MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Hệ thống không gian xanh là một thành phần không thể thiếu của cấu trúc đô
thị, có vai trò quan trọng đối với đời sống của con người, là bộ phận quan trọng của
hệ sinh thái tự nhiên, có tác dụng lớn trong việc cải tạo khí hậu, bảo vệ môi trường
sinh thái, cũng là yếu tố quan trọng trong việc trang trí và tạo nên chất lượng kiến
trúc cảnh quan đô thị. Từ thời kỳ sơ khai của nền văn minh nhân loại, cây xanh luôn
giữ vai trò quan trọng về mặt trang trí cảnh quan. Qua các thời kỳ phát triển của xã
hội loài người, đô thị dần dần được hình thành và không ngừng phát triển, cùng với
đó là sự phát triển của hệ thống cây xanh trong các khu đô thị. Đến giữa thế kỷ XX
do dân số tăng nhanh, sự phát triển của các ngành công nghiệp, sự gia tăng của các
phương tiện giao thông làm cho môi trường đô thị bị ô nhiễm ngày càng nghiêm
trọng. Vì vậy, bảo vệ môi trường trở thành nhiệm vụ và là yêu cầu hết sức cấp bách
hiện nay.
Con người và cây xanh luôn có mối quan hệ tương hỗ, cây xanh cung cấp cho
chúng ta khí O
2
để thở và hấp thụ khí CO
2
. Vì thế mà cây xanh rất cần thiết và là
một phần không thể thiếu trong cuộc sống của con người. Trong những năm gần
đây, các nghiên cứu về lâm nghiệp đô thị cho thấy cây xanh đô thị nói chung và cây
xanh đường phố nói riêng có giá trị gấp nhiều lần không chỉ là những vật chất hữu
hình mà còn là vật chất vô hình. Trong đó cây xanh đường phố là một bộ phận trong
hệ thống cây xanh và cảnh quan đô thị cần được coi trọng, hệ thống này mang
những ý nghĩa đặc thù khác với các yếu tố cảnh quan khác ở chỗ, đây là một hệ sinh
thái nhân tạo, có sự sinh trưởng và phát triển, có tác dụng làm sạch môi trường,
giảm nhiệt độ, tiếng ồn, tăng cường sức khỏe và chất lượng cuộc sống của cư dân,
duy trì các hệ sinh thái, cải thiện tiểu khí hậu Nhờ hệ thống cây xanh trên các
đường phố đã góp phần làm cho bộ mặt của thành phố trở nên sinh động và mang
tính bền vững hơn. Tổ chức dải cây xanh cho các tuyến phố và các không gian xanh
đô thị như công viên cây xanh, vườn hoa, dải cây xanh cách ly… sẽ khai thác được
tối đa vẻ đẹp cảnh quan thiên nhiên của đô thị. Tuy nhiên so với các loại cây xanh
khác trong hệ thống cây xanh đô thị, thì cây xanh đường phố tiêu chuẩn chọn cây
trồng phải thể hiện được những đặc điểm riêng về chủng loại, cải thiện môi trường
sống, hình dáng và kích thước,…
1
Nhiều nghiên cứu đã khẳng định, ô nhiễm môi trường không khí trên các tuyến
đường phố là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến ô nhiễm môi trường
không khí đô thị, gây ảnh hưởng đến sức khỏe cho cư dân đô thị. Trong số các giải
pháp kỹ thuật nhằm hạn chế ô nhiễm môi trường đường phố thì giải pháp trồng cây
xanh là ít tốn kém, phát huy tác dụng lâu dài và mang lại những hiệu quả rõ rệt về
nhiều mặt. Từ các vấn đề nêu trên cho thấy, việc nghiên cứu nhằm tìm các giải
pháp tốt để phát triển hệ thống cây xanh đường phố là cần thiết, không chỉ có ý
nghĩa về mặt lý luận mà còn có tính thực tiễn cao. Tuy nhiên, có nhiều lý do khác
nhau, công tác nghiên cứu về hệ thống cây xanh đô thị nói chung và cây xanh
đường phố nói riêng ở nước ta vẫn còn hạn chế cả về quy mô lẫn chất lượng. Những
tồn tại đó có thể dễ dàng nhận thấy thông qua hiện trạng cây xanh đường phố ở các
đô thị trong cả nước và cây xanh đô thị của thành phố Lào Cai cũng không ngoại lệ,
trong đó có cây xanh đường phố.
Thành phố Lào Cai là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của tỉnh Lào
Cai, được điều chỉnh nâng cấp thành đô thị loại III từ 5/2004 và được quy hoạch là
đô thị loại II vào năm 2015. Nhờ có những chính sách mở cửa về phát triển kinh tế
của Đảng và nhà Nước, thuận lợi về vị trí địa lý nên tốc độ tăng trưởng kinh tế của
tỉnh Lào Cai nói chung và thành phố Lào Cai nói riêng trong những năm vừa qua đã
đạt được nhiều kết quả tích cực. Qua đó cho thấy, cùng với những thuận lợi trong
phát triển kinh tế, tốc độ đô thị hóa khu vực thành phố Lào Cai gần đây diễn ra khá
nhanh. Công tác đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông đô thị được chú trọng, nhiều tuyến
phố mới được hình thành, các tuyến phố cũ được điều chỉnh đã trở nên khang trang
hơn, nhưng đó mới chỉ là những cảnh quan mang tính chất kiến trúc công trình. Về
cảnh quan xanh, đặc biệt là cảnh quan cây xanh đường phố vẫn còn nhiều hạn chế.
Việc trồng cây xanh đường phố ở thành phố Lào Cai trong những năm qua tuy đã
được quan tâm và tiến hành ngay sau khi tách tỉnh, nhưng còn thiếu quy hoạch, tổ
chức thực hiện còn nhiều bất cập, cây trồng trên đường phố hiện nay chủ yếu là do
người dân tự trồng nên rất lộn xộn, một số chủng loại không phù hợp nên khả năng
phát huy tác dụng kém, chưa tạo được vẻ đẹp mĩ quan đô thị và thiếu tính bền vững.
Mặt khác, việc đánh giá thực trạng cây xanh đường phố để từ đó tìm ra được những
điểm mạnh, điểm yếu, rút ra được bài học kinh nghiệm để đề xuất các giải pháp
phát triển còn chưa được quan tâm, tới nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu
có hệ thống về vấn đề này. Xuất phát từ những nhu cầu thực tiễn đó, đề tài: “Đánh
2
giá thực trạng và đề xuất các giải pháp phát triển cây xanh đường phố tại thành
phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai” được đặt ra là thực sự cần thiết.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Đánh giá được thực trạng, rút ra được ưu, nhược điểm và những bài học
kinh nghiệm trong việc phát triển trồng cây xanh đường phố tại thành phố Lào
Cai, tỉnh Lào Cai.
- Đề xuất được các giải pháp phát triển trồng cây xanh đường phố phù
hợp với yêu cầu phát triển của thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu về hệ thống cây xanh thân gỗ trồng trên các tuyến đường
phố tại thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng gây trồng và quản lý cây xanh
đường phố làm cơ sở đề xuất các giải pháp phát triển cây xanh đường phố tại thành
phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai; đề tài không đánh giá hiệu quả kinh tế của cây xanh
đường phố.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
4.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài
Đề tài phân tích và làm rõ được thực trạng gây trồng và quản lý cây xanh
đường phố tại thành phố Lào Cai, từ đó xác định được một số cơ sở khoa học
cho việc phát triển cây xanh đường phố ở thành phố Lào Cai
4.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Đề xuất được các giải pháp quy hoạch, cải tạo và phát triển cây xanh
đường phố cả về mặt kỹ thuật và tổ chức quản lý phù hợp với yêu cầu phát
triển của thành phố Lào Cai.
5. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
5.1. Thời gian nghiên cứu
Đề tài thực hiện nghiên cứu từ tháng 3 năm 2012 đến tháng 9 năm 3013.
52. Địa điểm nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu tại địa bàn thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai.
3
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Nghiên cứu về cây xanh đường phố trên thế giới
Cây xanh đường phố là một phần của cây xanh đô thị, có vị trí rất quan trọng
đối với nền văn minh nhân loại từ thời cổ đại. Các quốc gia như Ai Cập, Trung Hoa,
La Mã, Hy Lạp,… đã xem cây xanh như là biểu tượng cho các vị thần và thờ cúng
chúng. Họ sử dụng cây xanh trong việc trang trí ngoại thất cho các tượng đài, xây
dựng các vườn tín ngưỡng trong các đền thờ. Thời kỳ Hi Lạp cổ đại, từ thế kỉ VII
trước Công nguyên đến thế kỉ IV sau công nguyên, người ta thấy hai bên các đường
dạo phía trước các sân thi vận động (Stadium) và quảng trường (Forum) trước các
đền thờ đều có trồng cây Ngô đồng Pháp [15]. Còn ở những tuyến đường chính
trong các khu thành cổ La mã thì lại chủ yếu trồng Bách Italia. Tiếp đến thời kỳ từ
thế kỉ V cho đến thế kỉ XIV, nhiều quốc gia châu Âu cũng đã trồng Bách Italia trên
các tuyến đường hành lễ.
Cùng với việc trồng cây, kiến thức liên quan tới chăm sóc cây trồng cũng đã
xuất hiện khoảng 1.500 năm trước công nguyên ở Ai Cập (Winter, 1974) (dẫn theo
Trần Viết Mỹ, 2001) [8], kiến thức này được tiếp tục phát triển khi nền văn minh
nhân loại ngày một thăng tiến. Vườn thực vật ra đời và phát triển trong thời kỳ
trung cổ. Khi thương mại và giao thông phát triển, cây trồng được chuyển từ nước
này đến nước khác và các vườn thực vật lớn nhỏ bắt đầu xuất hiện. Điều này góp
phần làm gia tăng chủng loại cây trồng, kiến thức về trồng và chăm sóc cây ngày
càng phong phú hơn.
Khái niệm lâm nghiệp đô thị được xây dựng dựa trên một lịch sử hơn 45 năm
và có nguồn gốc từ Bắc Mỹ. Thế nhưng lịch sử trồng cây dọc theo các tuyến đường
đã có từ thế kỉ X trước Công nguyên. Tuyến đường được trồng cây trong giai đoạn
này tuyến đường nối từ Kolkata của Ấn độ đến Afghanistan nằm ở chân dãy
Himalaya, mục đích của việc trồng cây xanh trên tuyến đường này xuất phát vì mục
đích quân sự. Cây trên đường được trồng thành 3 hàng, một hàng chính giữa trung
tâm đường và hai hàng cây hai bên đường. Vào thời kỳ đó đường còn có một tên
gọi khác là đường cây lớn “Grand trunk road” [27]. Sau đó đến khoảng giữa thế kỉ
VIII trước Công nguyên vùng Lưỡng hà (Mesopotania), khi xây dựng cung điện
4
người ta đã trồng các hàng cây Tùng, Cây Bách Italia (Italian crypress) thành hàng
đối xứng dọc theo các tuyến đường trong khu vực cung điện. Đây cũng được xem là
mốc lịch sử trồng cây xanh đường phố của các quốc gia vùng châu Âu [29].
Nowak và Dwyer (2000) đưa ra các mục tiêu phát triển lâm nghiệp đô thị và
kết quả từ việc duy trì một hệ thống cây xanh đến việc tạo lập một thành phố được
tán cây che phủ bởi một tỷ lệ cụ thể trong một khoảng thời gian nhất định [23]. Trên
cơ sở hoạt động, lâm nghiệp đô thị vẫn còn chủ yếu là chăm sóc, bảo vệ, và thay thế
cây xanh [24].
Ở châu Âu, sau thời kỳ văn nghệ phục hưng, một số quốc gia vùng châu Âu
công tác trồng cây đường phố phát triển khá nhanh. Điển hình là ở nước Pháp, năm
1552 Henri 2 đã từng công bố pháp lệnh trồng cây ngay từ năm 1552, phát động
nhân dân trong cả nước trồng cây trên các tuyến đường chính trong các khu ở và
trồng cây trên các tuyến đường quốc lộ. Cũng trong thời kỳ này Đế chế Áo - Hung
(Austro - hungarian empire) cũng đưa ra kế hoạch trồng cây Ngô đồng Pháp dọc
theo các tuyến đường chính trong cả nước với mục đích là bổ sung nguồn gỗ cung
cấp cho các hoạt động quân sự [15].
Năm 1647, ở Đức đã xây dựng tuyến đại lộ bóng mát tại thành phố Beclin với
mỗi bên đường trồng 4 - 6 hàng cây bóng mát lớn. Tuyến đường này, đã được các
nhà quy hoạch đô thị Pháp nghiên cứu và ứng dụng xây dựng loại hình đường
Boulvars tại thành phố Pari sau này [18].
Năm 1652, ở Anh các tuyến đường phía Tây và Bắc của công viên St.Jame
,
s
Park vùng Moore Phils thủ đô Luân đôn được thiết kế thành các đường dạo bóng
mát công cộng có độ dài khoảng 1 km, mỗi bên đường trồng 4 - 6 hàng cây Ngô
đồng Pháp tạo bóng mát để phục vụ Nữ Hoàng đi dạo trên xe ngựa [18]. Mô hình
dạng đường bóng mát này còn được mở rộng ứng dụng tạo các đường bóng mát
trong các đô thị ở nước Anh.
Năm 1825 Chính phủ Pháp đã công bố pháp lệnh về việc bắt buộc phải trồng
cây xanh bóng mát trên các tuyến đường phố. Pháp lệnh này chính là cơ sở để xây
dựng những quy phạm kỹ thuật về tuyển chọn cây trồng, kiểm nghiệm chất lượng
cây giống đưa trồng, cắt tỉa và duy trì cây xanh trên các tuyến đường đô thị (dẫn
theo Nguyễn Thị Bích Thu, 2011) [14].
Năm 1858 kiến trúc sư Georges E.H. Smann chủ trì thiết kế xây dựng tuyến
đường bóng mát Champs Elysees ở thành phố Senna, sau này tuyến đường này đã
5
trở thành mẫu đường bóng mát điển hình thời kỳ cận đại và có ảnh hưởng rất lớn
đến phát triển mô hình đường bóng mát ở các thành phố của Mỹ và các nước khu
vực châu Âu. Năm 1872, kiến trúc sư người Pháp Pierre Charles L.Enfant thiết kế
các tuyến đường bóng mát tại thành phố Washington cũng đa số là áp dụng các mô
hình đường bóng mát của Pháp. Đặc biệt để chọn loài cây trồng cho các tuyến
đường thiết kế ở Mỹ, nhà thiết kế đã tiến hành thử nghiệm 30 loài cây và chọn ra
được 12 loài cây thích hợp nhất dùng cho trồng đường phố [17].
Mặc dù châu Âu đã có một lịch sử lâu dài và phong phú của các thiết kế không
gian xanh, quản lý cây xanh [18] nhưng lâm nghiệp đô thị chính thức là một lĩnh
vực khoa học được nghiên cứu ở châu Âu trong thập niên 1980 đầu tiên tại Vương
quốc Anh. Jorgensen giới thiệu các khái niệm về lâm nghiệp đô thị tại Đại học
Toronto, Canada vào năm 1965 [22] “Lâm nghiệp đô thị không chỉ liên quan đến
cây xanh thành phố hay quản lý cây cá thể, mà còn quản lý cây xanh trong toàn bộ
khu vực chịu ảnh hưởng và sử dụng bởi cư dân đô thị”.
Anh Quốc là một trong những quốc gia từ thủa sơ khai đã có nhiều đóng góp
cho nhân loại về các vấn đề có liên quan tới cây xanh độ thị. Jame Lyte (1578)
trong cuốn Dodens đã sử dụng thuật ngữ “Nhà trồng cây” (Chadwich, 1970). Năm
1618, William Lawson đã viết khá chi tiết về chăm sóc cây đô thị trong cuốn sách
“Vườn và vườn giống mới”. John Evelyn, năm 1662 đã đề cập đến tất cả các lãnh
vực cây trồng (cây ăn trái, cây lâm nghiệp) trong một cuốn sách có tên là Sylva
((Eve, 1970). Trong cuốn sách này ông chú trọng đến việc nghiên cứu cây trồng
đường phố, cây cảnh. Như vậy, từ thế kỷ 17, 18 đã có nhiều nghiên cứu và sách viết
về cây xanh trên nhiều lĩnh vực như: trồng, chăm sóc và phát triển nó ở các đô thị
Châu Âu. Đầu thế kỷ 19, nhiều không gian xanh được hình thành xung quanh các
khu nhà ở đô thị, hình thành các khu cư trú tiện nghi và yên tĩnh (Zube, 1973) (dẫn
theo Trần Viết Mỹ, 2001) [8]. Cây xanh trong thời kỳ này là một trong các yếu tố
kiến trúc, cảnh quan và cũng chỉ giới hạn ở nội đô, nơi tập trung dân cư đông đúc
mà chưa gắn được với hệ thống công viên, rừng ở ngoại vi. Đến cuối thế kỷ 19, dân
cư đô thị ngày càng đông đúc hơn và phạm vi cư trú không còn giới hạn ở nội đô
mà được mở rộng ra ngoại vi, đô thị ngày càng phát triển. Nhu cầu nghỉ ngơi giải trí
cho cư dân đô thị ngày càng tăng cao, điều này đòi hỏi các nhà quản lý đô thị phải
tính đến việc xây dựng thêm nhiều mảng xanh hơn, không những chỉ ở nội đô - nơi
6
đất chật người đông, mà phải mở rộng ra ngoại vi - nơi đất đai còn nhiều. Đến giữa
thập niên 60 của thế kỷ 20, việc thống nhất quan niệm về sự quản lý cây xanh nội
đô và hệ thống ngoại vi vẫn chưa được thừa nhận, phải đến những năm cuối thập
niên 70, đầu những năm 80, khi khái niệm mảng xanh đô thị, lâm nghiệp đô thị đã
được thừa nhận thì các công trình liên quan đến cây xanh đô thị trên thế giới ở
nhiều khía cạnh khác nhau mới được quan tâm.
Ở Mỹ, theo Nowak (1994) đưa ra rằng diện tích phủ xanh ở Mỹ trải từ 55% ở
Baton Rouge, Louisiana tới 1% ở Lancaster, California, tỷ lệ phủ xanh lớn nhất là ở
những vùng đất trống, công viên và khu dân cư. Cây xanh đường phố chiếm 1/10 số
cây trong đô thị. Riêng thành phố Chicago nơi có cây xanh bóng mát phát triển
mạnh nhất trên các tuyến đường phố. Toàn thành phố có khoảng 3,1 triệu cây xanh,
trong đó 10% là cây xanh đường phố chiếm 24% tổng diện tích phủ xanh của thành
phố [26].
Ở Liên Xô cũ (trước khi giải thể năm 1991) công tác phát triển cây đường phố
cũng đạt được nhiều thành tựu, cả về lý luận lẫn thực tiễn đều rất phát triển, đặc biệt
vào những năm sau cách mạng tháng 10 Nga thành công [24]. Trong hệ thống cây
đường phố, nhấn mạnh việc kết hợp giữa những đường bóng mát, các dải rừng
phòng hộ để tạo thành những hành lang xanh trong đô thị. Số lượng đường bóng
mát tại thành phố Mát xít Cơ Va đã tăng lên đáng kể, từ 40 tuyến đường vào năm
1957 lên 100 tuyến đường vào năm 1973 [18]. Những tuyến đường này đã góp phần
đáng kể bảo hộ và cải thiện môi trường của thành phố.
Ở khu vực châu Á, nước có lịch sử trồng cây đường phố sớm nhất là Trung
Quốc. Theo tác giả Wang Hao, thì lịch sử trồng cây trên các tuyến đường giao
thông ở Trung Quốc đã có cách đây khoảng 3500 năm. Tiếp đến Nhật Bản cây xanh
đường phố phát triển từ những năm đầu của thế kỉ 17 [30]. Điển hình như thành phố
Sendai bắt đầu được biết tới là một thành phố của cây xanh từ trước chiến tranh thế
giới lần thứ hai. Các lãnh chúa của Sendai đã khuyến khích dân trồng cây xanh
trong sân nhà và ngoài đường phố. Kết quả mọi ngôi nhà, ngôi đền và điện thờ, trên
đường phố ở trung tâm thành phố đều có những khu rừng gia đình được sử dụng với
mục đích nguồn cung cấp gỗ và nguyên liệu hàng ngày. Những cuộc oanh tạc trong
Thế chiến thứ hai đã phá huỷ gần hết mọi thứ nhưng Sendai vẫn được biết đến như
7
"Thành phố của cây xanh", vì tất cả mọi cố gắng to lớn của thành phố nhằm phục
hồi lại cây xanh.
Các công trình nghiên cứu về giá trị, chủng loại cây trồng đô thị, các yếu tố
môi trường ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của cây trồng, vai trò cũng như lợi ích
của cây xanh đô thị cũng được quan tâm nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu về
vai trò của cây xanh trong điều hòa khí hậu, ngăn cản gió, hạn chế tiếng ồn,… đã
được nhiều nhà khoa học như: Rowntree và Nowal (1991) [28]; Heisler (1986,
1989) [20], [21],… đề cập tới.
Tuy nhiên, một số tác giả không dừng lại ở các nghiên cứu riêng lẻ về cây
xanh đô thị mà nghiên cứu rất tổng hợp từ khâu chọn loài cây trồng, môi trường đô
thị đến lợi ích kinh tế, quản lý cây xanh đô thị,… (Grey G.W và Deneke F.J, 1978)
[19]. Một số tác giả khác như Rowntree R.A và Nowal D.J (1991) [28] hoặc
Bouvarel P. (1989) [16] đã nghiên cứu vai trò của cây xanh đô thị trong việc giảm
lượng C0
2
do con người thải ra trong quá trình sinh hoạt và sản xuất đã góp phần
xác định hiệu quả của việc trồng cây xanh đô thị phục vụ cho việc cân bằng nhu cầu
sinh thái trong quá trình đô thị hóa mạnh mẽ trên phạm vi toàn cầu hiện nay.
Từ các công trình nghiên cứu về vai trò của cây xanh đường phố của các tác
giả đối với việc bảo vệ môi trường sinh thái, cải thiện tiểu khí hậu, ngày nay chúng
ta đã có một cái nhìn tương đối đầy đủ về vai trò của cây xanh trong việc:
1) Điều hòa nhiệt độ: Ở các vùng đô thị có xu hướng nóng hơn vùng ngoại ô
xung quanh trung bình 0,5 - 1,5
0
C (Federer, 1970) hoặc 3 - 5
0
C (Moll, 1991) (dẫn
theo Nguyễn Nghĩa Thìn, 2007) [13].
2) Ngăn chặn gió và sự di chuyển của không khí: Những hàng cây xanh đường
phố vuông góc với hướng gió chính có thể làm giảm tốc độ gió từ 2 - 5 lần chiều
cao của cây cao nhất ở phía trước hàng cây [14].
3) Tăng độ ẩm, tác động tích cực vào chu kỳ tuần hoàn nước: Vào mùa hè trên
các đường phố có cây xanh, ở công viên, vườn thực vật,… độ ẩm tương đối thường
cao hơn những nơi bên ngoài khoảng trống từ 7 - 12%, đôi khi lên đến 20%, tăng
dần từ trên xuống [14].
4) Cung cấp khí O
2
và giảm tích lũy khí CO
2
: Căn cứ vào tính toán của các nhà
khoa học, lượng O
2
do 1 ha rừng tạo ra có thể cung cấp đủ cho sự hô hấp của 1000
người, mỗi một người dân đô thị chỉ cần 10 m
2
diện tích cây xanh là có thể hấp thụ
8
toàn bộ lượng CO
2
thải ra do quá trình hô hấp. nhưng trên thực tế, ở các đô thị có
lượng sinh ra CO
2
cao hơn nên mỗi người phải cần đến diện tích cây xanh khoảng
30 - 40m
2
.
5) Hạn chế tiếng ồn: Cây xanh có tác dụng ngăn cản được tiếng tiếng ồn. Hiệu
quả đó biểu hiện rất rõ rệt khi các đường phố trồng nhiều cây xanh thì có thể làm
giảm trên 50% tiếng ồn so với đường phố không trồng cây (dẫn theo Nguyễn Thị
Bích Thu) [14].
6) Hạn chế ô nhiểm không khí: Các loại khí gây ô nhiễm môi trường do quá
trình sản xuất công nghiệp tạo ra có rất nhiều chủng loại, trong đó loại khí có lượng
lớn nhất là CO
2
, các loại khí phổ biến khác là HF, NO
x
, Cl
2
, HCl, CO, SO
x
và hơi
Hg, Pb…. Nhiều nghiên cứu khoa học đã chứng minh, trong một phạm vi nồng độ
nhất định, thực vật có tác dụng hấp thu và làm sạch nhất định đối với các loại khí
độc hại nói trên (dẫn theo Nguyễn Thị Bích Thu) [14].
7) Hấp thu các chất có tính phóng xạ: Căn cứ thử nghiệm của các nhà khoa
học Mỹ, khi sử dụng hỗn hợp bức xạ Nơtron và tia gama với liều lượng khác nhau
chiếu xạ lên 5 khoảnh rừng, đã phát hiện ra rằng khi liều lượng dưới 15 Gy (Gray-
đơn vị phóng xạ) cây rừng có thể hấp thu mà không ảnh hưởng đến phát triển của
cành nhánh (dẫn theo Nguyễn Thị Bích Thu) [14].
8) Hút giữ bụi: Nhiều thành phố công nghiệp, mỗi một km
2
mỗi năm lượng bụi
bình quân vào khoảng 500 tấn, những thành phố tập chung nhiều nhà mày xí nghiệp
lượng bụi lắng đọng thậm chí còn có thể lên tới trên 1000 tấn. Ở những khu công
nghiệp nồng độ bụi lơ lửng trong không khí ở khu vực có trồng cây xanh so với khu
đối chứng không trồng cây xanh thì hàm lượng bụi ở khu vực có trồng cây xanh
thấp hơn khu không trồng cây xanh từ 10% - 50%.
9) Cây gỗ có tác dụng giảm bớt lượng vi khuẩn trong không khí: Theo quan
trắc của Pháp, mỗi m
3
không khí ở khu vực của hàng bách hoá có chứa 4000.000
con vi khuẩn, trong khi đó mỗi m
3
trong công viên chỉ có khoảng 100 con. Có
những nghiên cứu, theo dõi chứng minh rằng nhiều loài thực vật trong họ
Myrtaceae, Moraceae, Aceraceae, Caprifoliaceae, Magnoliaceae, Cupressaceae,
Pinaceae,… có tác dụng ức chế đối với khuẩn que gây bệnh lao.
Việc ứng dụng các kiến thức, kỹ thuật trong lâm nghiệp truyền thống, các ứng
dụng của máy tính vào công tác điều tra, quản lý cây xanh đô thị cũng được quan
9
tâm nghiên cứu. Một số kết quả về lưu trữ và ứng dụng công nghệ GIS vào việc
quản lý cây xanh đô thị của Pherson (1985), Weistein (1983),… đã mở ra một
hướng đi mới trong việc quản lý có hiệu quả hệ thống cây xanh đô thị (dẫn theo
Trần Viết Mỹ, 2001) [8].
Bên cạnh đó, quá trình đô thị hóa ngày càng nhanh đòi hỏi các nhà quy hoạch
phải tính đến việc khai thác cảnh quan thiên nhiên và nhân tạo không những có giá
trị làm trong lành môi trường mà còn nâng cao giá trị thẩm mỹ đô thị. Cảnh quan
thiên nhiên và nhân tạo gồm cả hệ thống cây xanh, mảng xanh, nhưng nếu quan
niệm cảnh quan chỉ có cây xanh thì không đúng mà phải thấy cây xanh, mảng xanh
là thành phần không thể thiếu được trong cảnh quan đô thị. Dựa trên quan điểm đó,
nhiều công trình nghiên cứu liên quan về quy hoạch, thiết kế cảnh quan, kiến trúc
phong cảnh của nhiều tác giả như: Merlin (1993), Miller (1988) [25], Brenda &
Robert (1996), Laurie (1969), Ingel (1986), Mc Harg (1969), v.v đã được triển
khai và rất nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vườn, công viên, nghệ thuật
trang trí hoa viên,
Các công trình về quy hoạch và quản lý cây xanh đô thị ngày càng được quan
tâm nghiên cứu và khuyến khích phát triển, đặc biệt là công tác tuyển chọn tập đoàn
cây xanh đô thị nói chung và cây xanh đường phố nói riêng đã tìm ra được những
tập đoàn cây trồng thích nghi nhất với điều kiện cụ thể của từng đô thị. Các phương
pháp truyền thống để lựa chọn loài cây trồng bóng mát đã sử dụng là: Phương pháp
điều tra sinh cảnh, phương pháp điều tra dã ngoại đánh giá cây xanh đường phố,
phương pháp đa tiêu chuẩn, phương pháp đường truyền ảnh hưởng, Với những
nhận thức về vai trò của cây xanh với môi trường đô thị ngày càng rõ rệt như hiện
nay, thiết kế cây xanh đã trở thành một nội dung quan trọng của quy hoạch và phát
triển đô thị.
1.2. Nghiên cứu về cây xanh đường phố ở Việt Nam
Ở Việt Nam công tác phát triển cây xanh đô thị hiện đã được các cấp, các
ngành đặc biệt quan tâm. Diện tích cây xanh đô thị từng bước tăng dần cả về số
lượng và chất lượng, cây trồng đặc biệt ở các đường phố lớn ngày càng đa dạng và
phong phú.
Từ sau ngày miền Bắc được giải phóng, công tác trồng cây làm xanh tươi lại
đất nước đã được Trung ương Đảng, Chính phủ và đặc biệt Hồ Chủ Tịch hết sức
10
quan tâm. Đảng và Chính phủ đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị vạch ra phương hướng
và nhiệm vụ cho công tác trồng cây, gây rừng thực hiện việc trồng cây trong cả
nước. Trong hoàn cảnh đất nước trải qua cuộc chiến tranh phá hoại tàn khốc của
giặc Mỹ, công tác cải tạo và xây dựng đô thị bị đình đốn, công tác cây xanh không
phát triển. Nơi nào nhận thức được lợi ích của cây xanh đô thị và quan tâm chỉ đạo
thì phong trào trồng cây đường phố, bảo vệ cây và các công viên, vườn hoa làm tốt,
điển hình là Hà Nội, Hải Phòng. Nhiều nơi công tác cây xanh không được chú ý,
không có tổ chức chuyên trách, thiếu kế hoạch ươm và trồng cây. Nhiều nơi đã
trồng cây một cách tuỳ tiện và cây trồng không đúng tiêu chuẩn quy phạm xây dựng
đô thị đã làm hư hỏng nhà cửa và các hệ thống công trình ngầm, hạn chế ánh sáng
và gió mát. Nhưng từ những nỗ lự ban đầu đó, kết quả đã trồng được nhiều cây
bóng mát, cây phong cảnh cho đường phố, khu nhà ở, những nơi sinh hoạt văn hoá
công cộng. Trồng được những đai cây xanh ở ngoại ô có tác dụng phòng hộ cho
thành phố, diện tích cây xanh đô thị được tăng lên gấp từ 3 đến 5 lần so với thời
gian trước khi miền Bắc giải phóng.
Tại Hà Nội phần lớn cây xanh trên đường phố, công viên và trong các vườn
Bách thảo được người Pháp trồng vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Như có
hơn 1.400 cây Sấu cổ thụ, trồng ở khắp nơi trong thành phố và nhiều nhất ở phố
Phan Đình Phùng được người Pháp trồng vào cuối thế kỷ XIX. Ở phố Lò Đúc, con
phố duy nhất trồng Sao đen ở Hà Nội đầu thế kỷ XX. Hồ Gươm trước đây khá rộng,
nhà dân ở ra sát mép hồ. Tháng 11năm 1885 giải tỏa các hộ dân sống xung quanh
hồ và khởi công đổ đất cạp hố, cho san lấp những vùng trũng thấp. Đến đầu năm
1893, con đường nhựa chạy quanh Hồ Gươm được khánh thành, thì thảm cây xanh
quanh Hồ Gươm cũng được trồng với nhiều loài cây được đưa từ nhiều miền của
đất nước. Vì vậy thảm cây xanh ở đây hoàn toàn là cây nội địa, khác với thảm cây
xanh ở khu vực Bách thảo. Có thể nói đây là thảm cây xanh quý nhất của thủ đô Hà
Nội và ít chịu tác động nhất bởi quá trình đô thị hóa [14].
Ở thành phố Hồ Chí Minh, vào những năm đầu khi Sài Gòn vừa bị đánh chiếm
và còn nằm dưới quyền cai trị của các đô đốc, thì Hải quân Pháp đã bắt đầu cho
trồng hàng loạt cây Me ven các đường sá kể từ khoảng 1863-1865, cứ 5m một cây
dọc theo vệ đường. Ở hai bên bờ kênh Charner (nay là đại lộ Nguyễn Huệ), kể từ
năm 1870 cây Me được trồng lấn ra dần dần theo nhịp độ lấp từng đoạn con "kênh
11
lớn" này. Hiện nay ở khu vực nội thành và nội thành mở rộng, đường phố đang
trong thời kỳ chỉnh trang nên các dãy cây xanh đường phố không đều và không liên
tục. Chỉ có các dãy cây xanh trồng trên đường phố ở khu vực nội thành liên tục trên
một số tuyến ở Quận 1, 3 và một số các trục đường lớn ở các Quận khác có từ trước
năm 1975 đã tạo được vi khí hậu dãy cây tạo bóng mát người đi bộ. Thống kê mới
nhất của Phòng Quản lý công viên – cây xanh, Sở Giao thông vận tải TPHCM, đến
nay toàn bộ diện tích công viên, vườn hoa và cây xanh dải phân cách trên địa bàn
thành phố chỉ còn khoảng 535 héc ta, giảm gần 50% so với năm 1998 [14].
Tiếp đến thành phố Huế, vào thời kỳ triều Nguyễn cây xanh đã được chú trọng
trồng trên các con đường, trong mỗi vườn nhà. Nay cây xanh ở Huế được trồng nơi
nơi như các điểm xanh công cộng, công viên, đương phố, vườn đồi, ven sông, góp
phần quan trọng để tạo nên một nét Huế riêng. Đến thời điểm này, ở Thừa Thiên
Huế có 43 loài thực vật quý hiếm, 170 loài cây cho bóng mát và cây cảnh, nếu tính
cả các loài cây nhỏ thì hơn 300 loài, đủ màu, đủ chủng loại và kiểu dáng. Theo
Trưởng phòng Kế hoạch Trung tâm Công viên cây xanh Huế khẳng định Huế đã đạt
80-100m
2
cây xanh/người. Trong khi đó 3 thành phố của Pháp được chọn là thành
phố xanh sạch gồm Besancon, Amiens và Mans cũng chỉ có tỷ lệ 60m
2
cây
xanh/người.
Như vậy, vấn đề về phát triển cây xanh đường phố ở Việt Nam có lịch sử hơn
100 năm và nay nó được thể hiện trong các văn bản pháp quy dưới đây.
- Chỉ thị 45-TTg năm 1974 Về công tác trồng cây xanh ở các đô thị do Thủ
tướng Chính phủ ban hành [3].
- TCVN4449:1987. Quy hoạch xây dựng đô thị - Tiêu chuẩn thiết kế [12].
- Tập I - Quy chuẩn xây dựng Việt Nam: Nghị định 08/2005 về Quy hoạch
Xây dựng [9].
- Luật quy hoạch đô thị “điều 68” Quản lý cây xanh, công viên, cảnh quan tự
nhiên và mặt nước [11].
- Bộ Xây dựng ban hành theo Quyết định số 01/QĐ-BXD ngày 05 tháng 01
năm 2006 về TCVN 362 : 2005 - “Quy hoạch cây xanh sử dụng công cộng trong
các đô thị - Tiêu chuẩn thiết kế” quy định các chỉ tiêu diện tích cây xanh sử dụng
công cộng trong các đô thị và các nguyên tắc thiết kế, được đã xác định cây xanh
12
trong đô thị bao gồm: cây xanh công cộng, cây xanh sử dụng hạn chế, cây xanh
chuyên dụng [2].
- Nghị định số 64/NĐ-CP ngày 11 tháng 6 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ
về “quản lý cây xanh đô thị”, theo đó, Chính phủ thống nhất quản lý cây xanh đô
thị, có phân công, phân cấp trách nhiệm theo quy định của pháp luật; nhà nước có
trách nhiệm đầu tư, phát triển cây xanh đô thị nhằm mục đích phục vụ lợi ích cộng
đồng; khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức, cá nhân tham gia quy
hoạch, trồng, chăm sóc, ươm cây, bảo vệ cây xanh đô thị.
- Thông tư của Bộ xây dựng số 20/2005/TT-BXD ngày 20 tháng 12 năm 2005
hướng dẫn quản lý cây xanh độ thị [10].
Từ việc xác định rõ vai trò quan trọng của cây xanh đô thị nói chung và cây
xanh đường phố nói riêng nhiều công trình nghiên cứu và bài viết liên quan đến quy
hoạch xây dựng đô thị, phát triển cây xanh và quản lý trong môi trường đô thị, kiến
trúc cảnh quan đô thị, chủng loại cây xanh đô thị,… đã được nghiên cứu, có thể kể
tới một số công trình tiêu biểu như:
Các tác giả như Hàn Tất Ngạn, Phạm Kim Giao, Nguyễn Thị Thanh Thủy,…
đã nghiên cứu và biên soạn nhiều tài liệu về quy hoạch xây dựng đô thị, phát triển
cây xanh và quản lý cây xanh đô thị,… Phần lớn các nghiên cứu này đều xem cây
xanh như một thành phần hữu cơ trong cấu thành của đô thị, một bộ phận không thể
tách rời của cảnh quan thiên.
Công tác tuyển chọn chủng loại cây xanh đô thị, nghệ thuật vườn - công viên,
vườn cảnh Đông phương, bố cục vườn,… đã được các tác giả Hà Tất Ngạn, Trần
Hợp, Phương Thảo,… quan tâm nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu này giới
thiệu khá chi tiết về chủng loại loài cây, mô tả đặc điểm hình thái, sinh thái loài nên
có ý nghĩa rất lớn trong việc gây trồng và phát triển cây xanh đô thị ở các thành phố
lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh,… góp phần quan trọng trong phát triển
cảnh quan đô thị của nước ta.
Tác giả Vũ Xuân Đề (1993) [5] đã vạch ra kế hoạch tổng thể cho việc phát
triển mảng xanh ngoại thành nhằm bổ sung cho lượng khoảng xanh thiếu hụt ở nội
thành trên cơ sở phương pháp luận “cân bằng sinh thái đô thị giản đơn” tức cân
bằng giữa nhu cầu sinh thái của con người với lượng mảng xanh tiêu chuẩn tối thiểu
và dùng phương pháp “cân bằng dần” từ ngoại thành vào nội đô làm cơ sở định
lượng phân bố diện tích đất đâi cho mảng xanh. Ngoài ra, Vũ Xuân Đề còn có một
13
số công trình nghiên cứu liên quan đến việc quy hoạch mảng xanh bảo vệ môi
trường cảnh quan đô thị (1995) [6]; xác định các chỉ số khoảng xanh đô thị cho từng
khu chức năng như: Khu công nghiệp, chung cư, trường học,… (1998) [7]. Các
nghiên cứu này cũng như đề tài phân vùng đất đã dựa trên nhu cầu sinh thái con
người trong mối quan hệ với các hoạt động kinh tế xã hội của thành phố,… đề xuất
các chỉ số khoảng xanh và căn cứ vào tiềm năng quỹ đất dành cho cây xanh để bố
trí, quy hoạch. Tuy nhiên, các chỉ số khoảng xanh cho từng quận, huyện, khu chức
năng,… chưa nói lên được hết sự khác biệt về nhu cầu khoảng xanh từng nơi dựa
trên các hoạt động kinh tế xã hội (số lượng nhà máy, xí nghiệp, chung cư,…) vốn
không đồng nhất cho từng địa bàn.
Nghiên cứu của tác giả Trần Viết Mỹ (2001) [8] đã cho thấy mức độ ô nhiễm
môi trường thành phố Hồ Chí Minh ngày càng trở nên nghiêm trọng, đặc biệt là ở
khu vực nội thành. Đến năm 2010, các hoạt động sản xuất, giao thông, sinh hoạt sẽ
thải vào bầu khí quyển thành phố hơn 5.000 tấn bụi và bụi chì, 2.850.000 tấn CO
2
và khí thải khác, tiếng ồn vào giờ cao điểm lên đến 90 - 91dB. Để đảm bảo cân
bằng sinh thái, điều hòa khí hậu, cải thiện môi trường, về số lượng thành phố cần
15.000 - 18.000 ha diện tích xanh, trong đó nội thành cần 7.500 ha, nội thành mở
rộng cần 4.100 - 5.500 ha. Tác giả đã dựa vào hiện trạng, dự báo tổng lượng khí thải
đến năm 2010 và khả năng hấp thụ các chất này của cây xanh tính toán nhu cầu diện
tích xanh bình quân đầu người nội thành là 25 m
2
/người, tỷ lệ che phủ 53,5 - 54,0%,
nhưng tiềm năng quỹ đất tối đa chỉ có thể giải quyết 10,2 m
2
/người và tỷ lệ che phủ
21,9%; nội thành mở rộng 18,5 - 20 m
2
/người; tỷ lệ che phủ 13,9 - 18,4% nhưng
tiềm năng quỹ đất tối đa có thể giải quyết đến 56,6 m
2
/người và tỉ lệ che phủ 41,0%;
diện tích khuôn viên đạt 3180 - 3680 ha. Bên cạnh đó, dựa vào đặc điểm sinh học
loài cây và sử dụng ngôn ngữ lập trình Pascal tác giả đã bước đầu sắp xếp lại các
loài cây trồng hiện hữu ở thành phố Hồ Chí Minh theo từng nhóm phù hợp với từng
khu vực cụ thể (đường phố, vườn hoa công viên, trường học, công sở, bệnh viện,
đình chùa,…) và bổ sung thêm 22 loài cây trồng mới dự kiến dẫn nhập từ rừng và
nhập nội để làm phong phú thêm tập đoàn cây trồng đô thị, đồng thời đưa ra khuyến
cáo không nên trồng một số loài cây làm cảnh quan đô thị.
Khi nghiên cứu, đánh giá và xây dựng tiêu chuẩn cây xanh đô thị của các nước
trên thế giới và vận dụng vào Việt Nam, trong quy phạm thiết kế xây dựng đô thị số
14
20TCVN-82-81, Bộ Xây dựng đã ban hành tiêu chuẩn cây xanh cho các thành phố
Việt Nam như sau:
- Đô thị nhỏ: 8 m
2
cây xanh/người
- Đô thị trung bình: 11 m
2
cây xanh/người
- Đô thị lớn: 13 m
2
cây xanh/người
Công tác phát triển cây xanh đô thị cũng đã được các cấp, các ngành đặc biệt quan
tâm, diên tích cây xanh đô thị từng bước tăng dần cả về số lượng, chất lượng, cây trồng
đặc biệt ở các đô thị lớn ngày càng phong phú. Tuy nhiên, hiện nay tỷ lệ diện tích đất
xanh trung bình ở các đô thị còn rất thấp và khác nhau theo nhóm đô thị [1].
- Đối với đô thị loại đặc biệt như thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh có tỷ lệ
diện tích đất xanh chiếm khoảng 5 m
2
/người.
- Đối với đô thị loại I, tỷ lệ này rất khác nhau, thành phố Đà Nẵng hiện nay
bình quân mới đạt 0,5 m
2
/người, trong khi thành phố Huế có tỷ lệ đất xanh đạt
tương đối cao khoảng 10,2 m
2
/người.
- Các đô thị loại II, tỷ lệ diện tích đất xanh trung bình chỉ khoảng 3 - 5
m
2
/người (Nha Trang: 4,7 m
2
/người; Nam Định: 3,13 m
2
/người).
- Các đô thị loại III và IV như thị xã Vĩnh Yên, thành phố Bắc Giang, thị xã
Bến Tre tỷ lệ diện tích đất xanh trung bình khoảng 4,3 m
2
/người.
- Các đô thị loại V tỷ lệ này rất thấp hầu như không đáng kể [1].
Theo kết quả nghiên cứu của Ủy ban kiến thiết cơ bản Nhà nước Việt Nam đã
cho thấy nhiệt độ không khí trong vùng có cây xanh thấp hơn những nơi không có
cây xanh. Ở vườn Bách Thảo Hà Nội, nhiệt độ nơi không có cây là 32,3
0
C, dưới tán
cây là 28,29
0
C. Nhiệt độ trên mặt đường nhựa là 39,5
0
C và dưới tán cây bóng mát là
34,3
0
C. Lượng bụi trung bình khu vực không có cây xanh là 0,9 mg/m
3
, dưới tán
cây gỗ là 0,52 mg/m
3
không khí. Như vậy, cây xanh có khả năng làm giảm lượng
bụi 42%. Với âm thanh, cây lá rộng hấp thụ được 26% âm lượng, còn 74% phản xạ
và khuếch tán. Độ ồn nơi đường phố không trồng cây xanh gấp 5 lần ở nơi có trồng
cây xanh.
Theo Nguyễn Danh và cộng sự (2010) [4], tại thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
hiện có 165 loài cây xanh đô thị thuộc 140 chi của 69 họ trong 3 ngành thực vật bậc
cao. Trong đó, cây xanh đường phố có 57 loài thuộc 28 họ, cây xanh công viên có
130 loài, với 45 loài cây bóng mát thuộc 21 họ. Hệ thống cây xanh đô thị còn tương
15
đối trẻ. Diện tích đất cây xanh sử dụng công cộng ở thành phố Pleiku theo đầu
người là 1,48 m
2
/người (chỉ đạt tỷ lệ 21,14% so với TCXDVN 362:2005). Cây xanh
ở đường phố được bố trí khác nhau trên các hoàn cảnh đường phố khác nhau, gồm
các mô hình đường phố 1 hàng cây, 2 hàng cây và 4 hàng cây. Mô hình trồng cây
trong các công viên ở thành phố Pleiku tương đối đa dạng: gồm các mô hình công
viên hành lang kỹ thuật giao thông như vòng xoay, băng két và các mô hình bồn
hoa trang trí trong các công viên nghỉ ngơi - giải trí.
1.3. Nhận xét, đánh giá chung
Trên thế giới công tác nghiên cứu về cây xanh đô thị nói chung và cây xanh
đường phố nói riêng đã thu hút được sự chú ý của các nhà lâm nghiệp từ rất sớm.
Các công trình nghiên cứu đã chỉ rõ được vai trò, chức năng, tầm quan trọng của
cây xanh đường phố trong việc cải thiện môi trường cũng như trong đời sống hàng
ngày của con người. Công tác quy hoạch và quản lý cây xanh đường phố ngày càng
được quan tâm chú trọng, từ kỹ thuật chọn loại cây trồng, nguyên tắc bố trí cây, kỹ
thuật gây trồng và chăm sóc các loại cây xanh đường phố,…Với nhận thức ngày
càng cao về vai trò của cây xanh đường phố, ở nhiều nước đã phát triển hệ thống
cây xanh trở thành một trong những nội dung quan trọng của xây dựng và phát triển
đô thị.
Ở Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu về cây trồng phân tán, chủ
yếu tập trung nghiên cứu ở các mặt: lựa chọn loài cây trồng phân tán, biện pháp kỹ
thuật trồng, cơ chế hưởng lợi ích từ cây trồng phân tán, chính sách phát triển cây
trồng phân tán,…Nghiên cứu về cây xanh đường phố ở nước ta còn khá mới mẻ,
các công trình nghiên cứu còn rất ít, phạm vi nghiên cứu còn hẹp, tản mạn và chưa
có hệ thống; hiệu quả ứng dụng trong quy hoạch, thiết kế cải tạo cây xanh chưa cao,
chưa đưa ra được các giải pháp đồng bộ cho việc phát triển cây xanh đường phố.
Ở thành phố Lào Cai trong những năm qua cây xanh đường phố cũng được
phát triển cùng với quá trình mở rộng thành phố, đã góp phần cung cấp các giá trị
dịch vụ môi trường, cảnh quan cho thành phố. Mặc dù vậy, việc quản lý và phát
triển cây xanh đô thị ở đây vẫn còn nhiều bất cập, từ việc quy hoạch, chọn loài cây,
thiết kế, trồng và chăm sóc cây xanh,… gây ảnh hưởng không nhỏ đến mỹ quan
thành phố và môi trường sống của người dân đô thị.
Chương 2
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
16
2.1. Nội dung nghiên cứu
- Đánh giá thành phần loài cây xanh đường phố và các biện pháp kỹ thuật đã
áp dụng tại thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai.
- Đánh giá tình trưởng và chất lượng cây xanh đường phố tại thành phố Lào
Cai, tỉnh Lào Cai.
- Đánh giá công tác tổ chức, quản lý cây xanh đường phố tại thành phố Lào
Cai, tỉnh Lào Cai.
- Phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức và bài học kinh nghiệm
trong quản lý và phát triển cây xanh đường phố tại thành phố Lào Cai.
- Đề xuất các giải pháp phát triển cây đường phố tại thành phố Lào Cai, tỉnh
Lào Cai.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp luận
Thực vật nói chung và thực vật thân gỗ nói riêng khi tồn tại ngoài tự nhiên đều
phải hình thành đặc điểm thích nghi với môi trường sống để có thể tồn tại và phát
triển, đặc điểm thích nghi của loài được thể hiện thông qua tỷ lệ sống, khả năng sinh
trưởng về đường kính, chiều cao, ra hoa, kết quả,…và đây cũng là những tiêu chí cơ
bản để đánh giá khả năng thích nghi của thực vật khi con người đem gây trồng
chúng ở một khu vực nào đó.
Tuy nhiên, điểm khác biệt của cây xanh đường phố so với cây xanh thông
thường ở chỗ, ngoài việc phải mang đặc điểm thích nghi với điều kiện khu vực để
phát huy vai trò phòng hộ môi trường và cảnh quan đô thị, thì cây xanh đường phố
còn phải đáp ứng rất cao về mặt mỹ quan như: có hình dáng đẹp, hoa đẹp và không
sinh ra các chất độc hại cho sức khỏe của con người. Do đó, đây cũng là những tiêu
chí cơ bản để đánh giá lựa chọn cây xanh đường phố cho phù hợp.
Sự tồn tại và phát triển của cây xanh đường phố trong các khu đô thị chịu sự
tác động rất lớn của yếu tố con người, do đó hiệu quả của những biện pháp quản lý
cây xanh đường phố có ý nghĩa rất lớn trong việc duy trì một hệ thống cây xanh, tạo
cảnh quan đẹp và phát huy vai trò phòng hộ môi trường cao nhất.
Để giải quyết được những nội dung nghiên cứu trên, đề tài tiến hành đánh giá
hiện trạng cây xanh đường phố một cách tổng hợp, đa chiều thông qua việc kế thừa
các số liệu, công trình nghiên cứu đã có; Mặt khác tiếp cận phỏng vấn cơ quan quản
17
lý cây xanh đường phố và người dân trong việc lựa chọn loài cây trồng, cũng như
công tác chăm sóc, bảo vệ cây xanh đường phố; từ đó phân tích những điểm đã đạt
được và còn tồn tại trong việc phát triển hệ thống cây xanh đường phố tại thành phố
Lào Cai, để làm căn cứ đề xuất các giải pháp phát triển.
Từ những vấn đề lý luận và cách tiếp cận trên, các bước giải quyết vấn đề của
đề tài được thể hiện theo sơ đồ sau:
Hình 2.1. Sơ đồ các bước tiến hành của đề tài
2.2.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
2.2.2.1. Phương pháp kế thừa số liệu
18
Thu thập các tài liệu, số
liệu, thông tin liên quan
Điều tra, khảo sát sơ bộ
khu vực nghiên cứu
Điều tra thành phần
loài cây và các biện
pháp kỹ thuật đã áp
dụng trên địa bàn
nghiên cứu
Sinh trưởng và chất
lượng cây xanh
đường phố trên địa
bàn nghiên cứu
Đánh giá công tác tổ
chức quản lý cây
xanh đường phố
trên địa bàn nghiên
cứu
Phân tích SWOT và bài
học kinh nghiệm
Đề xuất các giải pháp
phát triển
Đánh giá cây xanh
đường phố
- Đề tài kế thừa các thông tin, tài liệu, số liệu, công trình nghiên cứu đã công
bố có liên quan tới phát triển cây xanh đô thị trên thế giới và ở Việt Nam.
- Kế thừa các số liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội trên địa bàn thành
phố Lào Cai.
- Kế thừa các báo cáo, cơ sở dữ liệu về công tác quản lý và phát triển cây xanh
đường phố của Công ty TNHH một thành viên môi trường đô thị tỉnh Lào Cai.
- Các thông tin, văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, của Bộ và của
UBND tỉnh Lào Cai về thiết kế, quy hoạch trồng cây xanh đô thị.
2.2.2.2. Phương pháp điều tra, đánh giá cụ thể
* Phương pháp điều tra, đánh giá thành phần loài cây xanh đường phố và các
biện pháp kỹ thuật đã áp dụng tại thành phố Lào Cai:
Các phương pháp được đề tài sử dụng là kế thừa số liệu, tài liệu đã có kết hợp
với việc phỏng vấn các đối tượng có liên quan và điều tra, khảo sát ngoài thực địa.
Trước tiên, đề tài tiến hành làm việc với lãnh đạo và cán bộ phòng Kế hoạch -
Kỹ thuật của Công ty TNHH một thành viên môi trường đô thị tỉnh Lào Cai để nắm
tình hình chung. Số người phỏng vấn là 3 người (1 lãnh đạo và 2 cán bộ). Nội dung
làm việc tập trung vào các vấn đề sau:
- Các đơn vị chịu trách nhiệm về quản lý cây xanh đường phố.
- Tình hình phát triển cây xanh đường phố.
- Các loài cây trồng và biện pháp kỹ thuật đã áp dụng.
- Công tác quản lý cây xanh đô thị trong thời gian qua.
- Những khó khăn, tồn tại và bài học kinh nghiệm,
Chi tiết, xem phụ biểu 1.
Tiếp đó, đề tài làm việc với Xí nghiệp công viên cây xanh để nắm chi tiết về
công tác quản lý và phát triển cây xanh trên địa bàn thành phố Lào Cai. Số người
phỏng vấn 5 người (2 lãnh đạo và 3 cán bộ kỹ thuật). Nội dung làm việc tập trung
vào các vấn đề sau:
- Các tuyến đường có trồng cây xanh của thành phố Lào Cai.
19
- Thành phần loài cây trồng, số lượng cây trồng của 25 loài cây chủ yếu, năm
trồng, biện pháp kỹ thuật gây trồng.
- Các báo cáo về tình hình thực hiện trồng, chăn sóc, bảo vệ cây xanh đường
phố của Xí nghiệp công viên cây xanh.
Trên cơ sở đó, đề tài tiến hành điều tra, khảo sát 30 tuyến đường phố có trồng
cây xanh, trong đó chia ra:
+ Đường phố hẹp: Là tuyến đường phố có tổng bề rộng của lòng đường, vỉa hè
và dải phân cách từ < 13,5 m. Tổng số điều tra 10 đường phố.
+ Đường phố trung bình: Là đường tuyến phố có tổng bề rộng của lòng đường,
vỉa hè và dải phân cách từ 13,5 - 19 Tổng số điều tra 10 phố.
+ Đường phố rộng: Là tuyến đường phố có tổng bề rộng của lòng đường, vỉa
hè và dải phân cách từ > 24 m. Tổng số điều tra 10 phố.
Các tuyến đường phố điều tra được lựa chọn bao gồm cả các tuyến đường phố
cũ và đường phố mới. Trong 30 tuyến đường phố điều tra có 22 đường phố cũ và 8
đường phố mới.
Trên mỗi tuyến đường phố, tiến hành điều tra các thông tin sau:
- Tên phố điều tra.
- Mô tả đặc điểm đường phố.
- Loài cây trồng trên đường phố.
- Đặc điểm cây trồng đường phố.
- Tình hình quản lý cây xanh đường phố.
Chi tiết, xem từ phụ biểu 2 đến phụ biểu 31.
Danh sách các tuyến đường phố đã điều tra được trình bày ở bảng 2.1.
20
Bảng 2.1. Danh sách các tuyến đường phố điều tra cây xanh
Đường phố rộng Đường phố trung bình Đường phố hẹp
Tên đường
phố
Rộng mặt
đường, vỉa
hè và dải
phân cách
(m)
Tên
đường phố
Rộng mặt
đường, vỉa
hè và dải
phân cách
(m)
Tên
đường phố
Rộng mặt
đường, vỉa
hè và dải
phân cách
(m)
1. Trần Hưng
Đạo
83
11. Nguyễn
Huệ 19 21. Duyên Hà 12
2. Mùng 1
tháng 5 (B5)
37
12. Khánh
Yên 19 22. Hồng Hà 12
3. Phú Thịnh
(B1)
27
13. Thanh
Niên 18
23. Hưng
Hóa 12
5. Hoàng
Quốc Việt
27
14. Nhạc
Sơn 18 24. Thủy Hoa 12
6. Kim Vĩ
(B2) 25
15. Lương
Khánh Thiện 18
25. Ngô Văn
Sở 12
6. Mỏ Sinh
(B6) 25
16. Nguyễn
Đức Cảnh 18
26. Mường
Than 12
7. Châu úy
(B3) 25
17. Minh
Khai 18
27. Nguyễn
Tri Phương 12
8. Lùng
Thàng (B4) 25
18. Lê Quý
Đôn 16,5
28. Tôn Thất
Thuyết 12
9. Cốc Sa
(B4a)
25
19. Ngô
Quyền 16,5 29. Nậm Thi 12
10. Hoàng
Liên 28
20. Hoàng
Sào 13,5
30. Ngô Gia
Tự 12
* Phương pháp đánh giá tình hình sinh trưởng và chất lượng cây xanh đường
phố tại thành phố Lào Cai.
Việc đánh giá sinh trưởng được thực hiện cho 12 loài cây trồng chủ yếu là:
Bàng, Sấu, Sao đen, Phượng vĩ, Bằng lăng tím, Long não, Muồng đen, Muồng
hoàng yến, Hoa sữa, Ngọc lan, Xà cừ và Dầu nước.
Các chỉ tiêu cơ bản cần đo đếm là: đường kính ngang ngực D
1.3
(m); chiều cao
vút ngọn H
vn
(m). Các chỉ tiêu sinh trưởng được đo đếm bằng các dụng cụ đo
chuyên dùng trong lâm nghiệp như:
- Đo chiều cao bằng thước đo cao Blumleiss (m).
- Đo đường kính bằng thước đo vanh (cm) để xác định chu vi cây sau đó thực
hiện chuyển đổi về đường kính thông qua công tác nội nghiệp.
Do cây xanh đường phố bao gồm thành phần loài rất đa dạng, năm trồng khác
nhau dẫn tới kích thước của các cây cũng khác nhau. Do vậy, để có thể đánh giá
21
được sinh trưởng của cây xanh đường phố, đề tài tiến hành điều tra phân loại loài
cây, năm trồng và tùy theo mức độ ưu thế về số lượng của loài cây, năm trồng mà
chọn tuổi điều tra sinh trưởng cho phù hợp.
Cụ thể xem bảng 2.2.
Bảng 2.2. Loài cây và tuổi điều tra sinh trưởng của một số loài cây chủ yếu
TT Tên loài Tuổi cây
1 Bàng 14
2 Sấu 9
3 Sao đen 16
4 Phượng vĩ 17
5 Bằng lăng tím 15
6 Long não 14
7 Muồng đen 16
8 Muồng hoàng yến 15
9 Hoa sữa 14
10 Ngọc lan 14
11 Xà cừ 8
12 Dầu nước 7
Đề tài tiến hành đánh giá chất lượng sinh trưởng của 12 loài cây trồng chủ
yếu ở thành phố Lào Cai theo 3 cấp sinh trưởng: Tốt, trung bình, xấu.
- Cây tốt: Là những cây sinh trưởng khỏe mạnh, thân thẳng, cân đối, tròn đều,
tán lá cân đối không bị sâu bệnh.
- Cây trung bình: Là những cây sinh trưởng bình thường, tán nhỏ hoặc hơi
lệch, phân cành sớm.
- Cây xấu: Là những cây thân cong queo, tán lệch, bị sâu bệnh.
Sau khi đánh giá về thành phần loài cây trồng, sinh trưởng, chất lượng cây
trồng,…đề tài tiến hành đánh giá khả năng đáp ứng cảnh quan môi trường của cây
xanh đường phố theo các tiêu chí sau:
- Khả năng phù hợp về điều kiện sinh thái: Thông qua đánh giá sinh trưởng, chất
lượng cây trồng, sự phù hợp về nhu cầu sinh thái của loài cây với lập địa trồng,
- Khả năng đáp ứng yêu cầu cảnh quan được đánh giá dựa trên 2 tiêu chí:
+ Khả năng đáp ứng yêu cầu cảnh quan của bản thân loài: Loài được chọn để
trồng cây xanh đường phố phù hợp phải là những loài cây thường xanh, có hoa quả
đẹp, cây có hình dáng đẹp,…
22
+ Khả năng đáp ứng cảnh quan của cách thiết kế, bố trí loài cây: Đánh giá
mức độ phù hợp về cảnh quan của cách bố trí, thiết kế loài cây xanh đường phố.
- Khả năng đáp ứng yêu cầu về môi trường: Cây xanh đường phố đáp ứng tốt
yêu cầu về môi trường phải là loài ít rụng lá, hoa, quả gây ô nhiễm môi trường,
không sinh ra các chất độc hại cho sức khỏe con người, cây có khả năng tạo bóng
mát, ngăn cản bụi, tiếng ồn và ô nhiễm trong không khí,…
* Phương pháp đánh giá công tác tổ chức, quản lý cây xanh đường phố trên
địa bàn thành phố Lào Cai:
Phương pháp chủ đạo được đề tài sử dụng là phương pháp đánh giá nhanh có
sự tham gia PRA với bộ câu hỏi bán định hướng để điều tra, phỏng vấn các đối
tượng có liên quan và các vấn đề cần làm rõ là:
- Cơ cấu tổ chức của Xí nghiệp công viên cây xanh: Tổng số cán bộ nhân
viên, chia thành các phòng ban và đội, số lượng người ở các bộ phận, trình độ,
chuyên môn đào tạo?
- Kinh phí hoạt động hàng năm của xí nghiệp về mảng cây xanh đường phố
được lấy ở đâu?
- Công tác trồng cây xanh đường phố được thực hiện như thế nào? Những đơn
vị nào thực hiện? Thiết kế ai làm, ai phê duyệt?
- Tình hình chăm sóc, bảo vệ cây xanh thực hiện như thế nào? Lực lượng
chuyên trách là ai? Số lượng người tham gia thực hiện?
- Công tác quản lý cây xanh: Cơ sở dữ liệu xây dựng từ năm nào? Đã vào
được bao nhiêu cây? Ai quản lý dữ liệu này? Các biện pháp quản lý cây xanh đã
thực hiện là gì?
- Khối lượng công việc thực hiện trong 3 năm gần đây từ 2009 - 2012? Số
lượng cây xanh đã trồng?
- Số lượng các vụ vi phạm chặt phá cây xanh trong những năm qua? Đã xử lý
được bao nhiêu vụ? Hình thức xử lý? Cấp xử lý?
Dựa trên các thông tin thu thập được, đề tài tiến hành phân tích những điểm
mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức trong vấn đề tổ chức, quản lý cây xanh đường
phố trên địa bàn thành phố Lào Cai để làm cơ sở đề xuất các giải pháp phát triển
cây xanh đường phố tại thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai.
2.2.3. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu
23
- Xử lý các số liệu điều tra phỏng vấn, thu thập thông tin bằng phương pháp
phân tích xã hội học.
- Sử dụng ma trận SWOT (điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức) để phân
tích và đánh giá vấn đề. Việc lập một ma trận SWOT bao gồm các bước như sau:
1) Liệt kê các điểm mạnh chủ yếu bên trong.
2) Liệt kê các điểm yếu bên trong.
3) Liệt kê các cơ hội lớn bên ngoài.
4) Liệt kê các thách thức (các đe dọa) quan trọng bên ngoài.
5) Kết hợp điểm mạnh bên trong với cơ hội bên ngoài và ghi kết quả chiến
lược SO vào ma trận.
6) Kết hợp điểm yếu bên trong với cơ hội bên ngoài và ghi kết quả của chiến
lược WO vào ma trận.
7) Kết hợp điểm mạnh bên trong với thách thức (mối đe dọa) bên ngoài và ghi
kết quả của chiến lược ST.
8) Kết hợp điểm yếu bên trong với nguy cơ bên ngoài và ghi kết quả của
chiến lược WT vào ma trận.
Mục đích kết hợp trong 4 bước cuối cùng là để đề ra các chiến lược khả thi có
thể chọn để thực hiện.
- Một số phần mềm chuyên môn sẽ được sử dụng để phân tích các số liệu trên
như: SPSS, Excel.
- Các kết quả phân tích trên sẽ được tổng hợp để đưa ra những đề xuất, giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác trồng cây xanh đường phố tại thành phố
Lào Cai, tỉnh Lào Cai.
Chương 3
TỔNG QUAN KHU VỰC NGHIÊN CỨU
3.1. Điều kiện tự nhiên
3.1.1. Vị trí địa lý
24
Thành phố Lào Cai là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh Lào
Cai; có cửa khẩu quốc tế nối liền với tỉnh Vân Nam - Trung Quốc. Là thành phố
biên giới nằm ở khu vực Tây Bắc của Việt Nam, nên có một vị trí chiến lược đặc
biệt quan trọng về an ninh quốc phòng cấp quốc gia.
- Phía Bắc giáp tỉnh Vân Nam, Trung Quốc.
- Phía Nam giáp huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai.
- Phía Đông giáp huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai.
- Phía Tây giáp huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.
3.1.2. Địa hình
Thành phố Lào Cai nằm ở khu vực thung lũng sông Hồng được tạo bởi các
dãy núi Hoàng Liên Sơn; có địa hình dốc thoải theo hướng Tây Bắc xuống Đông
Nam và bị chia cắt nhỏ bởi sông suối và khe tụ thủy; độ dốc trung binh khoảng 15
0
cá biệt có nơi độ dốc trên 35
0
; cao độ trung bình 750m so với mặt biển; nhìn chung
địa hình đặc trưng bởi ba dạng:
- Dạng địa hình đồi núi, độ dốc lớn, đặc trưng >35
0
.
- Dạng địa hình chân đồi và ven suối, độ dốc biến động từ 15 - 25
0
.
- Dạng địa hình tương đối bằng phẳng, độ dốc dưới 15
0
.
3.1.3. Đất đai, thổ nhưỡng
Thành phố Lào Cai có tổng diện tích tự nhiên là: 22.967,2ha, bao gồm các
nhóm đất sau:
- Đất mùn Alit trên núi cao (HA) diện tích: 2.587 ha, chiếm 11,3% tổng diện tích.
- Đất mùn thô than bùn trên núi cao (HT) diện tích: 1.465ha, chiếm 6,4% tổng
diện tích.
- Đất mùn vàng đỏ trên núi cao (HF) diện tích: 5.436ha, chiếm 23,6% tổng
diện tích.
- Đất Feralít đỏ vàng trên núi thấp và trung bình (F) diện tích: 4.480ha, chiếm
19,5% tổng diện tích.
- Đất Feralít đỏ vàng biến đổi do trồng lúa nước (FL) diện tích: 6.676ha, chiếm
29% tổng diện tích.
- Đất thung lũng và sản phẩm dốc tụ (D) diện tích: 2.323,2ha, chiếm 10,2%
tổng diện tích.
3.1.4. Khí hậu
25