập website là các doanh nghiệp kinh doanh thương mại -
dịch vụ. Số website của doanh nghiệp sản xuất mặc dù còn chiếm một tỷ lệ khiêm tốn
nhưng cũng đã nói lên sự quan tâm nhất định của những doanh nghiệp này đối với
việc ứng dụng thương mại điện tử để tiếp thị cho sản phẩm của mình. Tính gộp cả
khối doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp thương mại - dịch vụ, số lượng sản phẩm
được giới thiệu trên các website cũng rất đa dạng.
Nhìn vào cơ cấu hàng hóa, dịch vụ được giới thiệu trên các website doanh nghiệp, có
thể thấy nhóm hàng hóa phổ biến nhất hiện nay vẫn là thiết bị điện tử - viễn thông và
hàng tiêu dùng. Do đặc thù của mặt hàng điện tử - viễn thông và đồ điện gia dụng là
mức độ tiêu chuẩn hóa cao, với những thông số kỹ thuật cho phép người mua đánh giá
và so sánh các sản phẩm mà không cần phải giám định trực quan, nhóm hàng này sẽ
tiếp tục chiếm ưu thế khi thâm nhập các kênh tiếp thị trực tuyến trong vòng vài năm
tới. Về lĩnh vực dịch vụ, dẫn đầu về mức độ ứng dụng thương mại điện tử hiện nay là
các công ty du lịch, điều này cũng phù hợp với tính chất hội nhập cao và phạm vi thị
trường mang tính quốc tế của dịch vụ này. So với năm 2004, năm 2005 có một loại
hình dịch vụ mới nổi lên như lĩnh vực ứng dụng mạnh thương mại điện tử là dịch vụ
vận tải giao nhận, với rất nhiều website công phu và có nhiều tính năng tương tác với
khách hàng.

Có tới 87,6% số doanh nghiệp có website cho biết đối tượng họ hướng tới khi thiết lập
website là các tổ chức và doanh nghiệp khác, trong khi 65,7% doanh nghiệp chú trọng
tới đối tượng người tiêu dùng. Như vậy, phương thức giao dịch B2B sẽ là lựa chọn
chiếm ưu thế đối với doanh nghiệp khi triển khai ứng dụng thương mại điện tử một
cách chuyên nghiệp hơn trong tương lai.
Một trong những tiêu chí giúp đánh giá chất lượng và tính chuyên nghiệp của một
website là tần suất cập nhật thông tin trên đó, nói cách khác là sự đầu tư công sức và
thời gian của doanh nghiệp để nuôi sống website. Hơn một nửa số doanh nghiệp được
khảo sát cho biết họ chỉ cập nhật thông tin trên website một tháng một lần hoặc ít hơn.
Chưa đến 30% doanh nghiệp coi việc rà soát website là công việc hàng ngày. Sự bê
trễ này cũng là điều dễ hiểu khi nhìn vào thực trạng chỉ khoảng 30% số website có
tính năng hỗ trợ giao dịch thương mại điện tử. Kết hợp lại, các thống kê trên cho thấy
Cơ hội và thách thức của doanh nghiệp thương mại điện tử Việt Nam Trang 1 1
doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa nhìn nhận đúng mức về vai trò của trang web như
một kênh giao tiếp và tương tác thường xuyên với khách hàng, do đó chưa có sự đầu
tư đúng mức về nguồn lực cũng như thời gian để xây dựng, duy trì và khai thác
website một cách thật hiệu quả.
Phân tích sâu hơn mô hình quản lý website của các doanh nghiệp còn cho thấy 56,2%
số doanh nghiệp tự quản trị website của mình và 43,8% ký hợp đồng với một nhà
cung cấp dịch vụ web để làm việc này. Đây cũng là một trong những lý do giải thích
cho việc thông tin và tính năng giao tiếp của các trang web còn nghèo nàn. Bởi lẽ, để
có thể cập nhật thông tin và duy trì quan hệ giao tiếp với khách hàng một cách thường
xuyên, doanh nghiệp cần phải là người chủ động nắm quyền quản trị website. Khi
giao phần việc này vào tay một công ty dịch vụ bên ngoài, doanh nghiệp đã vô hình
chung bỏ đi chức năng tương tác với khách hàng của website và biến nó thành một
công cụ quảng cáo thuần túy. Với những doanh nghiệp tự đảm nhận công tác quản trị
website thì để làm việc này một cách thật sự chuyên nghiệp cũng là thách thức lớn
trong bối cảnh hiện vẫn chưa có nhiều doanh nghiệp bố trí được cán bộ chuyên trách
về công nghệ thông tin.
Mặc dù tỷ lệ doanh nghiệp có website năm 2005 đã cao hơn năm trước, nhưng tính

năng thương mại điện tử của các website thì vẫn chưa được cải thiện. Phần lớn
website vẫn chỉ dừng ở mức giới thiệu những thông tin chung nhất về công ty và sản
phẩm, dịch vụ, với giao diện đơn giản và các tính năng kỹ thuật còn rất sơ khai. Kết
quả điều tra những doanh nghiệp đã lập website cho thấy 99,6% số website có cung
cấp thông tin giới thiệu doanh nghiệp, 93,1% đưa thông tin giới thiệu sản phẩm, trong
khi chỉ 32,8% bước đầu có tính năng hỗ trợ giao dịch thương mại điện tử như cho
phép hỏi hàng hoặc gửi yêu cầu, một số ít cho phép đặt hàng trực tuyến. Trong số
những website có tính năng hỗ trợ giao dịch thương mại điện tử này, 82% thuộc về
các công ty kinh doanh dịch vụ, trên các lĩnh vực du lịch, vận tải giao nhận, quảng
cáo, thương mại, v.v
Về mức độ đầu tư, kết quả khảo sát những doanh nghiệp đã thiết lập website cho thấy
đầu tư về ứng dụng thương mại điện tử chiếm tỷ trọng tương đối thấp trong tổng chi
phí hoạt động thường niên. Trên 80% doanh nghiệp cho biết họ dành không đến 5%
chi phí hoạt động cho việc triển khai thương mại điện tử, bao gồm cả việc mua các
phần mềm thương mại điện tử, duy trì bảo dưỡng website và phân bổ nguồn nhân lực
cho những hoạt động này. Chỉ có khoảng 14% doanh nghiệp chọn mức đầu tư 5-15%
và một tỷ lệ rất nhỏ (3,6%) đầu tư thật sự quy mô cho thương mại điện tử, ở mức trên
15%.
Tác dụng của Website đối với Doanh nghiệp Điểm (0 là thấp nhất, 4 là cao nhất)
Cơ hội và thách thức của doanh nghiệp thương mại điện tử Việt Nam Trang 1 2
Xây dựng hình ảnh công ty 3.2
Mở rộng kênh tiếp xúc với khách hàng hiện có 2.9
Thu hút khách hàng mới 2.6
Tăng lợi nhuận và hiệu quả hoạt động 2.0
Tăng doanh số 1.9
Bảng 1: Quan điểm của doanh nghiệp về tác dụng của website
Trong tương quan với tỷ lệ đầu tư, mức đóng góp của thương mại điện tử cho việc tạo
doanh thu mặc dù chưa thực sự nổi bật nhưng cũng rất đáng khả quan. Gần 30%
doanh nghiệp được hỏi đánh giá mức đóng góp này ở vào khoảng từ 5% - 15%, và
7,5% còn tỏ ra lạc quan hơn nữa khi cho rằng ứng dụng thương mại điện tử đã đem lại

cho họ trên 15% nguồn doanh thu của năm. So với kết quả điều tra năm 2004, có thể
thấy năm 2005 doanh nghiệp tỏ ra thận trọng hơn khi phân bổ vốn đầu tư cho các ứng
dụng triển khai thương mại điện tử, nhưng hiệu quả thực tế do đầu tư này mang lại
cũng đã bắt đầu phát huy tác dụng và được doanh nghiệp nhìn nhận tương đối khả
quan. Một bằng chứng nữa cho nhận định này là việc 37,2% doanh nghiệp được hỏi
cho rằng doanh thu từ kênh tiếp thị thương mại điện tử sẽ tăng trong những năm tới,
61,5% cho rằng không thay đổi, và chỉ 1,3% nghiêng về chiều hướng giảm.
Tuy nhiên, tỷ lệ đóng góp cho doanh thu mới chỉ là một trong những tác dụng mà việc
triển khai thương mại điện tử có thể đem lại. Ngoài yếu tố định lượng này, còn rất
nhiều yếu tố định tính khác để đánh giá hiệu quả của ứng dụng thương mại điện tử nói
chung và website nói riêng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp.
Khi được yêu cầu cho điểm một số tác dụng của website theo thang điểm từ 0 đến 4,
trong đó 4 là mức hiệu quả cao nhất, đa số doanh nghiệp cho điểm rất cao tác dụng
"Xây dựng hình ảnh công ty" và "Mở rộng kênh tiếp xúc với khách hàng hiện có".
Đánh giá này cho thấy doanh nghiệp đã nhận thức rõ vai trò của website như một
công cụ quảng bá và mở rộng thị trường. Nhưng mặt khác, việc hai tác dụng "tăng
doanh số" và "tăng lợi nhuận và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp" được xếp cuối
bảng với điểm bình quân chưa đến 2 cũng cho thấy hiệu quả bằng tiền mà ứng dụng
thương mại điện tử đem lại cho doanh nghiệp vẫn chưa thực sự nổi bật.
Nhìn vào một số nguyên nhân lý giải cho việc triển khai ứng dụng thương mại điện tử
chưa mang lại hiệu quả như mong muốn, trở ngại về nhận thức xã hội được các doanh
nghiệp xếp lên đầu bảng với số điểm bình quân đạt trên 3,3. Theo khá sát là các trở
ngại về hệ thống thanh toán , môi trường pháp lý và tập quán kinh doanh . Trở ngại về
hạ tầng công nghệ thông tin - viễn thông, mặc dù vẫn có điểm số khá cao nhưng đã tụt
xuống cuối danh sách các vấn đề đáng quan ngại đối với doanh nghiệp khi triển khai
ứng dụng thương mại điện tử.
Cơ hội và thách thức của doanh nghiệp thương mại điện tử Việt Nam Trang 1 3
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến các doanh nghiệp thương mại điện tử Việt
Nam.
Nhìn chung, việc phát triển Thương mại điện tử ở Việt Nam hiện còn mang tính tự

phát, chưa được định hướng bởi chính phủ và các cơ quan chuyên môn nhà nước. Do
đó, sự đầu tư cho TMĐT ở mỗi doanh nghiệp phụ thuộc vào tầm nhìn, quan điểm của
lãnh đạo doanh nghiệp. Cũng có nhiều cá nhân, doanh nghiệp thành lập những
website Thương mại điện tử (sàn giao dịch, website phục vụ việc cung cấp thông tin,
website rao vặt, siêu thị điện tử ) để giành vị thế tiên phong, tuy nhiên, tình hình
chung là các website này chưa thực sự được marketing tốt và phát triển tốt để mang
lại lợi nhuận kinh tế đáng kể.
Để Thương mại điện tử phát triển, cần nhiều yếu tố thúc đẩy, làm nền tảng như:
 Cơ sở hạ tầng công nghệ
 Số người truy cập Internet, chi phí truy cập Internet
 Nhân lực chuyên môn
 Kiến thức Thương mại điện tử về phương diện kinh doanh, chiến lược,
và nhận thức của nhà đầu tư
 Nhận thức của cộng đồng
 Vai trò lãnh đạo của nhà nước
 Luật
Theo khảo sát, 7 yếu tố trên được xếp hạng như sau:
Yếu Tố Thang Điểm(0-9)
Số người truy cập Internet, chi phí truy cập Internet 7.00
Cơ sở hạ tầng công nghệ 6.00
Vai trò lãnh đạo của nhà nước 5.00
Kiến thức Thương mại điện tử về phương diện kinh doanh,
chiến lược, và nhận thức của nhà đầu tư
4.00
Nhân lực chuyên môn 3.00
Nhận thức của cộng đồng 2.00
Luật 1.00
Bảng 2: Xếp hạng các yếu tố thúc đẩy sự phát triển Thương mại điện tử ở Việt Nam
Thang điểm từ 0 đến 9, 0 là hầu như chưa có gì, 9 là mức cao nhất thúc đẩy sự phát
triển Thương mại điện tử.

Cơ hội và thách thức của doanh nghiệp thương mại điện tử Việt Nam Trang 1 4
a. Cơ sở pháp lý và luật liên quan đến thương mại điện tử.
Sự phát triển của Thương mại điện tử trên thế giới đã làm thay đổi cách thức kinh
doanh, giao dịch truyền thống và đem lại những lợi ích to lớn cho xã hội. Tuy nhiên
bên cạnh đó cũng phải thừa nhận rằng những rủi ro gặp phải trong quá trình giao dịch,
kinh doanh trên mạng là hiện thực và việc này đòi hỏi phải có các giải pháp không chỉ
về mặt kỹ thuật mà còn cần phải hình thành được một cơ sở pháp lý đầy đủ. Những
kinh nghiệm thực tế tręn thế giới cho thấy để thúc đẩy thýőng mại điện tử phát triển
thì vai trò của Nhà nước phải được thể hiện rõ nét trên hai lĩnh vực: cung ứng dịch vụ
điện tử và xây dựng một hệ thống pháp luật đầy đủ, thống nhất và cụ thể để điều chỉnh
các quan hệ thương mại điện tử. Nếu như chúng ta thiếu đi một cơ sở pháp lý vững
chắc cho thương mại điện tử hoạt động thì các doanh nghiệp và người tiêu dùng sẽ rất
lúng túng trong việc giải quyết các vấn đề có liên quan và về phía các cơ quan Nhà
nước cũng sẽ rất khó có cơ sở để kiểm soát được các hoạt động kinh doanh thương
mại điện tử.
Hơn thế nữa thương mại điện tử là một lĩnh vực mới mẻ cho nên tạo được niềm tin
cho các chủ thể tham gia vào các quan hệ thương mại điện tử là một việc làm có tính
cấp thiết mà một trong những hạt nhân là phải tạo ra được một sân chơi chung với
những quy tắc được thống nhất một cách chặt chẽ.
Trong tiến trình hội nhập với thế giới với tư cách là thành viên của APEC, Việt nam
đang tích cực tham gia và ủng hộ "Chương trình hành động chung" mà khối này đã
đưa ra về thực hiện "Thương mại phi giấy tờ" vào năm 2005 đối với các nước phát
triển và năm 2010 đối với các nước đang phát triển. Việt nam cũng tích cực tham gia
vào lộ trình tự do hoá của Hiệp định khung e-ASEAN và thực hiện theo "Các nguyên
tắc chỉ đạo Thương mại điện tử" mà các nước trong khối đã thông qua. Chính vì thế
những đòi hỏi của pháp lý quốc tế chúng ta phải đáp ứng để có thể hoà nhập và theo
kịp các nước trong khu vực và trên thế giới.
Giá trị pháp lý của các hình thức thông tin điện tử
Hiện nay theo các quy định của pháp luật Việt nam hình thức văn bản được sử dụng
như là một trong những hình thức chủ yếu trong các giao dịch dân sự, thương mại và

đặc biệt là trong các hợp đồng kinh tế nó là một yếu tố bắt buộc. Tuy nhiên, hiện nay
chúng ta vẫn chưa có một khái niệm cụ thể và rõ ràng rằng thế nào là "văn bản". Theo
quan niệm lâu nay của những người làm công tác pháp lý thì họ vẫn hiểu trong một
nền thương mại truyền thống thì văn bản được đồng nghĩa với giấy tờ (dưới hình thức
viết). Như vậy, nếu các hình thức thông tin điện tử không được ghi nhận về mặt pháp
lý là một trong những hình thức của văn bản, thì các hợp đồng được giao kết trên
mạng máy tính giữa các chủ thể sẽ bị coi là vô hiệu theo pháp luật của Việt nam, do
không đáp ứng được các yêu cầu về mặt pháp lý của hợp đồng. Nếu đòi hỏi các hợp
Cơ hội và thách thức của doanh nghiệp thương mại điện tử Việt Nam Trang 1 5
đồng thương mại, dân sự phải được thể hiện dưới hình thức viết và chữ ký tay thì
những ưu thế của các giao dịch thương mại điện tử sẽ không được tận dụng và phát
huy. Chính vì vậy việc xoá bỏ rào cản đầu tiên ảnh hưởng đến sự phát triển của
thương mại điện tử là về phía Nhà nước cần phải có sự ghi nhận về mặt pháp lý đối
với giá trị của văn bản giao dịch thông qua phương tiện điện tử.
Việc chúng ta ghi nhận giá trị pháp lý của các hình thức thông tin điện tử có thể được
thực hiện bằng hai cách chính như sau:
Thứ nhất: Nên đưa ra khái niệm văn bản điện tử và có những quy định riêng đối với
loại văn bản này.
Thứ hai: Phải coi các hình thức thông tin điện tử như là các văn bản có giá trị tương
đương với văn bản viết nếu như chúng đảm bảo được các yếu tố:
- Khả năng chứa thông tin, các thông tin có thể được lưu giữ và tham chiếu lại khi cần
thiết.
- Ðảm bảo được tính xác thực của thông tin
- Ðảm bảo được tính toàn vẹn của thông tin
Hiện nay tại Việt nam vấn đề này chúng ta đã có đề cập đến và đã được giải quyết tuy
còn ở một góc độ rất hạn chế. Trong luật Thương mại Việt nam đã có quy định Hợp
đồng mua bán hàng hoá thông qua điện báo, telex, fax, thư điện tử và các hình thức
thông tin điện tử khác cũng được coi là hình thức văn bản. Tuy nhiên ở các hợp đồng
kinh tế, dân sự, thương mại khác thì vấn đề này chưa đuợc thừa nhận một cách rõ ràng
và cụ thể. Chính vì vậy để hoàn thiện và có một cách hiểu thống nhất chúng ta cần

phải có những điều chỉnh kịp thời trong thời gian tới.
Giá trị pháp lý của chữ ký điện tử
Từ trước đến nay chữ ký là phương thức phổ biến để ghi nhận tính xác thực của thông
tin được chứa đựng trong văn bản. Có một số đặc trưng cơ bản của chữ ký là:
- Chữ ký nhằm xác định tác giả của văn bản
- Chữ ký thể hiện sự chấp nhận của tác giả với nội dung thông tin chứa đựng trong
văn bản.
Trong giao dịch thương mại thông qua các phương tiện điện tử, các yêu cầu về đặc
trưng của chữ ký tay có thể đáp ứng bằng hình thức chữ ký điện tử. Chữ ký điện tử trở
thành một thành tố quan trọng trong văn bản điện tử. Một trong những vấn đề cấp
thiết đặt ra là về mặt công nghệ và pháp lý thì chữ ký điện tử phải đáp ứng được sự an
toàn và thể hiện ý chí rõ ràng của các bên về thông tin chứa đựng trong văn bản điện
Cơ hội và thách thức của doanh nghiệp thương mại điện tử Việt Nam Trang 1 6
tử. Hiện nay trên thế giới đã có rất nhiều công trình nghiên cứu và đã được ứng dụng
rộng rãi nhằm nhận dạng và chứng thực cá nhân. Những công nghệ này bao gồm công
nghệ số và mật lệnh nhận dạng, dấu hiệu hoặc thẻ thông minh, sinh trắc học, dữ liệu
điện tử đơn giản, chữ ký kỹ thuật số và các kết hợp của những công nghệ này. Luật
pháp điều chỉnh lĩnh vực này sẽ tập trung vào việc đặt ra các yêu cầu về nhận dạng
chữ ký điện tử cho phép các bên không liên quan hoặc có ít thông tin về nhau có thể
xác định được chính xác chữ ký điện tử của các bên đối tác. Và trong trường hợp này
để xác định được độ tin cậy của chữ ký điện tử người ta trù liệu hình thành một cơ
quan trung gian nhằm chứng thực tính xác thực và đảm bảo độ tin cậy của chữ ký điện
tử. Cơ quan này hình thành nhằm cung cấp một dịch vụ mang nhiều ý nghĩa về mặt
pháp lý hơn là về mặt công nghệ.
Ðối với Việt nam vấn đề chữ ký điện tử vẫn còn là một vấn đề mà chúng ta mới có
những bước đi đầu tiên. Tháng 3/2002 Chính phủ đã có quyết định số 44/2002/QÐ-
TTg về chấp nhận chữ ký điện tử trong thanh toán liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà
nước Việt nam đề nghị. Có thể coi đây là văn bản pháp lý cao nhất quy định về chữ ký
điện tử hiện đang được áp dụng tại Việt nam. Chúng ta vẫn còn nhiều việc phải làm để
hoàn thiện và nhân rộng để chữ ký điện tử trở thành phổ biến trong các giao dịch

thương mại điện tử.
Vấn đề bản gốc
Vấn đề "bản gốc" có liên quan chặt chẽ đến vấn đề "chữ ký" và "văn bản" trong môi
truờng kinh doang điện tử. Bản gốc thể hiện sự toàn vẹn của thông tin chứa đựng
trong văn bản. Trong môi trường giao dịch qua mạng thì vấn đề bản gốc được đặt gắn
liền với việc sử dụng chữ ký điện tử. Do đó chữ ký điện tử không những chỉ xác định
người ký mà còn nhằm xác minh cho tính toàn vẹn của nội dung thông tin chứa trong
văn bản. Việc sử dụng chữ ký điện tử đồng nghĩa với việc mã hoá tài liệu được ký kết.
Về mặt nguyên tắc thì văn bản điện tử và văn bản truyền thống có giá trị ngang nhau
về mặt pháp lý. Vấn đề này được làm rõ sẽ là cơ sở cho việc xác định giá trị chứng cứ
của văn bản điện tử. Việc công nhận giá trị chứng cứ của văn bản điện tử đóng một
vai trò quan trọng trong sự phát triển của thương mại điện tử. Chỉ khi giá trị của văn
bản điện tử được đặt ngang hàng với văn bản viết truyền thống thì các chủ thể trong
giao dịch thương mại điện tử mới sử dụng một cách thường xuyên văn bản điện tử
thay cho văn bản viết truyền thống. Tuy vậy giá trị của văn bản điện tử cũng chỉ được
xác nhận khi nó đảm bảo được các thành tố mà đã được nêu ở phần trên.
Có thể nói vấn đề xây dựng khung pháp lý làm cơ sở cho thương mại điện tử phát
triển là một việc làm mang tính cấp thiết. Dẫu là còn nhiều vấn đề mà chúng ta phải
bàn về nó song một thực tế là thương mại điện tử không thể phát triển mạnh và hoàn
thiện nếu như không có môi trường pháp lý đầy đủ cho nó hoạt động.
Cơ hội và thách thức của doanh nghiệp thương mại điện tử Việt Nam Trang 1 7
b. Cơ sở hạ tầng và mức độ phát triển dịch vụ bưu chính-viễn thông.
Hạ tầng công nghệ-viễn thông
Chỉ có thể tiến hành thực tế và một cách có hiệu quả thương mại điện tử khi đã có một
hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin đủ năng lực, bao gồm hai nhánh: tính toán
(computing) và truyền thông (communications), hai nhánh này ngoài công nghệ thiết
bị còn cần phải có một nền công nghiệp điện tử vững mạnh làm nền; và hiện nay đang
có xu hướng đưa cả công nghệ bảo mật và an toàn vào cơ sở hạ tầng công nghệ của
thương mại điện tử. Đòi hỏi về hạ tầng cơ sở công nghệ bao gồm hai mặt: một là tính
tiên tiến, hiện đại về công nghệ và thiết bị, hai là tính phổ cập về kinh tế (đủ rẻ tiền để

đông đảo con người có thể thực tế tiếp cận được).
Bảo mật, an toàn thông tin
Giao dịch thương mại qua các phương tiện điện tử, trong đó mọi dữ liệu (kể cả chữ
ký) đều ở dạng số hoá, đặt ra yêu cầu nghiêm ngặt về tính bảo mật, an toàn, tránh mất
tiền, lừa gạt, thay đổi thông tin, xâm nhập dữ liệu, v.v là các rủi ro ngày một lớn,
không chỉ với người buôn bán, mà cả với người quản lý, với từng quốc gia, vì các hệ
thống điện tử có thể bị kẻ xấu(hacker) xâm nhập, đòi hỏi phải có các hệ thống bảo
mật, an toàn được thiết kế trên cơ sở kỹ thuật mã hóa hiện đại, và một cơ chế an ninh
hữu hiệu (nhất là đối với các hệ thống có liên quan tới an ninh quốc gia). Ngoài ra,
còn có nhu cầu ngày càng tăng vì giữ gìn bí mật riêng tư.
Hệ thống thanh toán tự động
Thương mại điện tử chỉ có thể thực hiện thực tế và có hiệu quả khi đã tồn tại một hệ
thống thanh toán tài chính ở mức độ phát triển đủ cao, cho phép tiến hành thanh toán
tự động, trong đó "thẻ thông minh" có vai trò đặc biệt quan trọng trong kinh doanh
bán lẻ; khi chưa có hệ thống này, thì thương mại điện tử chỉ giới hạn trong khâu trao
đổi tin tức, còn việc buôn bán hàng hóa và dịch vụ vẫn phải kết thúc bằng trả tiền trực
tiếp hoặc qua các phương tiện thanh toán truyền thông; hiệu quả sẽ thấp, rất có thể
không đủ bù đắp chi phí trang bị phương tiện thương mại điện tử. Có thể nói, thanh
toán điện tử là xương sống của toàn bộ nền thương mại điện tử, nếu thanh toán điện tử
chưa phát triển, thì chắc chắn sẽ kéo lui sự phát triển của toàn bộ nền thương mại điện
tử.
Lệ thuộc công nghệ
Hoa Kỳ đang khống chế toàn bộ công nghệ thông tin trên thế giới, cả phần cứng cũng
như phần mềm (bao gồm phần mềm hệ thống và phần mềm ứng dụng), chuẩn công
nghệ Internet, các phần mềm tìm kiếm và trình duyệt chủ yếu cũng là của Hoa Kỳ,
Hoa Kỳ đã đi đầu và có nhiều thực tiễn về kinh tế số hóa và thương mại điện tử. Một
khi thương mại được số hóa thì toàn thế giới sẽ chịu sự khống chế công nghệ Hoa Kỳ
Cơ hội và thách thức của doanh nghiệp thương mại điện tử Việt Nam Trang 1 8
và các nước tiên tiến gần với Hoa Kỳ, là điều có thể đưa tới nhiều hệ quả. Như vậy,
việc phát triển mạnh khoa học-kỹ thuật, phải tiếp thu nhanh các thành quả khoa học-

kỹ thuật là điều then chốt, nhằm tránh sự lệ thuộc hoàn toàn vào công nghệ của các
nước tiên tiến khác.
c. Nguồn nhân lực cho thương mại điện tử.
Hoạt động thương mại, theo đúng nghĩa của chữ "thương mại" trong "thương mại điện
tử", liên quan tới mọi người, từ người tiêu dùng đến doanh nghiệp, phân phối, Chính
phủ, các nhà công nghệ, nên việc áp dụng thương mại điện tử tất yếu đòi hỏi đa số con
người phải có kỹ năng thực tế ứng dụng công nghệ thông tin một cách có hiệu quả, có
thói quen làm việc trên máy tính, trên mạng máy tính, và cần phải có một đội ngũ
chuyên gia thông tin đủ mạnh.
Nguồn nhân lực phục vụ cho thương mại điện tử đòi hỏi phải đáp ứng được những
nhu cầu cao về chuyên môn.
Phân tích vấn đề này, Ta thấy:
Thứ nhất, hoạt động thương mại được tiến hành trên môi trường mạng là dựa trên
những quy định, những nguyên tắc và yêu cầu riêng (về giao dịch, thanh toán, tranh
chấp…). Điều này đòi hỏi những người lao động trực tiếp và những nhà quản lý kinh
doanh phải hiểu rõ các thao tác kỹ thuật, những quy định và nguyên tắc thực hiện kinh
doanh trực tuyến.
Thứ hai, người làm thương mại điện tử cần phải nắm vững những vấn đề liên quan
đến thương mại, công nghệ thông tin và truyền thông để có thể vận dụng thành thạo
các ứng dụng công nghệ thông tin khi tiến hành các giao dịch thương mại điện tử,
đồng thời phải thường xuyên cập nhật các công nghệ mới, nắm bắt những cơ hội kinh
doanh mới trong thương mại điện tử.
Thứ ba, thương mại điện tử là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế tri thức. Do đó,
nhân lực thương mại điện tử, dù là người thực hiện hay là người đóng vai trò quản lý
đều là những đối tượng có hàm lượng tri thức cao. Họ cần được tiến hành đào tạo có
hệ thống, trải qua các quá trình đào tạo từ hệ thống đến chuyên sâu tương ứng với
từng vị trí, từng nhiệm vụ và theo từng chuyên ngành cụ thể.
Như vậy, để có thế ứng dụng thành công, tận dụng các cơ hội mà thương mại điện tử
mang lại, yêu cầu tiên quyết là cần chuẩn bị tốt nguồn nhân lực. Đây chính là một
trong những vấn đề đặt ra và đòi hỏi phải được giải quyết đầu tiên đối với các nước

muốn phát triển thương mại điện tử.
3. Cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp thương mại điện tử Việt
Nam.
Cơ hội và thách thức của doanh nghiệp thương mại điện tử Việt Nam Trang 1 9
Cơ hội từ thương mại điện tử
Doanh nghiệp Việt Nam đa số là doanh nghiệp vừa và nhỏ nên thương mại điện tử sẽ
là cầu nối giúp mở rộng thị trường, tham gia hội nhập tích cực. Với một chi phí rất
thấp, khả thi, bất cứ một doanh nghiệp Việt Nam nào cũng có thể nhan chóng tham
gia thương mại điện tử để đem lại cơ hội kinh doanh cho doanh nghiệp. Thương mại
điện tử ở Việt Nam đang trong quá trình phát triển. Số người tham gia truy cập
internet còn thấp nên chưa tạo được một thị trường nội địa. Mặt khác các cơ sở để
phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam còn chưa hoàn thiện: hạ tầng viễn thông
chưa đủ mạnh và cước phí còn đắt, hạ tầng pháp lý còn đang xây dựng, hệ thống
thanh toán điện tử chưa phát triển.Tất cả điều là những rào cản cho phát triển thương
mại điện tử.Việt Nam đang trong quá trình tích cực hội nhập vào kinh tế khu vực và
thế giới. Dù muốn hay không các doanh nghiệp cũng phải đối mặt với sự cạnh tranh
quyết liệt không chỉ trong nước và thị trường quốc tế. Các doanh nghiệp nước ngoài,
mạnh về vốn, công nghệ và kinh nghiệm sẽ thông qua thương mại điện tử để đi vào thị
trường Việt Nam, cạnh tranh với các doanh nghiệp Việt Nam. Vì vậy dù muốn hay
không các doanh nghiệp Việt Nam phải chấp nhận và tham gia thương mại điện tử.
Không nên nghĩ tham gia thương mại điện tử là phải mua bán hàng hoá và dịch vụ.
Thực tế có thể tham gia thương mại điện tử ở nhiều cấp độ khác nhau. Doanh nghiệp
Việt Nam ngay từ bây giờ có thể tham gia thương mại điện tử để:
o Giới thiệu hàng hoá và sản phẩm của mình
o Tìm hiểu thị trường: nghiên cứu thị trường, mở rộng thị trường
o Xây dựng quan hệ trực tuyến với khách hàng
o Mở kênh tiếp thị trực tuyến
o Tìm đối tác cung cấp nguyên vật liệu nhập khẩu
o Tìm cơ hội xuất khẩu
Quá trình tham gia thương mại điện tử là quá trình doanh nghiệp từng bước chuẩn bị

nguồn lực và kinh nghiệm. Nếu không bắt tay vào tham gia thương mại điện tử thì sẽ
bỏ lỡ một hình thức kinh doanh qua mạng, sẽ là hình thức phổ biến trong thế kỷ này.
Thách thức từ thương mại điện tử
Thương mại điện tử là một chủ đề nóng bỏng được rất nhiều người quan tâm. Cùng
với sự sự phát triển của công nghệ thông tin, mà cụ thể là mạng máy tính và công
nghệ bảo mật cùng các công nghệ thanh toán trực tuyến khác. Thương mại điện tử đã
và đang tác động mạnh mẽ tới cuộc sống của nhiều người. Nó làm cho giới kinh
doanh thay đổi một phần quan điểm của mình. Thậm chí một vài người còn từ bỏ kinh
Cơ hội và thách thức của doanh nghiệp thương mại điện tử Việt Nam Trang 2 0
doanh theo truyền thống để bước vào một kiểu kinh doanh hoàn toàn mới và khác là
“ Hi-Tech”. Đó chính là kiểu kinh doanh trên mạng mà người ta gọi là Thương mại
điện tử. Tuy nhiên khi bước vào kinh doanh theo hình thức này các doanh nghiệp
cũng găp phải khá nhiều thách thức.
Một công trình điều tra thị trường do E- CommerceNet tiến hành trên cơ sở 1.000
phiếu điều tra, trong đó 80% từ các nước châu Á đã rút ra 10 yếu tố cơ bản hạn chế
doanh nghiệp và người dùng tham gia thương mại điện tử là:
• Vấn đề an ninh mã hóa
• Độ tin cậy thấp và rủi ro lớn trong giao dịch thương mại điện tử
• Thiếu đội ngũ cán bộ có trình độ kinh doanh và tin học cần thiết.
• Thiếu mô hình kinh doanh thương mại điện tử phù hợp cho từng quốc gia có
mức độ phát triển mạng internet.
• Trở ngại văn hóa trong phát triển thương mại điện tử.
• Đối tượng tham gia thương mại điện tử giới hạn trong nhóm người thuộc tầng
lớp trí thức và thu nhập cao.
• Thương mại điện tử đòi hỏi những thay đổi căn bản trong cơ cấu tổ chức và
quản lý của doanh nghiệp.
• Rủi ro xuất phát từ gian lận thương mại, nguy cơ hàng giả rất cao trong thương
mại điện tử.
• Tốc độ kết nối mạng Internet ở các nước đang phát triển, đặc biệt là ở Việt
Nam rất thấp.

• Các vấn đề về pháp luật.
Như vậy, ta có thể thấy, các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với rất nhiều khó
khăn, thách thức trong việc triển khai thương mại điện tử trong doanh nghiệp mình.
Những khó khăn có thể đến từ hệ thống quản lý nhà nước hay trình độ phát triển cơ sở
hạ tầng liên quan đến thương mại điện tử. Để giải quyết những khó khăn này, cần thiết
phải có sự phối hợp của nhiều cơ quan nhà nước cùng với sự nỗ lực của bản thân
doanh nghiệp để Việt Nam có thể tận dụng được cơ hội do thương mại điện tử mang
đến trong thế kỷ này.
Phần 3: Các kiến nghị
1. Về phía cơ quan quản lý nhà nước.
Cơ hội và thách thức của doanh nghiệp thương mại điện tử Việt Nam Trang 2 1
Trước hết, các cơ quan nhà nước cần phải nhận thức được những cơ hội và các thách
thức do thương mại điện tử mang lại. Sự can thiệp của cơ quan nhà nước trong việc
định hướng và hoạch định cho nền thương mại điện tử còn non trẻ của Việt Nam là
cực kỳ quan trọng, điều đó quyết định đến sự sống còn cho toàn bộ nền thương mại
điện tử Việt Nam. Sau đây là các kiến nghị đến các cơ quan quản lý nhà nước:
a. Về luật pháp, cơ sở pháp lý.
Cần tiếp tục hoàn thiện bộ khung pháp lý về thương mại điện tử. Các văn bản pháp
luật điều chỉnh các mối quan hệ “thương mại điện tử” còn đang rất thiếu và yếu, chưa
đủ sức tạo nên sự tin tưởng hoàn toàn của người sử dụng(khách hàng) và doanh
nghiệp(nhà cung ứng và triển khai thương mại điện tử). Nghiên cứu và bổ sung hoàn
chỉnh cho các bộ luật về thương mại điện tử hiện hành là rất rất cần thiết. Thương mại
điện tử thay đổi rất nhanh theo sự phát triển của khoa học-kỹ thuật, những tiến bộ
trong kỷ nguyên số đã tác động đáng kể đến “thương mại điện tử” trên toàn thế giới và
ở Việt Nam, chính vì lẽ đó, sự thay đổi về luật cũng phải phù hợp và kịp thời với sự
thay đổi đó.
b. Về hoạt động quản lý và điều hành.
Về phía quản lý nhà nước, cần đặc biệt chú ý và siết chặt thêm hoạt động quản lý và
giám sát hoạt động của các doanh nghiệp đã và đang triển khai thương mại điện tử.
Người dân và doanh nghiệp cần phải có được lòng tin vào thương mại điện tử, họ phải

cảm thấy an toàn khi tham gia thương mại điện tử và đó chính là mục tiêu xuyên suốt
và dài hạn cho bất kỳ hoạt động quản lý nhà nước nào liên quan đến thương mại điện
tử.
Bên cạnh đó, Nhà nước phải đặc biệt chú ý đến công tác phát triển nguồn nhân lực
cho nền thương mại điện tử Việt Nam. Thương mại điện tử không thể phát triển được
nếu thiếu nguồn nhân lực có chất lượng cao, đủ khả năng tạo nên sự cạnh tranh công
bằng giữa nền thương mại điện tử Việt Nam với khu vực và trên toàn thế giới. Hiện
giờ, mới chỉ có 2 trường đại học có khoa thương mại điện tử, như vậy là chưa đủ và
chắc chắn, nguồn nhân lực về thương mại điện tử sẽ thiếu trầm trọng trong thời gian
tới.
2. Về phía các doanh nghiệp triển khai thương mại điện tử.
a. Về quản lý và điều hành trong nội bộ doanh nghiệp.
Do sau khi triển khai thương mại điện tử, doanh nghiệp chắc chắn sẽ gặp phải những
khó khăn ban đầu trong công tác quản lý doanh nghiệp, quản lý các nguồn lực, tài
chính kế toán,… Hoạt động thương mại điện tử không cần nhiều giấy tờ, thời gian xử
Cơ hội và thách thức của doanh nghiệp thương mại điện tử Việt Nam Trang 2 2
lý rất nhanh,… nên chắc chắn các cách thức quản lý cũ sẽ không đáp ứng được. Việc
thay đổi cách thức quản lý là điều chắc chắn nhằm phù hợp với môi trường “điện tử”.
Vậy doanh nghiệp cần tham khảo ý kiến các chuyên gia trong ngành, học hỏi kinh
nghiệm từ các doanh nghiệp khác nhằm tránh được những bỡ ngỡ ban đầu, khắc phục
dần các khó khắn khi triển khai thương mại điện tử.
b. Về việc xây dựng và phát triển nguồn nhân lực.
Bên cạnh các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp cũng nên “tự cứu mình”, do nguồn
nhân lực thương mại điện tử rất khan hiếm những chất lượng lại chưa cao, Doanh
nghiệp triển khai thương mại điện tử nên có chiến lược dài hạn để phát triển nguồn
nhân lực có chất lượng nhằm đáp ứng được nhu cầu phát triển của thương mại điện tử.
Doanh nghiệp có thể thực hiện liên kết đào tạo với các cơ sở đào tạo chính quy như
trường đại học, cao đẳng,… hoặc gửi các kỹ sư, cán bộ đi học tập ở nước ngoài học
tập, nâng cao trình độ và sự hiểu biết về thương mại điện tử. Điều đó sẽ giúp ích cho
doanh nghiệp ngay trong hiện tại và giúp doanh nghiệp có thể tự đào tạo các thế hệ kế

cận sau này.
c. Về sự gắn kết và hợp tác giữa các doanh nghiệp trong ngành.
Một trong những khó khăn trong việc triển khai thương mại điện tử chính là yếu tố
“cạnh tranh” vẫn tồn tại ngay trong các nhà lãnh đạo doanh nghiệp. Những doanh
nghiệp thương mại điện tử Việt Nam như đang “đánh nhau” trong một “cái ao” mà
không biết rằng, khi bước ra biển lớn sẽ bị “nuốt chửng”. Các doanh nghiệp vẫn đang
mộng mị trong cái “ao nhà”, mà chưa biết liên kết nhau lại, giúp nhau cùng phát triển
để có thể đứng vững và cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn trên thế giới. Đó thực sự
là điều đáng lo lắng về tương lại của nền thương mại điện tử Việt Nam. Do vậy, việc
liên kết, trao đổi giữa các doanh nghiệp trong ngành là rất quan trọng và cần thiết để
các doanh nghiệp có thể giúp nhau cùng hoàn thiện các ứng dụng thương mại điện tử
trong doanh nghiệp mình.
3. Về phía các doanh nghiệp ngoài ngành nhưng có ảnh hưởng đến
thương mại điện tử ở Việt Nam.
Mặc dù là các doanh nghiệp ngoài ngành, chưa áp dụng thương mại điện tử, nhưng
các doanh nghiệp này vẫn có sự ảnh hưởng nhất định đến nền thương mại điện tử Việt
Nam. Ta có thể chia thành 2 nhóm cơ bản sau:
a. Đối với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ bưu chính-viễn
thông.
Bưu chính-viễn thông là “tối quan trong” và là nền tảng cho toàn bộ nền thương mại
điện tử. Thương mại điện tử sẽ không thể tồn tại được nếu không có các dịch vụ bưu
Cơ hội và thách thức của doanh nghiệp thương mại điện tử Việt Nam Trang 2 3
chính-viễn thông. Do vậy, các doanh nghiệp bưu chính-viễn thông cần phải nắm rõ
được tầm quan trọng của mình đối với cả nền thương mại điện tử Việt Nam. Ngoài ra,
cần phải tiếp tục nâng cao chất lượng dịch vụ, nâng cáo yếu tố an toàn – bảo mật đối
với các khách hàng của mình, kèm theo đó là giá cả dịch vụ phải phù hợp với số đông
dân số. Càng nhiều người sử dụng các dịch vụ bưu chính-viễn thông thì cơ hội phát
triển thương mại điện tử càng rộng mở đối với Việt Nam.
Hơn nữa, việc phát triển mạnh các ứng dụng về công nghệ thông tin và truyền dẫn sẽ
càng kích thích sự phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử. Các dịch vụ như WAP,

3G, WIFI,… sẽ có những hiệu ứng rất tích cực cho sự khởi sắc thương mại điện tử ở
Việt Nam.
b. Đối với các doanh nghiệp chưa áp dụng thương mại điện tử.
Với bộ phần các doanh nghiệp vẫn chưa có ứng dụng thương mại điện tử, cần thiết có
được những nhận thức về các cơ hội, sự tiện lợi và lợi ích do thương mại điện tử mang
lại. Họ nên biết rằng, thương mại điện tử là tương lai, tương lai của nền thương mại
trên toàn thế giới. Trong tương lai, Thương mại trên toàn thế giới sẽ chỉ còn bó gọn
trong các hệ thống máy tính. Đây là tương lai và cũng là điều mà các doanh nghiệp
chưa triển khai thương mại điện tử nên định hướng để có chiến lược phù hợp đối với
sự phát triển của doanh nghiệp. Tìm hiểu và nhận thức đúng đắn về thương mại điện
tử là điều mà các doanh nghiệp này nên thực hiện, càng sớm càng tốt.
Kết Luận
Vậy, sau hơn 10 năm hình thành và phát triển, nền thương mại doanh nghiệp Việt
Nam cũng đã đạt được những thành tựu đáng kể, đã để lại được dấu ấn sắc nét trong
toàn bộ cơ cấu nền kinh tế Việt Nam. Thương mại điện tử đã mở ra rất nhiều cơ hội, là
con đường đi mới cho nhiều doanh nhân trẻ ngày hôm nay, bên cạnh những cơ hội đó
cũng có không ít những thách thức mà thương mại điện tử mang lại cho những người
tiên phong trong lĩnh vực này. Các doanh nghiệp nên có được những nhận thức đúng
đắn về thương mại điện tử, nhận thức rõ về cơ hội và những thử thách sẽ phải đối đầu
trong quá trình triển khai thương mại điện tử. Về mặt quản lý nhà nước cũng vô cùng
quan trọng, Nhà nước cần có những chiến lược dài hạn nhằm khuyến khích phát triển
thương mại điện tử nước nhà cũng như tạo điều kiện cho các doanh nghiệp triển khai
thương mại điện tử, đó là những bước đệm vô cùng quan trọng nhằm đưa nền thương
mại điện tử Việt Nam phát triển sánh vai với các nước trong khu vực và trên toàn thế
giới.
Cơ hội và thách thức của doanh nghiệp thương mại điện tử Việt Nam Trang 2 4
*** HẾT ***
Tài liệu tham khảo:
1. Trang: />2. KIẾN THỨC THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ, Tác giả: TS. Nguyễn Đăng Hậu
3. Trang: />Tu/Co_hoi_va_thach_thuc_thuong_mai_dien_tu/

4. Trang: />tu.195616.html
5. Báo cáo Thương mại điện tử của Vụ thương mại điện tử - Bộ thương mại năm
2005.
Cơ hội và thách thức của doanh nghiệp thương mại điện tử Việt Nam Trang 2 5

×