Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Tài liệu bồi dưỡng học sinh năng khiếu ngữ văn 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.2 KB, 31 trang )

BỒI DƯỠNG HỌC SINH NĂNG KHIẾU NGỮ VĂN 9
BỒI DƯỠNG HỌC SINH NĂNG KHIẾU NGỮ VĂN 9
I.Các phương diện của hình thức nghệ thuật cần chú ý khai thác khi phân tích tác
phẩm văn học:
1. Dấu câu và cách ngắt nhịp:
- Trong những tình huống giao tiếp thông thường của cuộc sống, im lặngnhiều khi lại
nói được rất nhiều: Căm thù tột đỉnh, xao xuyến bâng khuâng, khi cô đơn buồn bã, lúc
xúc động trào dâng. Những cung bậc tình cảm này nhiều khi không nói được thành
lời.Dấu câu và sự ngắt nhịp là 1 trong những phương tiện hữu hiệu đã thể hiện sự im
lặng không lời Dấu câu có chức năng quan trọng là tạo nên “ý tại ngôn ngoại”, gợi ra
những điều mà từ không nói hết. nhất là trong thơ. Thật khó mà dùng ngôn từ để diễn tả
sự im lặng và xúc động thiêng liêngđén tận cùng, giây phút Bác Hồ trở về tổ quốc sau 30
năm xa cách bằng mấy dáu câu trong đoạn thơ:
Ôi! Sáng xuan nay, xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về im lăng. Con chim hót.
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ
(Tố Hữu- Theo chan Bác)
Cau thơ của Chế lan Viên “ đất nước đẹp vô cùng. Nhưngbác phải ra đi” (Người đi tìm
hình cứu nước) nếu đọc liền một mạch sẽ làm mất đibao nhiêu sưc gợi cảm sâu lắng,
thiết tha, một sự nuối tiếc đến xót xa do dâu chấm giữa dòng tạo nên ấy.
- Nhịp điệukhông chỉ là để tách ý,tách nghĩa mà cònthể hiện thế giới nội tâm của nhà
thơ, phần k mô tả được thành lời. Nhịp điệu ngắt do dấu cau, nhưng nhiều khi nó còn
được ngắt bằng 1 sự nhận thức tổng hợp, đôi khi phưc tạp, k có dấu câu. Trong
trường hợp này nhiều khi câu thơ được hiểu theo nhiều nghiã do cách ngắt nhịp khác
nhau.
Ví dụ câu thơ của Tố Hữu “càng nhìn ta lại càng say”,có thể ngắt nhịp 2/4,cũng có thể
ngắt nhịp 3/3
nhiều trường hợp, sự xuống dòng liên tục, sự ngắt nhịp liên tục, đột ngột của tác
giả có 1 dụng ý, một tác dụng sâu sắctrong việc thể hiện nội dung. Câu thơ “Màu tím hoa
sim tím chiều hoang biền biệt” được Hữu loan xé thành 6 dòng thơ:


Màu tím hoa sim
Tím
chiều
hoang
biền
biệt
Ở bài thơ này nhiều câu thơ được xé ra như thế. cả bài thơ vỡ vụn đã thể hiện nỗi đau tan
nát, tiếng khóc đứt đoạn, nghẹn tăc, hạnh phúc tan thành nhiều mảnh, đứt ra nhiều đoạn,
không gì hàn gắn nổi. Tất nhiên k phải sự xé nát bài thơ nào cũng có giá trị.
Khi tiếp xúc với TPVH, nhất là khi đọc bằng mấtt cần lưu ý đến dấu câu và cách ngắt
nhịp.
Đối với văn xuôi, dấu câu và cách ngắt nhịp cũng rất quan trọng:
So sánh 2 đoạn văn sau:
BỒI DƯỠNG HỌC SINH NĂNG KHIẾU NGỮ VĂN 9
Đoạn 1: “Hàng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không
có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại náo nức những kỉ niệm miên man của buổi tựu
trường.
Tôi quên thế nào được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy
cánh hoa tươi mĩm cười giữa bầu trời quang đảng”. (Thanh Tinh - Tôi đi hoc)
Đoạn 2: “Không được! Ai cho ta lương thiện? Làm thế nào cho mất được những
mãnh chai trên mặt này? Tao k thể làm người lương thiện nữa. Biết không! Chỉ có một
cách biết không! Chỉ còn một cách là cái này! Biết không!
Hắn rút dao ra, xông vào.Bá Kiến ngồi nhổm dậy, Chí phèo đã văng dao tới rồi”.
(Chí Phèo - Nam Cao)
 Hai đoạn văn có độ dài tương đương, nhưng cách sử dụng dấu câu và nhịp điệu thì
khác hẳn:
- Đoạn thứ nhất chỉ có 2 câu, hai dấu chấm và 2 dấu phẩy. nhịp điệu câu văn nhẩn nha,
không gâp sgáp vội vàng. Ngữ điệu câu văn không có gì căng thẳng. Cả đoạn văn là
tiếng nói thì thầm, nhẹ như lá rụng cuối thu, lãng đãng như mây bạc ngang trời Tất
cả nhằm diễn tả tâm trạng, một hồi ức, một tấm lòng đang náo nức những kỉ niệm

miên man của buổi tựu trường.
- Đoạn 2: Được chia làm 9 câu, rất nhiều đấ ngắt: 5 dấu cảm thán, 2 dấu chấm hỏi, 4
dấu chấm lửnh, 3 dấu phẩy,2 dấu chấm. Rõ ràng nhịp điệu câu văn nhanh hơn, gấp
gáp hơn. Ngữ điệu cũng căng thẳng dồn nén hơn đoạn trước. Cùng sự cộng hưởng
của ngữ nghĩa do các từ các hình ảnh tạo nên  tái hiện một cuộc đối mặt đầy căng
thẳng, quyết liệt và giàu kịch tính.
Không thể đọc nhanh và gấp gáp với đoạn văn của Thanh Tịnh. Cũng không thể đọc
nhẩn nha nhỏ nhẹ đối với đoạn văn của Nam cao.
Truyện Kiều: "Hình tam giác muôn đời"
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã để cho Thuý Kiều bắt đầu cuộc đời mình bằng những
vần thơ đẹp nhất, xúc động nhất trong khi gặp Kim Trọng. Cái buổi đi tảo mộ, tiết Thanh
Minh "Gặp tuần đố lá thỏa lòng tìm hoa" ấy, đó là cơ hội cho Kim Trọng, chàng trai mới
lớn "Phong tư tài mạo tuyệt vời
Vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa" ấy, nghĩa là anh chàng thanh niên đẹp trai, "văn
chương nết đất thông minh tính trời" con nhà gia giáo ấy đã gặp chị em Kiều, con nhà
khuê các. Cả ba đều là những người ra đời và lớn lên trong gia đình nền nếp của xã hội đã
gặp gỡ và yêu nhau.
Trước khi có cuộc gặp gỡ này, Kim Trọng đã nghe dư luận về tài sắc của hai người con
gái nhà Vương ông, tuy không phải là xa xôi lắm nhưng cũng chưa từng được gặp. "Trộm
nghe thơm nức hương lân". Hương thơm hay những điều tốt đẹp về những người hàng
xóm: Hương lân - có hai người con gái xinh đẹp, ngoan. "Một đền đồng tước khóa xuân
hai Kiều". "Hai Kiều" chứ không phải là một người. Nghĩa là Kim Trọng cũng chưa biết
ai với ai nhưng là một thiếu niên mới lớn, như bao thiếu niên khác, chàng đã "trộm nhớ
thầm yêu".
BỒI DƯỠNG HỌC SINH NĂNG KHIẾU NGỮ VĂN 9
Yêu ai? Yêu cả hai nàng Kiều. Khi đã gặp nhau, đã trông thấy "Bóng hồng nhác thấy nẻo
xa". Từ xa Kim Trọng trông thấy bóng hồng, hai cô gái và thấy cả hai người đều xinh
đẹp. Nguyễn Du để cho Kim Trọng nhận xét:
"Xuân lan, thu cúc mặn mà cả hai
Người quốc sắc, kẻ thiên tài"

Là nhận xét chung về hai nàng Kiều chứ lúc này Kim Trọng chưa phân biệt ai là Thúy
Kiều, ai là Thúy Vân. Và ai trong hai chị em Thuý Kiều và Thuý Vân đã để ý đến anh
chàng đẹp trai - bạn của Vương Quan. Tuổi thiếu niên thường mơ mộng, nhiều khi đến
buồn cười. Tình yêu ở lứa tuổi này thường mới chỉ là cảm tính. Nguyễn Du với ngòi bút
viết về tâm lý kỳ diệu đã nhiều trường hợp xử lý nhân vật của mình làm chúng ta kinh
ngạc. Ở đây ông đã miêu tả thành công tâm lý, tình cảm của cái tuổi "đến tuần cập kê"
hay tuổi teen như bây giờ các em thiếu niên vẫn nhận. Vốn cái tuổi mơ mộng, hai cô con
gái nhà Vương ông được học hành, có hiểu biết đã rạo rực, tò mò, say sưa trước bất kỳ
người con trai nào như Kim Trọng - Một văn nhân:
"Đề huề lưng túi gió trăng.
Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời".
Từ cái nhìn đầu tiên ấy, dù mới thoáng qua, với bản năng của người con gái là e thẹn, và
bản năng tình cảm của người con gái tuổi yêu là rụt rè, nhất là trong cảnh "Một vùng như
thể cây quỳnh, cành dao". Nhưng nếu là người dưng, xa lạ thì bất cứ cô con gái nào cũng
sẽ đĩnh đạc ra chào bạn của em trai mình chứ việc gì phải e lệ, phải nép vào dưới hoa nếu
không có rung động tình cảm, không có ý tứ gì.
Nhưng lúc đó Nguyễn Du đã để cho hai người con gái cùng để ý đến Kim Trọng, rung
động trước Kim Trọng. Và chính vì vậy Nguyễn Du viết "Hai Kiều e lệ nép vào dưới
hoa" chứ không phải "Thuý Kiều e lệ" hay "Thúy Vân e lệ". Dù viết như thế này vẫn bảo
đảm cho câu thơ 8 chữ (bát) đúng và hay. Đứng trước hai người đẹp ấy, chàng thiếu niên
mới lớn đã rạo rực ngọn lửa tình nhưng vẫn sợ sệt, không dám để bộc lộ ra.
Nguyễn Du viết: "Người quốc sắc kẻ thiên tài". "Kẻ thiên tài" ở đây là Kim Trọng,
"người quốc sắc" là ai? Nguyễn Du không khẳng định là chị hay là em. Lâu nay ta vẫn
cho rằng "Người quốc sắc, kẻ thiên tài. Tình trong như đã mặt ngoài còn e" là nói về tình
cảm giữa Thuý Kiều và Kim Trọng. Người quốc sắc là Thuý Kiều nhưng xét trên văn bản
và hoàn cảnh cụ thể khẳng định như vậy là không đúng. Chỉ có thể thấy anh chàng Kim
Trọng đã ngây ngất trước hai Kiều đến nỗi "chập chờn cơn tỉnh cơn mê", đến nỗi "rốn
ngồi chẳng tiện dứt về chỉn khôn"…
Rồi thì chàng Kim Trọng cũng phải về khi bóng tà buổi chiều đang đến, chàng phải về
thôi, để xảy ra cảnh "Khách đà lên ngựa người còn ghé theo". Đến đây càng không thể

khẳng định là ai trong hai nàng Kiều yêu Kim Trọng. Nguyễn Du không viết "Khách đà
lên ngựa, Kiều còn ghé theo". Viết như vậy hợp vần, vần bằng cho câu thơ lục bát, không
sai vần, hay, nhưng nhà thơ vĩ đại của chúng ta lại dùng danh từ chung "người".
BỒI DƯỠNG HỌC SINH NĂNG KHIẾU NGỮ VĂN 9
Người có thể là hai chị em Thuý Kiều, Thuý Vân. Cả hai, e ấp ngượng ngùng "ghé" nhìn
theo Kim Trọng khi chàng lên ngựa chia tay, chứ đâu có phải chỉ một mình Thuý Kiều
"ghé theo"…
Từ câu "Chàng Kim từ lại thư song. Nỗi nàng canh cánh bên lòng biếng khuây", viết về
tâm trạng của Kim Trọng sau buổi gặp gỡ ấy Nguyễn Du vẫn viết là nỗi nàng - một danh
từ chung, chỉ người con gái nói chung mà ông không chỉ rõ là nàng nào. Ông không
khẳng định "Nỗi Kiều canh cánh…" trong lòng Kim Trọng. Ông diễn tả nỗi lòng và tâm
trạng của anh chàng mới bước vào tình yêu. Thổn thức, chờ đợi, thấp thỏm "Mặt tơ tưởng
mặt lòng ngao ngán lòng" nhưng là tơ tưởng mặt ai không rõ.
"Hương gây mùi nhớ" - Hương thơm trong vườn "gây" mùi nhớ nhung, nhớ mùi của
Thúy Kiều hay Thuý Vân? Không rõ. Để rồi "bâng khuâng nhớ cảnh nhớ người". Nhớ
người nào không rõ… vừa yêu vừa nhớ bâng khuâng nhưng trong trạng thái chưa rạch ròi
nên anh chàng tìm cách "xăm xăm tìm nẻo Lam Kiều tìm sang" để gặp cho được - không
phải chỉ để gặp Thúy Kiều mà còn là để gặp Thúy Vân nữa chứ.
Đến câu 286, anh chàng si tình sau khi tỏ ra thông minh, lấy cớ thuê nhà của nhà Ngô
Việt thương gia. "Phòng không để đó người xa chưa về" để ở trọ học nhưng vẫn "Tịt mù
nào thấy bóng hồng vào ra" chờ không thấy bóng hồng (danh từ chung chỉ con gái, đàn
bà) chứ có phải là chờ Kiều đâu…
Kim Trọng chỉ có chờ đợi ở bên nhà hàng xóm để rồi dịp may ngẫu nhiên xảy ra "Cách
tường phải buổi êm trời Dưới đào dường có bóng người thướt tha".
Lại vẫn là "bóng người" - một danh từ chung chứ không phải là "bóng Kiều thướt tha".
Nghĩa là Kim Trọng vẫn chưa biết là bóng ai. Thuý Kiều hay Thuý Vân, chỉ có "Hương
còn thơm nức người đà vắng tanh". Hương ai chàng vẫn chưa biết. Rồi bất ngờ Kim
Trọng "Trên đào nhác thấy một cành kim thoa" mà vẫn không biết là kim thoa của ai
đánh mất chàng tự hỏi mình: "Này trong khuê các đâu mà đến đây. Ngẫm âu người ấy
báu này". Có lẽ của "báu" này là của "người ấy" mà không biết người ấy là Kiều hay

Vân.
Nếu cái cành thoa vương trên cành đào ấy là của Thúy Vân, và Thúy Vân đi tìm thì cuộc
tình của Kim Trọng sẽ xảy ra với Thúy Vân chứ đâu với Thuý Kiều…
Mãi đến câu 307 Nguyễn Du mới cho ta biết người đi tìm thoa là Thuý Kiều:
"Tiếng Kiều nghe lọt bên kia,
Ơn người quân tử sá gì của rơi"
Nhưng lúc này Kiều vẫn ở bên kia tường nói vọng sang và Kim Trọng vẫn chưa thấy mặt
vẫn chưa biết là ai. Sau khi về nhà lấy thêm "Xuyến vàng đôi chiếc, khăn là một vuông"
để làm quà cho người đẹp, Kim Trọng "Bực mây dón bước ngọn tường" rướn người nhìn
qua tường, bây giờ Kim Trọng mới thấy người đi tìm cành thoa: "Phải người hôm nọ rõ
ràng chẳng nhe". Hôm nọ chính là hôm gặp nhau ở hội Đạp Thanh, ở lễ tảo mộ:
BỒI DƯỠNG HỌC SINH NĂNG KHIẾU NGỮ VĂN 9
"Sượng sùng giữ ý rụt rè,
Kẻ nhìn rõ mặt người e cúi đầu"
"Kẻ nhìn" (Kim Trọng), rõ mặt (Thúy Kiều), người (Thúy Kiều), e (lệ) cúi đầu, và Kim
Trọng "Dừng chân gạn chút niềm tây gọi là" mới có cuộc nói chuyện riêng đầu tiên với
Thúy Kiều.
Và từ câu 307 trở đi mới là quan hệ giữa Kim Trọng với Thúy Kiều…
Thúy Kiều gặp gỡ Kim Trọng là cái đêm cả nhà Vương ông về sinh nhật ông bà ngoại.
Cả ông bà, Thúy Vân, Vương Quan đều đi, ở nhà còn có một mình Thúy Kiều. Đêm trao
duyên, hò hẹn của Thúy Kiều và Kim Trọng không ai biết. Thời gian quá ngắn, vì ngay
hôm sau Kim Trọng nhận được tin chú mất phải về Liêu Dương hộ tang, phải đi ngay.
Chỉ khi Thúy Kiều bộc bạch kể lại chuyện tình cảm của nàng cho Thúy Vân thì Thuý
Vân mới biết. Thậm chí ngay khi cơn gia biến xảy ra, Kiều đã buộc phải bán mình để
chuộc cha, nàng đau đớn đến thổn thức, xót xa cho mối tình dang dở: "Một mình nương
ngọn đèn khuya. Áo dầm giọt lệ tóc se mái đầu" thì Thúy Vân vẫn ngủ, bởi nàng đâu biết
giữa chị mình và Kim Trọng đã có hẹn hò thề thốt cho nên nàng mới thắc mắc:
"Cớ chi ngồi nhẫn tàn canh,
Nỗi riêng còn mắc mối tình chi đây"
Bởi sau cái buổi đi chơi xuân "tiết tháng ba" ấy, nàng cũng đã có cảm tình, nàng cũng đã

có tình có ý với cái chàng thanh niên "Phong tư tài mạo tuyệt vời" ấy, với người "phong
nhã", "hào hoa", trong lòng nàng đã có bóng dáng của Kim Trọng, chẳng qua là chưa có
dịp gặp lại, không có cơ hội gặp lại mà thôi.
Cho nên khi nghe chị kể lại chuyện tình của mình, cũng là vì nghĩa, em giúp chị trả nợ
tình nhưng nếu vì nghĩa không đủ đảm bảo cho Thuý Vân cùng Kim Trọng về sau có một
gia đình hạnh phúc "Một cây cù mộc đầy sân quế hòe”. Cái quan trọng nhất ngoài nghĩa
với chị mình là nàng có tình yêu với Kim Trọng nên nàng đã dễ dàng nhận lời chị uỷ thác
cho.
Chuyện tình cảm, chuyện con tim chứ không phải chuyện nợ nần vật chất để Thúy Vân
phải chỉ "vì nghĩa", vì trách nhiệm mà trả nợ thay chị. Nếu quả thật Thúy Vân không yêu
Kim Trọng, đã không "nép vào dưới hoa" khi Kim Trọng đến, không phải là "người còn
ghé theo" khi Kim Trọng chia tay hai tháng trước thì có trói cổ nàng xích lại nàng cũng
không dễ dàng nhận lời yêu Kim Trọng đến vậy. Và cũng nhờ vậy mà chỉ 6 tháng sau
ngày Thúy Kiều đau đớn kêu lên: "Ôi Kim Lang hỡi Kim Lang. Thôi thôi thiếp đã phụ
chàng từ đây" Thuý Vân đã lên xe hoa với Kim Trọng và chàng Kim đón Vương ông
Vương bà về phụng dưỡng là đón bố mẹ vợ mình (chứ không phải như nhiều người ca
ngợi hành động này của Kim Trọng là chưa cưới Thúy Kiều đã đón ông bà họ Vương về
phụng dưỡng).
Chính vì Thuý Vân và Kim Trọng có tình yêu với nhau nên họ đã có một gia đình đầm
ấm, hạnh phúc: "Người yểu điệu, kẻ văn chương. Trai tài gái sắc xuân đương vừa thì"
BỒI DƯỠNG HỌC SINH NĂNG KHIẾU NGỮ VĂN 9
Thời gian trôi đi, gia đình nàng hạnh phúc nhưng Vân vẫn biết chồng mình vẫn yêu chị
mình. Có sao đâu, cuộc đời là vậy, chưa một lần nàng thắc mắc, chưa bao giờ nàng ghen.
Bởi bản tính hiền lành, bởi nghĩa với chị, chứ thực ra "Chồng chung chưa dễ ai chiều cho
ai". Trong mối tình tay ba này, nàng bị động, nhưng do hoàn cảnh mà trở thành chủ động.
Và người biết rất rõ tình cảm giữa em mình và Kim Trọng chính là Thuý Kiều. Vì Thúy
Kiều biết rất rõ tình cảm của em gái với Kim Trọng nên trong suốt 15 năm lưu lạc nhiều
lần nàng nghĩ về hai người nhưng chỉ nghĩ đến những điều tốt đẹp, trôi chảy, không sợ
điều gì bất trắc cho em gái và Kim Trọng, như nhớ về cha mẹ với những lo lắng, xót xa…
Rồi đến cảnh đoàn viên cuối truyện, sau bao truân chuyên, Thúy Kiều gặp lại gia đình,

gặp lại cha mẹ, gặp các em và "Nọ chàng Kim đó là người ngày xưa". Ai cũng mừng,
cũng vun vén cho mối tình của nàng và Kim Trọng. Thúy Vân em gái nàng và là vợ Kim
Trọng đã là người đầu tiên đặt vấn đề:
"Quả mai ba bảy đang vừa
Đào non sớm liệu xe tơ kịp thì",
Nhưng ngoài Vân ra thì chỉ có một mình Thúy Kiều hiểu thực chất của mối tình đó. Dù
Kim Trọng thuyết phục nàng bằng nhiều lý do rất chính đáng. Thúy Kiều đã từ chối với
nhiều lý do về đạo vợ chồng phải "hoa thơm phong nhị trăng vòng tròn gương" rằng
chuyện "cửa nhà dù tính về sau", "thì còn em đó lọ cầu chị đây" v.v nhưng tất cả những
thuyết phục đó xem ra chỉ là lý do để cho quyết định cuối cùng là Thúy Kiều không lấy
Kim Trọng
TS Lê Đình Cúc
HỘI THOẠI và ĐỐI THOẠI
TRONG TRUYỆN KIỀU
PHẠM ĐAN QUẾ
I. HỘI THOẠI TRONG TRUYỆN KIỀU
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du tập trung ngòi bút của mình vào nhân vật chính là Thúy
Kiều. Ngay cả với Kim Trọng, ông cũng chỉ nói đến việc chàng trở lại vườn Thúy sau
khi kể xong về cuộc đời Kiều trong suốt 15 năm lưu lạc. Đối với những gì không liên
quan tới việc thể hiện tính cách của Thúy Kiều, không phục vụ cho việc biểu hiện tình
cảm nhân đạo cao cả của ông đối với nàng thì Nguyễn Du hoàn toàn gạt bỏ.
Ngoài nhân vật chính, Nguyễn Du lại xây dựng được hàng loạt nhân vật có cá tính và đã
trở thành những nhân vật điển hình trong văn học: Kim Trọng, Từ Hải, Thúc Sinh, Hoạn
Thư, Tú Bà, Sở Khanh, Mã Giám Sinh Ngay cả những nhân vật tưởng như rất phụ chỉ
được nêu ra trong một số ít câu thơ, ông cũng để lại cho người đọc những hình ảnh khó
quên.
Như trong quyển Truyện Kiều đối chiếu, chúng tôi đã lập bản so sánh thì thấy cả hai hồi
V, VI trong cuốn Kim Vân Kiều Truyện dài tới 40 trang trong bản dịch của Viện Văn
học, Nguyễn Du cũng chỉ viết có 20 câu thơ chen vào đoạn tả việc Kiều quyết định bán
BỒI DƯỠNG HỌC SINH NĂNG KHIẾU NGỮ VĂN 9

mình ở đoạn trước. Trong tác phẩm của mình, Nguyễn Du đã lược bỏ tới hai phần ba của
nguyên truyện: từ phần hoàn thành thủ tục hôn thú của Kiều với Mã Giám Sinh, cuộc
vận động và quá trình Thúc Sinh chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh của Tú Bà, các trận đánh
giữa quân của Từ Hải với quan quân của triều đình, quá trình Hồ Tôn Hiến dụ hàng
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du sử dụng lại cách kể của Thanh Tâm Tài Nhân mà câu
chuyện diễn biến theo dòng thời gian đơn tuyến cũng vì đó là cách kể phổ biến trong các
Truyện thơ Việt Nam thời bấy giờ. Tuy nhiên, ông loại bỏ hẳn một loạt nhân vật như Bộ
Tân, Vệ Hoa Dương, người bảo trợ cho Thúc sinh chuộc lại Thúy Kiều, một loạt các
tướng sĩ của Hồ Tôn Hiến
Tuy có giữ lại những sự việc, biến cố, nhân vật nhưng Nguyễn Du đã thay đổi thứ tự
cách trình bày và thêm nhiều tình tiết, nhất là những đoạn tả tâm lý và thiên nhiên để tập
trung cho việc thể hiện nhân vật trung tâm của mình. Muốn thấy rõ được việc Nguyễn
Du tập trung vào nhân vật Thúy Kiều, ta chỉ cần nêu hai điểm sau đây:
–Trong Truyện Kiều có 73 cuộc thoại và 33 lần độc thoại nội tâm thì riêng Thúy Kiều đã
nói tới 76 lượt lời trong 45 cuộc thoại với 512 câu thơ và độc thoại nội tâm 18 lần với
130 câu thơ. Nghĩa là trong 3.254 câu Kiều thì tác giả đã dành riêng cho nhân vật chính
642 câu chỉ để tả lời ăn tiếng nói của nàng (hoặc trong lúc trò chuyện với các nhân vật
khác hoặc trong những lúc nàng tự nhủ mình): gần một phần năm tác phẩm.
– Chỉ đề tả 6 lần Thúy Kiều đánh đàn mà Nguyễn Du cũng đã dành tới 104 câu thơ trong
đó riêng 2 lần đàn cho Kim Trọng nghe lúc đầu và cuối truyện đã có: 34 + 24 = 58 câu.
Cho nên nhân dân ta đặt tên cho tác phẩm của Nguyễn Du là Truyện Kiều cũng không
phải là không có lý do.
Lời của các nhân vật chiếm tới 1.212 dòng thơ đối thoại tức một phần ba tác phẩm. Nếu
kể cả 211 dòng độc thoại nội tâm thì có tới 1.423 dòng thơ trên 3.254 tức 43,7% dành
cho hội thoại. Đây chính là đặc trưng của tiểu thuyết hiện đại bởi qua đó tính cách nhân
vật được bộc lộ một cách trực tiếp. Với tỉ lệ lời thoại cao nên kịch tính cao và Truyện
Kiều mang tính chất khá hiện đại. Trong quyển Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong
Truyện Kiều, giáo sư Phan Ngọc đã phải dành hẳn một chương viết về tính chất kịch
trong truyện với nhan đề: Cách bố cục Truyện Kiều theo yêu cầu của kịch là vì vậy. Cho
nên, nghiên cứu hội thoại trong Truyện Kiều là một vấn đề khá thú vị. Trong chương

này, chúng tôi sẽ trình bày vấn đề và dùng các thuật ngữ trong quyển Ngữ dụng học của
Nguyễn Đức Dân (NXB Giáo dục –1998), đặc biệt là trong chương 3: Hội thoại, như các
thuật ngữ: song thoại, tam thoại, đa thoại, cuộc thoại, lượt lời, cặp thoại, mở lời, thân
thoại, kết thoại. Chúng tôi chỉ thay đổi thuật ngữ “độc thoại” bằng đơn thoại để tránh
nhầm lẫn và thêm một thuật ngữ nữa là số lần thoại: Đó là số lần độc thoại và hội thoại.
Nói đến hội thoại, ta cũng nên đề cập đến cấu tạo của từ hội thoại trong Truyện Kiều,
không chỉ trong lời thoại của nhân vật mà ngay trong ngôn ngữ tác giả. Ở đây ta có thể
nêu đủ các kiểu cấu tạo từ hội thoại như thêm, bớt, thay đổi yếu tố:
– yếu tố đa phong cách cộng với yếu tố không có nghĩa khi đứng riêng thành từ hội thoại
mang tính miêu tả cụ thể và sắc thái bình giá âm tính như bạc phau, đen rầm trong:
0911. Nàng thì dặm khách xa xăm,
Bạc phau cầu giá, đen rầm ngàn mây,
– yếu tố đa phong cách cộng với yếu tố đa phong cách có nghĩa không tương hợp với
nghĩa của yếu tố thứ nhất thành từ hội thoại mang tính miêu tả cụ thể (mang ý nhấn
mạnh) có sắc thái bình giá âm tính như nông sờ, tròn trặn, tìm tõi, nhắn nhe
BỒI DƯỠNG HỌC SINH NĂNG KHIẾU NGỮ VĂN 9
– yếu tố đa phong cách hai âm tiết cộng với yếu tố lặp lại một bộ phận của yếu tố thứ
nhất thành từ hội thoại mang sắc thái bình giá âm tính như lạ nước, lạ non, ăn xổi ở thì
– yếu tố đa phong cách cộng với yếu tố định ngữ có tính ẩn dụ thành từ hội thoại mang
tính miêu tả cụ thể, khoa trương và sắc thái bình giá âm tính như sạch sành sanh, sạch
làu làu
– tạo thành từ hội thoại nhờ ẩn dụ hoặc hoán dụ, thành từ hội thoại mang tính miêu tả cụ
thể và sắc thái bình giá âm tính như Dễ lòa yếm thắm trôn kim – Làm chi bưng mắt bắt
chim khó lòng
II. ĐƠN THOẠI.
Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan trọng nhất của con người. Trong giao tiếp, có giao
tiếp một chiều và giao tiếp hai chiều. Trong giao tiếp một chiều chỉ có một bên nói còn
bên kia tiếp nhận, không phát biểu. Hình thức này thường gặp ở những mệnh lệnh, lời
khấn và ngày nay trong diễn văn và lời của các xướng ngôn viên truyền thanh – truyền
hình. Vậy là đơn thoại khi chỉ có một nhân vật phát biểu còn các nhân vật khác chỉ nghe

hoặc không phát biểu, một người nói ra thành lời có người nghe nhưng không có lời đáp
lại. Còn độc thoại dành cho nhân vật kịch nói một mình, hoàn toàn khác với độc thoại
nội tâm là lời tự nhủ, tự mình nói với mình của các nhân vật sẽ được trình bày ở sau.
Trong 31 lần đơn thoại của Truyện Kiều thì 11 lần là của Thúy Kiều. Lần đầu tiên, nàng
chỉ nói có một câu:
0605. Quyết tình nàng mới hạ tình:
– “Rẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha!”.
Lần thứ hai là 14 câu nàng tâm sự với mẹ khi “Một nhà huyên với một Kiều ở trong”:
0877. – “Hổ sinh ra phận thơ đào,
“Công cha nghĩa mẹ kiếp nào trả xong!
0879. “Lỡ làng nước đục bụi trong,
“Trăm năm để một tấm lòng từ đây
Thúy Kiều nói nàng xấu hổ vì sinh ra là phận gái, không biết kiếp nào mới đền ơn được
cha mẹ, bây giờ đã lỡ chỉ còn biết để lại tấm lòng thương nhớ cho cha mẹ.
0881. “Xem gương trong bấy nhiêu ngày,
“ Thân con chẳng kẻo mắc tay bợm già.
0883. “Khi về bỏ vắng trong nhà,
“Khi vào dùng dắng, khi ra vội vàng.
0885. “Khi ăn khi nói lỡ làng,
“Khi thầy khi tớ, xem thường xem khinh,
0887. “Khác màu kẻ quý người thanh,
“Ngẫm ra cho kỹ như hình con buôn
Nhận xét của Thúy Kiều rất có cơ sở, nếu ta chú ý đến 22 câu thơ tả đoạn độc thoại nội
tâm của Mã giám sinh (0823–0844) thì thấy quả là hắn quá dùng dắng trước khi vào
phòng Thúy Kiều, để khi ra lại quá vội vàng nên mới có cảnh:
0849. Đêm xuân một giấc mơ màng,
Đuốc hoa để đó mặc nàng nằm trơ.
mà kết thúc là nàng đành phó mặc cho số mệnh, sống chết nơi quê người:
0889. “Thôi con còn nói chi con,
“ Sống nhờ đất khách thác chôn quê người!”

Vương bà đã phải lặng người đi vì đau đớn:
BỒI DƯỠNG HỌC SINH NĂNG KHIẾU NGỮ VĂN 9
0891. Vương bà nghe bấy nhiêu lời,
Tiếng oan đã muốn vạch trời kêu lên.
Lần thứ ba đơn thoại trong Truyện Kiều lại là lời khấn của Tú bà mong cho cửa hàng đắt
khách:
0941. – “Cửa hàng buôn bán cho may,
“Đêm đêm Hàn thực, ngày ngày Nguyên tiêu.
0943. “Muôn nghìn người thấy cũng yêu,
“Xôn xao anh yến, dập dìu trúc mai.
0945. “Tin nhạn vẫn, lá thư bời,
“Đưa người cửa trước, rước người cửa sau!”
Tuy lời khấn của mụ Tú bà chỉ gồm có 6 câu mà ta cũng thấy có 4 lần tác giả dùng sóng
đôi cú pháp : Một lần tiểu đối 3–3 và ba lần tiểu đối 4–4, đều là những câu bát cắt đôi,
lời khấn cũng thực là nghiêm chỉnh và bài bản bởi mụ đã thuộc lòng. Những lần tiếp
theo là lời báo mộng của Đạm Tiên hẹn gặp Kiều ở sông Tiền Đường:
0995. Rỉ rằng: –“Nhân quả dở dang,
“Đã toan trốn nợ đoạn trường được sao?
0997. “Số còn nặng nghiệp má đào,
“Người dầu muốn quyết, trời nào đã cho.
0999. “Hãy xin hết kiếp liễu bồ,
“Sông Tiền Đường sẽ hẹn hò về sau.”
Rồi lời tỏ tình bâng quơ của Sở Khanh nhằm lừa gạt Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích:
1065. – “Than ôi sắc nước hương trời,
“Tiếc cho đâu bỗng lạc loài đến đây?
1067. “Giá đành trong nguyệt trên mây,
“Hoa sao hoa khéo đoạ đầy bấy hoa?
1069. “Nổi gan riêng giận trời già,
“Lòng này ai tỏ cho ta hỡi lòng?
1071. “Thuyền quyên ví biết anh hùng,

“Ra tay tháo cũi sổ lồng như chơi!”.
Rồi Thúc sinh 1395–1402, Hoạn thư với 4 lần: 1558 – 1560, 1583–1588, 1599–1560,
1690– 1620. Tiếp theo là Thúc sinh 1678–1682, Thầy số đoán vận mệnh của Thúy Kiều
cho Thúc sinh nghe: 1692–1698 Riêng Hoạn bà mắng nhiếc Thúy Kiều rồi lại ra lệnh
đánh đòn cũng là một đơn thoại lời lẽ hết sức “buông tuồng”:
1727. Bất tình nổi trận mây mưa,
Diếc rằng: – “Những giống bơ thờ quen thân.
1729. “Con này chẳng phải thiện nhân,
“Chẳng phường trốn chúa thì quân lộn chồng.
1731. “Ra tuồng mèo mả gà đồng,
“Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào
1733. “Đã đem mình bán cửa tao,
“Lại còn khủng khỉnh làm cao thế này!
1735. “Nào là gia pháp nọ bay!
“Hãy cho ba chục biết tay một lần!”
Và còn nhiều nữa đến những lần độc thoại cuối cùng là lời kể của ông lão họ Đô, của
Thúc sinh và của một người vô danh ở Hàng Châu với Kim Trọng về số phận của Thúy
Kiều. Ba lần đơn thoại này là điển hình về một lối kể chuyện mạch lạc khéo léo mà tầng
BỒI DƯỠNG HỌC SINH NĂNG KHIẾU NGỮ VĂN 9
tầng lớp lớp, chia ra từng đoạn cách biệt nhưng gắn bó chặt chẽ đã từng được đưa vào
sách giáo khoa giảng dạy trong nhà trường phổ thông. Những lời thoại trên chỉ là lời nói
của một nhân vật có người nghe nhưng không lời đáp lại.
III. SONG THOẠI
Trong giao tiếp hai chiều, bên này nói bên kia nghe và phản hồi trở lại. Lúc đó vai trò
của hai bên thay đổi: bên nghe trở thành bên nói và bên nói lại trở thành bên nghe. Đó là
hội thoại. Hoạt động giao tiếp phổ biến nhất, căn bản nhất của con người là hội thoại.
Hội thoại có thể chỉ gồm hai bên. Đó là song thoại. Cũng có thể có ba bên hoặc nhiều
bên, đó là tam thoại hoặc đa thoại.
Đề cập tới vấn đề hội thoại trước hết có thuật ngữ cuộc thoại, vì nói tới hội thoại là nói
tới cuộc thoại. Đó là một lần nói chuyện, trao đổi giữa những cá nhân trong xã hội, ít

nhất là hai người. Ngắn là những cuộc thoại chỉ chứa một cặp câu như: chào – chào, hỏi
– đáp, đề nghị – đồng ý, ra lệnh – vâng lệnh Một cuộc thoại có những đặc điểm nội tại
là: luân phiên lượt lời (mỗi lúc có một người nói và không nói đồng thời), sự liên kết
giữa các lượt lời để tạo sự liên kết hội thoại, mỗi cuộc thoại lại đều có một mục đích
chứa đựng một hay nhiều chủ đề.
Ngoài ra, muốn cuộc thoại thành công, mỗi bên phải tôn trọng những nguyên lý hội thoại
là nguyên lýù cộng tác và nguyên lý lịch sự.
Lấy lần song thoại cuối cùng giữa Thúy Kiều và Kim Trọng để xét: Đây là đêm động
phòng hoa chúc. Khi thấy tình hình có vẻ nghiêm trọng:
3143. Tình nhân lại gặp tình nhân,
Hoa xưa ong cũ mấy phân chung tình.
Thúy Kiều đã phải mở thoại bằng hai câu:
3145. Nàng rằng: –“Phận thiếp đã đành,
“Có làm chi nữa cái mình bỏ đi!
Chúng ta cần nhớ là trong cuộc thoại trước diễn ra rất gay go qua năm lượt lời với 63 câu
thơ, Thúy Kiều mới đồng ý cho việc làm lễ thành hôn và lần này là vấn đề mấu chốt
nhất, nàng phải tiếp tục bằng 18 câu để thuyết phục Kim Trọng:
3147. “Nghĩ chàng nghĩa cũ tình ghi,
“Chiều lòng gọi có xướng tuỳ mảy may.
3149. “Riêng lòng đã thẹn lắm thay,
“Cũng đà mặt dạn mày dày khó coi!
3161 ”Chữ Trinh còn một chút này,
“Chẳng cầm cho vững, lại dày cho tan!
3163. “Còn nhiều ân ái chan chan,
“Hay gì vầy cánh hoa tàn mà chơi?”
Tiếp đó là lời chấp nhận miễn cưỡng của chàng:
3173. “ Gương trong chẳng chút bụi trần,
“Một lời quyết hẳn, muôn phần kýnh thêm.
3175. “Bấy lâu đáy bể mò kim,
“Là nhiều vàng đá, phải tìm trăng hoa?

3177. “Ai ngờ lại họp một nhà,
“Lọ là chăn gối mới ra sắt cầm!”
Tiếp theo là lời cảm tạ của Thúy Kiều để dẫn đến đoạn thoại tiếp giữa hai người trong
lần đánh đàn cuối cùng.
BỒI DƯỠNG HỌC SINH NĂNG KHIẾU NGỮ VĂN 9
Trong nguyên lý cộng tác, mỗi người phải hướng đúng mục đích của cuộc thoại với
những phương châm về lượng (không nói thừa hoặc thiếu), phương châm chất (không
nói điều mình tin là sai hoặc không có bằng chứng chính xác) và các phương châm quan
hệ (đóng góp những điều có liên quan), phương châm cách thức (nói mạch lạc ngắn gọn,
tránh tối nghĩa mơ hồ). Đối thoại thường gồm hai yếu tố đặc trưng: trao lời và đáp lời có
sự tương tác qua lại bởi vì giao tiếp luôn luôn có mục đích. Tùy năng lực sử dụng ngôn
ngữ của mỗi người và điều kiện giao tiếp cụ thể mà sự tương tác của ngôn ngữ đối thoại
có cường độ mạnh yếu và có phạm vi ảnh hưởng về không gian rộng hẹp, thời gian ngắn
dài, số lượng đối tượng nhiều ít khác nhau vì thế lời nói có tác động khôn lường. Mở đầu
lời chấp nhận của Kim Trọng lại là mấy câu hết sức tế nhị:
3165. Chàng rằng: –“Gắn bó một lời,
“Bỗng không cá nước chim trời lỡ nhau.
3167. “Xót người lưu lạc bấy lâu,
“Tưởng thề thốt nặng cũng đau đớn nhiều.
3169. “Thương nhau sinh tử đã liều,
“Gặp nhau còn chút bấy nhiêu là tình
Nguyên lý lịch sự là đặc biệt quan trọng vì tính tế nhị lịch sự là một yếu tố tác động tới
các hiện tượng, qui luật và cấu trúc ngôn ngữ. Nó có ảnh hưởng rất lớn tới các phát ngôn
trong quá trình giao tiếp. Theo đó, phải giữ gìn thể diện cho người đối thoại, có phép lịch
sự tích cực gồm những hành vi đề cao người khác, quan tâm tới người khác, lại có phép
lịch sự tiêu cực gồm những hành vi tránh làm phương hại tới thể diện của người khác và
nếu không thể tránh được thì biết làm giảm nhẹ mức độ của những hành vi phương hại
đến thể diện đó. Nói chung đó là nói giảm mức độ của phát ngôn không lịch sự và nói
tăng mức độ của những phát ngôn lịch sự hay làm cho người nghe tìm được cái may
trong cái rủi, tìm được cái lợi trong cái tổn thất Chính nguyên lý lịch sự đã đòi hỏi Kim

Trọng nói những lời đầy tình nghĩa sau đây trong lượt thoại trước:
3115. “Xưa nay trong đạo đàn bà,
“Chữ Trinh kia cũng có ba bảy đường.
3117. “Có khi biến, có khi thường,
“Có quyền, nào phải một đường chấp kinh.
3119. “Như nàng lấy Hiếu làm Trinh,
“Bụi nào cho đục được mình ấy vay?
Trong một cuộc nói chuyện, người ta có thể trao đổi từ vấn đề này sang vấn đề khác.
Nhưng bao giờ cũng có lúc bắt đầu và lúc kết thúc. Chúng làm nên ranh giới của một
cuộc thoại. Lúc bắt đầu được gọi là mở thoại, luôn luôn do một bên chủ động. Lúc kết
thúc cũng do một bên chủ động đề ra gọi là kết thoại. Giữa phần mở thoại và kết thoại là
phần trung tâm của cuộc thoại, gọi là thân thoại. Trong cuộc thoại cuối cùng của Truyện
Kiều, thân thoại gồm năm lượt lời, kết thoại là bốn câu hứa hẹn của Kiều sẽ không chơi
đàn nữa:
3211. Nàng rằng: –“Vì chút nghề chơi,
“Đoạn trường tiếng ấy hại người bấy lâu.
3213. “Một phen tri kỷ cùng nhau,
“Cuốn dây từ đấy về sau xin chừa.”
IV. TAM THOẠI – ĐA THOẠI.
BỒI DƯỠNG HỌC SINH NĂNG KHIẾU NGỮ VĂN 9
Như trên đã nói tam thoại – đa thoại là những cuộc thoại có từ ba người trở lên. Nhiều
nhà nghiên cứu cho rằng tam thoại khác về căn bản với song thoại. Tuy nhiên, trong
cuộc tam thoại cũng chỉ có một người nói, hai người nghe còn lại có thể cùng là người
tiếp nhận chính yếu cũng có thể có người là đối tượng trực tiếp có người là đối tượng
gián tiếp (thứ yếu).
Cuộc thoại đầu tiên trong Truyện Kiều xảy ra sau hội Đạp Thanh, trước nấm mồ Đạm
Tiên giữa ba chị em Thúy Kiều. Thúy Kiều chính là người mở thoại:
0059. Rằng: –“Sao trong Tiết Thanh Minh,
Mà đây hương khói vắng tanh thế mà?”
Dẫn đến việc kể lại của Vương Quan về cuộc đời của Đạm Tiên:

0061. Vương Quan mới dẫn gần xa:
– “Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi,
“Nổi danh tài sắc một thì,
“Xôn xao ngoài cửa kém gì yến anh
0079. “ Trải bao thỏ lặn ác tà,
Ấy mồ vô chủ ai mà viếng thăm!”.
Tiếp nhận lời kể này là cả hai chị em Thúy Kiều, Thúy Vân nhưng lời thoại tiếp lại là
của Thúy Kiều đã sẵn mối thương tâm, nàng khóc lóc thương cho số phận khách má
hồng rồi khấn khứa đề thơ đến nỗi Thúy Vân phải nhận xét:
0105. Vân rằng: – “Chị cũng nực cười,
“Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa!”
Tiếp theo là lời biện hộ của Thúy Kiều, lời Vương Quan khuyên nên chấm dứt câu
chuyện:
0113 “Ở đây âm khí nặng nề,
“Bóng chiều đã ngả dặm về còn xa.”
Và lời dẫn giải của Thúy Kiều rồi đến cảnh Dấu giày từng bước in rêu rành rành và lời
kết thoại của Thúy Kiều:
0125. Mặt nhìn ai nấy đều kinh,
Nàng rằng: –“ Này thực tinh thành chẳng xa.
0127. “Hữu tình ta lại gặp ta,
“Chớ nề u hiển mới là chị em ”.
Nếu như cấu trúc cuộc song thoại giữa A và B có dạng AB AB AB thì cấu trúc của tam
thoại phức tạp hơn nhiều. Các lượt lời giữa 3 người A, B, C không theo một trình tự xác
định, A có thể nói cho cả B và C nghe, có thể nói cho riêng B hoặc C nghe. Trong mỗi
tình huống có thể B và C cùng đáp lại, lại có thể chỉ một trong hai người đáp lại. Cuộc
tam thoại thứ hai trong Truyện Kiều xảy ra sau buổi Thúy Kiều trao duyên cho Thúy
Vân, nàng khóc lóc và ngất đi:
0763. Hỏi sao ra sự lạ lùng,
Kiều càng nức nở hở không ra lời.
0765. Nỗi nàng Vân mới rỉ tai:

– “Chiếc vành này với tờ bồi ở đây!”
0767. – “Vì cha làm lỗi duyên mày,
“Thôi thì việc ấy sau này đã em.
0769. “Vì ai rụng cải rơi kim?
“Để con bèo nổi mây chìm vì ai?
0771. “Lời con dặn lại một hai,
BỒI DƯỠNG HỌC SINH NĂNG KHIẾU NGỮ VĂN 9
“Dẫu mòn bia đá dám sai tấc vàng.”
0773. Lạy thôi nàng mới rén chiềng:
– “Nhờ cha trả được nghĩa chàng cho xuôi.
0775. “Sá chi thân phận tôi đòi,
“Dẫu rằng xương trắng quê người quản đâu!”
Trong cuộc tam thoại này lúc đầu Kiều chưa nói được nên mở đầu bằng lời thoại của
Thúy Vân đến lời của Vương ông và kết thoại bằng 3 câu của Thúy Kiều.
Theo thống kê của chúng tôi ở sau, trong Truyện Kiều có 73 cuộc thoại gồm đủ các thể
loại, hết sức đa dạng.
V. SỰ ĐA DẠNG CỦA CÁC HÌNH THỨC ĐỐI THOẠI TRONG TRUYỆN KIỀU
Ngoài những hình thức đối thoại như trên: đơn thoại, song thoại, tam thoại, đa thoại ta
còn thấy trong Truyện Kiều có rất nhiều dạng đối thoại:
A. Đối thoại giữa người trần thế với người âm không chỉ trong giấc mộng mà cả khi tỉnh.
Thúy Kiều nói chuyện với Đạm Tiên 4 lần thì 3 lần trong mộng còn một lần – lần thứ ba
– trong cơn tuyệt vọng trước khi gieo mình tự tử trên sông Tiền Đường:
2623. –“Đạm Tiên nàng nhé có hay!
“Hẹn ta thì đợi dưới này rước ta.”
B. Có kiểu đối thoại trực diện mặt đối mặt lại có kiểu đối thoại gián tiếp. Người được nói
đến ở xa nhưng người nói lại coi như là đang đứng ở trước mặt hoặc đang nghe mình
nói. Đó là trường hợp khi Thúy Kiều trao duyên cho Thúy Vân, nàng như muốn nói cùng
Kim Trọng đã về Liêu Dương:
0751. “Trăm nghìn gửi lạy tình quân!
“Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.

0753. “Phận sao phận bạc như vôi?
“Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
0755. “Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
“Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”.
Ở đây ta thấy loại ngôn ngữ xóa nhòa khoảng không khi nhân vật thể hiện nỗi đau đớn
thương xót đến tột cùng đối với người xa cách. Rồi trường hợp Vương ông than khóc kể
lể về tình cảnh Thúy Kiều phải bán mình cho chàng Kim, ông đã kêu lên như muốn nói
với chính con gái mình như thể nàng có thể nghe được lời ông nói:
2791. “Phận sao bạc bấy Kiều nhi!
“Chàng Kim về đó, con thì đi đâu?”
Trong những trường hợp này phát ngôn của nhân vật thể hiện nỗi đau đến cùng cực, đến
độ đánh mất cả ý niệm về thời gian và không gian. Chính trong trường hợp đối thoại
gián tiếp này, ngôn ngữ đã đảm nhiệm vai trò biểu đạt tình cảm như những lời độc thoại
trong vở kịch.
C. Ngoài ngôn ngữ nhân vật tự nói về bản thân mình ta còn thấy trong đối thoại ở
Truyện Kiều có ngôn ngữ nói về người khác mà “người khác“ ấy có thể là ngôi thứ hai
tức là người nghe như khi Kiều nói với Tú bà:
1145 Nhưng tôi có sá chi tôi,
Phận tôi đành vậy, vốn người để đâu?
Và cũng có khi là ngôi thứ ba tức là người được nhắc đến như khi Thúy Kiều nói với
Vương bà về Mã giám sinh:
0881. “ Xem gương trong bấy nhiêu ngày,
BỒI DƯỠNG HỌC SINH NĂNG KHIẾU NGỮ VĂN 9
“Thân con chẳng kẻo mắc tay bợm già.
0883. “Khi về bỏ vắng trong nhà,
“Khi vào dùng dắng, khi ra vội vàng
0887. “ Khác màu kẻ quý người thanh,
“Ngẫm ra cho kỹ như hình con buôn ”
D. Cũng là ngôn ngữ đối thoại gián tiếp nhưng lại có khi là ngôn ngữ đối thoại gián tiếp
trong ngôn ngữ đối thoại trực tiếp của nhân vật xa lạ, như khi Thúy Kiều nghe câu nói

của Sở Khanh:
1171. Sở Khanh lên tiếng rêu rao:
– “Nọ nghe rằng có con nào ở đây,
1173. “Phao cho quyến gió rủ mây,
“Hãy xem có biết mặt này là ai?”
Hắn biết là có Thúy Kiều ở đấy nhưng lại nói như không có nàng, đó là lời nói gián tiếp
của Sở Khanh và qua câu hắn tường thuật lại tưởng như lời nói của một người khác mà
hắn bịa ra là người này đã kể cho hắn nghe có con nào ở đây: Phao cho quyến gió rủ
mây
E. Lại cũng có khi là lời kể của nhân vật hay của người đối thoại nhắc lại lời dặn của một
nhân vật thứ ba vắng mặt, đó là trường hợp Hoa Tì nhắc lại lời Hoạn thư cho Thúy Kiều
biết khi nàng và Thúc sinh lén gặp nhau ở Quan Âm các:
1999. Bao nhiêu đoạn khổ tình thương,
Nỗi ông vật vã, nỗi nàng thở than.
2001. Dặn tôi: –“Đứng lại một bên!”
Chán tai, rồi mới bước lên trên lầu
Chính loại ngôn ngữ đối thoại gián tiếp trên khi đến với chúng ta, những người thưởng
thức, thường đã bị khúc xạ bởi ý đồ hoặc tình cảm chủ quan của người nói.
F. Nhiều khi Nguyễn Du đã sử dụng một thứ ngôn ngữ đối thoại gián tiếp theo kiểu
tường thuật trực tiếp tức là lời nói của nhân vật này thuật lại nguyên văn lời nói của nhân
vật thứ ba vắng mặt. Trường hợp này tác giả đã thể hiện thái độ khách quan của nhân vật
khi phát ngôn. Như chúng tôi đã trình bày ở trên khi Vương Quan kể lại với hai chị về
nàng kỹ nữ Đạm Tiên có nhắc đến người khách viễn phương là người hâm mộ nàng kỹ
nữ xấu số thì trong lời kể, ta thấy Vương Quan đã nhắc lại chính lời nói của người khách
viễn phương:
0073. Khóc than khôn xiết sự tình:
– “Khéo vô duyên bấy là mình với ta!
0075. “Đã không duyên trước chăng mà,
“Thì chi chút ước gọi là duyên sau.”
Ở đây ta lại thấy một kiểu đối thoại trong đối thoại với cấu trúc lồng hai cấp. Cũng như

khi Thúy Kiều thuật lại cho Kim Trọng nghe lời nói của thầy tướng năm xưa, người đã
đoán về vận mệnh sau này của cuộc đời nàng:
0413. Nhớ từ năm hãy thơ ngây,
Có người tướng sĩ đoán ngay một lời:
0415. –“Anh hoa phát tiết ra ngoài,
“Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa!”ø
Chính cái lối đối thoại trong đối thoại này tạo ra tính khách quan trong lời kể làm cho
những nhân vật này của Nguyễn Du tuy chỉ xuất hiện trong một vài câu thông qua lời kể
của một nhân vật trong truyện mà vẫn cụ thể sinh động. Những nhân vật chỉ thấp thoáng
BỒI DƯỠNG HỌC SINH NĂNG KHIẾU NGỮ VĂN 9
trong Truyện Kiều vẫn cho phép người đọc như được tiếp xúc gần gũi và để lại ấn tượng
khó quên.
Ngôn ngữ kể chuyện trong Truyện Kiều mang đậm màu sắc chủ quan. Ngôn ngữ nhân
vật tham gia kể chuyện bước đầu đã được cá tính hoá, mỗi người đều có một ngôn ngữ
riêng. Lời kể của Vương Quan là lời kể của người có học vấn. Lời kể của Kiều là lời kể
của một người từng trải, có ý thức sâu sắc về bản thân mình: Kiều kể cho mẹ nghe về Mã
giám sinh bằng lời lẽ rất cụ thể
VI. THÚY KIỀU QUA LỜI ĐỐI THOẠI CỦA CÁC NHÂN VẬT KHÁC
Đối với từng nhân vật, Nguyễn Du thường đưa ra cách đánh giá chủ quan của ông, qua
cách dùng từ ngữ để mô tả nhân vật, thông qua lời ăn tiếng nói của họ: Các nhân vật tự
bộc lộ chủ quan của chính mình. Nhưng ông còn cấp cho ta cái nhìn khách quan từ cách
đánh giá của các nhân vật khác qua những lời đối thoại: mỗi nhân vật khi nói, khi nghĩ
đều bị chi phối bởi những quan điểm, tình cảm của chính mình. Vậy mà trong các nhân
vật Truyện Kiều có ngôn ngữ đối thoại thì có tới 12 nhân vật đều đánh giá tốt về Thúy
Kiều: tất cả đều khen ngợi tài sắc, trí tuệ của nàng. Mỗi nhân vật, tùy theo cá tính, tình
cảm, ngành nghề, mối quan hệ đối với Thúy Kiều mà nhìn nhận đánh giá nàng ở những
góc độ khác nhau. Kim Trọng nhìn Thúy Kiều như một người yêu, một văn nhân đánh
giá nàng. Ông thầy tướng ngay từ lúc Thúy Kiều còn thơ ngây đã vừa khen vừa báo
trước tương lai cho nàng:
0415. Anh hoa phát tiết ra ngoài,

Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa!
Với Mã giám sinh, Thúy Kiều là một món hàng nên hắn phải cân đo đong đếm thì quá
rõ:
0639. Đắn đo cân sắc, cân tài,
Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ.
0641. Mặn nồng một vẻ một ưa,
Bằng lòng khách mới tuỳ cơ dặt dìu.
rồi:
0823. Mừng thầm: “ Cờ đã đến tay,
Càng nhìn vẻ ngọc, càng say khúc vàng.
0825. Đã nên quốc sắc thiên hương,
Một cười này, hẳn nghìn vàng chẳng ngoa
Ơû đây chỉ xin nêu ra vài trường hợp.
Thúc sinh lúc đầu đến với Thúy Kiều như đến với một đối tượng để hưởng lạc:
1289. Sớm đào tối mận lân la,
Trước còn trăng gió, sau ra đá vàng.
1299. Miệt mài trong cuộc truy hoan,
Càng quen thuộc nết, càng dan díu tình.
1301. Lạ cho cái sóng khuynh thành,
Làm cho đổ quán xiêu đình như chơi
Nhưng về sau nàng đã cảm hóa được chàng, chính Thúc sinh đã phải vượt qua bao gian
khổ để đưa được Thúy Kiều ra khỏi lầu xanh, tuy Nguyễn Du không mô tả cặn kẽ mà chỉ
ghi lại sự việc bằng một hai câu thơ đơn giản:
1373. Chiến, hoà sắp sẵn hai bài,
Cậy tay thầy thợ mượn người dò la.
BỒI DƯỠNG HỌC SINH NĂNG KHIẾU NGỮ VĂN 9
1375. Bắn tin đến mặt Tú bà,
Thua cơ mụ cũng cầu hoà dám sao!
Khi Thúc ông bắt Thúc sinh phải từ bỏ Kiều, chàng đã có một thái độ đáng khen:
1395. Rằng: –“Con biết tội đã nhiều,

“Dẫu rằng sấm sét búa rìu cũng cam.
1397. “Trót vì tay đã nhúng chàm,
“Dại rồi, còn biết khôn làm sao đây!
1399. “Cùng nhau vả tiếng một ngày,
“Ôm cầm ai nỡ dứt dây cho đành.
1401. “Lượng trên quyết chẳng thương tình,
“Bạc đen thôi có tiếc mình làm chi!”
Rồi khi nhìn Thúy Kiều bị đòn thì Thúc sinh đã khóc lóc thảm thiết đến mức quan phủ
phải cho ngừng trận đòn để hỏi thêm.Và sau đó chính ông quan cũng bị cảm hóa, thuyết
phục cùng với Thúc ông. Đến nỗi chỉ xem bức tiên hoa, đọc bài thơ vịnh “cái gông”
(Mộc già) của nàng, quan phủ đã phải:
1455. Khen rằng:–“Giá đáng Thịnh Đường,
“Tài này sắc ấy nghìn vàng chưa cân.
1457. “Thực là tài tử giai nhân,
“Châu Trần còn có Châu Trần nào hơn!
Dẫn đến buổi lễ thành hôn giữa Thúc sinh với Thúy Kiều:
1465.Kíp truyền sắm sửa lễ công,
Kiệu hoa cất gió, đuốc hồng ruổi sao.
1467. Bày hàng cổ xuý xôn xao,
Song song đưa tới trướng đào sánh đôi
Đối với Hoạn thư thì sao? Nguyễn Du không mô tả tài sắc của nàng tiểu thư con quan
Lại bộ, nhưng ta cũng có thể biết rằng tài sắc nàng cũng vào loại khá. Nhất là những
người như nàng vốn hay kênh kiệu, vậy mà Hoạn thư cũng không thể không khen ngợi
Thúy Kiều, ngay lần đầu khi Thúy Kiều đàn cho Hoạn thư nghe:
1781. Tiểu thư xem cũng thương tài,
Khuôn uy, dường cũng bớt vài bốn phân.
Chính vì cái tài đàn này mà Hoạn thư đã đem Thúy Kiều ra hành hạ nhưng Hoạn thư
cũng vẫn khen nàng trước mặt Thúc sinh:
1849. Rằng: –“Hoa nô đủ mọi tài,
“Bản đàn thử dạo một bài chàng nghe.”ø

Là tình địch của Kiều vậy mà Hoạn thư cũng phải khen nàng, không phải chỉ có một hai
lần. Khi xem tờ thân cung của Thúy Kiều, Hoạn thư lại một lần nữa bị thuyết phục và
đây là lời khen thực sự tự đáy lòng:
1897. Diện tiền trình với Tiểu thư,
Thoắt xem dường có ngẩn ngơ chút tình.
1899. Liền tay trao lại Thúc sinh,
Rằng: –“Tài nên trọng mà tình nên thương.
1901. “Ví chăng có số giàu sang,
“Giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên!
1903. “Bể trầm chìm nổi thuyền quyên,
“Hữu tài, thương nỗi vô duyên lạ đời.”
BỒI DƯỠNG HỌC SINH NĂNG KHIẾU NGỮ VĂN 9
Đặc biệt đến khi xem bản kinh Hoa nghiêm do Thúy Kiều chép thì có thể nói Hoạn thư
đã hoàn toàn bị chinh phục:
1987. Khen rằng: –“ Bút pháp đã tinh,
“So vào với thiếp Lan Đình nào thua!
1989. “Tiếc thay lưu lạc giang hồ
“Nghìn vàng thật cũng nên mua lấy tài. “
Cho nên sau này khi ra trước cuộc báo oán của Thúy Kiều, Hoạn thư cũng không phải hổ
thẹn khi bào chữa có câu cũng khá thành thực:
2369. Lòng riêng, riêng những kýnh yêu,
Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai
Đối với nhân vật Hồ Tôn Hiến, hắn biết quá rõ tài sắc của nàng, chính hắn đã lợi dụng
nàng cho âm mưu đánh lừa Từ Hải để sau này hắn còn trơ tráo bắt nàng hầu rượu, hầu
đàn mà khen tài nàng:
2573. Hỏi rằng: –“Này khúc ở đâu?
“Nghe ra muôn oán nghìn sầu lắm thay!”
rồi:
2579. Nghe càng đắm, ngắm càng say,
Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình!

Rồi còn Đạm Tiên, sư Tam Hợp đều yêu mến và đánh giá cao Thúy Kiều, tuy mỗi
người một cách. Thúy Kiều được ngợi khen từ các nhân vật khác là một phần nhưng cái
chính là nàng tự bộc lộ tài đàn, tài thơ, cách cư sử, lời ăn tiếng nói đến cách xét người,
đoán việc qua ngòi bút mô tả của thi hào Nguyễn Du.
Chúng ta đã điểm qua ngôn ngữ nhân vật Truyện Kiều – một phương diện nghệ thuật
thành công đặc sắc của kiệt tác (Về phần độc thoại nội tâm của các nhân vật , chúng tôi
đã có một bài nghiên cứu riêng). Như ta đã thấy đặc điểm nổi bật của ngôn ngữ nhân vật
trong Truyện Kiều là sự cá tính hóa rất cao, mỗi nhân vật Truyện Kiều đều có một lối
nói riêng, một vốn từ riêng, không hề lẫn lộn. Ngôn ngữ của mỗi nhân vật đều đã được
lựa chọn hết sức chính xác, tiêu biểu cho nếp nghĩ, nếp cảm và sự lựa chọn của tác giả
không chỉ biểu hiện ở những từ không có khả năng thể hiện trực tiếp, cụ thể nội dung tư
duy cảm xúc của các nhân vật, bởi ngôn ngữ nhân vật ở đây vừa tham gia vào việc thể
hiện sự phát triển của các sự kiện vừa là nhân tố quan trọng góp phần tạo nên những tính
cách nhân vật đa dạng, điển hình.
Trích chương VIII, quyển Về những thủ pháp nghệ thuật trong văn chương Truyện Kiều
của Phạm Đan Quế , Nxb Thanh niên tái bản 2004
“Độc thoại nội tâm”
Hình thức giao tiếp đặc biệt trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du
I/DẪN NHẬP :
Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan trọng của con người. Trong giao tiếp, con người
giao tiếp với nhau thì có giao tiếp một chiều và giao tiếp hai chiều. Trong giao tiếp một
chiều chỉ có một bên nói còn bên kia tiếp nhận, không phát biểu. hình thức này thường
gặp ở nhữnh mệnh lệnh, lời khấn và ngày nay trong diễn văn và lời của phát ngôn viên
truyền thanh , truyền hình. Trong hoạt động giao tiếp thường diễn ra các hình thức hội
thoại như : song thoại, tam thoại, đa thoại…. còn có hình thức hội thoại đặc biệt mà
BỒI DƯỠNG HỌC SINH NĂNG KHIẾU NGỮ VĂN 9
chúng tôi đề cập đến trong tiểu luận này là vấn đề giao tiếp bằng hình thức độc thoại, mà
là độc thoại nội tâm. Có thể nói một cách khái quát rằng, độc thoại là chỉ có một nhân
vật phát biểu còn các nhân vật khác chỉ nghe nhưng không phát biểu, không có lời đáp
lại; còn chuíng tôi nói ở đây là độc thoại nội tâm, tức là lời tự nhủ, tự mình nói với mình

của các nhân vật. Nếu đối thoại là hình thức giao tiếp sử dụng hình thức nói năng giữa
người này với người khác thì độc thoại là dạng giao tiếp đặc biệt của ngôn ngữ nhân vật,
là hình thức nói với chính mình. Mà qua lời độc thoại đó người tiếp nhận ngôn bản
( người đọc) có thể hiểu được tâm trạng nhân vật dù đó chỉ là kiểu ý nghĩ – tư duy bằng
ngôn ngữ thầm.
Trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, tác giả đã tập trung ngòi bút của mình váo nhân
vật chính là Thuý Kiều phục vụ cho việc biểu hiện tình cảm nhân đạo cao cả của ông đối
với nàng Kiều. Ngoài nhân vật chính, ông lại xây dựng được hàng loạt nhân vật có cá
tính và đã trở thành nhân vật điển hình trong văn học : Kim Trọng,Từ Hải, Hoạn Thư, Tú
Bà, Mã Giám Sinh, Thúc Sinh… . Ngay cả những nhân vật tưởng như rất phụ chỉ được
nêu ra trong một số câu thơ, Nguyễn Du cũng để lại cho người đọc những hình ảnh khó
quên qua những màn, những cuộc hội thoại trong tác phẩm. Chúng ta có thể tìm trong
tác phẩm của Nguyễn Du rất nhiều hình thức hội thoại: đơn thoại, song thoại, tam thoại,
đa thoại, đối thoại giữa người âm và người dương, đối thoại trực diện và đối thoại gián
tiếp… Nhưng, có một hình thức đối thoại đẳc biệt là độc thoại nội tâm. Có thể nói độc
thoại nội tâm là một hình thức đặc biệt trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, là vấn đề
phong phú ,hấp dẫn cho chúng ta đi tìm hiểu. Bằng sự thu nhặt những mớ kiến thức tản
mạn của các giáo sư đầu ngành làm thành tư liệu riêng của mình mà làm thành tập tiểu
luận nhỏ nhoi, tự nghĩ cũng hổ thẹn với bỉ nhân!. Mong rằng tập tiểu luận sẽ là một tài
liệu nho nhỏ cho bạn đọc tham khảo và rất mong sự đóng góp, nhận xét của bạn đọc để
tập tiểu luận được thêm hoàn chỉnh.
II. NỘI DUNG :
1. Đi tìm nghĩa ngữ “ độc thoại nội tâm”:
Độc thoại nội tâm là gì?
Trước hết, trong nghệ thuật tự sự, ngoài lời gián tiếp của người kể còn có lời trực tiếp
của nhân vật. theo lí thuyết phong cách học hiện đại, lời trực tiếp của nhân vật được
thuật lại dưới bốn dạng thức sau:
a. Dạng có dẫn ngữ trực tiếp:
Nó giật mình rồi nói với mình:” Mình sai rồi”
b. Dạng có dẫn ngữ gián tiếp:

Nó giật mình rồi nói với chính mình là nó đã sai rồi
c. Dạng gián tiếp tự do:
Nó giật mình, nó thấy sai rồi.
d. Dạng trực tiếp tự do:
Nó giật mình. Nó sai rồi.
Dạng thứ tư là dạng tiền đề để xuất hiện độc thoại nội tâm. Bởi vì điều kiện thứ nhất để
xuất hiện độc thoại nội tâm là nhân vật tự do nói lời của mình một cách trực tiếp, nguyên
vẹn, thoát khỏi mọi ràng buộc của lời gián tiếp của người kể, không có chỉ dẫn, dẫn dắt.
BỒI DƯỠNG HỌC SINH NĂNG KHIẾU NGỮ VĂN 9
Đồng thời độc thoại nội tâm cũng cần đặt trong ngữ cảnh của lời nói gián tiếp, nếu
không thì nó khác chi lời trần thuật theo ngôi thứ nhất?. Điều kiện thứ hai là nó khác với
lời độc thoại . độc thoại là lời nói một mình, trước và sau không có lời nào của ai khác
nhưng người thứ ba đó đang nghe, nghe mà không trả lời như trong kịch và trong phim.
Còn độc thoại nội tâm là lời độc thoại dùng vào việc miêu tả quá trình ý nghĩ trong nội
tâm, và là lời nói thầm kín, viết ra để đọc chứ không nhằm nói ra thành tiếng như trong
kịch mà người đọc qua đó có thể tiếp xúc được, hiểu được tâm trạng của nhân vật độc
thoại nội tâm. Như vậy, lời trực tiếp tự do là hình thức đầu tiên của độc thoại nội tâm.
Thứ hai, dòng ý thức cũng là một hình thức của độc thoại nội tâm, nhưng là độc thoại nội
tâm với một sự tự do liên tưởng, không có mục tiêu đặc biệt nào; nó xuất hiện theo dòng
ý thức, tâm trạng của nhân vật.
Thứ ba, lời nửa trực tiếp cũng là hình thức của độc thoại nội tâm. Đó là bao gồm lời nói
không chỉ phát ra lời của nhân vật , lời nửa trực tiếp, nơi mà tác giả nhân danh mình,
nhưng lại nắm bắt từ ngữ và ngữ điệu của nhân vật, và lời độc thoại nội tâm , trong đó
tiếng nói của nhân vật dường như được tách ra làm hai tiếng nói tranh cãi nhau; và hàng
loạt lời suy luận chặt chẽ , hoặc lời mang những ý nghĩ mù mờ hỗn loạn. Tất cả những
hình thức đó giúp cho nhà tiểu thuyết tái hiện một cách chân thực, không giản đơn sơ
lược toàn bộ thế giới tâm hồn, trí tuệ của nhân vật ngày càng trở nên phức tạp và thường
là mâu thuẫn. Như vậy, lời nửa trực tiếp có thể hiểu là lời của người kể chuyện mà cũng
có thể hiểu là lời của nhân vật. Nói cách khác nó có hai tính chất: tính trực tiếp về nội
dung, nó chứa thực ý và kiểu giọng của nhân vật; và được tác giả phát ngôn, viết như

văn gián tiếp. Với cách hiểu như thế, thiết nghĩ có thể nói rẳng, lời nửa trực tiếp có hình
thức truyền đạt là gián tiếp, không có lời chỉ dẫn, dẫn ngữ, không đặt sau hai chấm và
trong ngoặc kép như một dẫn ngữ; hình thức lời thuật nhưng nội dung và ngữ điệu hoàn
toàn là của nhân vật. Nói cách khác, chủ thể của lời nói là người kể, mà chủ thể ý thức
của lời nói là nhân vật.
Tóm lại, ba tiền đề để xuất hiện độc thoại nội tâm là lời nói trực tiếp tự do, dòng ý thức
và lời nửa trực tiếp của nhân vật. Từ cách hiểu độc thoại nội tâm như thế, ta có thể đi tìm
trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du những hình thức độc thoại nội tâm đó.
2. Độc thoại nội tâm trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du :
2.1. Lời trực tiếp tự do trong Truyện Kiều :
Chúng ta hãy đọc đoạn Vương Quan kể chuyện Đạm Tiên như sau:
Vương Quan mới dẫn gần xa
Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi.
Nổi danh tài sắc một thì
Xôn xao ngoài cửa thiếu gì yến anh
Phận hồng nhan quá mong manh
Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương
Có người khách ở viễn phương
Xa nghe cũng nức tiếng nàng tìm chơi
Thuyền tình vừa ghé đến nơi
BỒI DƯỠNG HỌC SINH NĂNG KHIẾU NGỮ VĂN 9
Thì đà trâm gãy bình rơi bao giờ.
Buồng không lặng ngắt như tờ
Dấu xe ngựa đã rêu lờ mờ xanh
Khóc than khôn xiết sự tình
Khéo vô duyên bấy là mình với ta!
Đã khong duyên trước chăng mà,
Thì chi chút ước gọi là duyên sau
Sắm sanh nếp tử xe châu
Vùi nông một nấm mặc dầu cỏ hoa…

Đây là lời kể trực tiếp của nhân vật Vương Quan, nhưng đặc biệt là trong đó, đã xuất
hiện lời độc thoại nội tâm của người khách viễn phương:
Khéo vô duyên bấy là mình với ta
Đã không duyên trước chăng mà
Thì chi chút ước gọi là duyên sau.
Lời này không có chỉ dẫn dẫn ngữ, lại là lời trực tiếp của người khách nói ý nghĩ, ý
nguyện của mìnhđể lẫn trong lời của Vương Quan. Câu “ Khóc than khôn xiết sự tình”
chỉ là lời tự sự, ý vị chỉ dẫn hầu như bị mờ hoàn toàn. Chữ “mình” với “ta” là cách xưng
hô thân mật riêng của người khách và người chết. Các chữ ”Đã không duyên trước…Thì
chi…duyên sau” là dấu hiệu của lời khấn. tuy có vẻ là lời nói với người chết, nhưng thật
ra là nhân vật nói với mình, nói một mình. Đây hoàn toàn là lời độc thoại nội tâm tiêu
biểu, nó nói lên khả năng xuất hiện độc thoại nội tâm trong dòng lời kể theo ngôi thứ
nhất, một cái”tôi” nhân vật xuất hiện trong ngữ cảnh của dòng tự sự theo ngôi thứ nhất.
Đoạn Kim Kiều gặp gỡ có những câu:
Kim từ quán khách lân la
Tuần trăng thấm thoát nay đã thêm hai
Cách tường khoảng buổi êm trời
Dưới đào dường có bóng người thướt tha
Buông cầm, xốc áo, vội ra
Hương còn thơm nức người đà vắng tanh
Lần theo tường gấm dạo quanh
Trên đào nhác thấy một cành kim thoa
Giơ tay với lấy về nhà
Này trong khuê các đâu mà đến đây?
Gẫm đâu người ấy báu này
Chẳng duyên chưa dễ vào tay ai cầm
Liền tay ngắm nghía biếng nằm…
Trong đoạn thơ trên thì câu : “ Dưới đào dường có bóng chiều thướt tha” và “ Hương
còn thơm nức người đà vắng tanh” hay “ Này trong khuê các đâu mà đến đây?/ Gẫm âu
vật ấy, báo này / Chẳng duyên chưa dễ vào tay ai cầm” là lời độc thoại nội tâm của nhân

vật Kim Trọng. Có thể viết trứơc những câu đó mấy chữ:” Kim Trọng nghĩ bụng” thì sẽ
rõ ràng. Nhưng thông qua đoạn trích, ta có thể hiểu những câu ấy là suy nghĩ thầm của
Kim Trọng. Đó là lời trực tiếp tự do trong đoạn trích, trước và sau kông có lời nào khác,
nó dùng để miêu tả quá trình ý nghĩ trong nội tâm, đó là lời thầm kín.
Hay trong đoạn kể Kiều bị bắt cóc , Thúc ông tưởng Kiều đã chết cháy: Ngay tình ai biết
mưu gian
Hẳn nàng thôi, lại còn bàn rằng ai!
BỒI DƯỠNG HỌC SINH NĂNG KHIẾU NGỮ VĂN 9
Thúc ông sùi sụt ngắn dài…
Đoạn kể Kiều bị bắt về nhà Hoạn Bà:
Hoàng lương chợt tỉnh hồn mai
Cửa nhà đâu mất, lau đài nào đây?
Bàng hoàng giở tình, giở say…
Hai câu giữa trong hai đoạn trích này đều là lời trực tiếp tự do với ngữ diệu nói , ý thức
người nói khác hẳn với lời trần thuật, làm cho lời trần thuật chủ thể hoá. Lời nói của
nhân vật không cần lời dẫn mà trực tiếp tự do, tự do trong thể hiện suy nghĩ của mình.
Không chỉ lời trần thuật của tác giả biến thành lời trực tiếp tự do của nhân vật trở thành
trần thuật chủ thể hoá, mà đối thoại của nhân vật cũng được dộc thoại hoá. Ví dụ như
đoạn Kim Trọng được tin chú mất, phải về hộ tang, bèn sang chỗ Thúy Kiều tự tình:
Mảng tin xiết nỗi kinh hoàng
Băng mình lẻn trước đài trang tự tình.
Gót đầu mọi nỗi đinh ninh,
Nỗi nhà tang tóc, nỗi mình xa xôi.
Sự đâu chua kịp đôi hồi,
Duyên đâu chưa kịp một lời trao tơ.
Trăng thề còn đó trơ trơ,
Dám xa xôi mặt mà thưa thớt lòng.
Ngoài nghìn dặm, chóc ba đông…
Mối sầu khi gỡ cho xong còn chầy.
Gìn vàng, giữ ngọc cho hay,

Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời.
Hai dòng đầu là thuật sự việc xảy ra và phản ứng của Kim Trọng. Hai dòng tiếp theo là
tóm lược nội dung những lời Kim Trọng thông báo tình cảnh của mình cho Kiều nghe.
Đây là hình thức rất mới, bởi như ta biết, vào trường hợp tương tự, các truyện Trung Hoa
để cho nhân vật nhắc lại nguyên si các lời đã nói; còn ở đây Nguyễn Du thật lại lời của
nhân vật một cách gián tiếp. Ở đây lời trực tiếp tự do của nhân vật trón dấu hiệu dẫn lời,
từ lời tóm tắt của người kể chuyển sang đối thoại mà như là độc thoại. Sáu dòng tiếp
theo là lời nói như lời than thở độc thoại, chỉ tới hai dòng cuối mới hướng vào Thuý
Kiều như một lờ cầu xin. Do vậy ta như không phải nghe đối thoại mà nghe lời thổ lộ
trực tiếp tự do nội tâm của nhân vật.
Một ví dụ khác, đoạn Hoạn Thư nói với Bạc Bà:
Roi câu vừa gióng dặm trường,1
Xe hương nàng cũng thuận đường quy ninh.2
Thưa nhà huyên hết sự tình, 3
Nỗi chàng ở bạc, nỗi mình chịu đen. 4
Nghĩ rằng ngứa rẻ hờn ghen,5
Xáu cháng mà có ai khen chi mình.6
Vậy nên ngoảnh mặt làm thinh,7
Mưu cao vốn đã rắp ranh nững ngày.8
Lâm Tri đường bộ tháng chầy,9
Mà đường hải đạo sang ngay thì gần.10
Dọn thuyền lựa mặt gia nhân,11
Hãy đem dây xích buộc chân nàng về.12
BỒI DƯỠNG HỌC SINH NĂNG KHIẾU NGỮ VĂN 9
Làm ho cho mệt cho mê,13
Làm cho đau đớn ê chề cho coi!.14
Trước cho bỏ ghét những người,15
Sau cho để một trò cười về sau.16
Phu nhân khen chước rất mầu,17
Chiều con mới dạy mặc dầu ra tay.18

Câu 1,2 là tác giả thuật việc. Câu 3,4 là tóm tắt câu chuyện uất ức của Hoạn Thư. Câu
5,6,7 là lòi trực tiếp của Hoạn Thư đối với mẹ, nhưng nghe như là độc thoại. Câu 8 là lời
thuật của người thuật xen vào. Câu 9 đến câu 16 ở đoạn này tiếp tục lời thoại. Câu 13,
14, 15, 16 lại là lời vừa nói với mẹ , vừa giống như độc thoại, buộc chân nàng về tì làm
sao? Hoạn Thư khng6 nói rõ, mà tự sự cũng không cho biết hết. Câu 17 và nửa đầu câu
18 là lời thuật của tác giả, nửa câu 18 là lời của Hoạn Bà. Có thể nói độc thoại hoá làm
co tâm tình, dục vọng của nhân vật nổi lên lồ lộ.
Nguyễn Du không quan tâm nhiều đến lí lẽ của sự việc, mà quan tâm đến nỗi lòng của
nhân vật. Đoạn Từ Hải chịu hàng người đọc đều thấy không thông, không hiểu vì sao Từ
nghe lời khuyên của Kiều đề cao ơn vua mà lại thấy “ mặn mà”. Trong Kim Vân Kiều
truyện, Thanh Tâm Tài Nhân chú ý kể chuyện sứ giả thuyết hàng, Từ nổi giận, Kiều
khuyên giải làm cho Từ đuối lý. Tiếp đến Từ Hải nêu việc hàng có 3 điều lợi 5 điều hại,
lợi bất cập hại, khng6 hàng. Kiều phân tích lại cho Từ thấy có 3 điều tiện và 5 điều lợi,
làm cho Từ nghe mà nhân hàng. Như nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra, Nguyễn Du đã tạo
ra một Từ Hải khác, và để cho Từ Hải thổ lộ một đoạn độc thoại nội tâm cực hay, đầy
khí phách, vượt xa những dấu hiệu vừa nêu trong truyện Trung Hoa của Thanh Tâm Tài
Nhân : Một tay gây dựng cơ đồ
Bấy lâu biển Sở, sông Ngô tung hoành!
Bó tay về với triều đình,
Hàng thần lơ láo, phận mình ra sao?
Áo xiêm ràng buộc lấy nhau,
Vào luồng, ra cúi, công hầu mà chi?
Sao bằng riêng một biên thuỳ,
Sức này, đã dễ làm gì được nhau?
Chọc trời, quấy nước mặc dầu,
Dọc ngang nào biết trên dầu có ai?
Lời đọc thoại nội tâm rõ ràng đã bộc lộ tâm tình nhân vật trọn vẹn, đầy đủ hơn là lời đối
đáp của Từ trong cơn giận do cuộc khuyên hàng gợi lên như trong Kim Vân Kiều truyện
của Thanh Tâm Tài Nhân. Tiếp đến Kiều cũng có một tâm sự riêng bộc lộ trong 12 câu
đôc thoại :

Nghĩ mình mặt nước cánh bèo,
Đã nhiều luân lạc lại nhiều gian truân.
Bằng nay chịu tiếng vương thần,
Thênh thênh đường cái thanh vân hẹp gì.
Công, tư vẹn cả đôi bề,
Dần dà rồi sẽ liệu về cố hương.
Cũng ngôi mệnh phụ đường đường,
Nở nang mày mặt, rỡ ràng mẹ cha.
Trên vì nước, dưới vì nhà,
Một là đắc hiếu, hai là đắc trung.
BỒI DƯỠNG HỌC SINH NĂNG KHIẾU NGỮ VĂN 9
Chẳng hơn chiếc bánh giữa dòng,
E dè bảo tố, hãi hùng phong ba.
Sau màn độc thoại nội tâm, mới đến Kiều khuyên chỉ trong 10 câu lục bát mà Từ đã
hàng. Như vậy, lời khuyên của Kiều và sự nghe lời của Từ là chiếu lệ, đều thể hiện sự bế
tắc trong tư tưởng. Nguyễn Du chủ yếu là thể hiện được nội tâm nhân vật qua lời độc
thoại trực tiếp tự do. Kể rõ 3 điều tiện, 5 điều lợi … như Thanh Tâm Tài Nhân chỉ là
logic hình thức, không có ý nghĩa gì. Đã không có ý nghĩa thì dài dòng làm chi! Sao
bằng Nguyễn Du ta!.
2.2 Dòng ý thức trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du:
Ta xem đoạn dưới đây miêu tả những điều Thuý Kiều trông thấy, vừa trông vừa suy
nghĩ, nhận xét, xúc động:
Trông xem đủ mặt một nhà
Xuân già còn khoẻ, huyên già còn tươi
Hai em phương tưởng hoà hai,
Nọ chàng Kim đó là người ngày xưa!
Tưởng bây giờ là bao giờ
Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao!
Đó là dòng ý thức. Đoạn văn không phải là lời nói của người trần thuật, tác giả đã trao
nó cho ý thức của nhân vật Thuý Kiều, sau đó tác giả mới kể:

Giọt châu thánh thót quẹn bào,
Mừng mừng tủi tủi, xiết bao sự tình!
Dòng ý thức bao gồm cả những hình thức đối thoại thầm trong tâm tưởng. Ví dụ đoạn kể
những suy nghĩ của Kiều trước quyết định bán mình, Kiều thầm nghĩ:
Quyết mình nàng mới hạ tình
Dễ cho để thiếp bán mình chuộc cha!
thì câu bát ở đây là câu nói thầm trong tưởng tượng của Kiều đối với Kim Trọng. Ở đây,
người được nói đến ở xa nhưng người nói lại coi như là đang đứng trước mặt hoặc đang
nghe mình nói. Đó còn là trường hợp khi Thuý Kiều trao duyên cho Thuý Vân, đang đối
thoại với Thuý Vân ở đoạn đầu dần dần nàng chuyển sang độc thoại, nàng như muốn nói
cùng Kim Trọng: Bây giờ trâm gãy, gương tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lại tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy hoa trôi nhỡ nhàng
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
Hay đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích:
Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân ,1
Vẻ non xa, tấm trăng gần, ở chung. 2
Bốn bề bát ngát xa trông, 3
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia. 4
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya, 5
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng. 6
BỒI DƯỠNG HỌC SINH NĂNG KHIẾU NGỮ VĂN 9
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng, 7
Tinh sương luống những rày trông mai chờ. 8
Bên trời góc biển bơ vơ, 9
Tấm son rột rửa bao giờ cho phai. 10

Xót người tựa cửa hôm mai, 11
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ. 12
Sân lai cách mấy nắng mưa , 13
Có khi gốc tử đã vừa người ôm? 14
Buồn trông cửa bể chiều hôm, 15
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa ? 16
Buồn trông ngọn ngọn nước mới sa, 17
Hoa trôi man mác biết là về đâu?. 18
Như vậy, toàn bộ đoạn thơ trên đều là độc thoại nội tâm của Thuý Kiều, dựa trên một
dòng ý thức, tâm trạng buồn. Câu 5, 6 là lời Thuý Kiều tự than thở với mình. Câu 7, 8, 9,
10, 11, 12, 13, 14 là lời Thuý Kiều đối thoại với người yêu và gia đình nhưng dưới hình
thức độc thoại nội tâm, hướng đến người thứ hai nhưng người thứ hai không có mặt, qua
đó hiểu được tâm trạng và nỗi lòng đau đớn của nàng. Câu 16, 18 là Kiều hỏi bâng quơ
không có lời giải đáp, như tự hỏi với mình.
Hay là đoạn dưới đây là thể hiện dòng ý thức trong tâm trạng cực kỳ đau đớn của Kiều.
Kiều độc thoại nội tâm nhưng mà muốn cho người thứ hai hiểu được nỗi lòng của nàng.
Đó là gia đình và người yêu nơi xa xôi cách trở. Qua lời độc thoại nội tâm đó người đọc
có thể cảm thông và chia xẻ với nàng:
Khi sao phong gấm rũ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường?
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân
….
Nhớ ơn chín chữ cao sâu
Một ngày một ngả bóng dâu tà tà
Dặm nghìn nước thẳm non xa
Nghĩ đâu thân phận con ra thế này!
Sân hoè đôi chút thơ ngây
Trân cam, ai kẻ đở thay việc mình?
Nhớ lời nguyện ước ba sinh

Xa xôi ai có thấu tình chăng ai?
Khi về hỏi liểu Chương Đài
Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay?
….
Kiều như đang đối thoại với cha mẹ, hai em và người yêu. Tưởng như họ đang đứng
trước mặt. Nhưng họ đều vắng đều xa cách nên lời đối thoại đã trở thành lời độc thoại
nội tâm biến đổi theo dòng ý thức của Kiều. Ở đây, ta thấy loại ngôn ngữ xoá nhoà
khoảng không khi nhân vật thể hiện nỗi đau đớn thương xót đến tột cùng đối với người
xa cách.
BỒI DƯỠNG HỌC SINH NĂNG KHIẾU NGỮ VĂN 9
Cũng trong dòng ý thức của độc thoại nội tâm, đây là đoạn đôc thoại dài tới 22 câu của
Mã Giám Sinh khi hắn do dự, tính toán xem có nên vào phòng Thuý Kiều để thực hiện
âm mưu mà cũng là ước mong đen tối của hắn hay không:
Mừng thầm: cờ đã đến tay,
Càng nhìn vẻ ngọc, càng say khúc vàng.
Đã nên quốc sắc thiên hương
Một cười này, hẳn nghìn vàng, chẳng ngoa
Kết thúc lượt ý nghĩ thứ nhất, ta tưởng như hắn có thực hiện mưu đồ, nhưng chưa, còn
vấn đề vốn liếng:
Về đây nước trước bẻ hoa
Vương tôn quý khách ắt là đua nhau.
Hẳn ba trăm lạng kém đâu,
Cũng là vừa vốn, còn sau thì lời.
Vấn đề tiền bạc tạm thời giải quyết mà hắn vẫn chưa quyết định: Miếng ngon kề đến tận
nơi
Vốn nhà cũng tiếc, của trời cũng tham.
Đào tiên đã bén tay phàm
Thì vin cành quýt cho cam sự đời
Hắn nghĩ đến mà sung sướng nhưng vẫn đi thêm bước nữa: Dưới trần mấy mặt làng chơi
Chơi hoa đã dễ mấy người biết hoa

Nước vẻ lựu, màu mào gà,
Mượn màu chiêu tập lại là còn duyên.
Mập mờ đáu lận con đen,
Bao nhiêu cũng mất nhiêu tiền, mất chi?
Bây giờ đã yên chi với việc lãi lời, hắn lại nghĩ đến mụ Tú Bà mà sợ, nhưng đành chấp
nhận:
Mụ già hoặc có điều gì,
Liều ông mất một buổi quỳ mà thôi
Chịu “mất một buổi quỳ” là ý nghĩ của Mã Giám Sinh mà Nguyễn Du đưa vào truyện
không có trong Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Ấy thế mà hắn vẫn chưa
quyết định, và đây là lý do cuối cùng, sao mà đầy tính thuyết phục và đầy hấp dẫn, làm
Mã Giám Sinh mê người dẫn đến việc hắn hành động tức khắc:
Vả đây đường sá xa xôi
Mà ta bất động nữa người sinh nghi.
Sau phút thành thân với Mã Giám Sinh, Thuý Kiều đã suy nghĩ đắn đo:
Giọt riêng tầm tả tuôn mưa,
Phần căm nỗi khách, phần dơ nỗi mình.
Huống chi là giống hôi tanh,
Thân nghìn vàng để ô danh má hồng.
Thôi còn chi nữa mà mong
Đời người thôi thế là xong một đời!
Đó là lượt ý nghĩ thứ nhất để sau đó nàng cầm dao định tự tử nhưng rồi lại đến lượt ý
nghĩ thứ hai tiếp theo:

×