Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Bồi dưỡng học sinh năng khiếu Ngữ văn 9 phần 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.57 KB, 14 trang )

BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI NGỮ VĂN LỚP 9
Những chủ đề lớn xuyên suốt lịch sử VHVN
1. Chủ đề yêu nước:
Chủ đề yêu nước thường được bộc lộ qua các tp thơ văn dưới các nội
dung cụ thể sau:
- Tinh thần chống xâm lăng vì độc lập tự do của dân tộc.
- Lòng tự hào về truyền thống lịch sử, truyền thống văn hoá lâu
đời.
- Lòng yêu thiên nhiên đất nước.
2. Chủ đề nhân đạo:
Chủ đề này thường có những biểu hiện sau:
- Lên án tội ác của các thế lực chà đạp lên quyền sống của con
người.
- Bày tỏ tình cảm xót thương, cảm thông với những kiếp người
bất hạnh.
- Ca ngợi những phẩm chất cao đẹp, trong sáng của tâm hồn con
người.
- Thể hiện ước mơ khát vọng về một xã hội công bằng bác ái,
tôn trọng phẩm giá và hạnh phúc con người.
 Tất cả những biểu hiện ấy đều giúp con người hoàn thiện hơn. Nó
giúp níu giữ con người không sa xuống thành thú vật nhưng cũng không
phải là những “ông thánh” giả dối và vô duyên.
Hai chủ đề trên hầu như luôn có mặt ở bất kì thời kì nào của văn
học dân tộc.
Lịch sử dân tộc ta được đo bằng chiều dài của những cuộc chiến tranh
chống ngoại xâm. Mặc dù vậy dân tộc ta vẫn tồn tại và phát triển, chứng
tỏ có một sức sống mãnh liệt, một truyền thống chiến đấu đặc biệt kiên
cường. Một dân tộc như thế ắt phải ấy VH làm vũ khí:
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà
(Nguyễn Đình Chiểu)



Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong
(Hồ Chí Minh)
Tinh thần của những bản tuyên ngôn NT ấy cũng xuyên suốt lịch sử văn
học VN.
Do đó trong quá trình học tập, khi tiếp xúc trực tiếp với các tác phẩm cụ
thể, các em nên tìm hiểu xem tác phẩm ấy ra đời trong thời kì nào? Nó
thuộc chủ đề lớn nào đã nêu trên? chủ đè ấy đã được thể hiện cụ thể trong
tác phẩm ấy như thế nào?
Có những tác phẩm thuộc hẳn một chủ đề như: Truyện Kiều của
Nguyễn Du thuộc chủ đề nhân đạo, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi
thuộc chủ đề yêu nước.
Nhưng cũng có những tác phẩm thuộc cả hai chủ đề. Chẳng hạn
như ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến. Nếu không gắn bó và tha thiết
với đồng quê, nếu không nặng tình nặng nghĩa với tổ quốc, nếu không
yêu thiên nhiên đất nước thiết tha thì không thể viét được những bài thơ
về mùa thu Việt nam đẹp, hay và thú vị đến thế.
Vậy thì đấy cũng là chu đề yêu nước. lòng yêu nước có nội dung cụ thể,
tạo nên bởi bao mối quan hệ của ta đối với đất nước, từ quan hệ gia đình,
bạn bè, quan hệ với thiên nhiên nơi quê hương mình, đến những quan hệ
rộng lớn dối với quốc gia dân tộc, với lịch sử đất nước mấy ngàn năm
Ở một phương diện khác, đọc những bài thơ thu của Nguyễn Khuyến,
tâm hồn ta cảm thấy trong trẻo hơn với phong cảnh đồng quê; ta xúc động
trước tấm lòng thanh sạch, cao nhã mà nặng nỗi niềm u uẩn của nhà thơ.
Ta cảm phục trước những sự tinh tế, nhạy cảm và tài năng diễn tả những
biểu hiện ấy bằng ngôn từ nghệ thuật của nhà thơ Tất cả những đièu đó
đều góp phần làm cho tâm hồn ta giàu có và phong phú hơn lên. Mà con
người khi có tâm hồn phong phú, tinh tế, nhạy cảm với caí đẹp, giàu có
về thẩm mĩ thì chắc chắn cũng bớt đi sự hung bạo, thô bỉ trong quan hệ

ứng xử giữa người với người.
Đấy cũng có thể là một khía cạnh của chủ đề nhân đạo. Khi tổng
kết một thời kì văn học cũng cần xem thời kì ấy hai chủ đề đó được thẻ
hiện cụ thể như thế nào?
Ví dụ: Thời kì văn học từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX. Nhìn toàn cảnh thời kì
này, ta thấy rất rõ là :
- Ở chặng đầu tiên ( Thế kỉ X-XV) văn học chủ yếu thể hiện chủ đề yêu
nước.
- Từ thế kỉ XVI- giữa thế kỉ XIX (1958) thì lại nổi bật là chủ nghiã nhân
đạo.
- Từ 1958 - cuối thế kỉ XIX thì xuất hiện cả hai chủ đề: yêu nước và
nhân đạo.
Thực ra không có gì khó hiểu trước những nhận xét trên vì ta thấy
từ thế kỉ X-XV văn học được phát triển trên cơ sở một giai đoạn lịch ssử
đầy tự hào của nhà nước phong kiến Việt Nam. Tự hào vì sự nghiệp xây
dựng củng cố nền tự chủ và đặc biệt tự hào vì những chiến công giữ nước
lừng lẫy, hùng khí và hào khí ấy vang dội từ các tác phẩm văn học từ bài
thơ Thần (Lí Thường Kiệt), Hịc tướng sĩ (Tràn Quốc Tuấn), Thuật hoài
(Phạm Ngũ Lão) đến Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi
Từ thế kỉ XVI trở đi, nhà nước PK việt Nam bắt đầu trên đường suy tàn,
vua chúa quan lại ăn chơi sa đoạ, các thế lực cường quyền hoành hành ,
nhân dân cực khổ nổi dậy khắp nơi, chiến tranh triền miên Nếu như ở
giai đoạn trước vận mệnh dân tộc được thử thách gay gắt thì giai đoạn
này số phận con người được đặt ra. Chủ nghĩa nhân đạo ra đời. Giai đoạn
này văn học là tiếng kêu thương, là những “khúc đoạn trường” cất lên vì
số phận vì uyền sống của con người, đặc biệt là người phụ nữ: Cung oán
ngâm khúc, chinh phụ ngâm, thơ Hồ Xuân Hương, Truyện Kiều
Từ cuối thế kỉ XIX – 1945 thực dân Pháp xâm lược nước ta, chế đọ
thực dân nửa phong kiến ra đời, dân tộc ta phải trải qua bao cảnh đau
thương, tủi nhục. Đây là thời kì mà nhân phẩm con người bị xúc phạm

sâu sắc. Ở văn học thời kì này, vấn đè dân tộc và thân phận con người
được đặt ra một cách gay gắt. Chủ đề yêu nước và chủ đề nhân đạo , tinh
thần dân tộc và dân chủ kết hợp với nhau và thấm nhuần sâu sắctừ xu
hướng văn học cách mạng đến các xu hướng hiện thực phê phán và lãng
mạn chủ nghĩa.
Hai chủ đề ấy càng được phát huy mạnh mẽ trong văn học Việt
Nam từ sau cách mạng tháng tám 1945.
BẢN CÁO TRẠNG CUỐI CÙNG
TRONG TRUYỆN KIỀU
Không ít người cho rằng đoạn Kim Kiều tái hợp là gượng gạo. Cũng có ý
kiến cho rằng cứ để Kiều trầm mình trên sông Tiền Đường là kết thúc,
chẳng cần viết thêm những đoạn về sau. Tuy nhiên, trong một tác phẩm,
nhân vật sống hay chết không phải hoàn toàn do tác giả cầm quyền sinh
sát trong tay mà còn do sức nội tại, thế nội tại của nhân vật và sự kiện , do
tương quan và mâu thuẩn trong xã hội … Mặt khác cũng không nên coi
thường cái nguyện vọng chính đáng của nhân dân muốn thấy một kết thúc
“có hậu”, ơn đền oán trả, công thưởng tội trừng; người hiền, người tốt
cuối cùng phải thắng cái xấu, kẻ ác, dù là dưới thời phong kiến.
Cái gượng gạo nếu có, nó nằm trong đoạn này :
“Một nhà phúc lộc gồm hai.
Nghìn năm dằng dặc quan giai lần lần
Thừa gia chẳng hết nàng Vân
Một cây cù mộc một sân quế hoè
Phong lưu phú quí ai bì,
Vườn xuân một cửa để bia muôn đời.”
Đây là cái văn của đôi liễn chúc tụng nhau, sáo một trăm phần trăm. Có
khi Nguyễn Du chẳng thích thú gì khi viết những câu này. Nguyễn Du là
nguời đã từng viết :
“Phong trần mài một lưỡi gươm,
Những phường giá áo túi cơm thiếu gì….”

“…Áo xiêm ràng buộc lẫn nhau,
Vào luồn ra cúi công hầu mà chi.”
Nguyễn Du từng khinh bỉ Tô Tần đâm dùi vào vế để cố mà học chẳng
qua là để mưu lợi riêng Nguyễn Du chẳng phải quí trọng gì cái thứ làm
quan “phúc lộc thọ”, cái thứ nghìn năm dằng dặc vinh hoa, cái thứ tuần tự
nhi tiến, bước lên từng bậc một, từ quan nhỏ đến quan lớn, một cây cù
mộc, con cháu đề huề Thật là một thứ thoả mản rất tư sản trong xã hội
phong kiến , dường như cây bút của Nguyễn Du đến đó cái thế chẳng lẻ
không viết như vậy ? Là vì gia đình Kim Trọng đang vui sướng kia mà ?
Nhưng viết lấy lệ theo thói tục thông thường, trong giai cấp phong kiến
mộng cho mình và chúc tụng cho nhau . Đúng thật là gượng gạo.
Mặt khác, việc Thúy Kiều tái ngộ Kim Trọng rồi thực chất là ở vậy, làm
“bạn cầm kỳ” của Kim Trọng , việc ấy nếu không gượng gạo thì cũng bất
ổn, cũng không phải là tự nhiên. Nhưng ta thử nghĩ xem tác giả có thể
làm gì khác ? Thực tế là cả Nguyễn Du lẫn Thanh Tâm Tài Nhân đã
không cho Kiều chết trên sông Tiền Đường, chết như vậy thì toàn thể độc
giả trong xã hội thời trước không chấp nhận . Kiều cần phải sống, mà đã
sống thì phải gặp lại cha mẹ, chàng Kim và hai em.Gặp lại Kim Trọng thì
giải quyết thế nào ? Chỗ này chúng ta phải khen Thanh Tâm Tài Nhân đã
giải quyết như ta thấy trong cốt truyện mà Nguyễn Du dùng “Đem tình
cầm sắt đổi ra cầm kỳ”. Nhưng ta lại khen Nguyễn Du, trên khuôn khổ
cốt truyện đã sáng tạo thêm rất lớn , làm thành bản cáo trạng cuối cùng
của Truyện Kiều nằm ngay trong đoạn vui vẻ nhất, Kim Kiều tái hợp .
Nguyễn Du không bằng lòng nói vài lời như Thanh Tâm Tài Nhân , mà
mỗi đoạn ông đem trái tim nghệ sĩ lớn , đau đớn xót xa, da diết , mỗi lời
là mỗi thương yêu Thúy Kiều , thương yêu số phận con người trong Thuý
Kiều.
…Trong cả chương Kim Kiều tái hợp , trong lời ,ngoài lời đâu đâu cũng
có cái đau mười lăm năm ấy :
Nàng rằng : “ Chút phận hoa rơi ,

Nửa đời nếm trải đủ mùi đắng cay.
Tính rằng mặt nước chân mây,
Lòng nào còn tưởng có rày nữa không.
Được rày tái thế tương phùng
Khát khao đã thoả tấm lòng bấy nay”

“Đã đem mình bỏ am mây,
Tuổi này gửi với cỏ cây cũng vừa.
Mùi thiền đã bén muối dưa,
Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sòng
Sự đời đã tắt lửa lòng ,
Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi.
Dở dang nào có hay gì?
Đã tu tu trót, qua thì thì thôi…”
Rõ ràng Nguyễn Du không những đã để trái tim mình vào trong nhân
vật , mà Nguiyễn Du chính là nhân vật: Nguyễn Du tự nói lên nỗi đau
khổ dày vò của mình qua Kiều thì mới có một giọng thơ như thế.
Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu viết : “ Cũng vì văn chương bởi tâm sự như
thế , cho nên có một sức thiêng liêng khiến người ta cảm động, ấy quyễn
Kiều mà hay, chỗ gốc thực ở đó mà văn tài của tác giả lại là phần thứ hai”
. Tản Đà để văn tài xuống hành thứ hai để chữ Tâm lên thứ nhất là chí lý;
đó cũng là một chỗ sâu sắc của Tản Đà. Ngay lời đầu tiên khi gặp nhau
như chết đi sống lại , Kiều đã cho rằng đời mình tan nát, lòng mình tan
nát , bản cáo trạng cuối cùng trong Truyện Kiều bắt đầu :
Đã tu - tu trót, qua thì - thì thôi.
Nguyễn Du đã sử dụng triệt để cuộc đoàn viên để tính sổ một lần cuối
cùng . Bản cáo trạng cuối cùng bất ngờ thật ra nằm rõ mồn một trong
chương đoàn viên này ! Tại ta đọc nhiều lần mà vẫn vô ý không nhận ra,
không trông thấy hết. Nguyễn Du không đọc bản cáo trạng bằng thuyết
lý, bình luận mà đưa ra một cáo trạng bằng xuơng thịt, bằng máu của tâm

hồn : Đây là nạn nhân sống sót sau mười lăm năm của chúng bay !
Trong tiệc hoa đoàn viên vui vầy, Thúy Vân uống chén rượu tàng tàng dở
say, đứng lên đặt vấn đề Thuý Kiều nên thành hôn với Kim Trọng…
“Bây giờ gương vỡ lại lành”…Lời lẽ Thúy Vân dừng lại ở hai câu của
Nguyễn Du:
… “Quả mai ba, bảy đuơng vừa,
Đào non sớm lưa se tơ kịp thì”
“Quả mai ba, bảy” là lấy ý trong thơ Xiếu mai trong kinh Thi nói quả mơ
còn ba, bảy quả trên cành, là tiết cuối xuân, tuy là kỳ hôn giá có muộn mà
lấy nhau cũng còn vừa. Tản Đà đã khen: “ Câu này ngẫm nghĩ thật buồn
cười như cô Kiều lúc đó mà còn có thể là “Đào non”, thời tác giả cũng
thật tài tình vậy!”. Thật là học trò biết khen Thầy.
Tài tình thật đấy chứ ! Nguyễn Du rút Thúy Kiều từ trong trái tim mình
ra, không yêu mến sao được ! Kiều ba mươi tuổi vẫn là “đào non”.
Nguyễn Du giải thích thêm :
“Hoa tàn mà lại thêm tươi.
Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa”
Kiều tưởng rời nơi tu hành về nhà là về nhà, không ngờ cuộc đời lại đòi
hỏi nàng, một mức nữa qua lời Thúy Vân. Ôi cái cô em gái “ Khuôn trăng
đầy đặn nét ngài nở nang” kia, phúc hậu lắm mà sao không ý tứ gì. Sao
lại khêu vết thương lòng tưỡng đã lành của chị ?
“ Dứt lời nàng vội gạt đi,
“Sự muôn năm cũ , kể chi bây giờ?
Một lời tuy có ước xưa,
Xét mình dãi gió dầm mưa đã nhiều.
Nói càng hỗ thẹn trăm chiều,
Thà cho ngọn nước thủy triều chảy xuôi”
Nhưng Kiều có gạt đi cũng không được nữa vì Kim Trọng đã đứng lên
tiếp lời Vân. Tất cả cái giá trị của Kim Trọng là lời nói chí tình ở phía sau
:

“ Bấy lâu đáy bể mò kim,
Là nhiều vàng đá phải tìm trăng hoa ?”
Bấy lâu anh lặn lội tìm em là vì yêu, vì nhớ em chứ đâu phải vì…chuyện
ấy:
Chàng rằng: “ Nói cũng lạ đời,
Dẫu lòng kia vậy còn lời ấy sao ?
“Duyên kia có phụ chi tình
Mà toan chia gánh chung tình làm hai ?”
Kim Trọng không biết nói gì hơn là nhắc lại lời thề, sống chết với lời thề
và dùng cách trách yêu.
Kiều bấy giờ mới nói lên thân thế mình, trong đó cái thân thế của mình
rất quan trọng. Nguyễn Du để Kiều nói đến chữ Trinh để sau đó mượn lời
Kim Trọng nói một điều làm hả lòng người đọc, chiêu tuyết cho Kiều :
“Như nàng lấy hiếu làm Trinh,
Bụi nào cho đục được mình ấy vay!”
Trong lời nói của Kiều là gì ? Nếu không phải là bản cáo trạng xã hội do
chính nạn nhân lập nên ? Trong quyển truyện đã bao lần Kiều thương
thân trách phận nhưng đến đây nhớ lại cả mười lăm năm lưu lạc, Kiều
như nát cả tấm thân; lúc tái hợp này rõ ràng là khi Nguyễn Du uất ức đến
cao độ:
“Thiếp từ ngộ biến đến giờ,
Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa.
Bấy chầy gio táp mưa sa,
Mấy trăng cũng khuyết mấy hoa cũng tàn
Còn chi là cái hồng nhan,
Đã xong thân thế còn toan nỗi nào?”
Ta đọc thử đoạn này mà vận vào thân xem thử có tủi nhục đến tận trong
xương thịt mình không ? Giày vò đến thế thì đến bao nhiêu thân cũng tan
nát huống chi là cái thân em ! “ Đã xong thân thế còn toan nỗi nào ?” Câu
thơ hàng văn bỏ lững: “ Cái thân thế em như thế đã xong chưa, còn muốn

gì nữa hở anh?” Nỗi ê chề cực nhục vẫn còn tiếp :
“Nghĩ mình chẳng hỗ mình sao ?
Dám đem trần cấu dự vào bố kinh ?
Đã hay chàng nặng vì tình,
Trông hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru ?
Từ rày khép cửa phòng thu,
Không tu thì cũng như tu mới là !
Chàng èu nghĩ đến tình xa,
Đem tình cầm sắt đổi ra cần cờ.
Nói chi kết tóc xe tơ,
Đã buồn cả mặt mà dơ cả đời !”
Kiều nhắc lại sự đi tu , vì nạn nhân ê chề quá; sự từ chối ở hai câu cuối
vẫn là cái giọng tố cáo của một nạn nhân.
Trong lời Kiều, tác giả đã mượn hình tượng “ Hoa thơm phong nhị, trăng
vành tròn gương”, “Mấy trăng cũng khuyết, mấy hoa cũng tàn”, dùng lời
Kim tác giả cải lại: “Tan sương đầu ngõ” để thấy hoa , “ vén mây giữa
trời” để tỏ trăng và “ Hoa tàn mà lại… trăng tàn mà lại”…Đó chẳng qua
là một bút pháp thông thường . KimTrọng cho rằng không nên cố chấp
trong việc hiểu chữ “Trinh”, đáp lại Kiều lần thứ hai này, Kim Trọng
cũng là kết ý bằng cách trách yêu, nhưng lần này tiêu tao hơn , tự tủi thân
là một người bị ruồng bỏ:
“Cònđiều chi nữa mà ngờ,
Khách qua đườg để hững hờ chàng Tiêu”
Lẽ của Kim Trọng cũng cứng, cha mẹ lại cũng quyết như thế , Kiều đành
phải nhận lời. Nhưng tại sao lại :
“Cúi đầu, nàng những ngắn dài thở than” ?
Nguyễn Du viết văn rất ý tứ, chuẩn bị cho lần thứ ba Kin Kiều đối đáp
trong lễ thành hôn và đêm động phòng:
“Bâng khuâng duyên mới, ngậm ngùi tình xưa”
Văn hay trước hết chưa phải ở hình tượng , âm thanh, sáng kiến …là

những điều quan trọng lắm lắm, mà văn hay trước hết là ở cái thế, ở sự
phân tích được tâm lý của hoàn cảnh. Đọc văn cũng vậy, như xem người,
chưa nên lác mắt vì quần áo, trang sức, mà cho đến đẹp mặt cũng chưa
đáng sợ! Hãy xem vầng trán suy nghĩ gì, và hai con mắt, nó là cái gương
của tâm hồn :
“Những từ sen ngó đào tơ,
Mười lăm năm ấy bây giờ là đây!”
Cái tâm lý của tình yêu như thế đó, yêu con sông muốn yêu từ suối, muốn
yêu từ nguồn, đi về tận cái thủa “má hồng”, “Sen ngó đào tơ” chẳng qua
là cái từ có sẵn, bảo là sáo cũng được; nhưng đặt vào đây…thương biết
bao từ khi em còn non, từ lúc em cần được anh bảo vệ giữ gìn … Ấy mà
Kim xa bẵng Kiều mười lăm năm, mất biệt Kiều mười lăm năm. “Bây giờ
là đây” , thế mới sáng bốn chữ “ ngậm ngùi tình xưa”…
Kiều đẹp hơn bao giờ hết và Nguyễn Du viết như là Kim Kiều yêu nhau
rất tự nhiên và đầy đủ lắm :
“Canh khuya bức gấm rủ thao,
Dưới đèn tỏ rạng má đào thêm xuân
Tình nhân lại gặp tình nhân,
Hoa xưa ong cũ mấy phân chung tình”
Nhưng đâu có hoàn toàn như thế. Nàng Kiều của Nguyễn Du lại đặt vấn
đề trở lại một lần nữa và lần này là quyết liệt. Và lần này bản cáo trạng
cuối cùng lại cất tiếng của nạn nhân lên . Ba mươi tuổi chính là lúc người
đàn bà đầy đặn trong tình yêu, sinh đẻ những đứa con đẹp đẽ, khoẻ mạnh
nhất: ở tuổi ba mươi ấy, nàng Kiều mang mãi trong mình một vết thương
đau. Nàng không thể bước qua được tâm hồn của mình - nó rất thanh tú,
tư cách của mình- nó rất tự trọng.
“Chữ Trinh còn một chút này”
“Trinh” ở đây không còn chỉ cái nghĩa vật chất., “Trinh” đây vốn do sự tế
nhị, sự sòng phẳng của tâm hồn…
Ví dụ như con để dành hồng cho bố, vợ để dành hồng cho chồng. Thiếu

cẩn thận , không may “ hồng ngâm chuột vọc, mình ngọc ngâu vầy”,
chẳng lẽ đưa quả hồng chuột gặm cho bố, cho chồng ăn hay sao ? Em
trọng anh, em trọng em ! Em còn một chút đó là trọng anh, em còn một
chút đó là tự trọng. Nghĩ như vậy, ta sẽ thương Kiều đến tê dưới chân tóc
và mỗi lời nói của Kiều hoá ra vang vang đau xót, ức lắm lâm ly. Đọc kỹ
lại mà xem, lần trước nàng chỉ xót xa, lần này trong đêm động phòng
nàng uất ức đến gay gắt:
“ Nàng rằng: “Phận thiếp đã đàng,
Có làm chi nữa cái mình bỏ đi.
Nghĩ chàng nghĩa cũ tình ghi
Chìu lòng gọi có xướng tùy mảy may
Riêng lòng đã thẹn lắm thay,
Cũng đà mặt dạn mày dày khó coi”
Bản cáo trạng của Nguyễn Du viết đến đây đã không còn bình tỉnh được
nữa, mà trong thơ văn có một cái gì xỉa xói – xỉa xói cái xã hội tàn ác, nó
là tội phạm:
“ Những như âu yếm vành ngoài,
Còn toan mở mặt với người cho qua”
Nàng như lay Kim Trọng mà hỏi:
“Lại như những thói người ta,
Vớt huơng dưới đất bẻ hoa cuối mùa
Khéo là dơ nhuốc bày trò,
Còn tình đâu nữa là thù đấy thôi!
Người yêu ta xấu với người,
Yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau”
Nếu nóichuyệnnối dõi tông đường:
“Cửa nhà dù tính về sau,
Thì đà em đó lọ cầu chị đây?
Chữ Trinh còn một chút này,
Chẳng gìn cho vẹn lại dày cho tan

Còn nhiều ân ái chan chan,
Làm chi vầy cách hoa tàn mà chơi”
Yêu nhau cách ấy chính là thù nhau gay gắt vô cùng; đến câu sau cùng
vẫn còn gay gắt. Lời Kiều dùng một lối văn thắt buộc: “ gọi có, chiều
lòng, riêng lòng, cũng đà, dù tính, thì đà…”Những từ để cãi cọ: “còn
toan, những như, lại như, khéo là,đâu nữa, đấy thôi, hay gì…” Nếu không
phải là tố cáo xã hội thì Nguyễn Du sao lại dùng hơi văn ấy ?
Tiếp theo lời Kiều, đoạn sau đây là hay nhất trong lời Kim Trọng: chí
tình, chí nghĩa, có thủy có chung:
“Chàng rằng : “Gắn bó một lời,
Bỗng không cá nước, chim trời lỡ nhau
Xót người lưu lạc bấy lâu,
Tưởng thề thốt nặng cũng đau đớn nhiều
Thương nhau sinh tử đã liều
Gặp nhau còn chút bấy nhiêu là tình”
Trong lời chàng Kim, Nguyễn Du rất trang nhã, nhưng cứ nói:
“Chừng xuân tơ liễu còn xanh,
Nghĩ sao cho thoát khỏi vành ái ân”.
… “Nghĩ” đây là Kim Trọng nghĩ : Anh thấy em còn trẻ lắm (tơ liễu còn
xanh) nên anh cứ nghĩ : Em hãy còn đang chừng xuân như thế thì làm sao
thoát khỏi sự đòi hỏi của ân ái.
Có phải là Nguyễn Du hiện thực hay không ? Và như thế là sâu sắc.
“Gương trong chẳng chút bụi trần,
Một lời quyết hẳn , muôn phần kính thêm”
Nay em đã rõ như thế, em không màng ân ái ,anh càng kính trọng em. Và
anh cũng thế:
“Bấy lâu đáy bể mò kim,
Là nhiều vàng đá, phải tìm trăng hoa ?
Ai ngờ lại họp một nhà,
Lo là chăn gối mới ra sắt cầm”

Hôm sau, Kim Trọng nói lại cho cả nhà biết tâm sự đặc biệt của đêm hôm
qua, cái đêm Kim Kiều tái hợp. Cả nhà ai cũng “lạ lùng khen lao”
“Cho hay thục nữ chí cao,
Phải nguời sớm mận tối đào như ai”
Cảm ơn Nguyễn Du đã thương người như thế, biết vì nể, gượng nhẹ cho
những trái tim, nên cố tình đem tài mình tả tình yêu của hai người ấy.
Tuy nhiên người ta vẫn nghĩ đến một thực tế: Như vậy nàng Kiều ba
mươi tuổi sẽ sống như thế nào ? Thực chất là không chồng, không con
cho đến hết đời… Và mỗi lần đọc đến đây, chúng ta không thể không
căm giận cái xã hội phong kiến suy tàn tàn ác, mỗi lần đọc đến những lời
Kiều nói, ba đợt, trong cuộc đoàn viên , chúng ta lại xót xa tức tối không
chịu nổi, mặc dù chúng ta vẫn cần phải nghiêm khắc phê phán tư tưởng
định mệnh đã làm tác giả có một thái độ tiêu cực trong việc giải quyết
bản cáo trạng cuối cùng này.
PHÂN TÍCH NGHỆ THUẬT MIÊU TẢ
VÀ TÂM LÝ THUÝ KIỀU TRONG BỐN LẦN ĐÁNH ĐÀN.
Nhân vật Thuý Kiều được giới thiệu trong truyện là một cô gái tài sắc vẹn
toàn, mà trong đó đánh đàn là một tuyệt kỹ của cô. Suốt truyện Kiều,
Nguyễn Du đã cho cô thi thố tài năng của mình bốn lần mà mỗi lần ôm
đàn là mỗi lần nàng Kiều mượn tiếng đàn để giải bày tâm sự. Đời Kiều
lao đao lận đận, tâm sự của nàng theo đó cũng thay đổi. Tài nghệ của
Nguyễn Du đã thể hiện tuyệt vời qua việc miêu tả tâm lý của nàng trong
bốn lần đánh đàn, mỗi lần là một cách khác nhau, thổ lộ một tâm trạng
khác nhau, vui có mà buồn cũng có.
Lần đầu tiên Kiều đánh đàn được miêu tả trong trường hợp “vui”. Kiều
đánh đàn “thể theo lời yêu cầu” cho chàng Kim nghe trong lần đầu gặp
gỡ. Nguyễn Du đã viết:
“So dần dây vũ dây văn,
Bốn dây to nhỏ theo vần cung thương.
Khúc đâu Hán Sở chiến trường,

Nghe ra tiếng sắt, tiếng vàng chen nhau.
Khúc đâu Tư Mã phượng cầu,
Nghe qua như oán như sầu phải chăng?
Kê Khang này khúc Quảng Lăng,
Một rằng LưuThủy, hai rằng Hành Vân.
Quá quan này khúc Chiêu Quân,
Nửa phần luyến chúa, nửa phần tư gia.
Trong như tiếng hạc bay qua,
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời.
Tiếng khoan như gió khoảng ngoài,
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa.
Ngọn đèn khi tỏ khi mờ,
Khiến người ngồi đó cũng ngơ ngẩn sầu.
Khi tựa gối, khi cúi đầu,
Khi vò chín khúc khi chau đôi mày”.
Lần thứ hai, Kiều đàn không tự nguyện mà do lệnh của Hoạn Thư. Kiều
đàn với cõi lòng tan nát :
“Bốn dây như khóc như than,
Khiến người trong tiệc cũng tan nát lòng.
Cùng trong một tiếngtơđồng.
Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm!
Giọt châu lã chã khôn cầm,
Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt Tương”.
Lần thứ ba Kiều đàn, oái oăm thay, cũng là không tự nguyện mà theo
lệnh của Tổng đốc trọng thần Hồ Tôn Hiến” trong một hoàn cảnh đau khổ
khác : Vừa bị mất chồng, phải ngồi đàn cho kẻ đã lừa mình, kẻ giết chồng
mình nghe. Nguyễn Du viết :
“ Một cung gió tảm mưa sầu,
Bốn dây rỏ máu năm đầu ngón tay
Ve ngân vượn hót nào tày,

Lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu”
Lần cuối cùng Kiều đànđược miêu tả trong Truyện Kiều khi Kim Kiều tái
hợp. Hoàn cảnh mới vui làm sao khi “mười lăm năm ấy bây giờ là đây”.
Thế nhưng tiếng đàn của Thuý Kiều lại được miêu tả ở đây là nặng bao
tâm sự:
“ Phím đàn dìu dặt tay tiên,
Khói trầm cao thấp, tiếng huyền gần xa.
Khúc đâu đầm ấm dương hoà,
Ấy là Hồ điệp hay làTrang sinh ?
Khúc đâu êm ái xuân tình,
Ấy hồn Thục Đế hay mình Đỗ quyên ?
Trong sao châu nhò duềnh quyên,
Ấm sao hạt ngọcLam điền mới đông.
Lọt tai nghe suốt năm cung,
Tiếng nào mà chẳng não nùng xôn xao”.
Rõ ràng, qua ngòi bút của Nguyễn Du, bốn lần Kiều ôm đàn là bốn hoàn
cảnh khác nhau với niềm riêng khác nhau. Nhà thơ Tế Hanh đã nhận xét :
“Nguyễn Du đã thể hiện tiếng đàn của Kiều bốn lần với bốn cách khác
nhau, bốn tâm sự khác nhau nhưng hay như nhau.”
Lấy thơ tả nhạc là một điều khó. Tả nhiều lần mà khác nhau nhưng lại
hay như nhau là một điều càng khó hơn. Nguyễn Du đã thể hiện xuất sắc
điều đó như ta đã thấy. Trong bốn lần đánh đàn ấy, tâm trạng Thuý Kiều
ra sao ?
-Lần đầu tiên và lần cuối cùng là những khúc nhạc yêu đương: Gặp gỡ,
thề nguyền yêu đương và tái hợp sau mười lăm năm lưu lạc,xa nhớ “tình
nhân lại gặp tình nhân”.
-Hai lần kia là những khúc nhạc đau khổ, oán hận.
Ta hãy thử so sánh và phân phân tích tâm lý Kiều trong những đoạn ấy,
những lần ôm đàn ấy:
Lần đầu tiên và lần cuối cùng là nhưng khúc nhạc yêu thương, những

tiếng đàn của tình yêu, những lần “đàn theo yêu cầu” và với một sự tự
nguyện. Xa cách mười lăm năm, nghe lại tiếng đàn của Kiều Kim Trọng
nhận xét “xưa sao sầu thảm, nay sao vui vầy”. Nhưng có đúng là khúc
nhạc đầu là “sầu thảm” còn khúc nhạc sau là “vui vầy” ? Có lẽ tâm trạng
đó chỉ đúng cho chàng Kim mà thôi chứ Kiều thì không hẳn.
Thật ra lần đầu đánh đàn cho Kim Trọng nghe, thì còn gì hạnh phúc
bằng ? Nếy có buồn chăng thì đo cũng cũng chỉ là cái bâng khuâng
thương cảm vì lo sợ cho một tình yêu mới hình thành chưa biết sẽ ra sao.
Cái buồn của những người đang yêu và được yêu . Cái buồn của nhưng
người đang hạnh phúc nhưng lại sợ hạnh phúc nửa chùng tan vỡ.Một thứ
buồn lãng mạn mà Kiều đã tự phê bình là “rằng quen mất nết đi rồi”…
Còn cái vui của tiếng đàn tái hợp thì chỉ là cái vui của những người hết
thời “hoa thơm phong nhị, trăng vành tròn gương”. Cái vui của lí trí đứng
đắn, cài vui đã có “khói trầm” bay rồi. Làm gì có cái vui của tiếng đàn lần
thứ nhất với “tiếng hạc bay qua”, với “nước suối mới sa nửa vời” ?
Cho nên có thể nói : Cũng là hai khúc nhạc tình yêu, nhưng cái buồn
trong khúc nhạc yêu đương đầu tiên là buồn mà pha vui, còn cái vui trong
khúc nhạc yêu đuơng lần sau là cái vui mà lại pha buồn.
Đoạn đầu, khúc nhạc tràn trề trong 18 câu. Đoạn cuối, tiếng nhạc chỉ kéo
dài trong 10 câu.
Lần đánh đàn thứ hai và thứ ba là những đoạn đau khổ. Nhưng hãy thử so
sánh tính cách của từng đoạn ấy ta sẽ thấy những khá biệt.
Cái đau khổ của Kiều khi đánh đàn cho Hoạn Thư và Thúc sinh nghe là
cái đau khổ của “người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm”. Nó phát
ra những giai điệu bi ai đến “khiến người trong tiệc cũng tan nát lòng” .
Hoàn cảnh thật éo le khi biết mình đang ở đâu, đang chịu kiếp nạn gì.
Thật bất ngờ khi chợt phát hiện ra từ lâu nay mình đang bị “trả thù” với
một kiểu “đánh ghen” lạ lùng nhất Thật bẽ bàng khi chạm mặt người
yêu ngay trong nhà người ấy nhưng là “làm ra con ở chúa nhà đôi nơi” và
mình phải đáng đàm mua vui cho người ấy hưởng thụ với một người đàn

bà khác đang hành hạ mình làm cho mình “đau đớn ê chề”.
Nhưng đền đoạn Kiều đàn cho Hiồ Tôn Hiến nghe thì cái đau khổ còn
ghê hơn một bậc. Đánh đàn hầu cho kẽ đã giết chồng mình ! Đánh đàn
trong đaukhổ với cái xác chồng mới vùi bên sông, cái tang chồng chưa
trọn vẹn nghĩa phu thê. Nó đau khổ đến nỗi “ Một cung gió thãm mưa
sầu. Bốn dây rỏ máu năm đầu ngón tay” , cái đau khổ ấy lan toả vào trong
âm điệu đến mức Hồ Tôn Hiến, môt võ quan “mặt sắt” mà cũng phải
“nhăn mày rơi châu” thì quả thậ là cái đau khổ ở đây là không chịu nỗi
nữa ! Trong đoạn hai, tác giả còn kéo dài được 6 câu, nhưng đến đoạn 3
thì chỉ còn có 4 câu. Ở đây có một cái gì như đứt hơi .
Tóm lại, bốn lần đánh đàn của Kiều được Nguyễn Du mô tả trong bốn lần
với bốn tâm sự khác nhau, và trong mỗi lần ấy tiếng đàn đã được người
nghe cảm thụ là những khúc nhạc “buồn”. Buồn nhưng rất hay, làm xúc
động lòng người. Tuy nhiên, nếunói rằng hay nhất thì chỉ có lần đầu tiên
khi gảy cho Kim Trọng nghe. Trong lần này, Kiều đàn trong sự tự nguyện
và đồng thời cũng có ý “phô diễn” tài năng, hiểu biết của mình trong
những ngón đàn : nào là Lưu Thủy, Hành Vân, Quảng Lăng, Chiêu
Quân…Đó là tiếng đàn của mùa xuân, của tuổi trẻ, của tình yêu, của
“những gặp gỡ diệu kỳ giữa nhạc và thơ” như nhà thơ Tế Hanh nhận xét
vậy

×