Tải bản đầy đủ (.docx) (104 trang)

Nghiên cứu thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Thanh Trì – Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (512.13 KB, 104 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Lời mở đầu
iện nay có một điều không thể phủ nhận là vai trò đất đai đang ngày
càng trở nên quan trọng, nó gắn liền với sự tồn vong của một quốc
gia, là tài sản quý giá, là điểm tựa cho mọi hoạt động lao động sản
xuất và sinh hoạt của con người. Đặc biệt khi nền kinh tế thị trường phát triển
mạnh, quá trình đô thị hoá diễn ra trên quy mô toàn cầu gây ra những hậu quả
đáng lo ngại như: bùng nổ dân số, hiện tượng ô nhiễm môi trường, mất cân đối
trong cơ cấu sử dụng đất…thì việc sử dụng đất như thế nào là một bài toán khó.
Tất cả những trở ngại đó là áp lực nặng nề đặt lên vai các nhà quản lý đất đai.
H
Nước ta sau 20 năm đổi mới đã có những thành tựu vượt bậc nhưng hiện
vẫn đang là một nước nông nghiệp. Vì vậy, đất nông nghiệp đối với nước ta có ý
nghĩa to lớn. Là một huyện ngoại thành của Thủ đô Hà Nội, sản xuất nông
nghiệp là chủ yếu, Thanh Trì cũng không nằm ngoài thực tế đó. Huyện Thanh
Trì nằm ở “ngã ba đường”, là một nút nối giữa Hà Nội, Hà Tây và các tỉnh phía
nam như Hà Nam, Nam Định, Nghệ An…Do vậy, nó có vai trò hết sức quan
trọng đối với Thủ đô Hà Nội. Trong xu thế đô thị hoá đang diễn ra mạnh mẽ,
huyện Thanh Trì cũng đang thay đổi từng ngày tác động to lớn đến việc sử dụng
đất trên địa bàn huyện. Hiện nay huyện Thanh Trì có số lao động nông nghiệp
chiếm tới 60.8%, diện tích đất nông nghiệp chiếm trên 56%. Qua con số đó có
thể thấy đất nông nghiệp hết sức có ý nghĩa đối với huyện này. Tuy nhiên, tình
hình sử dụng đất nông nghiệp cũng như tình hình chung của cả nước đang diễn
biến rất phức tạp. Thực tế đang có những ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động
sản xuất nông nghiệp và sự phát triển bền vững của huyện Thanh Trì.
Qua thời gian thực tập tại Phòng Tài nguyên và môi trường huyện, nhận
thức được tầm quan trọng của vấn đề quản lý đất nông nghiệp, tôi đã lựa chọn
đề tài: “Nghiên cứu thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả quản lý đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Thanh Trì – Hà Nội”.
Quản lý đất nông nghiệp là một vấn đề rộng lớn nên trong phạm vi nghiên
cứu đề tài này tôi chỉ xin đề cập đến nội dung là quản lý nhà nước về đất nông


nghiệp. Tôi lựa chọn đề tài này với mục đích củng cố, bổ sung, mở rộng những
lý thuyết đã được học và hệ thống hoá được các vấn đề lý luận liên quan đến
quản lý nhà nước về đất nông nghiệp. Trên cơ sở đó tìm hiểu một cách sâu sắc
về tình hình quản lý, sử dụng đất nông nghiệp của huyện Thanh Trì – nơi tôi
SVTH: Nguyễn Thị Hạnh Địa chính K44

11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
thực tập trong thời gian qua. Qua đó có thể đưa ra một số giải pháp và kiến nghị
với các cấp, các ngành có thẩm quyền nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước
về đất nông nghiệp, mong muốn được đóng góp một phần công sức vào công
cuộc xây dựng và phát triển của huyện.
Báo cáo thực tập tốt nghiệp là sản phẩm kết tinh tất cả những kiến thức tôi
đã được học trên giảng đường đại học và đặc biệt là những bài học rút ra từ thực
tế trong thời gian thực tập cũng như toàn bộ những số liệu, tài liệu thu thập được
trong thời gian qua.
Chuyên đề thực tập này được hoàn thành dựa trên việc vận dụng các
phương pháp nghiên cứu cơ bản : phương pháp duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, phương pháp thống kê, tổng hợp, so sánh kết
hợp với phương pháp phân tích, đánh giá các số liệu, tài liệu của địa phương để
làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
Báo cáo chuyên đề tốt nghiệp này có các nội dung chính sau:
Lời mở đầu.
Chương I: Cơ sở khoa học của quản lý nhà nước về đất nông nghiệp.
Chương II: Thực trạng quản lý nhà nước về đất nông nghiệp trên địa bàn
huyện Thanh Trì – Hà Nội.
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả quản lý
nhà nước về đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Thanh Trì.
Kết luận.
Tài liệu tham khảo

Do trình độ và thời gian có hạn nên đề tài nghiên cứu này chắc chắn không
tránh khỏi những thiếu sót, tôi mong nhận được sự góp ý quý báu của các thầy
cô giáo, các cán bộ Phòng Tài nguyên và môi trường huyện Thanh Trì để đề tài
hoàn thiện hơn.
Trong thời gian qua, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ của các thầy cô
giáo, các trợ lý của Trung tâm đào tạo địa chính và kinh doanh bất động sản
Trường Đại học Kinh tế quốc dân và các cấp lãnh đạo cũng như các cán bộ
Phòng Tài nguyên và môi trường huyện Thanh Trì. Qua đây, tôi xin trân trọng
gửi lời cảm ơn tới Quý cơ quan đã nhiệt tình giúp đỡ, đặc biệt tới Giáo viên
hướng dẫn GS.TSKH. Lê Đình Thắng đã hết lòng quan tâm, giúp đỡ tôi hoàn
thành chuyên đề thực tập này.
SVTH: Nguyễn Thị Hạnh Địa chính K44

22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG I
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ ĐẤT NÔNG NGHIỆP
I. KHÁI NIỆM ĐẤT NÔNG NGHIỆP
ất đai được hình thành qua quá trình lịch sử lâu dài nhờ sự phong
hoá đá mẹ dưới sự tác động của các yếu tố: nước, không khí,
sinh vật…Theo thời gian, sản phẩm phong hoá tích luỹ thêm chất hữu cơ và tồn
tại trong đó sự sống - vật chất đó được gọi là đất. Về thuật ngữ khoa học, đất đai
được hiểu theo nghĩa sau: “Đất đai là một khoảng không gian có giới hạn theo
chiều thẳng đứng (gồm khí hậu của bầu khí quyển, lớp đất phủ bề mặt, thảm
thực vật, động vật, diện tích mặt nước, tài nguyên nước ngầm và khoáng sản
trong lòng đất); theo chiều nằm ngang (là sự kết hợp của thổ nhưỡng, địa hình,
thuỷ văn, thảm thực vật cùng các thành phần khác)”.
Đ
Nhìn vào lịch sử tồn tại hàng ngàn năm của con người, có thể thấy rằng

mục đích sử dụng đất đầu tiên của con người là nông nghiệp. Từ thưở sơ khai,
những bộ lạc khai thác bề mặt đất đai để trồng trọt và chăn nuôi tạo ra các sản
phẩm nuôi sống cộng đồng. Ngày nay, khái niệm đất nông nghiệp đã được sử
dụng rộng rãi. “Đất nông nghiệp là đất được sử dụng chủ yếu vào sản xuất các
ngành nông nghiệp như: trồng trọt, chăn nuôi, làm muối, nuôi trồng thuỷ
sản…hoặc sử dụng để nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp”.
Đất đai sử dụng trong nông nghiệp được gọi là ruộng đất. Con người tác
động vào ruộng đất thông qua canh tác tạo ra sản phẩm phục vụ cho chính cuộc
sống của mình. Lúc ban đầu, con người canh tác chỉ để đáp ứng nhu cầu cho
cộng đồng theo phương thức “tự cung tự cấp” nhưng xã hội ngày càng phát
triển, nông phẩm đã trở thành hàng hoá, ngày nay nó đã là sản phẩm đặc biệt
quan trọng xuất hiện nhiều khái niệm mới như: “sản phẩm xanh”, “sản phẩm
sạch”… Đất đai sử dụng vào nông nghiệp chiếm vị thế đáng kể đối sự phát triển
toàn diện nền kinh tế nhất là với những nước lấy ngành nông nghiệp làm mũi
nhọn. Khi con người canh tác trên đất sẽ tạo ra được một khối lượng sản phẩm
lớn hơn lượng đủ để nuôi sống người lao động. Từ thực tiễn sinh động đó, Ađam
Smith đã nhận định: “Đất, trong hầu hết các tình huống sản sinh ra một lượng
SVTH: Nguyễn Thị Hạnh Địa chính K44

33
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
lương thực nhiều hơn so với số lượng đủ để duy trì sự sống của người lao động”.
Qua đó ta cũng phần nào thấy được vai trò và ý nghĩa của đất nông nghiệp.
II. VAI TRÒ VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐẤT NÔNG NGHIỆP
1.Vai trò của đất nông nghiệp.
1.1. Đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất chủ yếu, đặc biệt, không thể thay
thế.
Trong nông nghiệp, đất đai đóng vai trò là yếu tố hàng đầu. Nó không chỉ
đơn giản là địa điểm, là chỗ đứng để lao động sản xuất mà còn là tư liệu lao
động đồng thời là đối tượng lao động. Hoạt động sản xuất nông nghiệp đặc biệt

là ngành trồng trọt chính là quá trình con người tác động vào ruộng đất một cách
trực tiếp (cày bừa, làm cỏ, đổ ải…) hay gián tiếp (bón phân, làm thuỷ lợi…)
nhằm làm thay đổi độ phì nhiêu của đất tạo điều kiện thuận lợi cho cây trồng
sinh trưởng và phát triển. Khi tác động vào đất mục tiêu cuối cùng của con
người là nâng cao năng suất cây trồng. Trong khi đó sự sinh trưởng và phát triển
của cây trồng chủ yếu dựa vào thuộc tính tự nhiên của đất đó là độ phì nhiêu.
Bởi vậy, con người luôn vận dụng những yếu tố kỹ thuật mới nhất kết hợp với
các biện pháp: bón phân, cày ải, bố trí cây trồng hợp lý với từng loại đất nhằm
tái tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đất. Trong quá trình này ruộng đất đóng
vai trò là đối tượng lao động.
Song song với đó, con người còn sử dụng đất như là một công cụ để tác
động lên cây trồng, con người làm tăng độ màu mỡ của đất nhằm thu được khối
lượng sản phẩm lớn hơn đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Khi đó,
ruộng đất được coi là tư liệu lao động.
Như vậy, trong nông nghiệp đất đai vừa là đối tượng lao động vừa là tư liệu
lao động. Với ý nghĩa to lớn này mà đất nông nghiệp được coi là tư liệu sản xuất
chủ yếu, đặc biệt, không thể thay thế, là cơ sở tự nhiên sản sinh ra của cải vật
chất cho xã hội. Bởi vậy, Wiliam Petis đã khẳng định: “Lao động là cha, đất là
mẹ của mọi của cải vật chất”.
1.2. Đất nông nghiệp là nguồn cung cấp đất đai cho các ngành kinh tế khác.
Đối với nước ta cũng như đối với nhiều quốc gia trên thế giới, diện tích đất
nông nghiệp chiếm tỷ lệ lớn trong quỹ đất đai. Ở Việt Nam hiện nay diện tích
SVTH: Nguyễn Thị Hạnh Địa chính K44

44
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
loại đất này khoảng 21 triệu ha. Mặt khác, diện tích đất nông nghiệp được sử
dụng không mấy hiệu quả, năng suất thấp dẫn đến thu nhập trên một đơn vị diện
tích nhỏ. Vì vậy, khi cần thiết có thể chuyển mục đích sử dụng đất từ đất nông
nghiệp sang các loại đất phi nông nghiệp đặc biệt là đất ở, đất xây dựng giao

thông, đất khu công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
Trong quá trình đô thị hoá, thương mại hóa, quốc tế hoá đang diễn ra trên
phạm vi toàn cầu, nước ta đang trên đà tăng trưởng nhanh thì xu hướng chuyển
diện tích đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp diễn ra mạnh mẽ. Mặc dù
Luật đất đai Việt Nam đã có quy định rất chặt chẽ và nghiêm ngặt trong việc
chuyển mục đích sử dụng đất nhất là đất nông nghiệp nhưng tình trạng chuyển
đất nông nghiệp sang mục đích khác vẫn xảy ra ồ ạt. Vì vậy, chúng ta cần phải
có biện pháp quản lý chặt chẽ hơn vì sử dụng hợp lý và hiệu quả đất nông
nghiệp có ý nghĩa đối với toàn bộ nền kinh tế. Hơn nữa, việc sử dụng đất nông
nghiệp còn có ý nghĩa quan trọng với nhiệm vụ bảo đảm an ninh lương thực. Để
thực hiện được nhiệm vụ này, trong quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp cần phải chú ý giữ một diện tích đất nông nghiệp phù hợp, không
để việc chuyển đổi diễn ra tự phát.
1.3.Đất nông nghiệp là yếu tố quyết định bảo vệ môi trường sinh thái.
Đất đai là một trong những yếu tố cấu thành nên môi trường, gắn liền với
môi trường tự nhiên và điều kiện sinh thái. Nếu môi trường đất bị phá hoại sẽ
ảnh hưởng không nhỏ tới môi trường sinh thái. Nếu đất đai bị ô nhiễm, hậu quả
tất yếu là ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm không khí…và ảnh hưởng đến năng
suất và chất lượng cây trồng, vật nuôi. Tuy nhiên, hiện tượng khai thác kiệt quệ
đất đai, sử dụng không hợp lý đất đai đang diễn biến hết sức phức tạp. Người sử
dụng đất chỉ chú ý đến cái lợi trước mắt mà bỏ qua lợi ích lâu dài. Chính tầm
nhìn “lợi bất cập hại” đó đã dẫn đến những thảm họa môi trường vô cùng
nghiêm trọng: lở đất, lũ quét, lũ lụt…làm cho cuộc sống của con người luôn bị
đe dọa.
Trong sử dụng đất nông nghiệp, con người cũng đang có những hành vi làm
thay đổi môi trường đất như: dùng quá nhiều phân bón hoá học, thuốc trừ sâu,
khai thác đất mà không bồi dưỡng đất…nghiêm trọng hơn là những hành vi huỷ
hoại môi trường: phá rừng, đốt rừng làm nương rẫy…Những việc làm đó làm ô
SVTH: Nguyễn Thị Hạnh Địa chính K44


55
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
nhiễm môi trường đất, môi trường nước làm giảm năng suất cây trồng và chất
lượng nông phẩm.
Đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng rất có ý nghĩa với môi
trường và hệ sinh thái. Bởi vậy, khai thác và sử dụng đất đai phải hợp lý không
những đối với đất trực tiếp tham gia vào canh tác trong nông nghiệp mà cả đối
với đất đai khác để bảo đảm một môi trường sinh thái bền vững.
2. Đặc điểm đất nông nghiệp.
Đất nông nghiệp là một loại đất trong quỹ đất đai vì thế nó mang những đặc
điểm chung của đất đai là điều tất yếu. Sau đây là một số đặc điểm chung của
đất đai và một vài điểm riêng biệt của đất nông nghiệp.
2.1. Đặc tính hai mặt: không thể sản sinh và có khả năng tái tạo
Đặc điểm đầu tiên mà tôi muốn đề cập đến là tính hai mặt của đất đai. Đất
đai có giới hạn về diện tích và không gian, nó bị giới hạn bởi ranh giới đất liền
trên bề mặt trái đất và bị giới hạn trong lãnh thổ mỗi quốc gia. Đất đai được hình
thành do quá trình biến đổi lâu dài của tự nhiên nên được coi là không có khả
năng sản sinh tạo nên đặc tính cơ bản nhất của đất đai. Cũng vì vậy mà đất đai
có tính khan hiếm và ngày càng trở nên có giá trị. Do đặc điểm cấu tạo của tự
nhiên mà đất có vị trí cố định không thể di dời được. Chính vị trí đã quy định
tính giới hạn về quy mô theo không gian của đất đai. Vị trí có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng về mặt kinh tế trong quá trình khai thác, sử dụng đất. Đối với đất phi
nông nghiệp thì vị trí có một ý nghĩa đặc biệt, nó quyết định phần lớn lợi nhuận
mang lại từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Còn đất nông nghiệp, cái quan trọng
không phải là vị trí mà là thuộc tính tự nhiên của đất tức là khả năng hấp phụ
nước, các chất khoáng, điều kiện thổ nhưỡng… Đất đai không thể sản sinh
nhưng bù lại nó có khả năng tái tạo. Khả năng phục hồi và tái tạo của đất chính
là khả năng phục hồi và tái tạo độ phì thông qua tự nhiên hay do hoạt động của
con người. Lợi dụng khả năng tái tạo của đất trong lịch sử con người đã có
những hình thức canh tác như: bỏ hoang, bỏ hóa,…chủ yếu dựa vào khả năng

phục hồi tự nhiên của đất. Ngày nay con người đã tác động vào đất bằng các
biện pháp kỹ thuật nhằm cải tạo, bồi dưỡng đất đai qua đó đất được bảo vệ và có
thể tái sử dụng.
SVTH: Nguyễn Thị Hạnh Địa chính K44

66
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Tính hai mặt của đất đai có ý nghĩa to lớn trong quá trình sử dụng đất. Một
mặt phải hết sức tiết kiệm đất đai, trong nông nghiệp phải bố trí các loại cây
trồng hợp lý. Mặt khác, phải chú ý ứng dụng khoa học công nghệ, sử dụng các
biện pháp thâm canh, luân phiên cây trồng để tăng khả năng phục hồi và tái tạo
của đất.
2.2. Tính sở hữu và sử dụng
Từ thưở ban đầu, khi con người còn là những bầy đàn nguyên thủy thì chưa
hề có khái niệm chiếm hữu và sở hữu đất đai. Xã hội phát triển hơn, họ đã biết
đánh dấu địa phận của mình và chăn nuôi, trồng trọt, sinh hoạt trên đó thì đất đai
thuộc sở hữu chung của cộng đồng hay một nhóm nguời. Nhận thức của con
người ngày càng phát triển, nhu cầu sử dụng đất tăng lên dẫn tới sự chiếm hữu
ruộng đất và biến quyền sở hữu đất đai thành sở hữu tư nhân. Trong chế độ sở
hữu tư nhân về ruộng đất, quyền sở hữu không chỉ đem lại lợi ích kinh tế mà còn
đem lại quyền lực chính trị cho người sở hữu đất đai. Những người chủ đất tự
sản xuất trên đất của mình hoặc cho thuê. Người không có đất trở thành người
làm thuê và bắt đầu có sự tách rời giữa người sở hữu và người sử dụng đất đai.
Còn trong điều kiện đất đai thuộc sở hữu toàn dân, quan hệ về đất đai dựa
trên việc giải quyết quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ của các đối tượng liên quan
đến đất đai. Ở Việt Nam, Nhà nước đã quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân.
Tại Điều 5 – Luật đất đai 2003 đã khẳng định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân
do Nhà nước đại diện chủ sở hữu”. Nhà nước thể hiện vai trò đại diện chủ sở
hữu của mình thông qua quyền năng định đoạt đối với đất đai:
• Quyết định mục đích sử dụng đất

• Quy định về hạn mức giao đất và thời hạn sử dụng đất
• Quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất
• Định giá đất
Nhà nước thực hiện quyền điều tiết các nguồn lợi từ đất thông qua các
chính sách tài chính về đất đai. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người dân
thông qua hình thức giao đất, cho thuê đất…Việc quy định đất đai thuộc sở hữu
toàn dân sẽ giúp Nhà nước quản lý thống nhất nguồn lực đất đai đồng thời có
biện pháp sử dụng hiệu quả, hợp lý trong điều kiện đất đai ngày càng khan hiếm.
2.3. Tính đa dạng và phong phú.
SVTH: Nguyễn Thị Hạnh Địa chính K44

77
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Tính đa dạng và phong phú của đất đai trước hết do đặc tính tự nhiên của
đất đai và tính cố định của nó quyết định. Đất đai được hình thành do quá trình
phong hóa đá mẹ, đá mẹ khác nhau hình thành nên các loại đất khác nhau. Vì
vậy, có nhiều loại đất phù hợp cho sản xuất nông nghiệp bởi chất đất màu mỡ
phù hợp cho cây trồng như: đất phù sa, đất đỏ bazan, đất feralit đỏ vàng…Mỗi
loại đất có thể sử dụng với nhiều mục đích khác nhau nhưng tùy thuộc vào vị trí,
tính chất của đất mà có sự phân bổ cho phù hợp. Với đất nông nghiệp, chất đất
là yếu tố quan trọng bậc nhất, mặt khác mỗi loại cây trồng lại có điều kiện về
nhiệt độ, độ ẩm, dinh dưỡng khác nhau nên cần phải biết khai thác triệt để lợi
thế của từng loại đất để thu được nguồn lợi kinh tế lớn cao nhất.
3. Phân loại đất nông nghiệp.
Hiện nay có nhiều quan điểm về phân loại đất nông nghiệp, tuỳ vào từng
tiêu chí phân loại mà đất nông nghiệp được chia thành những loại đất khác nhau.
Theo Luật đất đai (cả năm 1993 và năm 2003) đều phân loại đất đai theo mục
đích sử dụng. Theo đó, Điều 11 Luật Đất đai 1993 và các văn bản hướng dẫn thi
hành đất được chia thành 6 loại trong đó đất nông nghiệp bao gồm các loại đất:
(1) Đất trồng cây hàng năm:

+ Đất ruộng lúa, lúa màu
• Ruộng 3 vụ
• Ruộng 2 vụ
• Ruộng 1 vụ
• Ruộng chuyên mạ
+ Đất trồng cây hàng năm khác:
• Đất trồng màu và cây công nghiệp hàng năm
• Đất trồng rau
• Đất trồng cây hàng năm khác
(2) Đất vườn tạp
(3) Đất trồng cây lâu năm
(4) Đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản:
• Nuôi cá
• Thuỷ sản khác
SVTH: Nguyễn Thị Hạnh Địa chính K44

88
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Còn Điều 13 - Luật Đất đai 2003 quy định cụ thể như sau: Đất đai chia làm
ba nhóm là: Nhóm đất nông nghiệp, nhóm đất phi nông nghiệp và nhóm đất
chưa sử dụng. Trong đó, nhóm đất nông nghiệp bao gồm các loại đất:
a, Đất trồng cây hàng năm gồm đất trồng lúa, đất trồng cỏ dùng vào chăn
nuôi, đất trồng cây hàng năm khác;
b, Đất trồng cây lâu năm;
c, Đất rừng sản xuất;
d, Đất rừng phòng hộ;
đ, Đất rừng đặc dụng;
e, Đất nuôi trồng thuỷ sản;
g, Đất làm muối;
h, Đất nông nghiệp khác theo quy định của Chính phủ

Qua việc phân loại đất như trên ta thấy rằng Luật Đất đai 2003 đã quy định
cụ thể rõ ràng hơn về các loại đất và cũng có sự thay đổi lớn: một số loại đất
thuộc đất chuyên dùng và đất lâm nghiệp đã chuyển sang đất nông nghiệp. Ví
dụ: đất làm muối trước đây được xếp và đất chuyên dùng nay đã được coi là đất
nông nghiệp…Sự đổi mới trong việc phân loại đất trong Luật đất đai 2003 so
với Luật đất đai 1993 thể hiện tư duy mới, các loại đất không trùng lặp nhau
tránh việc quản lý chồng chéo. Đất nông nghiệp hiện nay gồm 8 loại đất như
trên tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý.
Ngoài quan điểm phân loại đất nông nghiệp theo mục đích sử dụng còn một
số quan điểm khác. Xét theo đặc tính đất đai hay theo thổ nhưỡng có các loại đất
nông nghiệp như sau:
(1) Đất phù sa
(2) Đất glây
(3) Đất cát biển
(4) Đất xám
(5) Đất bazan
(6) Đất đỏ vàng

4. Phân bố đất nông nghiệp.
Đất đai vừa là sản phẩm của tự nhiên vừa là sản phẩm của xã hội. Vì vậy,
việc phân bố quỹ đất nông nghiệp cũng bị chi phối bởi hai yếu tố đó.
SVTH: Nguyễn Thị Hạnh Địa chính K44

99
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Đất nông nghiệp phân bố rộng khắp trên tất cả các vùng trên cả nước tạo
nên một cơ cấu cây trồng đa dạng và phong phú. Quá trình phân bố đó từng
bước tạo nên các vùng tập trung chuyên canh theo hướng phát triển của nền kinh
tế hàng hóa. Tuy nhiên, sự phân bố đất nông nghiệp không đều giữa các vùng,
giữa các loại cây trồng dẫn đến mất cân đối giữa các loại cây trồng chủ yếu là

giữa đất lúa và đất hoa màu, giữa trồng trọt và chăn nuôi. Phân bố đất nông
nghiệp cũng gắn liền với lịch sử khai thác và sử dụng đất đai, kế hoạch khai
hoang xây dựng các vùng kinh tế mới và dựa trên đặc tính tự nhiên của đất như:
địa hình, nông hóa, thổ nhưỡng, khí hậu tiếp đến là tình hình phát triển kinh tế -
xã hội, tập quán canh tác, kinh nghiệm sản xuất của dân cư và phướng hướng
phát triển nông nghiệp của từng vùng, từng địa phương. Ở nước ta, phân bố đất
nông nghiệp được thống kê theo vùng và theo cơ cấu cây trồng.
Biểu 1: PHÂN BỐ ĐẤT NÔNG NGHIỆP THEO VÙNG
S
T
T
Vùng
Hiện trạng Quy hoạch 2010
1000 ha Cơ cấu (%) 1000 ha Cơ cấu (%)
1
Núi và trung du Bắc Bộ 5166.1 24.7 7798.2 29.7
2
Đông bắc Bắc Bộ 827.1 4.0 853.6 3.3
3
Bắc Trung Bộ 2952.0 14.1 4228.0 15.8
4
Duyên hải Nam Trung Bộ 2510.0 12.0 3344.1 12.8
5
Tây Nguyên 4227.0 20.7 4875.0 18.5
6
Đông Nam Bộ 1935.3 9.2 1881.8 7.2
7
Đồng bằng Sông Cửu Long 3367.1 15.8 3295.6 12.5
8
Tổng 21 629.7 100.00 26278.3 100.00

Nguồn: Số liệu Bộ Tài nguyên và môi trường
Từ biểu thống kê trên, ta thấy rằng diện tích đất nông nghiệp phân bố rất
không đồng đều giữa các khu vực trên lãnh thổ nước ta. Diện tích đất nông
nghiệp chiếm tỷ lệ lớn nhất là vùng núi và trung du Bắc Bộ (24.7%) tiếp đến là
vùng Tây Nguyên chiếm tới 1/5 diện tích đất nông nghiệp của cả nước. Vùng
núi và trung du Bắc Bộ là vùng núi non hiểm trở, nhiều bà con dân tộc ít người
SVTH: Nguyễn Thị Hạnh Địa chính K44

1010
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
sinh sống nên hoạt động sản xuất ở đây chủ yếu là nông nghiệp và tập quán canh
tác còn lạc hậu, năng suất cây trồng thấp. Khí hậu và thổ nhưỡng nơi đây rất
thích hợp cho một số loại cây như: chè, sắn....Đặc biệt khu vực này rất phù hợp
cho chăn nuôi phát triển bởi có những đồng cỏ xanh tốt nên vùng này có đàn bò
lớn nhất cả nước. Còn Tây Nguyên, có thể nói đây là một vùng đất mới, Nhà
nước ta đã có chính sách đưa dân đi xây dựng vùng kinh tế mới. Nhờ chủ trương
này mà rất nhiều bà con ở vùng Tây Bắc và Đông bắc bộ đã tự nguyện đưa gia
đình vào vùng này khai phá. Mặt khác đây là vùng đẩt đỏ bazan màu mỡ rất
thích hợp cho trồng các loại cây công nghiệp ngắn ngày và dài ngày. Diện tích
đất nông nghiệp ở đây chủ yếu là trồng cà phê, hồ tiêu, ca cao, sắn…Vùng có
quỹ đất nông nghiệp nhỏ nhất cả về diện tích và cơ cấu là vùng Đông Bắc Bộ.
Vùng này có 9 tỉnh, thành chủ yếu thuộc đồng bằng châu thổ sông Hồng. Đây là
vùng đất đai màu mỡ nhưng “đất chật người đông” nên diện tích cho nông
nghiệp rất hạn chế. Tuy vậy, đây lại là vựa lúa lớn thứ hai cả nước sau đồng
bằng sông Cửu Long.
Biểu 2: PHÂN BỐ ĐẤT NÔNG NGHIỆP THEO CƠ CẤU CÂY TRỒNG
STT
Vùng
Hiện trạng Quy hoạch 2010
1000 ha

Cơ cấu
(%)
1000 ha
Cơ cấu
(%)
Tổng diện tích 9345 100.00 9914 100.00
1 Cây hàng năm
Trong đó đất lúa + đất màu
6129
4268
65,6 5924
3923
59,8
2 Cây lâu năm 2182 23,3 2829 28,5
3 Nuôi trồng thủy sản 388 11,1 501 11,7
Nguồn: Số liệu Bộ Tài nguyên và môi trường
Trong cơ cấu đất nông nghiệp, diện tích trồng cây hàng năm chiếm tới trên
65% diện tích đất nông nghiệp toàn quốc trong đó đất trồng lúa và trồng màu là
chủ yếu. Đó là điều hoàn toàn hợp lý với một quốc gia đang phát triển. Nhưng
cũng chính vì lẽ đó mà Việt Nam từ một nước thiếu ăn đã trở thành một cường
quốc về xuất khẩu gạo (đứng thứ hai trên thế giới chỉ sau Thái Lan). Trong thời
gian tới, Nhà nước ta có biện pháp chuyển một số diện tích trồng lúa, màu
không hiệu quả sang các loại đất khác có khả năng sinh lợi hơn. Việc giảm tỷ
SVTH: Nguyễn Thị Hạnh Địa chính K44

1111
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
trọng trồng cây lương thực là xu thế tất yếu vì nhu cầu về mặt hàng này sẽ giảm
khi thu nhập của người dân tăng lên. Nhìn vào biểu trên ta cũng thấy rõ xu
hướng giảm diện tích trồng cây hàng năm và tăng diện tích nuôi trồng thủy sản.

Việc thay đổi diện tích từng loại cây trồng, vật nuôi nhằm mục tiêu cuối cùng là
sử dụng hợp lý, đầy đủ, tiết kiệm và hiệu quả nhất đất nông nghiệp.
II. SỰ CẦN THIẾT QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT NÔNG NGHIỆP
1. Khái niệm và vai trò của quản lý nhà nước về đất nông nghiệp.
Để nắm được khái niệm về quản lý nhà nước về đất nông nghiệp trước hết
chúng ta cần tìm hiểu bản chất của quản lý nhà nước về đất đai nói chung.
Về bản chất, quản lý nhà nước về đất đai là sự tác động một cách có tổ
chức, điều chỉnh các hành vi của con người liên quan đến đất đai bằng quyền lực
của Nhà nước nhằm hướng ý chí và hành động của họ vào mục đích chung. Nhà
nước tác động lên các đối tượng thông qua việc thiết lập nên các mối quan hệ xã
hội, quan hệ giữa con người với con người, giữa các tập thể với nhau vì trước
hết Nhà nước là một cơ cấu có tổ chức bao gồm một hệ thống các cơ quan từ
trung ương đến địa phương. Đặc biệt là tác động một cách có tổ chức chứ không
tác động đơn lẻ đến một cá nhân, một chủ thể. Tính tổ chức đó đặt ra vấn đề là
làm sao hình thành nên các tổ chức với cơ cấu và cơ chế hoạt động thích hợp.
Mặt khác, các tổ chức đó được hoạt động như thế nào, phối hợp giữa các khâu,
các bộ phận ra sao làm cho guồng máy hoạt động theo đúng mục tiêu đã định.
Ngoài ra, Nhà nước còn thông qua các công cụ pháp luật, chính sách nhằm
hướng các hoạt động và hành vi của con người theo đúng quỹ đạo tạo ra.
Quản lý Nhà nước còn thể hiện quan hệ chủ thể, khách thể và đối tượng
quản lý. Chủ thể quản lý ở đây là bộ máy hành chính từ Trung ương đến địa
phương cùng với toàn bộ công nhân viên chức trong các cơ quan này. Còn khách
thể quản lý chính là công dân, các chủ thể kinh tế, các doanh nhân…và đối
tượng quản lý là các quá trình kinh tế, các hoạt động kinh tế của các chủ thể
kinh tế nhằm hướng tới sự phát triển đất đai hay toàn bộ nền kinh tế theo mục
tiêu xác định.
Tóm lại, ta có thể hiểu quản lý nhà nước về đất đai như sau: “Quản lý nhà
nước về đất đai là sự tác động có tổ chức của bộ máy quản lý nhà nước và sự
điều chỉnh của Nhà nước bằng quyền lực vào quá trình kinh tế - xã hội và
SVTH: Nguyễn Thị Hạnh Địa chính K44


1212
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
hành vi của các đơn vị kinh tế, các cá nhân nhằm đảm bảo hướng các ý chí và
hành động của họ vào mục tiêu phát triển lĩnh vực đất đai”
Đất đai là tài sản, là thước đo sự giàu có của mỗi quốc gia, nó gắn liền với
lãnh thổ quốc gia nên Nhà nước phải quản lý đất đai là điều tất yếu. Vai trò của
Nhà nước trong công tác quản lý đất đai trong đó bao gồm cả đất nông nghiệp
cụ thể là:
Thứ nhất, Nhà nước quản lý toàn bộ quỹ đất đai trên phạm vi lãnh thổ của
mình là tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi cho mọi hoạt động liên quan đến
đất đai. Bằng hệ thống văn bản pháp quy, hành lang pháp lý cho các lĩnh vực
liên quan đến đất đai được thiết lập. Đối với đất nông nghiệp, người sử dụng đất
cần tuân thủ nguyên tắc sử dụng đất, thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của
mình đối với diện tích đất đang sử dụng và đối với Nhà nước. Qua đó, kích thích
các tổ chức, cá nhân sử dụng đất hiệu quả, nâng cao khả năng sinh lời của đất
đồng thời phải bảo vệ đất đai.
Thứ hai, thông qua công cụ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đặc biệt là
chiến lược phát triển kinh tế, xã hội để định hướng cho việc sử dụng đất đai
trong thời gian kế tiếp. Việc hoạch định quy hoạch, kế hoạch hợp lý và khoa học
sẽ phân bổ đất đai phù hợp đảm bảo sử dụng đất đúng mục đích, tiết kiệm và
hiệu quả. Đặc biệt, hiện nay việc sử dụng đất nông nghiệp chưa thực sự hiệu
quả, chuyển mục đích sử dụng tự phát đe dọa nghiêm trọng đến vấn đề an ninh
lương thực. Vì vậy, quản lý nhà nước về đất nông nghiệp trở nên quan trọng hơn
bao giờ hết. Nhà nước cần thực hiện quy hoạch đất nông nghiệp hợp lý và điều
chỉnh quy hoạch nếu thấy cần thiết.
Thứ ba, Nhà nước thực hiện thống kê, kiểm kê, đánh giá, phân hạng đất để
nắm chắc toàn bộ quỹ đất đai cả về số lượng và chất lượng. Đó chính là căn cứ
xác thực nhất để Nhà nước lập kế hoạch, quy hoạch phân bổ đất đai một cách
hợp lý nhằm khai thác quỹ đất đai một cách hiệu quả nhất.

Thứ tư, Nhà nước thường xuyên tổ chức thanh tra, kiểm tra, giám sát các
hoạt động liên quan đến đất đai để phát hiện sớm những vi phạm và kịp thời có
biện pháp giải quyết. Nhờ hoạt động này mà Nhà nước có thể quản lý được quỹ
đất tốt hơn, không để tình trạng sử dụng đất diễn ra lộn xộn gây tác động xấu
đến tâm lý của nhân dân. Đất đai là tài sản quan trọng nhất của mỗi quốc gia, nó
cũng là bất động sản có giá trị của các cá nhân, hộ gia đình nên những vấn đề
SVTH: Nguyễn Thị Hạnh Địa chính K44

1313
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
liên quan đến đất đai sẽ thu hút sự quan tâm của mọi tầng lớp dân cư. Vì vậy,
quản lý đất đai chặt chẽ cũng góp phần ổn định xã hội.
2. Sự cần thiết phải quản lý nhà nước về đất nông nghiệp.
Đất nông nghiệp như trình bày ở trên có vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan
trọng nhất là đối với quốc gia thuộc nền văn minh lúa nước như nước ta. Xã hội
ngày càng phát triển kéo theo những vấn đề vô cùng phức tạp liên quan đến đất
đai. Mặc dù sử dụng đất nông nghiệp không quá bức xúc như đất ở nhưng hoà
trong xu thế chung, dân số tăng nhanh trên phạm vi toàn cầu khiến diện tích đất
nông nghiệp đang bị thu hẹp đáng kể. Thực tế đó đặt ra một bài toán khó cho
mọi quốc gia. Diện tích đất nông nghiệp đang giảm sút nghiêm trọng đi đôi với
việc khai thác, sử dụng không hiệu quả làm tăng diện tích bị sa mạc hoá khiến
việc sử dụng đất nông nghiệp như thế nào trở nên cấp bách.
Theo thống kê của Liên Hợp Quốc, tại các nước đang phát triển trong thế
kỷ XX có đến một nửa số người nghèo sống ở đô thị trong tình trạng sức khoẻ
và cuộc sống bị đe doạ. Mặc dù vậy, đô thị hoá vẫn đang là giải pháp cho sự
phát triển. Đó là một trong những nguyên nhân cơ bản làm cho diện tích đất
nông nghiệp bị thu hẹp nhanh chóng. Chính vai trò to lớn của đất nông nghiệp
và những nguy cơ đang tiềm ẩn đối với đất nông nghiệp mà các quốc gia trên thế
giới cần phải có biện pháp quản lý đất nông nghiệp hợp lý và chặt chẽ hơn. Nhà
nước cần phải đặt ra những quy tắc quản lý nhằm phân phối quỹ đất nông

nghiệp phù hợp nhằm đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững.
Ở Việt Nam, từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) Đảng và Nhà nước ta
đã thực hiện chính sách đổi mới, phát triển đất nước theo cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Sau 20 năm đổi mới, những thành tựu đạt được là
không nhỏ đặc biệt tốc độ tăng GDP cao và ổn định đưa đất nước lên một tầm
cao mới. Đất đai được xác định là nguồn lực to lớn. Thực tế, đất đai nói chung
và đất nông nghiệp nói riêng đã và đang vận động theo hướng đất đai được phép
thay đổi mục đích sử dụng sang những mục đích khác mang lại hiệu quả kinh tế
cao hơn; chuyển đổi về chủ sử dụng theo hướng chuyển sang chủ sử dụng có
khả năng sử dụng đất hiệu quả hơn; chuyển đổi về giá trị theo hướng giá trị ngày
càng tăng lên. Đó là sự vận động hoàn toàn phù hợp với qui luật của nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, cần phải quản lý nhà nước về
đất đai để điều phối một cách hợp lý quỹ đất đai cho từng mục đích sử dụng.
SVTH: Nguyễn Thị Hạnh Địa chính K44

1414
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Mặt khác, dân số Việt Nam đang tăng khá nhanh khiến Việt Nam đã “đất chật
người đông” nay càng đông hơn tạo nên áp lực cho mọi lĩnh vực: văn hoá, y tế,
giáo dục, hệ thống cung cấp thương mại dịch vụ,…và đặc biệt là đất ở. Điều đó
dẫn đến hậu quả tất yếu là chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang các
loại đất khác làm cho quĩ đất này liên tục giảm qua từng năm. Hơn nữa, trong
thời gian qua, tình trạng chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp tự phát diễn
ra phổ biến rồi việc sử dụng đất tuỳ tiện không theo qui hoạch, cùng với nó là vi
phạm đất đai ngày càng nghiêm trọng. Như vậy, quản lý Nhà nước về đất nông
nghiệp thực sự cần thiết, đó là công cụ quan trọng để Nhà nước quản lý được
quỹ đất của mình, qua đó có biện pháp khai thác, sử dụng hợp lý và hiệu quả.
Thực tế, công tác quản lý nhà nước về đất đai cũng chưa có những bước
tiến vượt bậc, việc tổ chức thực hiện chưa thống nhất, sự buông lỏng trong quản
lý làm cho sự vận động của đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng trở

nên phức tạp và rối ren, vượt ra khỏi tầm kiểm soát của Nhà nước. Vì những lý
do trên đây mà quản lý nhà nước về đất nông nghiệp đang trở thành vấn đề cấp
bách thu hút sự quan tâm của các cấp, các ngành.

IV. CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT NÔNG
NGHIỆP
Đất đai ngày nay trong đó có đất nông nghiệp không chỉ là nguồn tài
nguyên khan hiếm mà đã trở thành nguồn lực to lớn của mỗi quốc gia. Vì vậy,
công tác quản lý Nhà nước về đất đai phải tương xứng với nguồn lực to lớn đó.
Vậy nội dung cụ thể về quản lý nhà nước về đất đai ra sao? Theo văn bản pháp
lý cao nhất về đất đai là Luật đất đai có quy định cụ thể về các nội dung quản lý
đất đai trong khoản 2, Điều 6 - Luật đất đai 2003:
a, Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai và
tổ chức thực hiện các văn bản đó;
b, Xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành chính, lập
bản đồ hành chính;
c, Khảo sát, đo đạc, đánh giá phân hạng đất; lập bản đồ địa chính, bản đồ
hiện trạng sử dụng đất và bản đồ quy hoạch sử dụng đất;
d, Quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất;
SVTH: Nguyễn Thị Hạnh Địa chính K44

1515
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
đ, Quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng
đất;
e, Đăng ký quyền sử dụng đất, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp giấy chứng
nhận (sau đây viết tắt là GCN) quyền sử dụng đất;
g, Thống kê, kiểm kê đất đai;
h, Quản lý tài chính về đất đai;
i, Quản lý và phát triển thị trường quyền sử dụng đất trong thị trường bất

động sản;
k, Quản lý, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất;
l, Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về đất đai và
xử lý vi phạm pháp luật về đất đai;
m, Giải quyết tranh chấp vê đất đai; giải quyết khiếu nại, tố cáo các vi phạm
trong việc quản lý và sử dụng đất đai;
n, Quản lý các hoạt động dịch vụ công về đất đai.
Trên đây là những nội dung quản lý đất đai nói chung trong đó đã bao hàm
tất cả các nội dung của quản lý nhà nước về đất nông nghiệp. Tuy nhiên, đất
nông nghiệp là một nhóm đất có những đặc thù riêng do đó có một số nội dung
không biểu hiện rõ vai trò quản lý nên tôi xin khái quát lại trong một số nội dung
cơ bản sau:
(1) Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất nông
nghiệp và tổ chức thực hiện các văn bản đó
(2) Khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất; thực hiện quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất, lập bản đồ hiện trạng và bản đồ quy hoạch sử dụng đất
(3) Lập, quản lý, tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông
nghiệp
(4) Công tác giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi
đất nông nghiệp
(5) Công tác đăng ký quyền sử dụng đất nông nghiệp, cấp GCN quyền sử
dụng đất nông nghiệp và thống kê, kiểm kê đất đai
(6) Công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành quy định của pháp luật và
giải quyết khiếu nại, tố cáo các hành vi trong quản lý, sử dụng đất nông nghiệp
Thực tế, những nội dung quản lý này đã và đang được thực hiện khá đồng
bộ, các cấp quản lý từ trung ương đến cơ sở đã có nhiều biện pháp tích cực trong
SVTH: Nguyễn Thị Hạnh Địa chính K44

1616
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

triển khai thực hiện và đã đạt được nhiều kết quả, từng bước đưa công tác quản
lý nhà nước về đất đai nói chung đi vào nề nếp.
1. Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất
nông nghiệp và tổ chức thực hiện các văn bản đó
Mọi quốc gia trên thế giới đều thiết lập một hệ thống pháp luật về đất đai
nhằm điều chỉnh các quan hệ đất đai. Ở Việt Nam, Nhà nước quản lý đất đai
thông qua các công cụ quản lý: công cụ tài chính, công cụ tổ chức hành chính
trong đó quan trọng nhất là công cụ pháp luật.
Trên cơ sở Hiến pháp 1992, Luật đất đai 1993 được ban hành nhằm thể chế
hóa chính sách đất đai góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách đất
đai, từng bước đáp ứng yêu cầu quản lý, sử dụng đất. Luật đất đai năm 1993 đã
được sửa đổi, bổ sung vào các năm 1998 và 2001 và mới đây nhất Luật đất đai
2003 được ban hành với nhiều nội dung mới mang tính đột phá, Văn phòng đăng
ký quyền sử dụng đất là một ví dụ. Trên cơ sở đó, các văn bản quy phạm pháp
luật được ban hành bao gồm: Luật, Pháp lệnh, Nghị quyết của Quốc hội, của
Chính phủ, Nghị định, Thông tư, Chỉ thị của Chính phủ, của các Bộ, ngành liên
quan. Ngoài ra, còn nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan quy định về
vấn đề đất đai như: Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự, Luật thuế sử dụng đất nông
nghiệp, Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất…và các văn bản hướng dẫn thi
hành. Trong đó có các văn bản ban hành riêng cho việc điều chỉnh các vấn đề
liên quan đến đất nông nghiệp. Hệ thống văn bản pháp luật được ban hành từ
trung ương đến các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cho đến cấp huyện.
Đây là một công cụ không thể thiếu trong quản lý, sử dụng đất đai nói chung
cũng như đất nông nghiệp. Nó tạo nên cơ sở pháp lý cho mọi hoạt động liên
quan tới đất đai. Các văn bản đó quy định quyền và nghĩa vụ của chủ thể cũng
như khách thể liên quan tới đất đai nhằm sử dụng đất tiết kiệm, đầy đủ và hiệu
quả. Những quy định của pháp luật mang tính bắt buộc, đòi hỏi các đối tượng
phải tuân thủ nghiêm túc. Bởi lẽ đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại
diện chủ sở hữu. Nhờ hệ thống pháp luật về đất đai, Nhà nước sẽ quản lý được
đất đai một cách chặt chẽ đồng thời thể hiện quyền bình đẳng của mọi công dân

trước pháp luật cũng như thể hiện bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của
dân, do dân và vì dân.
SVTH: Nguyễn Thị Hạnh Địa chính K44

1717
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Trong thời gian qua, hệ thống pháp luật về đất đai trong đó có cả đất nông
nghiệp được xây dựng, từng bước bổ sung hoàn thiện, nhiều chủ trương, chính
sách được đổi mới nhằm giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Các văn đó
được triển khai nhanh và đã có sự đồng bộ nhất định. Mặc dù vậy, hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật còn bộc lộ không ít những tồn tại, yếu kém. Việc tổ
chức thực hiện các văn bản đó còn cứng nhắc, mang tính áp đặt không linh hoạt
với thực tế từng địa phương. Xét một cách toàn diện, hệ thống pháp luật tuy
nhiều nhưng chưa đầy đủ dẫn đến tình trạng “vừa thừa vừa thiếu” lại tổ chức
thực hiện thiếu đồng bộ nên chưa xác lập được chuẩn mực pháp lý, chưa thực sự
theo kịp sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Các văn bản dưới luật còn quá
nhiều đôi khi thiếu sự nhất quán, không rõ ràng, chồng chéo cộng với việc ban
hành không đúng hình thức, không đúng thẩm quyền gây nhiều khó khăn cho
việc triển khai thực hiện.
Nói tóm lại, hệ thống chính sách về đất đai trong đó bao gồm cả những văn
bản riêng về đất nông nghiệp còn nhiều bất cập, chưa phát huy đầy đủ vai trò
điều tiết và quản lý đất đai, chưa khai thác đầy đủ tiềm năng từ đất. Để khắc
phục những hạn chế đó, Nhà nước ta đã ban hành những văn bản hướng dẫn thi
hành cụ thể và chi tiết. Tuy nhiên việc hiểu và triển khai như thế nào để đạt được
kết quả là điều không đơn giản với tất cả các địa phương.
2. Khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất nông nghiệp; lập bản đồ hiện
trạng và bản đồ quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp.
2.1. Khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất nông nghiệp.
Trong thực tế, đất đai có rất nhiều loại, nhiều dạng, ở nhiều vùng khác
nhau, Nhà nước cần có biện pháp nắm được một cách cụ thể và đầy đủ tất cả các

loại, các dạng đất để có cách thức quản lý phù hợp. Một trong những biện pháp
không thể thiếu là thực hiện khảo sát, đo đạc, đánh giá phân hạng đất. Thông
qua nội dung này, Nhà nước nắm được các thông tin về từng loại đất trên phạm
vi quản lý của mình một cách chi tiết cả về số lượng và chất lượng. Có thể nói,
đây chính là cái gốc của mọi vấn đề liên quan đến đất đai, công tác này là cơ sở
tạo nên một hệ thống thông tin địa chính hoàn chỉnh. Nhờ thông tin thu thập
được sẽ xây dựng bản đồ địa chính, bản đồ hiện trạng, bản đồ quy hoạch…Vì
SVTH: Nguyễn Thị Hạnh Địa chính K44

1818
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
vậy, khảo sát đo đạc, đánh giá, phân hạng đất là một nhiệm vụ tối cần thiết đối
với công tác quản lý đất đai.
Việc khảo sát, đo đạc đánh giá, phân hạng đất là một công việc hết sức khó
khăn và phức tạp bởi vì công tác này phải tiến hành trên thực địa phụ thuộc rất
nhiều vào điều kiện địa hình, khí hậu của địa phương. Nhà nước ta đã triển khai
công tác này từ rất sớm. Trước đây nền kinh tế còn nghèo nàn, khoa học kỹ thuật
còn lạc hậu nên việc khảo sát, đo đạc gặp rất nhiều trở ngại, các công việc thực
hiện bằng phương pháp thủ công nên độ chính xác thấp. Ngày nay, chúng ta đã
áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật của thế giới như hệ thống định vị toàn cầu
GPS, hệ thống thông tin địa lý GIS, công nghệ số…giúp cho việc khảo sát, đo
đạc đơn giản hơn, nhanh hơn và chất lượng cũng cao hơn.
Đối với đất nông nghiệp, việc đánh giá phân hạng đất cần dựa trên cơ sở
khoa học. Các căn cứ để phân hạng đất nông nghiệp bao gồm: chất đất, vị trí, địa
hình, điều kiện khí hậu thời tiết, điều kiện tưới tiêu của từng xứ đồng… Dựa trên
những tiêu chí này mà đất nông nghiệp được phân thành các hạng khác nhau. Đó
là cơ sở để xác định giá trị của đất nông nghiệp đặc biệt khi cần tính thu nhập từ
chuyển quyền sử dụng đất, tiền sử dụng đất, bồi thường thiệt hại khi Nhà nước
thu hồi đất…
2.2. Lập bản đồ hiện trạng và bản đồ quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp.

Việc khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất là tiền đề cho việc thiết lập
các loại bản đồ về đất đai. Dựa trên số liệu thu thập được và kết quả của công
tác đo vẽ thực địa sẽ hình thành nên bản đồ hiện trạng sử dụng đất. Nó thể hiện
sự phân bố các loại đất tại một thời điểm xác định, được lập theo đơn vị hành
chính. Dựa vào loại bản đồ này cơ quan quản lý nắm được tình hình thực tế về
phân bố các loại đấ để có biện pháp điều chỉnh cơ cấu sử dụng đất cũng như cơ
cấu cây trồng, vật nuôi cho phù hợp. Bản đồ hiện trạng sử dụng đất được lập 5
năm một lần gắn với việc kiểm kê đất đai (Điều 20 – Luật đất đai 2003)
Trên cơ sở bản đồ địa chính, bản đồ hiện trạng sử dụng đất và các thông tin
thu thập được trong quá trình điều tra, khảo sát các cấp có thẩm quyền thiết lập
bản đồ quy hoạch. Theo Luật đất đai 2003: “Bản đồ quy hoạch sử dụng đất là
bản đồ được thiết lập tại thời điểm đầu kỳ quy hoạch, thể hiện sự phân bổ các
lọai đất tại thời điểm cuối kỳ quy hoạch và được lập 10 năm một lần gắn kỳ quy
SVTH: Nguyễn Thị Hạnh Địa chính K44

1919
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
hoạch sử dụng đất”. Thẩm quyền lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất và bản đồ
quy hoạch sử dụng đất được quy định rất rõ trong Điều 20 – Luật đất đai 2003.
Nhận thức được vai trò của các loại bản đồ trên, Nhà nước ta đã tổ chức
khảo sát, đo đạc, lập tuy nhiên kết quả đạt được chưa hoàn toàn đáp ứng được
nhu cầu quản lý.
3. Thực hiện và quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp
Đế xác định tính chất pháp lý của quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và trách
nhiệm của các cơ quan Nhà nước, trước hết cần phải hiểu thế nào là quy hoạch,
kế hoạch sử dụng đất.
Khái niệm hiện đại của quy hoạch sử dụng đất bắt đầu được sử dụng vào
khaỏng giữa thế kỷ XIX ở châu Âu khi dân số tăng nhanh do công nghiệp hóa
diễn ra mạnh mẽ. Mỗi vùng đất, khoanh đất, mảnh đất có thể có địa hình, thổ
nhưỡng, địa chất, thủy văn, tính chất vật lý, tính chất hóa học rồi lớp thảm thực

vật, yếu tố khí hậu khác nhau tạo ra điều kiện nhất định cho việc sử dụng đất
theo các mục đích khác nhau. Như vậy, muốn sử dụng đất cần phải tiến hành
quy hoạch sử dụng đất. Về khái niệm: “Quy hoạch sử dụng đất là hệ thống các
biện pháp của Nhà nước về tổ chức sử dụng đất và quản lý đất đai đầy đủ, hợp
lý, khoa học và có hiệu quả cao nhất thông qua việc phân bổ quỹ đất và tổ
chức sử dụng đất như một tư liệu sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế -
xã hội, tạo điều kiện bảo vệ đất đai và môi trường đất”
Ở Việt Nam cũng như các nước trên thế giới, các cấp chính quyền có thể
thực hiện quy hoạch sử dụng đất theo lãnh thổ hoặc theo ngành. Quy hoạch sử
dụng đất nông nghiệp là hình thức quy hoạch sử dụng đất theo ngành. Xét trên
phạm vi rộng, quy hoạch sử dụng đất hiện đại trong lĩnh vực nông nghiệp mới
đặt ra khi dân số tăng nhanh, công nghiệp hóa ảnh hưởng sâu sắc tới sản xuất
nông nghiệp, đòi hỏi phải chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp để thoát khỏi tình
trạng sản xuất thuần nông.
Ngoài công tác quy hoạch, Nhà nước còn phải lập kế hoạch sử dụng đất.
Đối với kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp có thể hiểu một cách khái quát như
sau: Kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp là việc xác định mục tiêu, phương
hướng sử dụng đất nông nghiệp, về chuyển đổi diện tích cây trồng, diện tích đất
phải thu hồi, diện tích mới đưa vào sử dụng, đề ra các giải pháp thực hiện và tiến
SVTH: Nguyễn Thị Hạnh Địa chính K44

2020
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
hành tổ chức thực hiện các nội dung đó. Kế hoạch sử dụng đất chính là sự cụ thể
hóa quy hoạch sử dụng đất trong từng giai đoạn.
Công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trong đó bao hàm cả đất nông
nghiệp đã được Luật đất đai 2003 quy định rất cụ thể, chặt chẽ và khoa học từ
Điều 21 đến Điều 30. Các nội dung quy định bao gồm: Nguyên tắc lập quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất (Điều 21); Căn cứ lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất (Điều 22); Nội dung quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất (Điều 23); Kỳ quy

hoạch, kế hoạch sử dụng đất (Điều 24); Thẩm quyền lập quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất (Điều 25)…Theo đó, nội dung quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trong
Luật đất đai 2003 cũng được quy định rõ ràng hơn rất nhiều so với Luật đất đai
1993. Cụ thể là:
a, Điều tra, nghiên cứu, phân tích, tổng hợp điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã
hội và hiện trạng sử dụng đất; đánh giá tiềm năng đất đai;
b, Xác định phương hướng, mục tiêu sử dụng đất trong kỳ quy hoạch;
c, Xác định diện tích các loại đất phân bổ cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã
hội, quốc phòng, an ninh;
d, Xác định diện tích đất phải thu hồi để thực hiện các công trình, dự án;
đ, Xác định các biện pháp sử dụng, bảo vệ, cải tạo đất và bảo vệ môi
trường;
e, Giải pháp tổ chức thực hiện quy hoạch sử dụng đất.
Nội dung kế hoạch sử dụng đất bao gồm:
a, Phân tích, đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch sử dụng đất kỳ trước;
b, Kế hoạch thu hồi diện tích các loại đất để phân bổ cho nhu cầu xây dựng
kết cấu hạ tầng; phát triển công nghiệp, dịch vụ; phát triển đô thị, khu dân cư
nông thôn; quốc phòng, an ninh;
c, Kế hoạch chuyển diện tích đất chuyên trồng lúa nước và đất có rừng sang
sử dụng vào mục đích khác, chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất trong đất nông
nghiệp;
d, Kế hoạch khai hoang mở rộng diện tích đất để sử dụng vào các mục đích;
đ, Cụ thể hóa kế hoạch sử dụng đất năm năm đến từng năm;
e, Giải pháp tổ chức thực hiện kế hoạch sử dụng đất.
Theo thông tin của Bộ Tài nguyên và môi trường đến nay hầu hết các tỉnh
thành trong cả nước đã xây dựng xong quy hoạch sử dụng đất và đã được cấp có
SVTH: Nguyễn Thị Hạnh Địa chính K44

2121
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

thẩm quyền phê duyệt. Tuy nhiên, chất lượng quy hoạch đang ở mức khiêm tốn,
việc quy hoạch sử dụng đất ở đâu đó còn hạn chế thậm chí còn mang tính ước lệ.
Tình trạng xây dựng quy hoạch rồi để đó (“quy hoạch treo”) vẫn còn tồn tại. Để
phần nào khắc phục thực trạng đó, Luật đất đai 2003 đã có những điều quy định
chặt chẽ về thẩm quyền phê duyệt quy hoạch và trách nhiệm thực hiện quy
hoạch của từng đơn vị liên quan. Bên cạnh đó, việc quy định công khai quy
hoạch sử dụng đất tại trụ sở cơ quan để mọi người dân đều biết cũng thể hiện
bản chất của Nhà nước ta: công bằng, dân chủ và công khai.
Quy hoạch sử dụng đất là một quá trình thực hiện trong thời gian dài (kỳ
quy hoạch sử dụng đất là 10 năm), trong thời gian đó tình hình sử dụng đất sẽ có
rất nhiều biến động hay nói cách khác quy hoạch sử dụng đất không mang tính
vĩnh cửu mà mang tính khả biến rất rõ rệt. Với sự tác động của các yếu tố tự
nhiên và các yếu tố phát triển của xã hội làm thay đổi hiện trạng sử dụng đất,
ảnh hưởng tới đời sống kinh tế - xã hội và đặt ra yêu cầu bảo vệ môi trường sinh
thái. Do đó, quy hoạch sử dụng đất trong một thời gian nhất định không còn phù
hợp nếu không có sự điều chỉnh sẽ làm kìm hãm sự phát triển của xã hội. Vì vậy,
Luật đất đai 2003 đã có quy định về điều chỉnh quy hoạch. Việc điều chỉnh quy
hoạch sử dụng đất khi cần thiết sẽ đảm bảo quy hoạch sử dụng đất có chất lượng
và có tính khả thi cao.
Những văn bản pháp lý liên quan tới quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
ngoài Luật đất đai còn rất nhiều văn bản khác như: Nghị định 68/2001/NĐ-CP
của Chính phủ, Nghị quyết số 01/1997/NQ-QH9…
Thực hiện theo những quy định hiện hành, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
đã góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bảo đảm mục tiêu ổn
định xã hội. Đối với đất nông nghiệp, Đảng và Nhà nước ta chủ trương hạn chế
việc chuyển mục đích sử dụng của diện tích đất trồng lúa nước và diện tích đất
rừng nhất là rừng phòng hộ. Trong quá trình lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất, các địa phương cũng đã quán triệt tinh thần này và có sự phân bổ quỹ đất
hợp lý, bảo đảm một diện tích đất trồng cây lương thực nhất định.
Để thiết lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cho một vùng, một địa

phương hay một ngành là cả một quá trình nghiên cứu khoa học và sáng tạo
nhằm xác định ý nghĩa, mục đích của từng phần lãnh thổ, từng loại đất và đề
xuất một trật tự sử dụng đất nhất định. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông
SVTH: Nguyễn Thị Hạnh Địa chính K44

2222
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
nghiệp là biện pháp hữu hiệu của Nhà nước để tổ chức lại việc sử dụng đất nông
nghiệp, hạn chế chồng chéo trong sử dụng đất nông nghiệp, tránh chuyển đổi
mục đích sử dụng đất tùy tiện làm giảm sút nghiêm trọng quỹ đất nông nghiệp,
lâm nghiệp đặc biệt là đất trồng lúa nước và đất rừng, chấm dứt tình trạng hủy
hoại đất và phá vỡ môi trường đất.
4. Công tác giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất nông
nghiệp.
4.1. Giao đất, cho thuê đất
Đất đai ở nước ta thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu.
Như vậy, Nhà nước thống nhất quản lý quỹ đất trên phạm vi toàn lãnh thổ và có
quyền định đoạt đối với đất đai. Nhà nước đã thực hiện giao đất cho người dân
sử dụng. Theo quy định: “giao đất là việc Nhà nước trao quyền sử dụng đất
bằng quyết định hành chính cho đối tượng có nhu cầu sử dụng đất”. Còn “cho
thuê đất là việc Nhà nước trao quyền sử dụng đất bằng hợp đồng cho đối
tượng có nhu cầu sử dụng đất”.
Việc giao đất, cho thuê đất dựa trên các căn cứ sau: Thứ nhất là quy hoạch,
kế hoạch sử dụng đất hoặc quy hoạch xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng
điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt.
Thứ hai là nhu cầu sử dụng đất thể hiện trong dự án đầu tư, đơn xin giao đất,
thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất (Theo Điều 31-Luật đất đai 2003).
Về giao đất, Nhà nước ta thực hiện giao đất cho hộ gia đình, cá nhân, tổ
chức sử dụng ổn định lâu dài hoặc có thời hạn, giao đất không thu tiền và giao
đất có thu tiền sử dụng đất. Theo đó, hầu hết các loại đất thuộc nhóm đất nông

nghiệp được giao cho người sử dụng đất không phải nộp tiền sử dụng đất. Theo
Điều 33 – Luật đất đai 2003, những trường hợp đó bao gồm:
1. Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp lao động nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi
trồng thủy sản, làm muối được giao đất nông nghiệp trong hạn mức quy
định;
2. Tổ chức sử dụng đất vào mục đích nghiên cứu, thí nghiệm, thực nghiệm
về nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối;
SVTH: Nguyễn Thị Hạnh Địa chính K44

2323
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
3. Đơn vị vũ trang nhân dân được Nhà nước giao đất để sản xuất nông
nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối hoặc kết hợp với
nhiệm vụ quốc phòng, an ninh;
4. Người sử dụng đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng;
5. Cộng đồng dân cư sử dụng đất nông nghiệp.
Còn đất nông nghiệp được giao có thu tiền sử dụng đất chỉ có trường hợp:
“Tổ chức kinh tế được giao đất để sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng
thủy sản, làm muối”.
Việc giao đất nông nghiệp có thu tiền sử dụng đất là một biện pháp để giải
quyết hài hòa lợi ích kinh tế thu được từ đất giữa người sử dụng đất và Nhà
nước. Hầu hết các trường hợp không phải nộp tiền sử dụng đất là nhằm khuyến
khích người dân đầu tư sản xuất vào các loại đất đó để bảo vệ lợi ích của người
dân trực tiếp lao động và lợi ích chung của cả cộng đồng như trồng rừng phòng
hộ, rừng đặc dụng.
Về thời hạn sử dụng đất nông nghiệp được giao, theo quy định hiện hành
các trường hợp sau thì người sử dụng đất nông nghiệp được sử dụng ổn định lâu
dài:
1. Đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng;
2. Đất nông nghiệp do cộng đồng dân cư sử dụng (đất được giao cho cộng

đồng dân cư sử dụng để bảo tồn bản sắc dân tộc gắn với phong tục, tập
quán của các dân tộc thiểu số)
Cộng đồng dân cư được giao loại đất này phải có trách nhiệm bảo vệ diện
tích đất được giao, không được chuyển sang sử dụng vào mục đích khác.
Các loại đất nông nghiệp còn lại được giao sử dụng có thời hạn: Đất trồng
cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối giao cho hộ gia đình, cá
nhân sử dụng có thời hạn là hai mươi năm; đất trồng cây lâu năm, đất rừng sản
xuất giao cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng trong thời hạn năm mươi năm. Sở dĩ
có sự khác nhau về thời hạn giao đất như vậy là nhằm bảo đảm quyền lợi và tạo
điều kiện thuận lợi cho người sử dụng đất yên tâm lao động sản xuất trên mảnh
đất được giao. Việc quy định thời hạn sử dụng đất được giao một cách rõ ràng
như vậy cũng giúp người sử dụng đất có kế hoạch sử dụng đất được giao sao
cho có hiệu quả nhất.
SVTH: Nguyễn Thị Hạnh Địa chính K44

2424
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Hạn mức giao đất nông nghiệp cũng được quy định rõ tại Điều 70 - Luật
đất đai 2003.
Ngoài hình thức giao đất cho hộ gia đình, cá nhân, tổ chức sử dụng đất,
Nhà nước còn cho thuê đất để đáp ứng nhu cầu sử dụng đất. Việc thu tiền thuê
đất được thực hiện theo hai phương thức: thu tiền thuê hàng năm hoặc thu tiền
thuê đất một lần cho cả thời gian thuê. Hầu hết các trường hợp cho thuê đất sử
dụng vào mục đích nông nghiệp người sử dụng đất trả tiền thuê đất hàng năm,
thu tiền thuê đất một lần áp dụng với trường hợp: “Người Việt Nam định cư ở
nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài thuê đất để thực hiện dự án đầu tư sản
xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối”. Thời hạn cho
thuê đất trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản, làm muối, đất trồng cây lâu
năm đất rừng sản xuất cũng tương tự như giao đất. Hết thời hạn giao, cho thuê
đất nếu có nhu cầu tiếp tục sử dụng. chấp hành đúng pháp luật về đất đai trong

quá trình sử dụng, đất đó phù hợp với quy hoạch, người sử dụng đất sẽ được
Nhà nước tiếp tục giao đất, cho thuê đất.
Những quy định về thuê đất được cụ thể hóa trong các Điều 31, 32, 35, 67 –
Luật đất đai 2003.
4.2. Thu hồi đất nông nghiệp.
Luật đất đai 2003 quy định: “Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định
hành chính để thu lại quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức,
UBND xã, phường, thị trấn quản lý theo quy định của Luật đất đai” hay nói cách
khác là việc chấm dứt quyền sử dụng đất của người được Nhà nước giao đất,
cho thuê đất. Luật đất đai 2003 đã có riêng một mục về thu hồi đất. Trong đó nói
rõ các trường hợp thu hồi đất, bồi thường, tái định cư cho người bị thu hồi đất
cho đến thẩm quyền thu hồi đất. Thu hồi đất là vấn đề vô cùng phức tạp bởi nó
liên quan đến lợi ích của rất nhiều đối tượng: người bị thu hồi đất, đơn vị sẽ sử
dụng đất bị thu hồi, cơ quan Nhà nước có trách nhiệm thu hồi đất…Vì vậy, vấn
đề này được dư luận nói đến rất nhiều và cũng có nhiều văn bản ban hành hướng
dẫn thực hiện những quy định về thu hồi đất. Khi Nhà nước thu hồi đất mà
người bị thu hồi đất có GCN quyền sử dụng đất hoặc đủ điều kiện để được cấp
GCN thì được bồi thường. Chính phủ đã ban hành Nghị định 197/2004/CP ngày
03/12/2004 về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Đối với
đất nông nghiệp “hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp khi Nhà nước
SVTH: Nguyễn Thị Hạnh Địa chính K44

2525

×