Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Nguyên nhân và giải pháp khắc phục tâm lý ngại học môn nghe tiếng anh đối với sinh viên năm thứ nhất ở các trường đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.74 KB, 33 trang )

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC TÂM LÝ NGẠI HỌC
MÔN NGHE TIẾNG ANH ĐỐI VỚI SINH VIÊN NĂM THỨ NHẤT Ở
CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC

A - PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài ( tính cấp thiết của đề tài )
Muốn có một vốn tiếng Anh tốt và ổn định thì đòi hỏi chúng ta phải
quan tâm, chú ý bắt tay ngay vào những bài giảng, giờ học đầu tiên. Bạn
thắc mắc tại sao lại như vậy?
Những bài học đầu tiên khi sinh viên bắt đầu làm quen với môi trường học
mới được xem là những kiến thức cơ bản, là nền tảng, là những bước đi tiên
quyết, mở đầu và làm cơ sở cho những bài học tiếp theo trong quá trình tiếp
thu, lĩnh hội.Việc học ngoại ngữ nói chung và việc học tiếng Anh nói riêng
được ví như các bước trình tự để xây dựng một ngôi nhà hay một công trình
xây dựng.Khi người kĩ sư thiết kế cho một công trình xây dựng thì bước đầu
tiên bao giờ cũng phải tính toán để làm sao có thể tạo dựng một nền móng,
cột trụ thật vững chẵc, làm nền cho những viên gạch hồng tiếp theo.Ngược
lại , nếu như họ không chú ý ngay từ những bước đầu thì dù cho những viên
gạch sau này có được chát vôi vữa kĩ đến đâu hay người thợ có cố gắng đến
mấy thì sớm muộn gì công trình đó cũng bị hư hại hoặc là bị sụp đổ. Quy
luật tất yếu đó cũng có ý nghĩa thực tiễn trong quá trình học tiếng Anh của
sinh viên khoa du lịch viện đại học Mở Hà Nội nói chung và đặc biệt đối với
các bạn sinh viên năm thứ nhất của khoa nói riêng. Bởi đối với các bạn sinh
viên năm thứ nhất, năm đầu tiên ở đậi học chính là các năm các bạn phải
làm quen với môi trường học mới, là năm các bạn phải tự tạo dựng nền tảng,
hướng đi đúng đắn trong quá trình tiếp thu, lĩnh hội trong những bài giảng
của giáo viên và trong những giờ thảo luận tiếng Anh ở trên lớp.
Tiếng Anh được xem là bộ môn quan trọng trong khoa du lịch viện đại
học Mở Hà Nội. Bởi nó có ý nghĩa rất thực tiễn và cần thiết cho công việc
sau này của sinh viên.Chính vì thế nên nhà trường rất chủ trọng đến việc đào


tạo tiếng Anh cho các bạn và được bắt đầu ngay từ năm đầu tiên . Nhưng
qua tìm hiểu thực tế từ các kì thi 1Avà1B cho thấy kết quả học tập bộ môn
tiếng Anh của các bạn sinh viên năm thứ nhất là chưa cao. Và đặc biệt là với
kĩ năng nghe các bạn còn gặp nhiều khó khăn, khúc mắc.
Do kĩ năng nghe là một kĩ năng khó(theo ý kiến của hầu hết các bạn sinh
viên năm thứ nhất)
Nên dẫn đến một kết quả không đáng ngạc nhiên từ các bạn sinh viên. Đó là
tình trạng sợ giờ học nghe, làm việc riêng trong giờ học nghe, hay ngồi nghe
nhưng không tập trung hoặc là không yêu thích giờ học nghe
Thứ hai do từ trước đến nay đã có hoặc chưa có những nghiên cứu về
đề tài này nhưng vẫn chưa đầy đủ, chưa đi sâu vào những chi tiết cụ thể hoặc
là chưa có tính thuyết phục cao.
Thứ ba, bản thân em không phải là học kém tiếng Anh nhưng trong
quá trình học nghe cũng gặp không Ýt những khó khănđối với kĩ năng này.
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của sinh viên, từ lý do về mặt lý luận và từ
kinh nghiệm của bản thân đối với bộ môn nghe. Em muốn đi sâu phân tích,
tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến tâm lý ngại học môn nghe tiếng Anh của các
bạn sinh viên năm thứ nhất để từ đó đưa ra những giải pháp phù hợp cũng
như lược bỏ và bổ xung thêm nội dung của các đề tài nghiên cứu khoa học
trước đây.
2 ) Mục tiêu và mục đích nghiên cứu
2.1) Mục tiêu
Kĩ năng nghe là một kĩ năng cơ bản, đòi hỏi sự kết hợp hài hòa giữa các kĩ
năng cơ bản như: từ vựng, kĩ năng nghe và nói và đặc biệt là tâm lý người
nghe nữa.Nên có thể khẳng định đây là một kĩ năng khó và phức tạp. Nên để
nghe tốt không phải là điều dễ dàng. Thực tế cho thấy hiệu quả giờ nghe vẫn
chưa cao: cụ thể là trong giờ học nghe các bạn vẫn chưa bắt kịp thông tin từ
băng đài,trong thi cử, điểm thi của bộ môn Anh văn thì hầu như là không có
điểm của môn nghe ( trong bazem điểm Anh: điểm thi môn viết =kĩ năng
viết + kĩ năng nghe).Trong một phòng thi,chỉ có khoảng 40% các bạn có

điểm thi nghe, còn 60% còn lại là có điểm nhưng thấp hoặc không có điểm
thi cho kĩ năng này.
Chính vì thế mà em đã chọn đề tài này với mục tiêu là đề xuất ra những giải
pháp phát triển kĩ năng nghe hiểu để khắc phục tâm lý ngại học nghe của các
bạn sinh viên năm thứ nhất.
2.2) Mục đích
nhằm nâng cao hiệu quả việc dạy và học đối với kĩ năng nghe hiểu cho các
bạn sinh viên năm thứ nhất.
3) Đối tượng nghiên cứu
Để tìm hiẻu nguyên nhân dẫn đến tình trạng học môn nghưe tiếng Anh đối
với sinh viên năm thứ nhất khoa du lịch đại học Mở, chúng tôi đã làm một
bảng điều tra xã hội học
- Phạm vi nghiên cứu : gồm có 3 lớp:A1K10, A2K10, BK10
- Đối tượng khảo sát: một lớp gồm 2 đến 3 nhóm học tiếng Anh , mỗi
nhóm khoảng 10 sinh viên
Tổng sè sinh viên được được điều tra khoảng 60 người
4 ) Phương pháp nghiên cứu
4.1 ) Điều tra trực tiếp: được tiến hành thông qua quá trình trao đổi, thảo
luận và nói chuyện với các bạn trong lớp và các lớp khác.
4.2) Dùng phiếu câu hỏi hoặc bảng hỏi với hai hình thức
- Câu hỏi đóng: tích vào ô trống ( lựa chọn)
- Dùng câu hỏi mở: trả lời theo câu hỏi đã in sẵn
Bảng hỏi
1) Bạn từ đâu đến ?
+ Miền núi
+ Đồng bằng
+Thành phè
2) Bạn có phải lần đầu là sinh viên ?
+ Có
+ Không

3) Trong PTTH, bạn đã được học tiếng Anh ?
+ Hệ 3 năm
+ Hệ 7 năm
+ Chưa học
4) Bạn nghĩ gì về môn học tiếng Anh ?
+ Hay
+ Bình thường
+ Chán
5) Bạn học tiếng Anh vì lý do gì ?
+ Học theo sở thích
+ Học vì nghĩa vụ
6) Bạn có thích môn nghe không ?
+ Thích
+ Bình thường
+ Không thích
7) Bạn thấy phương pháp dạy tiếng Anh ở trường như thế nào ?
+ Tốt
+ Bình thường
+ Chán
8) Bạn thấy giáo viên tiếng Anh của bạn như thế nào
+ Dạy khó hiểu
+ Bình thường
+ Dạy dễ hiểu
9) Ngoài việc học tiếng Anh ở trường, bạn có học thêm ở ngoài
không ?
+ Có
+Không
10)Bạn có ý kiến gì về phương pháp dạy và học nghe tiếng Anh
nhằm nâng cao chất lượng môn học này không ?
Cảm ơn các bạn đã trả lời những câu hỏi trên

Chúc các bạn học tốt môn tiếng Anh
Sau khi tiến hành cuộc điều tra về thực trạng giờ học nghe trong phạm vi
khoá 10 dành cho các bạn sinh viên năm thứ nhất thì kết quả và ý nghĩa rót
ra từ cuộc điều tra như sau:
Câu 1: Theo số liệu thống kê cho thấy trong sè 60 bạn được điều tra thì
33,7% sinh viên đến từ thành phố, 43,3% đến từ vùng đồng bằng và 20%
còn lại đến từ miền núi.Từ đó rót ra được kết luận sinh viên đến từ những
vùng khác nhau của tổ quốc nên có sự khác biệt nhau về giáo dục trước đây.
Đó là sự khác biệt về chương trình học ví dụ hệ 3 năm, hệ 7 năm
Đó là sự khác nhau về trang thiết bị phục vụ cho giờ học ví dụ các trường
chuyên ban D thì có các thiết bị bổ trợ cho môn nghe và đi chuyên sâu hơn
về bộ môn tiếng Anh hơn các trường khác (các trường không chuyên ban ).
Dẫn tới tình trạng trong một lớp, một nhóm hay cả một khối có sự chênh
lệch nhau về trình độ tiếng Anh là điều tất yếu.
Câu hái 2:bạn có phải là lần đầu tiên là sinh viên ?
Kết quả cho thấy là 87% sinh viên trả lời là lần đầu tiên là sinh viên còn
13% không phải là lần đầu tiên là sinh viên tức là 13% các bạn sinh viên
năm đầu của khoa du lịch viện đại học Mở đã hoặc đang học tại một trường
khác( dân lập, cao đẳng hoặc đại học )Ta thấy số sinh viên trả lời lần đầu
tiên là sinh viên lớn gấp 6 lần số sinh viên trả lời là không với câu hỏi trên.
Tuy đối tượng trả lời là lần đầu tiên là sinh viên chiếm tỉ lệ không cao nhưng
Ýt nhiều nó cũng ảnh hưởng tới thực trạng học bộ môn Anh hiện nay. Bởi
những bạn sinh viên nằm trong con sè 13% nói trên trong bước đầu làm
quen với bộ môn tiếng Anh trong môi trường đại học vẫn có lợi thế hơn vì
đã từng được làm quen với các kĩ năng hoặc là đã được học qua bộ môn
tiếng Anh nên trong quá trình học và tiếp thu bài giảng sẽ dễ dàng hơn dẫn
đến chất lượng và hiệu quả học tập của họ sẽ tốt hơn so với các bạn lần đầu
là sinh viên.
Câu hái 3: Đa số các bạn sinh viên được hỏi “trong PTTH đã được học
chương trình tiếng Anh gì thì 80% bạn trả lời là được học hệ 3 năm, 15%

các bạn học hệ 7 năm,5% còn lại chưa được học tiếng Anh. Kết quả phản
ánh một điều: hầu hết sinh viên có biết hay đã được học tiếng Anh.Tuy
nhiên những bạn chưa học thì sẽ gặp không Ýt khó khăn và trở ngại trong
quá trình làm quen vơí cách thức dạy và học mới trong môi trường đại học.
Câu hái 4: Khi hỏi về suy nghĩ của các bạn sinh viên năm thứ nhất khoa
du lịch viện đại học Mở đối với bộ môn tiếng Anh thì 71,7% các bạn cho
rằng môn tiếng Anh là một môn học hay và bổ Ých,20% cho là bình thường
và 8,3 cho rằng tiếng Anh là một môn học không hay.ở đây số sinh viên
đánh giá cao bộ môn tiếng Anh chiếm tỉ lệ khá cao 71,7%còn số sinh viên
không thích bộ môn này chiếm một tỉ lệ rất nhỏ 8,3%.Điều này cho thấy các
bạn sinh viên năm đầu phần nào cũng nhận thức được tầm quan trọng của
môn học.
Câu hái 5:Nhận thức của các bạn sinh viên đối với bộ môn tiếng Anh là
tích cực như vậy còn động cơ học tiếng Anh của các bạn thì sao ? Kết quả
này là có 63% trả lời là học theo sở thích và 37% trả lời là học theo nghĩa vụ
Có thể đưa ra nhận định rằng:”đa số sinh viên học môn tiếng Anh là xuất
phát từ sự yêu thích, sự hứng thú, say mê với môn học mà không mang tính
chất bắt buộc. Nhưng bên cạnh đó con sè 375 số bạn sinh viên học theo
nghĩa vụ không phải là nhỏ chiếm hơn 1/3 tổng số sinh viên được điều tra.
Vậy động cơ học tiếng Anhtheo nghĩa vụ của các bạn sinh viên này nảy sinh
từ đâu ? Sau khi tiến hành các cuộc điều tratrực tiếp bằng phương pháp trao
đổi, thảo luận, phỏng vấn các bạn sinh viên trong cùng một lớp và các nhóm
sinh viên khác nhau khoá 10 khoa du lịch viện đại học Mở thì rót ra được
những nguyên nhân chính sau:
Việc học tiếng Anh mang tính chất bắt buộc là do áp lực của môn học với
các bạn sinh viên : Vì tiếng Anh là một bộ môn rất quan trọng trong khoa
với số đơn vị học trình khá cao ( khoảng 8 đơn vị học trình một kì ) nên các
bạn học viên phần nhiều là chỉ chú trọng vấn đề điểm số. Tức là mục tiêu
chính của của các bạn không kiến thức mà là các đầu điểm của môn học
.Chính điều này đã dẫn đến một kết quả tiêu cực là việc học tiếng Anh

không phải xuất phát từ sở thích , nhu cầu của bản thân nữa mà mang tính
chất nghĩa vụ, Ðp buộc mình vào khuôn khổ môn học.
Thêm vào đó, bên cạnh những bạn học khá hoặc là học chăm vẫn còn
những bạn lười học không hứng thú với bộ môn tiếng Anh.
Ngoài ra còn một số nhân tố nữa cấu thành nên tính chất học bắt buộc của
sinh viên năm thứ nhất của khoa du lịch. Đó là trong quá trình học có một số
bạn không tiếp thu được những bài giảng giáo viên truyền thụtừ đó tạo cảm
giác chán đối với bộ môn tiếng Anh, không thích học tiếng Anh . Khía cạnh
này gián tiếp tác động tới chất lượng và hiệu quả giờ học. Có thể tóm lược
lại như sau: Do không tiếp thu,lĩnh hội được bài giảng dẫn đến chán ghét,
không thích học tiếng Anh do vậy sợ, ghét những giờ học tiếng Anh và cảm
thấy những giờ học tiếng Anh nhàm chán đua ra một kết quả tất yếu học
tiếng Anh trở thành nghĩa vụ mang tính chất bắt buộc.
Câu hái 6: Nếunhư những câu hỏi trên chúng ta chỉ đề cập đến những
vấ đề về bộ môn tiếng Anhnói chung thì đến câu hỏi này chúng ta đi tìm
hiểu một vấn đề, một khía cạnh của nó. Đó là bộ môn nghe hiểu hay còn gọi
là kĩ năng nghe. Khi được hỏi về kĩ năng này thì 31,7 % trả lời là thích học
nghe, 455 sinh viên trả lời là bình thường, còn 23.3% trảlời là không thÝch.
Như vậy so với câu hỏi 5 khi hỏi về suy nghĩ của các bạn đối với bộ môn
tiếng Anh thì ở câu hỏi này số sinh viên trả lời là không thích bộ môn nghe
tiếng hiểu tăng lên đáng kể tăng hơn 15%. Rót ra ý nghĩa là kĩ năng nghe là
một kĩ năng khó đối với các bạn sinh viên năm thứ nhất khoa du lịch viện
đại học Mở. Vấn đề đặt ra là làm sao khắc phục được nó. Đây không phải là
câu hỏi của riêng bản thân em trong đềtài này mà nó còn là trăn trở của
nhiều giáo viên và các bạn sinh viên trong khoa trong quá trình nâng cao
chất lượng dạy và học.
Câu hái 7:Về phương pháp dạy và học tiếng Anh ở trường đại học Mở
thị có 21,7% sinh viên cho rằng là tốt, 58,3% cho là bình thường, 30% cho là
phương pháp dạy là chán và không hay. Nhiều ý kiến từ các bạn sinh viên
cho rằng chất lương và kết quả học của họ chưa cao, chưa có hiệu quả là do

thiếu sự giảng dạy của chuyên gia nước ngoài. Thực ra, như từ những năm
trước đây các bạn sinh viên năm thứ nhất của các khoá trên được tiếp xúc và
làm quen dần với phương pháp dạy của các giảng viên nước ngoài. Nhưng
năm nay, do điều kiện không cho phép giáo viên, chuyên gia nước ngoài
được nhà trường bổ nhiệm giảng dạy khoá 10 có việc đột xuất nên tạm thời
không thể tham gia giảng dạy với các bạn năm thứ nhất khoa du lịch được.
Thực ra nói theo một cách khách quan thì bộ phận giáo viên giảng dạy tiếng
Anh người Việt Nam trình độ không thua kém gì các chuyên gia bởi các
thầy cô cũng được đào tạo kĩ qua các trường lớp chuyên ngành du lịch,
Trong giờ học các thầy cô giảng dạy rất nhiệt tình, rất có tinh thần trách
nhiệm.Các giáo viên cũng kết hợp học và chơi, chơi và học làm cho tiết học
trở nên hứng thú, không khí lớp học bớt căng thẳng và trở nên sôi nổi hơn
Vậy với những ưu điểm và những khía cạnh tích cực như đã nêu ở trên tại
sao sè lượng sinh viên cho rằng phương pháp dạy tiếng Anh ở trường ta là
không tốt, khônghay lại vẫn chiếm tỉ lệ cao tương đối như vậy (xấp xỉ 1/3
sinh viên được điều tra )? Hay đó chỉ là ý kiến mang tính chất chủ quan của
sinh viên.Tức là sinh viên quá coi trọng việc giảng dạy của giáo viên nước
ngơài.
Câu hái 8: Khi được đưa ra câu hỏi về ý kiến của các bạn về giáo viên
tiếng Anh thì kết quả thu được không mấy khả quan 13,5% sinh viên cho
rằng giáo viên của họ dạy khó hiểu, 56,7% sinh viên cho là bình thường và
29,8% cho là giáo viên dạy hay và dễ hiểu. Như vậy là bên cạnh những bạn
cho rằng giáo viên tiếng Anh dạy tốt còn một số bạn đưa ra ý kiến nhận xét
chưa khách quan,chưa đúng về giáo viên tiếng Anh trường ta.Theo như tổng
kết về những mặt mạnh về đội ngũ giáo viên đã được phân tích,trình bày ở
câu 7và theo ý kiến đông đảo của đại đa số sinh viên phản ánh về giáo viên
trường ta là có năng lực, sôi nổi, có tinh thần trách nhiệm cao, cách thức
giảng dạy hay
Từ đó ta có thể rót ra nhận định sau
Một là: các bạn sinh viên {xet sinh viên khoá X năm đầu của

trường }.trong quá
Làm quen với các kĩ năng tiếng anh mới ,phương pháp dạy và học mới các
bạn vẫn còn tâm lí chưa quen .Nên việc tiếp thu và lĩnhhội kiến thức hay bài
giảng đối với các bạnquả là không mấy dễ dàng .Điều này dẫn đến một hệ
quả là kết quả học tập của các bạn không cao ,chưa có hiệu quả .chính vì vậy
mà trong số những sinh viên của khoa không Ýt những bạn đổ lỗivề kết quả
học tập của mình cho đội ngũ giáo viên tiếng anh hay nói cách khác là họ
dồn hết trách nghiệm cho các giáo viên bộ môn
Hai là ,do trình độ tiếng anh của các bạn là khác nhau trong một
nhóm ,một lớp, một khối. Nên trong quá trình giảng dạy và truyền đạt kiến
thức vẫn còn những điểm không tương đồng giữa thàyvà trò .Bởi có thể
phương pháp giảng day của giáo viên bộ môn tiếng anh phù hợp với trình độ
,khả năng nhận thức của đối tượng sinh viên này nhưng lại không thích hợp
với những đối tượng sinh viên khác( giữa sinh viên học hệ 3năm với sinh
viên học hệ 7năm ;giữa những bạn đã từng học ở một trường đại họcvới
những bạn lần đầu là sinh viên ;giữa những bạn đi học thêm tiêngs anh với
những bạn chỉ theo học chương trình ở trên lớp).Chính vì thế mà nó dẫn đến
những nhận xét không đồng nhất về giáo viên giảng dạy bộ môn tiếng anh
khoa du lịch viện đại học Mở HANOI.Đây chính là tính hai mặt của một vấn
đề .Vấn đề đặt ra ở đây là:giáo viên và sinh viên phải làm thế nào để giải
quyết được mâu thuẫn đó nhằm mục đích nâng cao chất lượng dạy và học ?
Câu hái 9:Việc học thêm hiện nay phổ biến đặc biệt là học tiếng.Điều
này tác động không nhỏ tới trình độ học tiếng Anh của các bạn
Sau khi tiến hành điều tra trong các bạn sinh viên năm thứ nhất khoa du lịch
thì thu được kết quả: 26,7% có đi học thêm, 73,63% trả lời là không đi học
thêm.
Điều này cho thấy đa sôsinh viên không theo học thêm ở ngoài nhiều và
đáng chú ý là các bạn học thêm tiếng Anh ở ngoài thì trình độ tiếng Anh và
khả năng nghe của các bạn khá hơn rất nhiều.
Câu 10:Từ kết quả điều tra cho thấy có rất nhiều nguyên nhân dẫn tới

tình trạng học kém môn tiếng Anh. Nhà trường nên quan tâm hơn đến những
nguyên vọng của sinh viên để sinh viên được học tập một cách tốt nhất, hiệu
quả nhất.
Số các bạn trả lời câu 10 là 60%, 40% không có ý kiến góp ý.
Đa số góp ý của các bạn là:
- Bố trí giáo viên nước ngoài giảng dạy các bạn ngay từ năm đầu tiên.
- Tăng cường giờ học nghe và nói nhiều hơn.
- Sinh viên nên được dạy cách phát âm chuẩn và các kĩ năng nghe như nối
âm, đọc tắt để nghe được tốt hơn.
- Nên tổ chức nhiều hơn các buổi giao lưu, nói chuyện. Đồng thời trong
giờ giảng giáo viên nên kết hợp các trò đố vui bằng tiếng Anh làm cho
tiết học sinh động hơn.
- Cho sinh viên mượn băng về nhà nghe thêm.
- Nâng cao chất lượng băng đài và xây dựng một phòng máy bổ trợ cho kĩ
năng nghe của sinh viên.
B. NỘI DUNG ĐỀ TÀI
B1 ) Cấu trúc đề tài: gồm 3 chương
- ChươngI: tiếng anh là môn học mang tính thực tiễn và là một phương
tiện giao tiếp hiệu quả.
- Chương II: Thực trạng giờ học nghe của sinh viên năm thứ nhất khoa du
lịch viện đại học Mở Hà Nội.
- Giải pháp khắc phục tâm lý ngại học giờ nghe của sinh viên khoá 10
B2) Nội dung đề tài
1)CHƯƠNG1:CƠ SƠ LI LUAN CUA ĐÊ TAI
1 ) Học ngoại ngữ
1.1) Định nghĩa về ngoại ngữ:
Các cuốn từ điển và các bộ bách khoa toàn thư đã đưa ra những định nghĩa
ngắn gon về ngoại ngữ như sau:
-Ngoại ngữ là một ngôn ngữ có một hệ thống âm thanh tuỳ ý cho phép
những người đã học qua hệ thống của nền văn hoá đó giao tiếp, trao đổi với

nhau ( Finocchiaro 1964:8 )
- Ngoại ngữ là một hệ thống giao tiếp bằng âm thanh hoạt động trên cơ sơ
các phát âm ( lời nói ) và hình thành viên của một cộng đồng . Nó có vai
trò tạo ra cácmối liên hệ giữa các thành viên của một quỗc gia này với
thành viên của quốc gia khác trên toàn thế giới và hình thành nên mối
liên hệ giữa các quốc gia trên tất cả các lĩnh vực: văn hoá, kinh tế, chính
trị ( Pei 1966:141)
- Ngoại ngữ là một tổ chức hay một hệ thống các biểu tượng ngôn ngữ
được sử dụng theo hình thức thống nhất và cho phép họ hiểu được nhau (
Wardhaigh 1972:3 )
- Ngoại ngữ là một hệ thống tuỳ ý dùng cho giao tiếp giữa người với người
( Random House Dictionary of the language 1966:806 )
- Ngoại ngữ là phương tiện bằng âm thanh hay những hình thức khác để
biểu đạt những tình cảm, suy nghĩ giữa các cá nhân không cùng một quốc
gia, là một hệ thống kí hiệu có quy ước đặc biệt về từ chỉ có ý nghĩa cố
định ( Webster’s new international Dictionary of the English language
1961:1270 )
Tóm lại ta có những tổng kết về ngoại ngữ như sau:
1- Ngoại ngữ có giá trị ngoài phạm vi quốc gia.
2- Ngoại ngữ có tính hệ thống và tính phát sinh.
3- Ngoại ngữ được sử dụng để giao tiếp trên tất cả các lĩnh vực của cuộc
sống: kinh tế, văn hoá, chính trị, xã hội giữa các quốc gia với nhau
hoặc là giữa các thành viên của nhiều quốc gia khác nhau.
4- Ngoại ngữ là phương tiện , là cầu nối duy trì mối quan hệ giữa các
quốc gia.
5- Ngoại ngữ được mọi người học một cách tương tự như nhau
Có thể nói ngoại ngữ và việc học ngoại ngữ là mang tính toàn cầu.
6- Ngoại ngữ là ngôn ngữ thứ hai ngoài ngôn ngữ mẹ đẻ giúp cho những
người có quốc tịch khác nhau có thể giao tiếp được với nhau
1.2-Định nghĩa về tiếng Anh

Tiếng Anh là một ngôn ngữ truyền thông mang tính quốc tế, là ngôn ngữ có
hiệu lực rộng khắp và có thể được sử dụng trên bất kì quốc gia nào và trong
bất kì lĩnh vực nào:kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội Nó cho phép bạn có
thể giao tiếp được với tất cả những đối tượng không cùng một quốc tịch trên
thế giới .
1.3 )Đặc điểm của việc học ngoại ngữ nói chung và tiếng Anh nói riêng
- Nói chung khi bạn học tiếng Anh hay bất kì một môn khoa học nào cũng
như tất cả các lĩnh vực trong cuộc sống thì đièu đầutiên bao giờ bạn cũng
phải có một niềm đam mê, yêu thích đối với nó. Đó chính là động lực thúc
đẩy giúp cho chóng ta tiếp thu,lĩnh hội và nhận thức về nó nhanh hơn,sâu
sẵc hơn và đầy đủ hơn.
- Tiếng Anh là một môn khoa học khó nên nó đòi hỏi ở người học sự chăm
chỉ rèn luyện ,chịu khó thực hành, học hỏi,trau dồi kiến thức
Một đòi hỏi nữa không kém phần quan trọng đó là việc tự tìm ra phương
pháp học cho bản thân
- Học ngoại ngữ cũng như tiếng Anh không thể thiếu sự thực hành thưc tế,
tham khảo thêm tài liệu ở bên ngoài
1.4 )Tầm quan trọng của việc học tiếng Anh
Tiếng Anh được xem là phương tiện, là cây cầu kết nối, duy trì mối quan hệ
của nước ta với nhiều nước trên toàn thế giới .
Xét ở tầm vi mô, trong lĩnh vực du lịch, thì tiếng Anh là một môn học có vai
trò rất quan trọng vàcó ý nghĩa rất thiết thực đối với tiềm năng du lịch nước
ta .
Thật vậy,dulịch trên phạm vi thế giới đã trở thành một nhu cầu không thể
thiếu trong đời sống xã hội và ngày càng được phát triển nhanh. Còng theo
xu hướng phát triển du lịch thế giới cũng như hoà nhập với trào lưu phát
triển du lịch trong khu vực Đông Nam á. Du lịch Việt Nam đang không
ngừng phát triển đi lên, đã và đang có những bước tiến nhất định và ngày
càng có những tác động tích cực hơn đến nhiều lĩnh vực của đời sống ,kinh
tế, chính trị của đất nước.

Chính vì lẽ đó mà hiện nay du lịch Việt Nam được xem như là một trong
những ngành kinh tế mũi nhọn( ngành công nghiệp không khói ) có tiềm lực
lớn trong việc thúc đẩy sự phát triển của kinh tế.Hàng năm nó mang lại một
doanh thu không nhỏ cho ngân sách nước nhà. Thời gian qua do chính sách
đổi mới của Đảng và nhà nước và đặc biệt là chính sách mở cửa ra thế giới
bên ngoài đã làm cho du lịch Việt Nam có những thay đổi rõ rệt.Điều này
được thể hiện qua số lượng du khách quốc tế đến Việt Nam những năm gần
đây.
Năm 1998 ? lượt khách
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002,lượng khách nứoc ngoài đến Việt Nam được kết luận là tăng hơn
so với mọi năm.Như tình trạng “cháy khách sạn” ở thành phố hà Nội.Dự
tính đến năm 2003 con số này còn có thể vượt xa hơn nữa ( sự kiện Seagame
2003 ,năm du lịch Việt Nam )
Kháchdu lịch đếnViệt Nam không phải là từ cùng một nước hay là một chau
lục mà là từ nhiều quốc gia tren toàn thế giới mà ngôn ngữ của từng nước là
không giống nhau.Vậy để giới thiệu cho khách quốc tế về phong tục, tập
quán, truyền thống văn hoá cũng như nét đẹp của con người và đất nước
Việt Nam hay là để phục vụ nhu cầu nghỉ ngơi cho du khách được tốt hơn,
chu đáo hơn thì phương tiện duy nhất mà nhân viên du lịch có thể sử dụng
chỉ có thể là một thứ ngôn ngữ quốc tế mang tính toàn cầu, đố chính là tiếng
Anh
1.5 ) Tầm quan trọng của kĩ năng nghe tiếng Anh
Trong bốn kĩ năng tiếng Anh( nghe,nói, đọc,viết )thì kĩ năng nghe được xem
là kĩ năng khó nhất.Nhưng thực tế cho thấy nó lại là một kĩ năng cơ bản rất
cần thiết cho quá trình giao tiếp và có ý nghĩa thực tiễn cho công việc của
chúng ta sau này.Vì vậy, việc cải thiện kĩ năng nghe cho các bạn sinh viên
ngay từ năm đầu là một yếu tố rất cần thiết. Bởi có nghe tốt thì trong quá

trình giao tiếp và phục vụ khách nước ngoài ( đối tác nước ngoài ), bạn mới
có thể tiếp nhận thông tin một cách chính xác, kịp thời cũng như giải đáp
được những nhu cầu, thắc mắc của du khách hợp lý hơn
1.5.1 ) Tầm quan trọng của kĩ năng nghe với người học tiếng Anh :kĩ năng
nghe bổ trợ cho những kĩ năng khác ví dụ giúp bạn giao tiếp, nói chuyện
bằng tiếng Anh trôi chảy hơn, vốn từ vựng của các bạn cũng được nâng lên.
1.5.2 ) Tầm quan trọng của kĩ năng nghe với sinh viên khoa du lịch viện đại
học Mở Hà Nội
Kĩ năng nghe có ý nghĩa thực tiễn đối với nghể nghiệp chuyên ngành của
các bánau này( đó là chuyên ngành hướng dẫn và quản trị du lịch khách
sạn )
1.5.3 ) Tầm quan trọng của kĩ năng nghe đối với sinh viên năm thứ nhất viện
đại học Mở Hà Nội ( khoa du lịch )
Kĩ năng nghe giúp Ých cho các bạn rất nhiếu trong các giờ trao đổi, thảo
luận, nó chuyện, giao tiếp bằng tiếng Anh với bạn bè và thầy cô ở trên lớp.
Còn về lâu dài, kĩ năng này giúp cho bạn khôngcòn cảm thấy bỡ ngỡ khi tiếp
xúc với du khách nước ngoài trong công tác, hoạt động du lịch sau này ( tức
là giúp bạn quen dần với phong cách giao tiếp và ngữ điệu của người nứoc
ngoài )
2 ) Các kĩ năng cần học
2.1) Đọc: hay còn gọi là kĩ năng đọc hiểu. Để làm được kĩ năng này, bạn
phải có một vốn từ vưng khá và có các kĩ năng đọc tốt như: đọc lướt, đọc lấy
thông tin chính
Các dạng bài tập thường gặp
1- Chọn đáp án đúng ( A,B,C,D )
2- Đọc đoạn văn đánh “true”,“false” vào những ô trống đã cho sẵn
3- Điền một từ thích hợp vào ô trống trong đoạn văn đã cho
4- Trả lời câu hỏi dựa vào nội dung của đoạn văn
Cách thức làm một bài đọc: Thường thì giáo viên tiếng Anh hướng dẫn sinh
viên theo hai cách cơ bản sau:

- Thứ nhât: Đọc đoạn văn → tóm tắt đoạn văn → trình bày lạinội dung
củađoạn văn theo ý hiểu của mình
- Thứ hai : Viết headline cho từng đoạn và cho cả bài đọc
2.2 )Viết :
Đây là kĩ năng mà hầu hết các bạn sinh viên năm thứ nhất đã được học ở cấp
phổ thông nên nó không phải là kĩ năng mới.
Dạng bài tập cho kĩ năng này cũng khá phong phó
- Chia dạng đúng của từ trong ngoặc
- Viết lại câu theo từ gợi ý
- Giới từ, quán từ, từ nối trực tiếp , gián tiếp , chủ động, bị động
- Cho dạng đúng của từ trong ngoặc
- Viết luận
Muốn làm được kĩ năng này, bạn phải có cơ sở ngữ pháp chắc chắn như cấu
trúc câu,từ, cụm danh từ, danh động từ
2.3 ) Nói
là kĩ năng được thực hành rất nhiều ở trên lớp học trong các giờ thảo luận,
các buổi có new reports. Hình thức thực hành kĩ năng này thường là giáo
viên đưa ra một chủ đề sau đó sinh viên tham gia trao đổi thảo luận xung
quanh chủ đề đó và tiến hành theo các cách thức sau:
- Giải thích nghĩa của từ bằng các từ hoặc cụm từ đồng nghĩa.
- Nói chuyện trực tiếp theo đôi ( work in pair ) dùa theo nội dung của đoạn
hội thoại trong sách giáo khoa.
Ví dô:
way to order for rooms, food and baverage, way to answer the phone, way to
interview for a job
kĩ năng này đòi hỏi phải có vốn từ vựng phong phó
2.4 ) Nghe:
Đây là một kĩ năng hoàn toàn mới mẻ. Bởi trước đây các bạn chưa từng
được làm quen với nó ( trừ một số bạn học ở các trường chuyên ban D). Các
bài tập nghe nói chung là khá phong phú về nội dung và đa dạng về hình

thức.Chủ yếu là:
-Nghe theo tapecript theo từng phần, từng bài một
nghe giáo viên hỏi và trả lời hay nghe các bạn cùng lớp qua trao đổi và nói
chuyện bằng tiếng Anh
Kĩ năng này đòi hỏi phải có sự tổng hợp của các kĩ năng khácvà tâm lý khi
nghe cũng là yếu tố quyết định hiệu quả nghe của các bạn.
II ) Chương II:Thực trạng giờ học nghe của sinh viên sinh viên khoa du
lịch viện đại học Mở Hà Nội
1) Đặc điểm chung của giờ học nghe
1.1 ) Nội dung nghe khá là phong phú nhưng đều tuân theo mét qui luật
hướng về một đề tài, một chủ đề nào đó
1.2) Hình thức nghe: có 3 hình thức chính
- Nghe theo băng tapecript theo từng phần từng bài
- Giáo viên hỏi sinh viên trả lời
- Nghe từ bạn bè qua thảo luận và trao đổi trực tiếp với nhau
1.3) Các dạng bài tập nghe ( thường đi kèm với tài liệu nghe )
- Điền vào chỗ trống những thông tin còn thiếu
- Nghe theo băng đánh dấu “true”, “false” vào các đáp án đã in sẵn
- Lựa chọn đáp án đúng và thông tin được đề cập trong tapecript trong số
câu trả lời đã được đưa ra
- Nghe và trả lời câu hỏi đã in sẵn
- Nghe và đọc theo ví dụ cách đọc phát âm, từ nối
- Bài tập nghe có đo kèm với tranh và bản đồ
1.4) Trang thiết bị bổ trợ: nếu điều kiện cho phép thì nên có phòng máy
riêng cho sinh viên.
Phương tiện trợ giúp chủ yếu vẫn là băng đài và máy phát hình ( giúp sinh
viên vừa nghe vừa quan sát trực tiếp được
2 ) Đặc điểm giờ nghe của sinh viên năm thứ nhất
2.1) Nội dung nghe
Chủ yếu là hướng về chuyên ngành du lịch. Nhưng nói chung nội dung nghe

của sinh viên năm thứ nhất là khá đơn giản, chưa có sự tách biệt giữa chuyên
ngành du lịch và khách sạn. hiện ba lớp vẫn học chung sách và băng đĩa với
nội dung giống nhau.
2.2 ) Hình thức nghe
Đã áp dụng cả ba hình thức nêu trên
2.3 ) Các loại bài tập và cách thức học nghe
Các loại bài tập và cách thức học nghe tương đối đa dạng vè hình thức và
ngày càng được tăng lên về số lượng và cấp độ nghe.
a) Một số bài tập cụ thể
a.1 ) Ann go to the information office at King’s cross station She wants to
know about train time back from NewCastle .
Listen and complete the conversation
A: Good morning (a) the time of trains(b) NewCastle, please
B:Afternoon , everning ? When
A: About five o’clock this afternoon
B: About (d) right. Let’s have a look. Thre’s a train that (e) lesve
at the 4.45, and there’s ( f) at 5.52.
A: And (g) get in ?
B: Back at King’scross at 7.15and(h)
A: Thanks alot
a.2 )listen to three dialogues. Decide if these sentences T or F
1 a The bag cost $45 including tax
b The customer pay by the credit card
2 a The customer is changing ten thousands yen in to hong kong
dollars
b The customer gets $88.88
3 a The check is for $10.70 including tax
b The customer pays by traveler’s check
a.3 ) Look at the notice-board at the railwaystation and listen to
announcement. Correct the mistakes


Arrivals
Fron Flat fron Time Remark
Edinburbh 18 08:30 On time
Herffort 6 08:35 On time
NewCastle 15 08:45 Delay 30 mins
Darlington 9 08:45 On time
Departures
Destination Flatform Time Remark
Peterborough 12 08:25 Ready
NewCastle 7 08:40 Ready
York 5 08:50

b) Cách thức học nghe
- Trước khi nghe sinh viên dựa vào sự trợ giúp của giáo viên đọc lướt qua
đầu bài và nội dung bài nghe để nắm được những thông tin cần nghe
- Trong khi nghe: giáoviên sẽ điều chỉnh băng cho sinh viên nghe giới hạn
là 3 lần
Sinh viên nghe và lấy thông tin chính đồng thời tranh thủ kết hợp với các
thao tác khác: đánh dấu “true”, “false”, viết và điền thông tin vào đoạn hội
thoại.
- Sau khi nghe: giáo viên sẽ kiểm tra đáp án của silnh viên
Sau đó giáo viên sẽ kiểm tra lại độ chính xác của thông tin qua đài để thống
nhất đáp án.
Giáo viên có thể đề nghị sinh viên đọc theo băng trong những đoạn, những
câu có từ nối, viết tắt và đặc biệt là những chỗ,những câu có trọng âm.
Với những bài nghe đơn giản, giáo viên có thể dừng lại ở lần nghe đầu hoặc
lần thứ hai để kiểm tra với mục đích để tăng tốc độ nghe cho sinh viên .
2.4 ) Trang thiết bị bổ trợ :
Có hai phương tiện chính là đài và máy phát hình.Nhưng vẫn còn hạn chế về

số lượng và chất lượng:Băng đài hay bị dè làm giờ học nghe đôi khi bị gián
đoạn .
3 ) Hiện trạng giờ học nghe
3.1) Đối với sinh viên từ năm thứ hai trở lên
- Nhìn chung thì kĩ năng nghe của các bạn sinh viên năm thứ hai trở lên
có nhiều tiến bộ hơn các bạn sinh viên năm thứ nhất, các bạn đã quen dần
với các giờ học nghe
-Trong các giờ học tiếng Anh, các bạn tích cựctham gia thảo luận, trao đổi
hơn ⇒ Giờ học sôi nổi, thú vị hơn.
- Đã có các chuyên gia nước ngoài giảng dạy.
3.2) Đối với sinh viên năm thứ nhất
- Trong giờ học vẫn còn tình trạng:
Không thích học, làmviệc riêng trong giờ học môn nghe, ngồi nghe nhưng
không chú tâm, Từ đó dẫn đến hiệu quả giờ học nghe không cao.
- Trong lớp có sự chênh lệch vể trình độ tiếng Anh giữa những bạn học
khá và những bạn học kém.
Đối với những bạn học khá môn tiếng Anh thì với họ giờ học tiếng Anh là
những giờ học dễ chịu . Do vậy họ tập trung và tham gia xây dựng bài một
cách sôi nổi.
Ngược lại, những bạn sinh viên hoc kém môn này thì tỏ ra chán ghét và thấy
học môn này rất khó đối với họ. Cho nên,họ họ không hứng thú với bài
giảng, không tích cực phát biểu tham gia xây dựng bài, lười luyện tập các kĩ
năng và thường ỷ lại cho những sinh viên khá giỏi.
Đối với quá trình học nghe, tâm lý nghe đóng vai trò quan trọng và đôi khi
còn mang tính chất quyết định chất lượng và hiệu quả cả bài nghe hay kết
quả nghe của sinh viên.Thực trạng cho thấy tâm lý không thích học nghe
không chỉ có ở những bạn học kém mà còn ở các bạn học khá.nghĩa là nó
phát sinh trên nhiều loại đối tượng.
- Thực trạng điểm thi môn tiếng Anh
Qua hai đợt kiểm tra môn tiếng Anh của sinh viên khoa du lịch năm thứ nhất

cho thấy 70% sinh viên trên điểm trung bình, trong đó tốt (8, 9, 10)chiếm
30%.
30% phỉ thi lại
Theo như phản ánh của giáo viên bộ môn tiếng Anh thì hầu như điểm nghe
của các bạn là không có hay là có nhưng rất hãn hữu.
III )nguyên nhân dẫn đến tâm lý ngại học giờ nghe
1 ) Trước tiên ta đi tìm hiểu khó khăn với các bạn sinh vien năm thứ nhât
1.1)Môi trường học mơí lạ: Hầu hết các bạn sinh viên năm thứ nhất của
khoa vừa rời ghế nhà trường phổ thông nên môi trường đại học với các bạn
là hoàn mới . Tại đây, các bạn phải bắt đầu làm quen với với các môn học
khó hơn, chuyên sâu hơn, trừu tượng hơnvà đặc biệt là với bộ môn
tiếngAnh. Nếu như trước đây các bạn học tiếng Anh thực hành (viết )chưa
có độ chuyên sâu thì đến nay các bạn lại được đàotạo theo một chuyên
ngành cụ thể là chuyên ngành hướng dẫn và quản lý khách sạn. Thêm vào đó
là khi bước chân vào môi trường đạ học có nhièu bạn bè mới, thầy cô mới
nên các bạn còn chưa quen , hình thành tâm lý e ngại trong quá trình học.
1.2 )Bạn bè từ nhiều nơi trên tổ quốc: Các bạn sinh viên của một
nhóm,một lớp , một khoá đến từ nhiều miền khác nhau. Trong đó có những
bạn đến từ những vùng xa xôi hẻo lánh- nơi màtiếng Anh Ýt được chú
trọng- nên chủ yếu các bạn được đào tạo theo hệ 3 năm hoặc chưa được học
tiếng Anh Còn số các bạn khác được học chương trình 7 năm. Sự khác biệt
này cũng làm tâm lý học nghe của các bạn sinh viên bị ảnh hưởng.
Sinh viên học khá giỏi thì thường tự tin hơn,sôi nổi hơn các bạn học kém.
1.3 )Phương pháp dạy, học khác .Trong giờ học bây giờ không chỉ có cô
giáo truyền đạt kiến thức và sinh viên tiếp nhận như một cái máy mà giờ
đây các tiết học sẽ sôi nổi hơn, thú vị hơn với các giờ thảo luận,trao đổi, nói
chuyện với thầy cô, với bạn bè trong lớp bằng tiếng Anh. Có nghĩa là sinh
viên đã chuyển từ cách học bị động sang chủ động ,từ hình thức tiếp nhận
sang trao đổi và thảo luận .
1.4 ) Giảng viên tiếng anh được chia ra làm 3 nhóm

+ Cựu sinh viên của trường do học giỏi nên được giữ lại làm cán bộ
giảng dạy
+ Các chuyên gia nước ngoài
+ Một số giảng viên được đào tạo theo chuyên ngành du học lịch chuyển
về công tác tại trường
- Nhìn chung đội ngũ giáo viên bộ môn tiếng anh trường ta là tốt Các thầy
cô hầu hết là có trình độ chuyên môn cao và khả năng sư phạm tốt (khả
năng truyền đạt dễ hiểu ). Thái độ giảng dạy rất nhiệt tình ,sôi nổi và có
tinh thần trách nhiệm cao.
Những có lẽ do sinh viên năm thứ nhất chưa quen với cách thức dạy và học
mới nên còn chưa theo kịp tiến trình của bài giảng, kéo theo kết quả và chất
lượng giờ học nghe là không cao .
1.5 ) Giờ học nghe môn tiếng anh còn mới mẻ
Bởi từ trước đén nay các bạn chưa từng được làm quen với kỹ năng nghe
hoặc có thì cũng chỉ là số Ýt những bạn theo chuyên ban D chính vì vậy mà
sinh viên năm đầu khó có thể học tốt môn nghe ngay được.
2.Từ phía sinh viên
a. Thãi quen bị động : tức là học theo kiểu tiếp nhận một chiều , Ýt thực
hành thực tế và tham khảo thêm tài liệu bên ngoài .trong quá trình học nghe
thì đưa ra được phương pháp nghe có hiệu quả
b. Ngại hoặc lười thực hành kỹ năng nói nên kỹ năng nghe kém
Cùng với kỹ năng nghe kỹ năng nói là một kỹ năng mới mà sinh viên năm
thứ nhất bắt đầu được làm quen ⇒ “ Nói tiếng anh “ không phải là thói
quen đối với các bạn .Chính vì không phải là thói quen nên nó đã định hình
trong các bạn tâm lý ngại học tiếng anh ( tức là vẫn học theo kiểu cô giáo
giảng ,học sinh tiếp nhận và học sinh chỉcó trách nghiệm trả lời khi được
giáo viên hỏi ).Điều đó chứng tỏ về bản chất các bạn chưa nhận thức được
tầm quan trọng của kỹ năng nói .Vậy tầm quan trong của nó là gì và nó có
ảnh hưởng như thế nào đối với kỹ năng nghe ?.
Thực chất kỹ năng nói có vai trò rất quan trọng trong quá trình học nghe bởi

bạn có nói tốt thì vốn từ vựng của bạn mới phong phú .Từ đó giúp cho quá
trình nhận thức hay tiếp nhận thông tin từ băng đài , từ đối tượng nói chuyện
với bạn dễ dàng hơn .hay nói cách khác kỹ năng nói và kỹ năng nghe là hai
kỹ năng song hành luôn đi đôi với nhau trong quá trình giao tiếp .Giữa
chúng có mối quan hệ rất mật thiết gần gũi ,bổ xung, tương hỗ cho nhau .
Thực trạng giờ học nói : vẫn còn tình trạng lười và ngại thực hành kỹ năng
nói ( biểu hiện : không tích cực tham gia vào các giờ thảo luận ,trao đổi …)
Vậy làm thế nào để có thể cải thiện được kỹ năng nghe ?.Cach duy nhất có
lã là các bạn phải chiu khó thực hành kĩ năng nói →tạo ra sù giao thoa giữa
hai kĩ năng
d. Phương pháp học tiếng anh chưa có hiệu quả : không phải bất cứ sinh
viên học kém tiếng anh đều là do lười học hay không tập trung vào bài
giảng mà nguyên nhân nhiều khi lại là do phương pháp học tập của các bạn
chưa tốt.
Thực tế rất nhiều sinh viên đầu tư thời gian cho việc học tiếng Anh nhưng
kết quả đạt được lại không mấy khả quan . Vậy mâu thuần đó là do đâu ?
Câu trả lời có lẽ là do phương pháp học chưa phù hợp ,chưa có khoa học và
chưa có hệ thống.
3)Từ phía giáo trình
a. Giáo trình nghe chưa phong phú về chủng loại , tài liệu tham khảo Ýt
b. Chưa có bài tập thực hành kỹ năng nghe ở nhà cho sinh viên
4. Từ phía giáo viên
a. Phương pháp dạy học chưa thực sự phù hợp với trình độ học khác nhau
của sinh viên
b. Chưa tập trung quan tâm khuyến khích những sinh viên học yếu tiếng
anh
5.Từ phía thiết bị
a. Chất lượng băng đài kém

×