Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

CHƯƠNG 10 QUẢN TRỊ RỦI RO DỰ ÁN pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.13 KB, 25 trang )

Phân hiệu đại học Đà Nẵng tại Kon Tum
CHƯƠNG 10 QUẢN TRỊ RỦI RO DỰ ÁN
Một nhà khoa học đã cho rằng: “ Chỉ có một điều chắc chắn là không chắc chắn”,
nghĩa là trong mọi hoạt động của con người đều tồn tại yếu tố ngẫu nhiên, bất định.
Rủi ro là những gì chúng ta đối mặt hằng ngày. Thuật ngữ rủi ro gắn với dự án thường
gợi cảm giác tiêu cực, song thực ra rủi ro không phải luôn mang ý nghĩa như vậy. Một
rủi ro dự án đơn giản chỉ là một yếu tố bất định có thể mang lại những hậu quả tích
cực hoặc tiêu cực. Cách tốt nhất để xử lý các rủi ro là nhận biết chúng và đương đầu
với chúng. Do môi trường hoạt động đầu tư chưa đựng các yếu tố bất định cao, thời
gian đầu tư thường kéo dài. Quy mô tiền vốn, vật tư và lao động cần thiết cho một dự
án thường rất lớn. Thời gian vận hành các kết quả đầu tư diễn ra nhiều năm và có
nhiều công trình tồn tại vĩnh viễn. Ngoài ra, các công ty thành công là nhờ theo đuổi
những cơ hội để đạt được lợi thế cạnh tranh và dự án được thành lập để tạn dụng các
cơ hội này, nên rủi ro là một nội hàm của quản trị dự án. Với cạnh tranh ngày càng
cao, công nghệ phát triển và biến động không ngừng của nền kinh tế thị trường quản
trị rủi ro ngày càng có ý nghĩa quan trọng. Do đó rất cần thiết phải xây dựng chương
trình quản lý rủi ro phù hợp. Xác định những nhân tố rủi ro, đánh giá mức độ rủi ro và
đặc biệt tìm ra những phương thức quản lý và phòng tránh rủi ro phù hợp và những
công việc rất quan trọng của tổ chức quản lý dự án. Do vậy, những vấn đề này sẽ là
nội dung nghiên cứu chủ yếu của chương này.
I. TỔNG QUAN VỀ RỦI RO
1. Khái niệm rủi ro
- Rủi ro là những bất trắc xảy ra ngoài mong muốn của đối tượng sử dụng và gây
ra những thiệt hại về thời gian, vật chất, tiền của, sức khỏe, tính mạng con người.
- Nói đến rủi rủi ro, bất định không thể không nhắc tới Frank Knight (1895-1973)
– nhà khoa học, nhà kinh tế học người Mỹ. Ông có đóng góp quan trọng vào phương
pháp luận của kinh tế học cũng như đối với việc định nghĩa và giải thích chi phí xã
hội. Đóng góp lớn nhất của ông đối với kinh tế là tác phẩm rủi ro, sự không chắc chắn
và lợi nhuận (1921). Có thể coi ông là trong những nhà khoa học hiện đại đầu tiên
nghiên cứu sâu về rủi ro và bất định.
- Có rất nhiều khái niệm khác nhau của các nhà khoa về rủi ro nhưng chủ yếu


được phân thành hai nhóm. Theo một số nhà khoa học, rủi ro là tình trạng xảy ra một
số biến cố bất lợi nhưng có thể đo lường được bằng xác suất. Cụ thể:
- 1 -
Phân hiệu đại học Đà Nẵng tại Kon Tum
+ Theo Frank Knight, rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được .
+ Theo Irving Pfeffer, rủi ro là những sự ngẫu nhiên có thể đo lường được bằng
xác suất .
+ Theo Marilu Hurt McCarty, rủi ro là tình trạng trong đó các biến cố xảy ra
trong tương lai có thể xác định được .
+ Theo các học giả Trung Quốc, rủi ro là tình hình sự việc phát sinh theo một xác
suất nhất định hoặc sự việc lớn thay hay nhỏ được bố trí theo một xác suất. Nhân tố
chủ yếu của rủi ro trong sản xuất là không xác định của tương lai. Người đầu tư đối
mặt với rủi ro là tính có thể lãi hoặc lỗ. Ngoài ra, đầu cơ đơn thuần cũng sẽ dẫn đến rủi
ro. Lợi nhuận rủi ro là một loại lợi nhuận vượt mức.
+ Một số nhà kinh tế học người Mỹ cho rằng rủi ro là hoàn cảnh trong đó một sự
kiện xảy ra với một xác suất nhất định hoặc trong trường hợp quy mô của sự kiện đo
có một phân phối xác suất. Một dự án đầu tư có thể rủi ro ở chỗ có một phần mười khả
năng (xác suất 0,1) là bị thua lỗ, có năm phần mười khả năng đạt một mức lợi nhuận
nào đó và có bốn phần mười khả năng đạt một mức lợi nhuận cao hơn. Tuy nhiên,
không nên nhầm lẫn rủi ro và xác suất vì rủi ro là sự kết hợp giữa xác suất và quy mô
của sự kiện. Nếu một dự án đầu tư có khả năng 1/10 là thua lỗ và có thể dẫn đến một
sự thua lỗ nặng nề thì đây là một rủi ro. Tuy nhiên cũng có 1/10 khả năng sinh lợi
nhưng mức độ thua lỗ lại nhỏ hơn thì đó không là rủi ro mà chỉ là một xác suất sinh
lời. Bên cạnh những khái niệm kể trên, một số nhà khoa học khác lại định nghĩa rủi ro
với sự chú trọng đến kết quả được mà không chú ý đến xác suất xảy ra. Cụ thể:
+ Theo Allan Willet, rủi ro là sự bất trắc cụ thể liên quan đến việc xuất hiện một
biến cố không mong đợi.
+ Theo A.HrThur Williams, rủi ro là sự biến động tiền ẩn ở kết quả.
+ Theo Georges Hirsch, khái niệm rủi ro gắn liền với khả năng xảy ra của một số
biến cố không lường trước hay đúng hơn là một biến cố mà ta hoàn toàn không chắc

chắn (xác suất xảy ra <1). Nói cách khác, rủi ro ứng với khả năng có sai lệch giữa một
bên là những gì xảy ra trong thực tế và một bên là những gì được dự kiến từ trước
hoặc được dùng làm hệ quy chiếu, mà sai lệch nàu lớn đến mức khó chấp nhận được
hoặc không chấp nhận được. Trên cơ sở các khái niệm kể trên, có thể đưa ra một khái
niệm về rủi ro như sau:
- 2 -
Phân hiệu đại học Đà Nẵng tại Kon Tum
Rủi ro là tổng hợp những sự kiện ngẫu nhiên tác động lên sự vật, hiện tượng làm
thay đổi kết quả của sự vật, hiện tượng (thường theo chiều hướng bất lợi) và những
tác động ngẫu nhiên đó có thể đo lường được bằng xác suất.
Như vậy rủi ro trong quản trị dự án là một đại lượng có thể đo lường được và một
sự kiện nào đó thường gồm 2 thành phần: Xác suất xảy ra sự kiện đó và mức độ tác
động nếu sự kiện đó xảy ra. Về mặt toán học, rủi ro chính là hàm số: Rủi ro = f (xác
suất, tác động).
Mặt khác một yếu tố khác của rủi ro là nguyên nhân của rủi ro. Một số yếu tố
(hay việc thiếu đi một số yếu tố) cũng có thể dẫn đến tình huống rủi ro. Chúng ta gọi
nguồn gốc của rủi ro như vậy là nguy cơ. Một số nguy cơ có thể vượt qua ở mức độ
đáng kể nếu chúng ta biết rõ và thực hiện hành động để vượt qua. Do đó, chúng ta có
thể có cách biểu diến khác về rủi ro: Rủi ro =f (mối nguy, phòng tránh)
2. Phân loại rủi ro
Để có thể nhận biết và quản lý các rủi ro một cách có hiệu quả, người ta thường
phân biệt các rủi ro tuỳ theo mục đích sử dụng trong phân tích các hoạt động kinh tế.
a. Theo tính chất khách quan của rủi ro, người ta thường chia ra: rủi ro thuần
tuý và rủi ro suy tính (rủi ro suy đoán) (Pure Risks and Speculative Risks)
- Rủi ro thuần túy là loại rủi ro mà nếu có xảy ra sẽ dẫn đến kết quả tổn thất về
kinh tế. Loại rủi ro này có đặc điểm sau: Thứ nhất, rủi ro thuần túy nếu xảy ra thường
đưa đến kết quả mất mát hoặc tổn thất. Thứ hai, rủi ro thuần túy, hầu hết các rủi ro
chúng ra gặp phải trong cuộc sống và thường để lại những thiệt hại lớn về của cải vật
chất và có khi cả tính mạng con người đều là rủi ro thuần tuý. Thuộc loại rủi ro này có
rủi ro do hoả hoạn, lũ lụt, hạn hán, động đất….Thứ ba, biện pháp đối phó với rủi ro

này là bảo hiểm.
- Rủi ro suy tính là loại rủi ro do ảnh hưởng của những nguyên nhân khó dự đoán,
phạm vi ảnh hưởng rất rộng lớn. Rủi ro suy tính là loại rủi ro thường xảy ra trong thực
tế. Đó là loại rủi ro liên quan đến quyết định lựa chọn của con người. Thuộc loại này là
các rủi ro khi đầu tư vào sản xuất kinh doanh (SXKD) trên thị trường.
Ví dụ, rủi ro thay đổi giá cả, mức thuế không ổn định, tình hình chính trị không ổn
định. Tăng giá có thể mang lại nhiều lời cho người có tồn kho nhiều và giảm giá làm
họ bị thua thiệt lớn. Đặc điểm cơ bản của loại rủi ro này là thường không được bảo
hiểm nhưng có thế đối phó bằng biện pháp rào chắn (Hedging). Người ta có thề dễ
- 3 -
Phân hiệu đại học Đà Nẵng tại Kon Tum
dàng chấp nhận rủi ro suy tính nhưng hầu như không có ai sẵn sàng chấp nhận rủi ro
thuần tuý.
Nhận xét: Việc phân chia rủi ro thành rủi ro thuần tuý và rủi ro suy tính có ý
nghĩa quan trọng trong việc lựa chọn kỹ thuật để đối phó, phòng tránh rủi ro. Đối với
rủi ro suy tính, người ta có thể đối phó bằng kỹ thuật Hedging (rào cản) còn rủi ro
thuần tuý được đối phó bằng kỹ thuật bảo hiểm.
Tuy nhiên, hầu hết trong các rủi ro đều chứa cả hai yêu tố: thuần tuý và suy tính
và trong nhiều trường hợp ranh giới giũa hai loại rủi ro này còn mơ hồ.
b. Theo hậu quả để lại cho các hoạt động của con người, người ta chia thành rủi ro số
đông (rủi ro toàn cục, rủi ro cơ bản) và rủi ro bộ phận (rủi ro riêng biệt).
- Rủi ro số đông là các rủi ro gây ra các tổn thất khách quan theo nguồn gốc rủi ro
và theo kết quả gây ra. Những tổn thất này không phải do cá nhân gây ra và hậu quả
của nó ảnh hưởng đến số đông con người trong xã hội. Thuộc loại này bao gồm các rủi
ro do chiến tranh, lạm phát, thất nghiệp, động đất, lũ lụt
- Rủi ro bộ phận là các rủi ro xuất phát từ các biến cố chủ quan của từng cá nhân
xét theo cả về nguyên nhân và hậu quả. Tác động của loại rủi ro này ảnh hưởng tới
một số ít người nhất định mà không ảnh hưởng lớn đến tòan xã hội. Thuộc loại này
bao gồm các rủi ro do tai nạn (tai nạn giao thông, tai nạn lao động, hoả hoạn…) do
thiếu thận trọng trong khi làm việc cũng như trong cuộc sống (rủi ro do mất trộm )

Nhận xét: Việc phân biệt hai loại rủi ro này có ý nghĩa quan trọng trong việc tổ
chức xã hội, nó liên quan đến việc có thể hay không thể chia sẻ bớt những rủi ro trong
cộng đồng xã hội. Nếu một rủi ro bộ phận xảy ra, các tổ chức hay cá nhân khác có thể
giúp đỡ bằng những khoản đóng góp vào các qũy trợ giúp nhằm chia sẻ bớt những rủi
ro nhưng khi rủi ro số đông xảy ra thì việc chia sẻ rủi ro bằng cách trên là không có tác
dụng.
Tuy nhiên, việc phân loại rủi ro theo cách này cũng chưa được rõ ràng lắm vì rủi
ro có thể chuyển từ dạng này sang dạng khác tuỳ theo sự thay đổi của khoa học kỹ
thuật và khung cảnh xã hội. Ví dụ lũ lụt gây thiệt hại nghiêm trọng ở một quốc gia nào
đó là rủi ro số đông đối với quốc gia đó nhưng lại là rủi ro bộ phận đối với phạm vi
toàn thế giới.
- 4 -
Phân hiệu đại học Đà Nẵng tại Kon Tum
c. Theo nguồn gốc phát sinh các rủi ro, có các loại rủi ro sau
- Rủi ro do các hiện tượng tự nhiên: đây là nguồn rủi ro cơ bản dẫn đến các rủi ro
thuần tuý và để lại những hậu quả rất nghiêm trọng đối với con người. Nước lũ, nắng
nóng, hoạt động của núi lửa, Việc nhận biết các nguồn rủi ro này tương đối đơn giản
nhưng việc đánh giá khả năng xảy ra cũng như mức độ xảy ra của các rủi ro xuất phát
từ nguồn này lại hết sức phức tạp bởi vì chúng phụ thuộc tương đối ít vào con người,
mặt khác khả năng biểu biết và kiểm soát các hiện tượng tự nhiên của con người còn
hạn chế.
- Rủi ro do môi trường vật chất: Các rủi ro xuất phát từ nguồn này là tương đồi
nhiều, chẳng hạn như hoả hoạn do bất cẩn, cháy nổ
- Rủi ro do các môi trường phi vật chất khác: Nguồn rủi ro rất quan trọng và làm
phát sinh rất nhiều rủi ro trong cuộc sống chính là môi trường phi vật chất hay nói cụ
thể đó là các môi trường kinh tê, xã hội, chính trị, pháp luật hoặc môi trường hoạt
động của các tổ chức Đường lối chính sách của mỗi người lãnh đạo của quốc gia có
tốc ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh của các tổ chức kinh tế (ban
hành các chính sách kinh tế, áp dụng các quy định và thuế, cắt giảm hoặc xóa bỏ một
số ngành nghề…). Quá trình hoạt động của các tổ chức có thể làm phát sinh nhiều rủi

ro và bất định. Việc thay đổi tỷ giá hối đoái, tỷ lệ lãi suất tín dụng, quan hệ cung - cầu
trên thị trường, giá cả thị trường diễn biến bất ổn, đều có thể đem lại rủi ro cho các tổ
chức SXKD. Có rất nhiều rủi ro xuất phát từ môi trường phi vật chất này và các rủi ro
cứ nối tiếp nhau diễn ra, rủi ro này được bắt nguồn từ rủi ro khác, rủi ro bắt nguồn từ
môi trường chính trị dẫn đến các rủi ro về mặt kinh tế hay xã hội (chẳng hạn rủi ro do
môi trường chính trị không ổn định dẫn đến rủi ro về mặt tinh tế (sản xuất đình đốn,
hàng hoá đắt đỏ) và sau đó dẫn đến rủi ro về mặt xã hội (thất nghiệp). Để nhận biết các
nguồn rủi ro này cần có sự nghiên cứu, phân tích tỷ mỷ, chi tiết và thận trọng. Mặt
khác, việc đánh giá khả năng và mức độ xảy ra của các rủi ro xuất phát từ nguồn rủi ro
phi vật chất cũng hết sức khó khăn với độ chính xác khác nhau, nó phụ thuộc rất nhiều
vào trình độ của người đánh giá.
Nhận xét: Các tổn thất phát sinh từ các nguồn rủi ro là rất nhiều và rất đa dạng.
Một số tổn thất có thể phát sinh từ cả hai nguồn rủi ro khác nhau, chẳng hạn rủi ro
cháy một ngôi nhà có thể do bất cẩn khi đun bếp (môi trường vật chất) nhưng cũng có
thể do bạo động, đốt phá (môi trường chính trị).
- 5 -
Phân hiệu đại học Đà Nẵng tại Kon Tum
Việc phân loại rủi ro theo các nguồn phát sinh giúp cho các nhà quán lý rủi ro
tránh bỏ sót các thông rin khi phân tích đồng thời giúp cho việc lựa chọn các biện pháp
phòng chống rủi ro sau này.
d. Theo khả năng khống chế của con người
Có thể chia ra rủi ro có thể khống chế và rủi ro không thể khống chế. Một số loại
rủi ro khi xảy ra, con người không thể chống đỡ nổi. Thuộc loại này có các rủi ro do
thiên tai, địch hoạ, Tuy nhiên, đa số các rủi ro con người có thể chống đỡ hoặc có
những biện pháp nhằm hạn chế được thiệt hại nếu có những nghiên cứu, dự đoán được
khả năng và mức độ xây ra
e. Theo phạm vi xuất hiện rủi ro có thể chia ra rủi ro chung và rủi ro cụ thể
-Rủi ro chung là các rủi ro gắn chặt với môi trường chính trị, kinh tế và pháp luật.
Các rủi ro chính trị gồm có rủi ro về hệ thống chính trị, rủi ro chính sách thuế; rủi
ro do cơ chế quản lý cấp vĩ mô; rủi ro về chế độ độc quyền; rủi ro do chính trị sách hạn

chế nhập khẩu; rủi ro do không đạt được hoặc không gia hạn hợp đồng;…
Các rủi ro thương mại quốc gia gồm có rủi ro do lạm phát; rủi ro do tỷ lệ lãi suất
thay đổi; rủi ro do sản phẩm hàng hoá mất giá; rủi ro do chính sách ngoại hối và đặc
biệt ở Việt Nam còn có thể có rủi ro do không chuyển đổi được ngoại tệ;…
Các rủi ro gắn với môi trường pháp luật quốc gia gồm có rủi ro do thay đổi chính
sách pháp luật và qui định; rủi ro về việc thi hành pháp luật; rủi ro do trì hoãn trong
việc bồi thường;….
-Rủi ro cụ thể là các rủi ro gắn liền với các lĩnh vực sản xuất kinh doanh (SXKD)
cụ thể hoặc lĩnh vực hoạt động khác. Đối với lĩnh vực SXKD xây dựng (XD) có thể có
các rủi ro theo các giai đoạn của quá trình đầu tư XD, các rủi ro đối với việc thực hiện
và hoàn thành kế hoạch, các rủi ro trong quá trình vận hành.
Theo các giai đoạn của quá trình đầu tư và XD, một tổ chức SXKD XD có thể
gặp rủi ro vì đấu thầu; rủi ro về cấp phát vốn đầu tư (VĐT); rủi ro do sự phối hợp giữa
tổ chức thiết kế, giám sát, cung cấp trang thiết bị với đơn vị thi công, không theo đúng
kế hoạch tiến độ đã định; rủi ro trong thi công XD; rủi ro trong quá trình thanh quyết
toán;
Đối với việc thực hiện và hoàn thành kế hoạch, tổ chức XD có thể gặp rủi ro do
sự chậm trễ trong thi công và cung ứng các yếu tố sản xuất; rủi ro do phải phá đi làm
lại; rủi ro do các nguyên nhân bất khả kháng …
- 6 -
Phân hiệu đại học Đà Nẵng tại Kon Tum
Trong quá trình vận hành khai thác có thể có các rủi ro về trang bị cơ sở hạ tầng;
rủi ro về kỹ thuật và công nghệ thi công; rủi ro về quản lý; rủi ro do tăng chi phí lưu
thông; rủi ro do trình độ cán bộ công nhân vận hành khai thác; rủi ro do các nguyên
nhân bất khả kháng; rủi ro trách nhiệm;…
Chúng ta có thể gặp rủi ro ở bất kỳ hoạt động nào liên quan đến con người, do đó
hàng ngày chúng ta phải đưa ra những quyết định để làm thế nào có thế giải quyết
được những rủi ro đó.Đối với các dự án quyết định quản trị rui ro của các nhà quản trị
dự án phụ thuộc rất lớn vào mức độ chấp nhận rủi ro của họ. Các mức độ chấp nhận
rủi ro thường được chia thành 3 nhóm sau:

- Tránh hoàn toàn mọi rủi ro.
- Hạn chế rủi ro bằng cách tiến hành nhưng biện pháp phòng ngừa.
- Chuyển giao hoặc san sẻ rủi ro sang các cá nhân hay tổ chức khác.
- 7 -
RỦI RO THUẦN TÚY LÀ LOẠI RỦI RO TỒN TẠI KHI CÓ NGUY
CƠ TỔN THẤT NHƯNG KHÔNG CÓ CƠ HỘI KIẾM LỜI
RỦI RO SUY TÌNH LÀ LOẠI RỦI RO TỒN TẠI KHI CÓ NGUY
CƠ TỔN THẤT SONG SONG VỚI MỘT CƠ HỘI KIẾM LỜI
RỦI RO SỐ ĐÔNG LÀ LOẠI RỦI RO KHÔNG PHẢI DO CÁ
NHÂN GÂY RA VÀ HẬU QUẢ CỦA NÓ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỐ
ĐÔNG CON NGƯỜI TRONG XÃ HỘI
RỦI RO BỘ PHẬN XUẤT PHÁT TỪ CÁC BIẾN CỐ CHỦ QUAN
CỦA TỪNG CÁ NHÂN VÀ TÁC ĐỘNG ĐẾN MỘT SỐ ÍT NGƯỜI
TRONG XÃ HỘI
RỦI RO DO HIỆN TƯỢNG TỰ NHIÊN
RỦI RO DO MÔI TRƯỜNG VẬT CHẤT
RỦI RO DO MÔI TRƯỜNG PHI VẬT CHẤT
RỦI RO CÓ THỂ KHỐNG CHẾ
RỦI RO KHÔNG THỂ KHỐNG CHẾ
RỦI RO CHUNG LÀ CÁC RỦI RO GẮN CHẶT VỚI MÔI
TRƯỜNG KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, PHÁP LUẬT
RỦI RO CỤ THỂ LÀ CÁC RỦI RO GẮN LIỀN VỚI CÁC LĨNH
VỰC KINH DOANH CỤ THỂ
THEO TÌNH
CHẤT
KHÁCH
QUAN
THEO HẬU
QUẢ ĐỂ LẠI
THEO

NGUỒN
GỐC PHÁT
SINH
THEO KHẢ
NĂNG
KHỐNG
CHẾ
THEO
PHẠM VI
XUẤT HIỆN
PHÂN
LOẠI
RỦI RO
Phân hiệu đại học Đà Nẵng tại Kon Tum
Đối với nhóm thứ nhất (tránh rủi ro) khi giá trị đánh đổi càng lớn thì sự hài lòng của
họ sẽ càng giảm. Đối với nhóm chấp nhận rủi ro (hạn chế rủi ro) thì dự hài lòng thỏa
mãn hay lợi ích sẽ càng tăng khi mức độ đánh đổi gia tăng. Người tránh rủi ro sẽ thích
một kết quả chắc chắn hơn và luôn yêu cầu mức thưởng tương ứng thì mới chấp nhận
rủi ro
3. Chắc chắn, bất định và rủi ro
Các tình huống ra quyết định có thể xếp thành 3 nhóm: Chắc chắn, rủi ro và bất
định trong đó ra quyết định trong điều kiện chắc chắn là tình huống dễ dàng nhất.
a. Ra quyết định trong điều kiện chăc chắn
Ra quyết định trong điều kiện chắc chắn hàm ý rằng người ra quyết định biết về tình
huống sẽ xảy ra và kết quả sẽ đạt được trong tương lai. Về mặt toán học, các thông tin có
thể được xây dựng ma trận bù trừ
Để xây dựng ma trận bù trừ, chúng ta phải xác định được tất cả các trạng thái (tình
huống) mà người ra quyết định không thể kiểm soát. Sau đó, người ra quyết định sẽ phải
chọn lựa các chiến lược đối phó trong từng tình huống. Ma trận bù trừ có hai đặc điểm sau
đây:

- Dù cho tình huống nào xảy ra, sẽ luôn có một chiến lược thống trị (tối ưu) mang lại
kết quả lớn nhất hoặc thiệt hại nhỏ nhất
- Không có xác suất gắn với từng tình huống (hoặc các tình huống có xác suất xảy ra
là như nhau)
b. Ra quyết định trong điều kiện rủi ro
Trong hầu hết các trường hợp, không phải luôn luôn có chiến lược tốt nhất trong
tất cả mọi tình huống. Các phương án có lợi nhuận cao thường đi kèm với rủi ro cao và
do đó xác suất chịu lỗ cũng cao. Nếu không có một chiến lược tốt nhất, thì có thể gắn
một giá trị xác suất với từng tình huống. Trong việc xem xét các chiến lược cần chú ý
tính toán khả năng xảy ra (xác suất) của các tình huống. Nếu tính xác suất sai, các giá
trị kỳ vọng cũng sẽ bị nhầm lẫn và do đó lựa chọn sẽ sai lệch
c. Ra quyết định trong điều kiện bất định
Tình huống bất định: không chắc chắn về kết quả sẽ đạt được trong lương lai
đồng thời không thể ước tính được xác suất xảy ra của các biến cố trong tương lai.
Như vậy sự khác biệt giữa rủi ro và bất định là điều kiện rủi ro thường gắn với giá trị
xác suất còn điều kiện bất định thì không thể phân bổ một giá trị xác suất như vậy.
- 8 -
Phân hiệu đại học Đà Nẵng tại Kon Tum
Như vậy trong điều kiện bất định, không phải lúc nào cũng có một chiến lược thống trị
mà người ra quyết định phải dựa trên 4 tiêu chuẩn để đưa ra quyết định của mình. Tiêu
chuẩn nào được sử dụng sẽ phụ thuộc vào loại dự án và mức độ chấp nhận rủi ro của
dự án như sau:
- Tiêu chuẩn Maximac: Người ra quyết định thường lạc quan và luôn muốn tối đa
hóa lợi nhuận bằng cách chọn chiến lược có khả năng mang lợi nhuận tối đa lớn nhất.
Do đó sử dụng tiêu chuẩn này ra quyết định này sẽ phải căn cứ trên mức độ rủi ro có
thể chấp nhận được và mức độ tối đa có thể chịu đựng được. Một doanh nghiệp lớn
với nguồn lực dồi dào có thể tuân theo tiêu chuẩn này trong khi các doanh nghiệp tư
nhân nhỏ có thể quan tâm hơn đến cách thức ra quyết định sao cho tối thiểu hóa thua
lỗ.
- Tiêu chuẩn Maximin: Theo tiêu chuẩn này, người ra quyết định theo quan điểm

bi quan, chỉ quan tâm đến mức lỗ tối đa mà họ có thể chịu được. Tùy theo vị thế tài
chính của doanh nghiệp sẽ có trường hợp dự án không được thực hiện nếu giá trị lợi
nhuận tối thiểu này đều âm.
- Tiêu chuẩn Minimax: Theo tiêu chuẩn này, người ra quyết định sẽ tối thiểu hóa
các khoản lợi nhuận bị bỏ lỡ (còn gọi là giá trị hối tiếc). Các giá trị bỏ lỡ sẽ được tính
bằng cách trừ các giá trị trong mỗi cột cho giá trị lớn nhất của cột đó. Sau đó giá trị bỏ
lỡ lớn nhất sẽ được xác định cho từng chiến lược.
- Tiêu chuẩn Laplace: Tiêu chuẩn ra quyết định này cố gắng chuyển đổi tình
huống ra quyết định bất định thành ra quyết định trong tình huốn rủi ro. Tiêu chuẩn
này dựa trên giả định thống kê Bayesian trong đó cho rằng nếu không biết được xác
suất xảy ra của một tình huống nào đó thì có thể giả định rằng các tình huống đó có
xác suất xảy ra như nhau. Khi đã xác định được xác suất, trình tự ra quyết định sẽ
tương tự như trong điều kiện rủi ro.
II. QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG DỰ ÁN
Các rủi ro có ảnh hưởng rất lớn đến các tổ chức, các doanh nghiệp, các hoạt
động SXKD ở chỗ nó gây ra những tổn thất đòi hỏi phải tốn kém những khoản chi phí
không nhỏ để khắc phục những tổn thất đó, các chi phí này được gọi là chi phí rủi ro
Chi phí rủi ro là khoản tổn thất đối với tổ chức khi có rủi ro. Thông thường chi
phí rủi ro có hai dạng: chi phí rủi ro xác định và chi phí rủi ro khó xác định.
- 9 -
Phân hiệu đại học Đà Nẵng tại Kon Tum
Chi phí rủi ro xác định là khoản tiền mà tổ chức hoặc doanh nghiệp bị tổn thất
khi có rủi ro xảy ra như tài sản bị phá huỷ, con người bị tai nạn,…Khoản chi phí này
có thể xác định được thông qua giá trị các tài sản bị tổn thất hoặc số tiền đền bù thiệt
hại cho người bị tai nạn.
Chi phí rủi ro khó xác định là khoản chi phí do sự lo sợ rủi ro gây ra. Đối với
một cá nhân, chi phí rủi ro khó xác định thể hiện bằng sự lo sợ, mệt mỏi, mất ngủ, dẫn
đến những hành động không sáng suốt có thể gây thiệt hại đến tài sản và tính mạng
hoặc khoản chi phí bảo hiểm đã đóng những không có rủi ro xảy ra. Đối với một tổ
chức, chi phí rủi ro khó xác định xuất hiện khi có sự lo sợ rủi ro xảy ra dẫn đến việc bố

trí các nguồn tài nguyên bất hợp lý, đưa ra các quyết định yếu kém về mặt tổ chức
hoặc bỏ qua các cơ hội đầu tư vào các dự án có lợi (thường thể hiện bằng hành động
tiến hành dự trữ lớn, mua bảo hiểm cao…). Nhìn chung, khoản chi phí rủi ro này rất
khó đo lường một cách chính xác do các tổn thất thường mang tính dây chuyền và
trong nhiều trường hợp là các yếu tố định tính rất khó lượng hoá.
Để đối phó với các rủi ro nhằm hạn chế tối mức tối đa các tổn thất có thể xảy ra,
các tổ chức nhất là các tổ chức SXKD phải thực hiện các biện pháp quản lý rủi ro.
Để đề phòng rủi ro, biện pháp thông dụng thường được các cá nhân và tổ chức
thực hiện là mua bảo hiểm nhằm chuyển các rủi ro (nếu có) sang các hãng bảo hiểm.
Với biện pháp này, việc đối phó với các rủi ro mang tính chất bị động vì việc bảo hiềm
chỉ có hiệu quả khi rủi ro đã xảy ra. Trái lại, QLRR là cách tiếp cận với các rủi ro
mang tính tích cực, đó là chủ động dự kiến trước những mất mát có thể xảy ra và tìm
cách giảm nhẹ hậu quả của chúng. Khi đó, bảo hiểm không còn là phương pháp duy
nhất để hạn chế rủi ro mà chỉ là một trong những phương pháp quan trọng và có hiệu
quả để bù lại phần kinh phí do bị mất mát trong trường hợp có rủi ro xảy ra.
Theo một số tài liệu, QLRR đã được thực hiện một cách không chính thức ngay
từ thuở ban dầu của loài người nhưng hoạt động này được phát triển rầm rộ vào thập
niên 60, 70 của thế kỷ XX. Theo giáo sư H.Wayne Snider thuộc đại học Temple của
Hoa Kỳ thì QLRR bắt đầu đi vào một giai đoạn mang tính quốc tế từ giữa những năm
70 - ông gọi đó là “giai đoạn toàn cầu hoá". Cũng theo Snider, hiệp hội quản trị rủi ro
và bảo hiểm (viết tắt là RIMS) - hiệp hội gồm những chuyên gia hàng đầu trong lĩnh
vực này - là hiệp hội đi đầu trong việc thiết lập những quan hệ với các nhà QLRR châu
Âu và châu Á vào những năm 70 của thế kỷ XX. Trong những năm 90, các hoạt động
- 10 -
Phân hiệu đại học Đà Nẵng tại Kon Tum
QLRR tiếp tục phát triển, hàng loạt các hiệp hội QLRR ra đời ở Mỹ như hiệp hội
QLRR công cộng (viết lắt là PRIMA), hội QLRR về chăm sóc sức khoẻ Mỹ (viết tắt là
ASHRM), hiệp hội QLRR và bảo hiểm của trường đại học (viết tắt là URMIA), trung
tâm quốc gia về QLRR và bảo hiểm cộng đồng, đã làm cho hoạt động này trở thành
một hoạt động không thể thiếu đối với các tổ chức và doanh nghiệp nhất là các tổ chức

có qui mô lớn.
Mặc dù có nhiều chức năng quản trị cơ bản giống như các hình thức quản trị khác
trong các tổ chức hoặc các doanh nghiệp như quản trị chiến lược, quản trị hoạt
động, nhưng mục đích cuối cùng của các nhà QLRR là giúp cho các tổ chức, các
doanh nghiệp giảm tối đa các chi phí về rủi ro dưới mọi hình thức và làm tăng tối đa
những lợi ích của rủi ro nhờ mạo hiểm.
Tóm lại
Quản lý rủi ro là việc chủ động kiểm soát các sự kiện trong tương lai dựa trên cơ
sở kết quả dự báo trước các sự kiện xảy ra mà không phải là sự phản ứng thụ động.
Như vậy, một chương trình quản lý rủi ro hiệu quả không những làm giảm bớt sai sót
mà còn làm giảm mức độ ảnh hưởng của những sai sót đó đến việc thực hiện các mục
tiêu dự án.
Quản lý rủi ro là quá trình liên tục, được thực hiện trong tất cả các giai đoạn của
chu kỳ dự án, kể từ khi mới hình thành cho đến khi kết thúc dự án. Khi dự án tiến
triển, một số rủi ro mất đi, một số rủi ro khác lại xuất hiện. Trong suốt vòng đời dự án,
nhiều khâu công việc cũng có mức độ rủi ro rất cao nên cần thiết phải phân chia thành
nhiều giai đoạn để xem xét, phân tích rủi ro, trên cơ sở đó lựa chọn các giải pháp phù
hợp nhằm giảm bớt và loại trừ rủi ro. Khi xác xuất xảy ra rủi ro càng lớn, rủi ro càng
cần phải đánh giá lại để đảm bảo rằng đánh giá rủi ro đã thực hiện trước đó vẫn còn có
hiệu lực. Vậy Quản trị rủi ro dự án là quá trình nhận dạng, phân tích nhân tố rủi ro,
đo lường mức độ rủi ro, trên cơ sở đó lựa chọn, triển khai các biện pháp quản lý,
giám sát và kiểm soát các hoạt động nhằm hạn chế và loại trừ rủi ro, trong suốt vòng
đời dự án.
- 11 -
Giám sát và kiểm soát
rủi ro
Kế hoạch quản trị
rủi ro
Kế hoạch
Phản ứng

Đo lường mức
độ rủi ro
Phân tích nhân
tố rủi ro
Nhận diện (xác
định) rủi ro
Quá trình quản trị rủi ro trong dự án
Phân hiệu đại học Đà Nẵng tại Kon Tum
1. Kế hoạch quản trị rủi ro
a. Đầu vào của hoạt động quản trị rủi ro
- Bản dự án:
Là tài liệu cho phép chính thức dự án được bắt đầu và đồng thời xác định rõ ràng
nhà quản trị dự án như là một người có quyền lực phân bổ nguồn lực cụ thể trong dự
án. Tài liệu này là cần thiết cho quán trình hoạch định rủi ro bởi vì nó xác định nhu
cầu của doanh nghiệp mà dự án đáp ứng và mô tả chung về toàn bộ sản phẩm.
- Chính sách quản trị rủi ro
Các tổ chức thường có một cách tiếp cận xác định đối với quản trị rủi ro. Các
chính sách này có thể định dạng công việc nào cần thực hiện nhằm khởi xướng, hoạch
định và đáp ứng đối với rủi ro. PM cần hoạch định công tác quản trị rủi ro trên cơ sở
các chính sách này để tuân thủ đúng với các yêu cầu của tổ chức. Trong khuôn khổ
giới hạn của các chính sách, PM phải xác định được tất cả các yếu tố có thể cản trở
thành công của dự án
- Vai trò và trách nhiệm
Trong nhiều tổ chức có một số vai trò và trách nhiệm được quy định sẵn có ảnh
hưởng đến trong quá trình hoạch định quản trị rủi ro, các quyết định liên quan đến rủi
ro và sự tham gia các thành viên nhóm dự án. Các vai trò và trách nhiệm này cũng như
các chính sách gắn với công việc của dự án
Ngoài ra nhà quản trị dự án cần phải hiểu biết đầy đủ về quyền lực và sự chủ
động mà anh ta có trong dự án Ví dụ: Một PM có thể muốn xây dựng kế hoạch và các
phản ứng đối với rủi ro trong dự án, song các chính sách trong tổ chức công ty mẹ giới

hạn quyền lực mà PM có liên quan đến quản trị rủi ro. Hiểu biết về giới hạn của quyền
lực có thể giúp PM làm việc với các nhà quản trị cấp cao và quản trij chức năng hoặc
với khách hàng một cách thành công trong hạn chế rủi ro.
- Mức độ chấp nhận rủi ro của các nhóm hữu quan
Tùy theo dự án, theo điều kiện và xác suất thua lỗ hay lợi nhuận mà các biên liên
quan đến dự án có mức độ chấp nhận khác nhau. Mức độ chấp nhận này có thể được
nhận thấy ngay từ khi khởi xướng dự án, thông qua các báo cáo chính thức về chín
sách hoặc thông qua các hoạt động của họ trong suốt dự án
Ví dụ: Một dự án xây dựng chung cư cao tầng, xây cầu có mức độ chấp nhận rủi ro rất
thấp do đây là vấn đề liên quan đến cái sống và cái chết của nhiều người, không cho
- 12 -
Phân hiệu đại học Đà Nẵng tại Kon Tum
phép sự sai sót nóng vội nào. Còn đối với dự án xây dựng công viên mức độ chấp nhận
rủi ro sẽ khác.
Mức độ chấp nhận rủi ro được coi là một hàm số lợi ích phụ thuộc vào thời gian
và chi phí cần thiết để giảm đi khả năng thất bại. Chi phí xóa bỏ rủi ro phải cân bằng
với mức độ chắc chắn rằng dự án dự án có thể được hoàn thành mà không phát sinh
chi phí tăng thêm
- Khuôn mẫu quản trị rủi ro
Tổ chức thực hiện dự án có thể căn cứ vào các dự án đã thực hiện tương tự trong
quá khứ để xây dựng kế hoạch quản trị rủi ro. Các dự án mẫu này hướng dẫn PM và
nhóm dự án qua các giai đoạn hoạch định, xác định rủi ro và các giá trị có thể kích
hoạt dẫn đến các hoạt động hoạch định bổ sung nhưng lưu ý việc áp dụng thay đổi tùy
theo tích chất của dự án
Một kế hoạch quản trị rủi ro phải tạo cho PM khả năng quyết định liên quan đến
các rủi ro nằm trong một ngưỡng nào đó. Rủi ro trên ngưỡng đó cần phải được đệ trình
lên cấp quản lý cao hơn để xác định mức chi phí và tác động của rủi ro lên thành công
của dự án.
- Cấu trúc phân chia công việc (WBS)
Đây là tài liệu quan trọng cho tiến trình hoạch định rủi ro. WBS giúp cho PM và

nhóm dự án xác định các thành phần cơ bản của dự án và từ đó xác định các rủi ro
mang tính chất duy nhất với một phần việc cụ thể và các rủi ro chung của dự án. Ví dụ
Một dự án xây dựng tòa nhà có các bộ phận khác nhau trong WBS: Phần móng, cột,
nội thất, hoàn thiện…Trong mỗi bộ phận có thể có những rủi ro riêng đối với từng
phần, song cũng có thể có các rủi ro ảnh hưởng đến thành công của toàn bộ dự án như
Phần móng, kết cấu chịu lực ảnh hưởng đến toàn bộ cấu trúc của toàn nhà và ảnh
hưởng đến toàn bộ chu kỳ sống của dự án
b. Xây dựng kế hoạch quản trị rủi ro
Thông qua các cuộc họp kế hoạch rủi ro, kế hoạch quản trị rủi ro sẽ được xây
dựng gồm có PM, lãnh đạo nhóm dự án, các nhóm hữu quan chủ chốt, các nhân sự đặc
thù cho quản trị rủi ro, các cac nhân có thẩm quyền.
Kế hoạch quản trị rủi ro không chi tiết hóa các phương án đối phó từng rủi ro
riêng rẽ, một kế hoạch quản trị rủi ro gồm có các phần sau:
- 13 -
Phân hiệu đại học Đà Nẵng tại Kon Tum
- Phương pháp đề cập đến vấn đề tiến trình rủi ro được thực hiện nhue thế nào.
Phần phương pháp đặt ra các câu hỏi:
+ Công cụ nào sẵn có để sử dụng cho quản trị rủi ro
+ Cách tiếp cận nào có thể được chấp nhận đối với tổ chức mẹ
+ Nguồn dữ liệu nào có thể tiếp cận và sử dụng cho quản trị rủi ro.
+ Cách tiếp cận nào là tốt nhất cho từng loại dự án, cho từng giai đoạn của dự án
và phù hợp nhất cho điều kiện riêng của dự án
- Vai trò và trách nhiệm:
Xác định các cá nhân sẽ tham gia lãn đạo và hõ trợ cho từng hoạt động quản trị
rủi ro trong kế hoạch dự án
- Lập ngân sách:
Trên cơ sở quy mô, tác động và ưu tiên của dự án, có thể thiếp lập một ngân sách
thực tiễn cho các hoạt động quản trị rủi ro nếu dự án muốn đạt thành công.
- Tiến độ:
Tiến trình quản trị rủi ro cần có một kế hoạch tiến độ để xác định mức độ thường

xuyên và thời điểm tiến hành các hoạt động quản trị rủi ro trong suốt dự án.
- Hệ thống đánh giá và cho điểm các rủi ro
Trước khi thực hiện các phân tích định tính, định lượng một hệ thống cho điểm
và diễn giải hệ thống này cần được xác định rõ ràng. PM và nhóm dự án cần phải xác
định rõ hệ thống cho điểm nào sẽ được áp dụng trong phần phân tích để đảm bảo tính
nhất quán cho toàn bộ dự án.
- Các ngưỡng giới hạn
Các ngưỡng giới hạn là các yếu tố đã được thiết lập trước thời điểm triển khai
thực hiện dự án và khi các điều kiện của dự án vượt qua ngưỡng này thì cần có một
hành động đáp ứng có thể giúp tiết kiệm thời gian, giảm bớt sự thất vọng, các chi phí
tănng thêm và trì hoãn.
- Hình thức báo cáo
Các yêu cầu về hình thức báo cáo sẽ xác định loại, mức độ chi tiết và các yêu cầu
của kế hoạch phản ứng rủi ro. Kế hoạch này đề cập đến cách thức mà các đầu ra của
tiến trình quản trị rủi ro được ghi nhận, phân tích và truyền thông đến các nhà quản trị
chức năng, khách hàng, nhóm dự án và các bên liên quan khác.
- 14 -
Phân hiệu đại học Đà Nẵng tại Kon Tum
- Theo dõi:
Khi các hoạt động quản trị rủi ro xảy ra, cần phải ghi lại các hoạt động này và kết
quả nhằm hỗ trợ các quyết định của dự án hiện tại cũng như các dự án tương lai. Cacs
thong tin này cũng trở thành nguồn thông tin hỗ trợ cho các nhà quản trị chức năng,
nhóm dự án, khách hàng và các nhóm liên quan khác.
2. Xác định rủi ro
a. Nhận dạng rủi ro của dự án
Nhận dạng rủi ro là quá trình xác định liên tục trong suốt vòng đời dự án và có hệ
thống các rủi ro của một dự án (hoặc doanh nghiệp). Các hoạt động nhận dạng rủi ro
nhằm thu thập các thông tin đầy đủ và nguồn rủi ro, các yếu tố hiểm họa và nguy cơ
rủi ro để từ đó đưa ra một danh sách các rủi ro mà dự án (hoặc doanh nghiệp) phải
chịu. Danh sách này càng đầy đủ và hệ thống bao nhiêu, cũng giúp cho quá trình

QLRR hiệu quả bấy nhiêu Trên cơ sở đó cần phân loại các rủi ro của dự án theo các
tiêu chí cụ thể để có biện pháp đánh giá và xử lý phù hợp.
b. Phân loại rủi ro của dự án
Các loại rủi ro bao gồm những rủi ro chung, đặc thù của ngành. Phân loại rủi ro
cũng giúp tổ chức, sắp xếp, phân hạng và phân tích các rủi ro của dự án . Có 4 loại rủi
ro chính:
- Rủi ro kỹ thuật, chất lượng, hiệu quả: Các rủi ro kỹ thuật gắn với việc sử dụng
các công nghệ mới, chưa được sử dụng hoặc chưa được kiểm nghiệm. Các thay đổi
công nghệ trong suốt tiến trình triển khai dự án cũng có thể được coi là một rủi ro. Các
rủi ro chất lượng là các mức độ kỳ vọng về chất lượng và chất lượng thành tích. Thay
đổi trong các tiêu chuẩn ngành trong suốt dự án cũng có thể được xếp trong loại này.
- Rủi ro quản trị dự án: Đây là rủi ro gắn với thực tiễn quản lý dự án như phân bổ
kém thời gian, nguồn lực, sắp xếp tiếnn độ không hợp lý, các kết quả công việc tồi
(chất lượng thấp) hoặc quản lý nói chung chưa phù hợp
- Rủi ro tổ chức: Tổ chức mẹ (công ty)có thể là một nguồn rủi ro của dự án do đề
ra các kỳ vọng về chi phí, thời gian và phạm vi không hợp lý cho dự án. Rủi ro tổ chức
có thể gắn với mức ưu tiên chi dự án không phù hợp, ngân quỹ không hợp lý, hoặc cắt
nguồn ngân quỹ, hoặc tình trạng cạnh tranh giữa dự án với dự án khác.
- Rủi ro bên ngoài: Các rủi ro này ở bên ngoài dự án, song có ảnh hưởng trực tiếp
đến dự án như pháp lý, lao động, thay đổi trong ưu tiên dự án, thời tiết… các rủi ro bất
- 15 -
Phân hiệu đại học Đà Nẵng tại Kon Tum
kháng như động đất, bão lụt, chiến tranh, sống thần và các dạng thiên tai thì cần nhiều
biện pháp khác để đối phó ngoài công tác quản trị dự án.
- Thông tin lịch sử: Là một nguồn thông tin về dự án trong quá khứ, có thể cung
cấp nhiều dữ liệu hữu hiệu cho các rủi ro được xác định ở giai đoạn đầu của dự án và
đồng thời cung cấp thông tin cho báo cáo cuối cùng của dự án. Thông tin này có thể
đến từ nhiều nguồn như bài báo, nghiên cứu, cơ sở dữ liệu thương mại và những tài
liệu khác
c. Các kỹ thuật xác định rủi ro

- Đánh giá tài liệu dự án
Một trong những bước đầu tiên của nhóm dự án là xem xét lại tài liệu dự án. Kế
hoạch dự án, phạm vi và các tài liệu dự án cần được đánh giá xem xét lại. Các giới hạn
và giả định cũng cần được xem xét và phân tích cho rủi ro. Cấu trúc này theo cách tiếp
cận rộng về phương diện kế hoạch dự án, phạm vi và các hoạt động được xác định
trong dự án
- Tập kích não (Brainstorming)
Brainstoming là một kỹ thuật phổ biến nhất để xác định rủi ro. Để sử dụng kỹ
thuật này cần tổ chức một cuộc họp và những những người tham gia cần được giải
thích rõ ràng về mục đích của cuộc họp và cần chuẩn bị trước khi tham dự. Các cuộc
họp này cần có quy mô từ 10 -15 người tham dự và không kéo dài quá 2h. Trong các
dự án lớn có thể phải thực hiện nhiều cuộc họp Brainstroming. Khi đó, nên mỗi cuộc
họp sẽ nhằm xử lý một phần riêng rẽ của dự án và rủi ro gắn với phần đó. Như vậy, số
người tham gia giới hạn ở một mức vừa phải và cuộc họp sẽ có hiệu quả hơn. Khi cuộc
họp bắt đầu, người tham gia có thể kể tên các rủi ro mà họ nghĩ là quan trọng cần được
xem xét, Tuy nhiên các rủi ro này chưa được thảo luận gì. Sau khi đã xem xét danh
sách các rủi ro được nghĩa rộng, các tính chất của rủi ro sẽ được chi tiết hóa. Các rủi ro
sau đó được xếp loại và chuyển sang giai đoạn phân tích định tính và định lượng
Có thể có nhiều thành phần tham dự cuộc họp gồm các chuyên gia trong lĩnh vực,
thành viên nhóm dự án, khách hàng và các bên liên quan khác
- Kỹ thuật Delphi
Delphi là một kỹ thuật ẩn danh, nhằm thu thập ý kiến chuyên gia về các rủi ro có
thể thấy trước của dự án, trong một gia đoạn hay một bộ phận của dự án. Kết quả của
cuộc điều tra này có thể được phân tích bởi một bên thứ ba, sau đó sắp xếp lại cho các
- 16 -
Phân hiệu đại học Đà Nẵng tại Kon Tum
chuyên gia. Các chyên gia này có thể thay đổi ý kiến song phải đưa ra lý do. Sau nhiều
vòng thảo luận như vậy, một danh sách các rủi ro được thống nhất.
Ưu điểm của phương pháp này là vô danh nên ý kiến của các chuyên gia là khách quan
mà không chịu sự ảnh hưởng bởi một bên khác, đồng thời, các chuyên gia có thể đưa

ra ý kiến mà không sợ bị đánh giá về trình độ cũng không sợ gây mất lòng hay phật ý.
Tuy nhiên, nhược điểm là người chủ trì phải làm nhiều việc hơn, đầu tư nhiều thưoif
gian hơn. Ngoài ra còn có một số rủi ro khác là người chủ trì vòng Delphi phải phân
tích và xếp loại các ý kiến từ những người tham gia, điều này có nghĩa là có khả năng
họ áp đặt ý kiến của mình lên người khác.
- Tương tư
Theo phương pháp này, dựa trên các bài học và kế hoạch quản trị rủi ro của các
dự án tương tự đã được thực hiện, chúng ta sẽ so sánh sự giống nhau và khác biệt giữa
các dự án này để rút ra ý tưởng về rủi ro.
- Phân tích SWOT
Phân tích SWOT có nghĩa là tiến trình phân tích dự án trên 4 quan điểm (điểm
mạnh, điểm yếu, cơ hội, đe dọa). Ví dụ: một dự án công nghệ có thể xác định SWOT
như sau:
+ Điểm manh: Công nghệ đã từng được lắp đặt bởi các công ty lớn trong ngành.
+ Điểm yếu: Chúng ta chưa từng lắp đặt công nghệ này
+ Cơ hội: Công nghệ mới cho phép công ty giảm thời gian sản xuất và đưa sản
phẩm ra thị trường có tính mới mẽ . Cơ hội là các điều kiện, yếu tố, sự kiện cho phép
doanh nghiệp tạo nên sự khác biệt so với các đối thủ cạnh tranh và cải thiện vị thế trên
thị trường.
+ Đe dọa: Thời gian cần thiết để đào tạo và mô phỏng có thể trùng lắp với thời
gian cập nhật sản phẩm, các phiên bản mới và các thay đổi ngoài đối với danh mục
công nghệ
- Phiếu kiểm tra
Phiếu kiểm tra được sử dụng nhiều trong những năm gần đây do các phương tiện
truyền thông ngày càng thuận tiện và thông tin dễ dàng được trao đổi và chia sẻ qua
các cơ sở dũ liệu. Có nhiều cơ sở dữ liệu thương mại và các checklist được tạo ra cho
nhiều ứng dụng cụ thể trong doanh nghiệp. Ở dạng thức đơn giản nhất thì checklist
chính là danh sách được lập trước về một loạt các rủi ro có thể có cho bất kỳ một dự
- 17 -
Phân hiệu đại học Đà Nẵng tại Kon Tum

án nào. Checklist cũng có thể được xây dựng đối với một loại dự án đặc thù mà công
ty đã thực hiện trong quá khứ. Thông thường , một số khách hàng và nhóm hữu quan
có một số rủi ro cụ thể gắn với họ mà họ có thể cảnh báo trước cho PM
+ Ưu điểm của checklist là đơn giản và là cách tiếp cận trực tiếp để xác định rủi
ro.
+ Nhược điểm là những nguời tham gia có thể chỉ giới hạn các rủi ro xác định
được trong các hạng mục rủi ro sẵn có trong checklist và việc xây dựng một danh sách
rủi ro đầy đủ cho tất cả các dự án là một điều là hầu như không thể được. Cần lưu ý
rằng checklist khi được sử dụng như là một hướng dẫn chứ không phải là một danh
sách đầy đủ cuối cùng về các rủi ro. Các rủi ro không nằm trong checklist cũng cần
phải được nghiên cứu, ghi nhận và hoạch định.
Nếu sử dụng checklist, thì khi kết thúc dự án, checklist phải được xem xét lại để
đảm bảo rằng danh sách này là chính xác và đầy đủ cho các dự án trong tương lai.
Ngoài ra còn có một số phương pháp khác như: Xem xét các giả định, Kỹ thuật
sơ đồ, Phỏng vấn chuyên gia, Nhóm vô danh, Kỹ thuật hỏi không lặp lại
d. Kết quả của tiến trình xác định rủi ro
- Rủi ro: Tên của rủi ro, mô tả về rủi ro, ngày rủi ro được ghi nhận, người chịu
trách nhiệm quản lý rủi ro, tham khảo đến WBS, xác suất xảy ra rủi ro, tác động đối
với dự án
- Dấu hiệu kích hoạt: Các đáu hiệu cảnh báo hoặc triệu chứng cho biết rằng rủi ro
sắp xảy ra
- Đầu vào cho các tiến trình khác: Xác định rủi ro cũng có thể đóng góp cho các
tiến trình khác. Ví dụ: Việc sắp đặt thứ tự công việc hiện tại có quá nhiều rủi ro, do đó
cần phải tái lập tiến độ hoặc sắp xếp thứ tự công việc và nó đòi hỏi phải xác định lại
rủi ro một lần nữa.
- 18 -
Phân hiệu đại học Đà Nẵng tại Kon Tum
3. Phân tích định tính rủi ro
Có thể phân tích và đánh giá mức độ rủi ro bằng phương pháp phân tích định tính
và phân tích định lượng. Phân tích định tính là việc mô tả tác động của mỗi loại rủi ro

và sắp xếp chúng vào từng nhóm mức đọ: rủi ra cao, trung bình, thấp.
a. Mục đích
Mục đích của phân tích định tính là nhằm đánh giá tổng thể xem rủi ro tác động
đến những bộ phận nào và mức độ ảnh hưởng của nó đến từng bộ phận và toàn bộ dự
án. Đối với những dự án đơn gián có thể chỉ áp dụng phương pháp định tính để xác
định rủi ro. Ngoài ra, cũng có một số dự án không thể áp dụng phương pháp phân tích
định lượng thì việc phân tích định tính để xác định rủi ro là rất cần thiết.
b. Các kỹ thuật phân tích định lượng
- Xác xuất và tác động: Rủi ro của dự án được xếp hạng trên cơ sở xác suất và
tác động của chúng. Xác suất của rủi ro là khả năng mà rủi ro đó có thể xảy ra, trong
khi tác động là hậu quả của sự kiện đó có thể gây ra cho dự án. Có 2 thang đo:
+ Thang khoảng cách xác định mức rủi ro và tác động trên cơ sở giá trị số từ 0,01
đến 1
+ Thang thứ tự đo lường rủi ro từ các giá trị thấp đến cao.
- 19 -
Một ví dụ về sơ đồ ảnh hưởng
Ngân sách Marketing
Giá bán buôn
Giá bán lẽ
Quy mô
Thị trường
Cạnh
tranh
Thị
phần
Doanh
thu
Chi
phí
Lãi

gộp
Thu
nhập
ròng
Phân hiệu đại học Đà Nẵng tại Kon Tum
- Xây dựng ma trận xác suất – Tác động
Mỗi rủi ro được xác định sẽ được nhập vào ma trận xác suất – tác động. Các rủi
ro có xác suất và tác động cao sẽ là mối đe dọa lớn hơn và cần phải phân tích định
lượng để xác định gốc rễ của các rủi ro, phương pháp để kiểm soát và quản trị rui ro
hiệu quả
Dự án được thực hiện tốt nhất khi thang đo xác suất và tác động được xác định
trước khi phân tích định tính. Có thể đánh giá khả năng xảy ra cảu một rủi ro nào đó
trên thang đo tuyến tính (0,2; 0,3; 0,5; 0,7; 0,9) hoặc thang đo thứ tư (khả năng xảy ra:
Cao, Trung bình, Thấp).Thang đo này nên được xác định và nhất trí dựa trên kế hoạch
quản trị rủi ro. Thang đo tác động thì đo lường mức độ nghiêm trọng mà rủi ro gây ra
đối với mục tiêu của dự án ( cũng có thể là thang đo địa danh, hoặc thứ tự). Sau khi
các thang đo này đã được xác định thì các rủi ro sẽ được xếp hạng theo hệ thống này
và các rủi ro trong tương lai cũng được đo lường và xếp hạng bởi một hệ thống.
- Kiểm tra các giả định: Giả định sai lầm có thể phá vỡ các kế hoạch về thời
gian, chi phí và chất lượng dự án. Do đó, các giả định cũng được xem như là rủi ro và
cần phải được kiểm tra và cân đối để đánh giá xác suất của một giả định nào đó trở
thành bất lợi đối với dự án. Giả định được cân đối dựa trên hai yếu tố:
+ Độ ổn định của giả định: Thông tin dẫn đến giả định có ổn định hay không?
+ Kết quả của giả định: Tác động nào có thể xảy ra cho dự án nếu giả định đó
sai?
Trả lời 2 câu hỏi này sẽ giúp nhóm dự án có thể hoàn thành dự án với mức tự tin
cao hơn. Nếu một giả định bị chứng tỏ là sai thì trọng số của kết quả của giả định có
thể được hạ thấp, tùy theo tính chất của giả định
- Căn cứ vào mức chính xác của dữ liệu: Một trong những khó khăn nhất của
phân tích định tính là tính chất chủ quan, thiên lệch của tiến trình. Một PM và nhóm

dự án cần phải đặt câu hỏi về mức độ tin cậy và tính thực tiễn của các dữ liệu thực
tiễn. Xếp hạng mức độ chính xác của dữ liệu xử lý các vấn đề như sau:
+ Mức độ thông hiểu rủi ro của dự án
+ Các thông tin và dữ liệu sẵn có về rủi ro đã được xác định
+ Chất lượng của thông tin và dữ liệu về rủi ro đã được xác định
+ Mức độ ổn định của thông tin
- 20 -
Phân hiệu đại học Đà Nẵng tại Kon Tum
c. Kết quả của phân tích định lượng
- Xếp hạng rủi ro chung của dự án
- Các rủi ro đã được xếp hạn ưu tiên
- Xác định các rủi ro cần phân tích thêm
- Xu hướng trong phân tích định tính
4. Phân tích định lượng rủi ro
Phân tích định lượng là việc sử dụng các phương pháp toán, thống kê và tin học
để ước lượng rủi ro về chi phí, thời gian, nguồn lực và mức độ bất định. Một số công
cụ thường sử dụng để lượng hóa rủi ro như phân tích mạng, phân tích xác suất,
phương pháp đồ thị, phân tích quan hệ.
a. Mục đích
- Khẳng định khả năng dự án thành công
- Khẳng định khả năng đạt đến một mục tiêu xác định nào đó của dự án
- Xác định mức độ chịu rủi ro của dự án
- Xác định giới hạn quỹ dự phòng rủi ro của dự án
- Xác định các rủi ro có tác động lớn nhất đến dự án
- Xác định mục tiêu thực tiễn về thời gian, chi phí và phạm vi
b. Các kỹ thuật phân tích định lượng
- Phỏng vấn các đối tượng hữu quan và các chuyên gia: Phỏng vấn chuyên gia có
thể tập trung vào tình huống xấu nhất, tốt nhất và dễ xảy ra nhất. Tuy nhiên, phần lớn
phân tích định lượng sử dụng các phân phối xác suất liên tục như phân phối chuẩn,
phân phối tam giác, phân phối nhất thức, phân phối beta…

- Phân tích độ nhạy
- Cây quyết định: Là phương án nhằm lựa chọn một trong nhiều phương án. Ví
dụ: Có thể sử dụng để lựa chịn phương án thuê – mua, làm – mua ngoài, sử dụng
nguồn lực bên trong – bên ngoài. Mô hình cây quyết định đánh giá các chi phí và lợi
ích kết quả của 2 phương án và cân đối với xác suất thành công của chúng.
- Mô phỏng dự án (Monte Carlo)
c. Kết quả của phân tích định lượng
- Danh sách được xếp thứ tự ưu tiên của các rủi ro
- Phân tích xác suất
- Xác suất về các mục tiêu chi phí và tiến độ
- 21 -
Phân hiệu đại học Đà Nẵng tại Kon Tum
- Xu hướng
5. Lập kế hoạch cho các phương án đối phó rủi ro
Có nhiều công cụ và kỹ thuật mà nhóm dự án có thể sử dụng để xử lý rủi ro. Tuỳ
từng trường hơp, xác định loại phương án xử lý phù họp nhất. Mục đích là giảm mức
rủi ro chung của dự án xuống đến mức có thể chấp nhận được và nhằm hướng đến tất
cả các rủi ro được cho điểm số rủi ro cao. Có 4 loại phương án đối phó với rủi ro.
a. Né tránh rủi ro
Né tránh rủi ro là loại bỏ khả năng bị thiệt hại, là việc không chấp nhận dự án có
độ rủi ro quá lớn. Biện pháp này được áp dụng trong trường hợp khả năng bị thiệt hại
cao và mức độ thiệt hại lớn. Né tránh rủi ro có thể được thực hiện ngay từ giai đoạn
đầu của chu kỳ dự án. Nếu rủi ro dự án cao thì loại bỏ ngay từ đầu.
b. Chuyển rủi ro sang các chủ thể kinh tế khác thông qua các hợp đồng.
Tuỳ theo loại rủi ro mà đối tượng chịu rủi ro có thể chuyển rủi ro sang các cá
nhân hoặc tổ chức khác như ngân hàng hoặc các công ty bảo hiểm (đối với rủi ro về tài
chính, kỹ thuật) nếu các đối tượng đó chịu nhận về mình một số rủi ro để đổi lấy
những lợi ích khác. Hay nói cách khác đây là tiến trình chuyển giao cho một bên thứ
ba. Rủi ro không biến mất hoàn toàn mà trở thành trách nhiệm của một bên thứ ba.
Chuyển giao rủi ro thường đòi hỏi một khoản chi phí nhất định cho bên thứ ba để gán

chịu và quản lý rủi ro như:
+ Bảo hiểm
+ Bảo đảm
+ Bảo hành
+ Hợp đồng giá cố định
c. Giảm bớt rủi ro
Giảm bớt rủi ro là nỗ lực giảm đi xác suất và tác động của một rủi ro đã được
xác định. Phương án này được thực hiện trước khi rủi ro xảy ra với điều kiện thời gian
và chi phí để giảm bớt hoặc loại bỏ rủi ro phải hiệu quả hơn thời gian và chi phí để sửa
chữa thiệt hại do rủi ro gây ra. Rủi ro có thể vẫn xảy ra, song hy vọng rằng chi phí và
tác động nói chung sẽ thấp. Tuy nhiên, khi mức độ thiệt hại sẽ nghiêm trọng nếu nó
xảy ra và khi không thể chuyển dịch thiệt hại thì việc áp dụng biện pháp này không
phù hợp
- 22 -
Phân hiệu đại học Đà Nẵng tại Kon Tum
d. Chấp nhận rủi ro
Chấp nhận rủi ro là trường hợp chủ đầu tư hoặc cán bộ dự án hoàn toàn biết trước
về rủi ro và những hậu quả của nó nhưng sẵn sàng chấp nhận những rủi ro thiệt hại nếu
nó xuất hiện. Chấp nhận rủi ro áp dụng trong trường hợp mức độ thiệt hại thấp và khả
năng bị thiệt hại không lớn. Ngoài ra, cũng có những rủi ro mà đơn vị phải chấp nhận
(chấp nhận một cách thụ động). Hầu hết các chính sách chấp nhận rủi ro đều dựa trên
một quỹ dự phòng rủi ro dự án. Quỹ dự phòng rủi ro là số tiên mà dự án có thể cần
đến, dựa trên tác động, xác suất và giá trị kỳ vọng của sự kiện rủi ro đó
Ví dụ: Một rủi ro A có xác suất xảy ra là 25% với chi phí gây ra là 4 tỷ. Giá trị kỳ
vọng của rủi ro này là 1 tỷ. Rủi ro B có xác suất xảy ra là 40% và mạng lại khoản lợi
ích giá trị là 4 tỷ. Vậy giá trị kỳ vọng của rủi ro B là 1,6 tỷ. Nếu chỉ có 2
loại rủi ro này thì quỹ dự phòng được lập sẽ là 2,6 tỷ.
QLRR là một hình thức quản trị luôn chủ động đối với những rủi ro, qua đó
hướng tổ chức đi đến mục tiêu đã đặt ra một cách hiệu quả nhất. Ngày nay, cùng với
quản trị chiến lược và quản trị hoạt động, QLRR là một hoạt động hết sức cần thiết đối

với mỗi một tổ chức hoạt động trong nền kinh tế thị trường vốn có rất nhiều yếu tố rủi
ro bất định.
e.Kết quả của quá trình lập kế hoạch đối phó rủi ro:
+ Giải quyết các rủi ro còn lại
+ Tính đến các rủi ro thứ cấp
+ Xây dựng hợp đồng để đối phó rủi ro
+ Thiết lập quỹ dự phòng rủi ro
+ Chứng minh sự xác đáng của các biện pháp giảm thiểu rủi ro
+ Cập nhật kế hoạch dự án
6. Giám sát và kiểm soát rủi ro
Giám sát và kiểm soát rủi rủi ro là tiến trình giám sát các rủi ro đã được xác định
nhằm tìm kiếm dấu hiệu báo trước sự xảy ra và kiểm soát các rủi ro này bằng các
phương án đã đề ra đồng thời tìm kiếm các rủi ro mới có thể phát sinh trong dự án.
Giám sát và kiểm soát rủi ro cũng đảm nhận việc ghi nhận các thành công và thất
bại của kế hoạch đối phó rủi ro, lưu giữ các đo lường báo hiệu rằng rủi ro đang xảy ra,
đang giảm bớt hoặc biến mất khỏi dự án.
- 23 -
Phân hiệu đại học Đà Nẵng tại Kon Tum
Giám sát và kiểm soát rủi ro là một tiến trình chủ động tích cực đòi hỏi sự tham
gia của tất cả các thành viên dự án và được lặp đi lặp lại
a. Mục tiêu
+ Để khẳng định các phương án đối phó rủi ro được triển khai như kế hoạch
+ Để xác định các phương án đối phó rủi ro có hiệu quả hay không hay cần có
phương án mới
+ Để xác định tính giá trị của các giả định dự án
+ Để xác định xem khả năng rủi ro xảy ra đã thay đổi, tiến triển hay suy giảm
theo các xu hướng trong tiến triển dự án
+ Để giám sát các yếu tố kích hoạt rủi ro
+ Để khẳng định các chính sách và thủ tục diễn ra như kế hoạch
+ Giám sát dự án đối với rủi ro mới

b. Các công cụ để giám sát và kiểm soát rủi ro
- Kiểm tra phương án đối phó với rủi ro
Kiểm tra lại phương án đối phó với rủi ro đã được lập kế hoạch, đánh giá các
hành động lập kế hoạch đã tiến triển như thế nào và tính hiệu quả trong việc triển khai
các phương án này từ người thực hiện. Kiểm tra đánh giá thường xảy ra trong suốt dự
án nhằm đo lường hiệu quả của việc giảm nhẹ, chuyển giao hoặc né tránh rủi ro.
Phương pháp đáp ứng với rủi ro nên đo lường hiệu quả của các quyết định và tác động
của nó đối với yếu tố thời gian và chi phí.
- Đánh giá rủi ro định kỳ
Được thiết lập trong chương trình các cuộc họp thường kỳ của dự án. Đánh giá
rủi ro là các thảo luận thường xuyên theo định kỳ trong suốt dự án để chắc chắn về
mức độ của các rủi ro, sự thành công của các phương án đối phó tính đến thời điểm đó
và sự xem xét đánh giá lại các rủi ro. Căn cứ trên điều kiện của dự án, thứ hạng và ưu
tiên của các rủi ro cũng có thể biến đổi. Thay đổi đối với phạm vi dự án, nhóm dự án
và các điều kiện có thể đòi hỏi các phân tích định lượng và định tính sâu hơn.
- Sử dụng phân tích giá trị thu được
Phân tích giá trị thu được đo lường hiệu quả của dự án. Khi hiệu quả suy giảm, có
khả năng dự án không đạt được các mục tiêu về chi phí và tiến độ. Kết quả của phân
tích giá trị thu được có thể cho ra các dấu hiệu cho biết rằng rủi ro đang xảy ra đối với
dự án hoặc rủi ro mới có thể xuất hiện. Ví dụ chỉ số SPI 0,93 cho biết rằng dự án đang
- 24 -
Phân hiệu đại học Đà Nẵng tại Kon Tum
chậm tiến độ 7%. Rủi ro căn cứ trên giá trị này có nghĩa là dự án gặp nhiều khó khăn
trong việc hoàn tất công việc theo kế hoạch. Các công việc bổ sung có thể tiếp tục bị
trễ, dự án sẽ kết thúc muộn, chất lượng cũng có thể bị ảnh hưởng khi nhóm dự án ra
sức chạy đua để hoàn tất công việc đã được phân công.
- Đo lường hiệu quả kỹ thuật
Trong suốt dự án, năng lực kỹ thuật của nhóm dự án về công nghệ được sử dụng
phải gia tăng. Mức độ hoàn thiện kỹ thuật nên tương ứng với mức độ hiệu quả kỹ thuật
kỳ vọng. Nếu nhóm dự án không đạt được mức độ chuyên môn như kỳ vọng, dự án có

thể gánh chịu thêm một số rủi ro do sự sai lệch đó. Năng lực kỹ thuật có thể được đo
bằng sự thành công khi hoàn tất các công việc trong suốt dự án hoặc trong từng giai
đoạn của dự án.
- Hoạch định rủi ro bổ sung
Trong nhiều trường hợp, các rủi ro mới sẽ trở nên rõ ràng hơn trong giai đoạn triển
khai thực hiện dự án. Nhóm dự án, PM và các đối tượng hữu quan chủ chốt nào phát
hiện ra các rủi ro mới nên truyền thông về các rủi ro này. Rủi ro khi đó sẽ được nhận
diện, ghi lại, phân tích và lập kế hoạch. Nhóm dự án nên được động viên khuyến khích
truyền thông các rủi ro mới này.
c. Kết quả của giám sát và kiểm soát rủi ro dự án
- Kế hoạch đối phó bất thường
- Hành động điều chỉnh
- Yêu cầu thay đổi
- Cập nhật kế hoạch đối phó rủi ro
- Cơ sở dữ liệu rủi ro
- Cập nhật phiếu kiểm tra
- 25 -

×