Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

155 Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm vận tải tại HTXDVVT Trường Sơn 

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 94 trang )

Trần thị Xuân Nam K– ế toán 7 Khoá 34–
VLỜI MỞ ĐẦU
iệc chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường là xu hướng tất yếu
bao gồm việc mở rộng quan hệ hàng hoá tiền tệ, quan hệ thị trường với các qui
luật khắt khe của nó ngày càng chi phối mạnh mẽ đến mọi hoạt động đời sống
kinh tế xã hội, đến hoạt động mọi mặt của Doanh nghiệp sản xuất nói riêng. Yêu
cầu của nền kinh tế thị trường đòi hỏi cơ chế quản lý và hệ thống quản lý phải có
sự thay đổi phù hợp.
Hạch toán kế toán là bộ phận quan trọng trong hệ thống quản lý kinh tế tài
chính, giữ vai trò tích cực trong việc điều hành và kiểm soát các hoạt động sản
xuất kinh doanh. Là một khâu của hạch toán kế toán, hạch toán chi phí sản xuất
và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp giữ một vai trò hết sức quan
trọng.
Giá thành sản phẩm là cơ sở, điều kiện để xác định giá bán hợp lý từ đó
đẩy nhanh quá trình tiêu thụ sản phẩm - thực hiện tốt quá trình tái sản xuất giản
đơn và mở rộng sản xuất. Do vậy, các Doanh nghiệp sản xuất bên cạnh việc
nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng qui mô sản xuất đồng thời còn phải tính
toán chi phí hợp lý và mọi biện pháp để hạ thấp giá thành sản phẩm. Giá thành
là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh trình độ quản lý, sử dụng vật tư, lao
động, thiết bị, trình độ tổ chức, qui trình sản xuất sản phẩm của HTX, là cơ sở
để đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc hạch toán chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm không chỉ dừng lại ở chỗ tính đúng, tính đủ chi
phí trong giá thành mà còn phải tính đến việc cung cấp thông tin cho quản lý
Doanh nghiệp. Đây là một đòi hỏi khách quan của công tác quản lý, nhất là
trong điều kiện kinh tế thị trường, thông tin chủ yếu mang tính quyết định sản
xuất. Để phát huy tốt chức năng của mình, hạch toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm phải được cải tiến và hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý
trong nền kinh tế thị trường.
Trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế, việc hạ thấp giá thành sản phẩm của
các Doanh nghiệp sẽ đem lại tiết kiệm cho xã hội, tăng tích luỹ cho nền kinh tế
và tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Vậy vấn đề tiết kiệm chi phí, hạ


thấp giá thành sản phẩm không phải chỉ là vấn đề của người sản xuất, của từng
Doanh nghiệp mà còn là của toàn xã hội.
Xuất phát từ đó, HTX Trường Sơn đã không ngừng đầu tư vế chiều sâu,
hạ thấp giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm để có sức cạnh tranh với các
đơn vị vận tải khác. Các đầu xe của HTX hoạt động rộng khắp trên các tỉnh -
thành trong cả nước, đặc biệt là các tỉnh phía Bắc. Một trong những công cụ tạo
Trang 1
Trần thị Xuân Nam K– ế toán 7 Khoá 34–
nên thành công đó là công tác kế toán chi phí sản xuất, tính giá thành nói riêng
của HTX.
Cùng với việc đổi mới chế độ kế toán của Nhà nước, HTX đã có nhiều cố
gắng trong việc cải tiến phương pháp kế toán cho phù hợp với cơ chế quản lý
kinh tế hiện nay. Song nhìn từ góc độ quản lý và chế độ kế toán hiện hành thì
thực tế ở HTX công tác kế toán vẫn còn một số mặt cần bổ sung, hoàn thiện.
Xuất phát từ mặt lý luận, thực tiễn đặt ra cho kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm tại HTX DVVT Trường Sơn em đã chon đề tài: “Hoàn thiện
kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm vận tải tại HTXDVVT
Trường Sơn ”.
Ngoài lời mở đầu và phần kết luận, luận văn được hoàn thành với nội
dung gồm 3 chương chính:
Phần I: Lý luận chung về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm vận tải trong doanh nghiệp vận tải.
Phần II : Thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
vận tải tại HTXDVVT Trường Sơn
Phần III: Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
vận tải tại HTXDVVT Trường Sơn
Do còn hạn chế về kiến thức và thời gian thực tập nên trong bài luận văn
không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự quan tâm góp
ý của của các thầy cô giáo để em hoàn thiện đề tài nghiên cứu.
Em xin chân th nh c m n s h ng d n t n tình c a th y giáo h ngà ả ơ ự ướ ẫ ậ ủ ầ ướ

d n Nghiêm V n L i v các anh ,ch trong phòng th ng kê k toán c aẫ ă ợ à ị ố ế ủ
HTXDVVT Tr ng S n ã giúp em ho n th nh b i lu n v n n y.ườ ơ đ à à à ậ ă à
Sinh viên thực hiện
Trần Thị Xuân Nam
Trang 2
Trần thị Xuân Nam K– ế toán 7 Khoá 34–
MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU.
PHẦN I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ
TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM VẬN TẢI TRONG CÁC
DOANH NGHIỆP VẬN TẢI.
1.1. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ – KỸ THUẬT CỦA NGÀNH
GIAO THÔNG VẬN TẢI
1.2. CHI PHÍ SẢN XUẤT, GIÁ THÀNH SẢN PHẨM VẬN TẢI
VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI TỔ CHỨC HẠCH TOÁN CHI PHÍ
SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG CÁC
DOANH NGHIỆP VẬN TẢI
1.2.1. Bản chất, nội dung kinh tế của chi phí sản xuất và phân
loại chi phí sản xuất
1.2..2. Bản chất, nội dung kinh tế của việc tính giá thành sản
phẩm vận tải và phân loại giá thành sản phẩm
1.2.3. Ý nghĩa kinh tế của giá thành trong lãnh đạo và quản lý
kinh tế
1.2.4. Kỳ tính giá thành sản phẩm trong ngành vận tải
1.2.5. Nhiệm vụ của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm
1.2.6. Sự cần thiết phải tổ chức hạch toán chi phí và tính giá
thành sản phẩm

1.3.ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN
XUẤT, TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM VẬN TẢI
1.3.1. Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất
1.3.2. Đối tượng tính giá thành sản phẩm vận tải
1.3.3. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất
1.3.4. Phương pháp tính giá thành sản phẩm vận tải
Trang 3
Trần thị Xuân Nam K– ế toán 7 Khoá 34–
1.4.TRÌNH TỰ HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH
GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG NGÀNH VẬN TẢI
1.4.1. Hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh trong ngành vận
tải
1.4.2. Tổ chức hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất trong ngành
vận tải
1.4.3. Hệ thống số kế toán Nhật ký chứng từ
PHẦN II
THỰC TRẠNG KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH
GIÁ THÀNH SẢN PHẨM VẬN TẢI TẠI HTXDVVT
TRƯỜNG SƠN
2.1. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ HTXDVVT TRƯỜNG SƠN
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển
2.1.2. Bộ máy quản lý và cơ cấu tổ chức sản xuất
2.1.3. Đặc điểm tổ chức công tác kế toán của HTXDVVT
Trường Sơn
2.2. THỰC TRẠNG KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT Ở
HTXDVVT TRƯỜNG SƠN
2.2.1. Đối tượng tập hợp chi phí
2.2.2. Kế toán chi phí sản xuất tại HTXDVVT Trường Sơn
2.3. PHƯƠNG PHÁP TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM VẬN TẢI
TẠI HTXDVVT Trường Sơn

2.3.1. Đối tượng tính giá và kỳ giá
2.3.2. Phương pháp tính giá thành sản phẩm vận tải
PHẦN III
HOÀN THIỆN KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH
GIÁ THÀNH SẢN PHẨM VẬN TẢI TẠI HTXDVVT
TRƯỜNG SƠN
3.1. SỰ CẦN THIẾT VÀ YÊU CẦU CỦA VIỆC HOÀN THIỆN
KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN
PHẨM VẬN TẢI TRONG CÁC DOANH NGHIỆP VẬN TẢI
Trang 4
Trần thị Xuân Nam K– ế toán 7 Khoá 34–
3.1.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện
3.1.2. Yêu cầu của việc hoàn thiện
3.2. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT
VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM VẬN TẢI HTXDVVT
TRƯỜNG SƠN
3.2.1. Ưu điểm
3.2.2. Nhược điểm
3.3. MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN THIỆN KẾ
TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM
VẬN TẢI TẠI HTXDVVT TRƯỜNG SƠN
KẾT LUẬN
Trang 5
Trần thị Xuân Nam K– ế toán 7 Khoá 34–
PHẦN I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ
THÀNH SẢN PHẨM VẬN TẢI TRONG DOANH NGHIỆP VẬN TẢI
1.1. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ - KỸ THUẬT CỦA NGÀNH GIAO
THÔNG VẬN TẢI
Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật cơ bản của ngành vận tải so với các lĩnh vực sản

xuất vật chất khác là ở chỗ nó không sản xuất ra những sản phẩm vật chất độc
lập, không sáng tạo ra giá trị sử dụng mới, ví như sản phẩm của vận tải (Tấn/km
hoặc Hành khách/km) chính là do việc vận chuyển hàng hoá và hành khách từ
địa điểm này đến địa điểm khác tạo nên. Do đó, sản phẩm của ngành không có
hình thù, quá trình sản xuất ra sản phẩm đồng thời là quá trình tiêu thụ, trong
ngành không có sản phẩm dự trữ, không có sản phẩm dở dang, trong chi phí giá
thành vận tải không có chi phí nguyên liệu.
Đặc điểm quan trọng khác của ngành vận tải còn ở chỗ nó là điều kiện
chung của mọi quá trình sản xuất, kinh doanh và mọi hoạt động kinh tế, chính
trị, xã hội. Đặc điểm này của vận tải xác định vị trí của ngành trong quá trình
phát triển nền kinh tế quốc dân.
Hoạt động giao thông vận tải mang tính chất xã hội rộng rãi, mạng lưới
hoạt động của ngành rộng khắp trong cả nước, liên quan chặt chẽ đến nhau, đặc
biệt là hoạt động vận tải đường sắt, hàng không có tính chất toàn ngành rõ rệt.
Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của ngành giao thông vận tải có tác động chi
phối đặc thù tổ chức hạch toán ở các đơn vị cơ sở thuộc ngành, đặc biệt là hạch
toán chi phí sản xuất, doanh thu, kết quả tài chính và thanh toán nội bộ.
Xã hội càng phát triển, nền kinh tế quốc dân càng phồn thịnh, sự giao lưu
quốc tế càng mở rộng thì các nhu cầu vận chuyển ngày càng tăng, nhất là giai
đoạn phát triển công nghiệp hoá - hiện đại hoá với sức sản xuất cũng như mức
phân phối ngày một tăng. Kế toán ngành giao thông vận tải do vậy càng có vai
trò, ý nghĩa quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của ngành nhằm
thoả mãn không ngừng các nhu cầu ngày càng tăng của nền kinh tế quốc dân.
1.2. CHI PHÍ SẢN XUẤT, GIÁ THÀNH SẢN PHẨM VÀ SỰ CẦN THIẾT
PHẢI TỔ CHỨC HẠCH TOÁN CHI PHÍ, TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM
VẬN TẢI TRONG DOANH NGHIỆP VẬN TẢI
1.2.1. Bản chất, nội dung kinh tế của chi phí sản xuất và phân loại chi phí
sản xuất
1.2.1.1. Bản chất, nội dung kinh tế của chi phí sản xuất
Trang 6

Trần thị Xuân Nam K– ế toán 7 Khoá 34–
Để tiến hành hoạt động sản xuất, doanh nghiệp nào cũng cần phải có ba yếu tố:
lao động, tư liệu lao động, đối tượng lao động. Quá trình sản xuất của doanh
nghiệp cũng đồng thời là quá trình tiêu hao các yếu tố nói trên để tạo ra sản
phẩm, phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của toàn xã hội. Mọi hao phí tiêu hao cho
quá trình sản xuất của doanh nghiệp đều được đo bằng tiền, việc dùng thước đo
tiền tệ để biểu hiện giá trị các tư liệu sản xuất và giá trị sức lao động đã tiêu hao
cho quá trình sản xuất của doanh nghiệp gọi là chi phí sản xuất.
Chi phí sản xuất là toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá
mà doanh nghiệp đã bỏ ra để tiến hành các hoạt động sản xuất trong thời kỳ nhất
định được biểu hiện bằng tiền. Chi phí sản xuất vận tải là toàn bộ các chi phí sản
xuất phát sinh trong lĩnh vực hoạt động vận tải. Trong đó:
- Hao phí lao động cần thiết là toàn bộ chi phí về tiền lương, tiền công,
BHXH trả cho người lao động tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất tạo ra
sản phẩm.
- Hao phí lao động vật hoá là toàn bộ giá trị tư liệu sản xuất (biểu hiện bằng
tiền) đã tiêu hao trong quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm như: khấu hao
TSCĐ, chi phí VL - NL, CCDC, vv...
Khi đề cập tới chi phí sản xuất cần phân biệt rõ chi phí sản xuất với chi
tiêu. Đây là 2 khái niệm không hoàn toàn giống nhau nhưng có mối quan hệ mật
thiết với nhau: Chi tiêu là cơ sở phát sinh của chi phí, không có chi tiêu thì
không có chi phí. Chi phí sản xuất là những chi phí bỏ ra để tiến hành hoạt động
sản xuất trong kỳ. Tổng số chi phí trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ
giá trị tài sản hao phí hoặc tiêu dùng hết cho quá trình hoạt động sản xuất tính
vào kỳ này. Còn chi tiêu chỉ là sự giảm đơn thuần của các loại tài sản, vật tư,
tiền vốn trong kỳ của doanh nghiệp bất kể được dùng vào mục đích gì. Tổng số
chi tiêu trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm chi tiêu cho quá trình cung cấp (chi
mua sắm vật tư, hàng hoá,....), chi tiêu cho quát trình hoạt động sản xuất (chi cho
sản xuất, chế tạo sản phẩm, công tác quản lý,...) và chi tiêu cho quá trình tiêu thụ
(chi vận chuyển, bốc dỡ, quảng cáo, ....). Như vậy chi phí và chi tiêu không

những chỉ khác nhau về mặt lượng mà còn khác nhau về mặt thời gian. Chi phí
có phạm vi lớn hơn chi tiêu nhưng có khi chi phí cũng chỉ là chi tiêu (như
trường hợp mua VLNL cho quá trình sản xuất) nhưng cũng có khi chi tiêu lại
không hoàn toàn là chi phí (như trường hợp mua VLNL nhập kho chưa sử dụng
đến). Mặt khác, cũng có những khoản chi tiêu chưa xảy ra hoặc xảy ra ở kỳ
trước được đưa vào chi phí của kỳ này.
Việc phân biệt chi phí và chi tiêu có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tìm
hiểu bản chất cũng như nội dung, phạm vi và phương pháp hạch toán chi phí sản
xuất. Việc làm rõ chi phí sản xuất trong doanh nghiệp giúp chúng ta tính đúng,
Trang 7
Trần thị Xuân Nam K– ế toán 7 Khoá 34–
tính đủ chi phí sản xuất vào giá thành sản phẩm. Từ đó chỉ tiêu giá thành mới có
tác dụng trong công tác quản lý, kiểm tra và giám sát quá trình hoạt động sản
xuất của doanh nghiệp.
1.2.1.2. Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh dịch vụ vận tải
Như đã nói ở trên, để thực hiện việc sản xuất thì doanh nghiệp phải bỏ ra những
chi phí nhất định. Do đặc điểm của chi phí là phát sinh hàng ngày, gắn liền với
từng vị trí sản xuất và loại hoạt động sản xuất sản phẩm việc tổng hợp tính toán
chi phí sản xuất cần được tiến hành trong từng khoản thời gian nhất định. Để
quản lý và kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện các định mức chi phí, tính toán được
kết quả tiết kiệm chi phí sản xuất. Phân loại chi phí sản xuất là một yêu cầu tất
yếu để hạch toán chính xác chi phí sản xuất, phấn đấu hạ giá thành sản phẩm.
Việc phân loại chi phí một cách khoa học và thống nhất không những có ý nghĩa
quan trọng đối với hạch toán chi phí mà còn là tiền đề quan trọng của kế hoạch
hoá, kiểm tra và phân tích quá trình phát sinh chi phí và hình thành giá thành sản
phẩm, thúc đẩy doanh nghiệp không ngừng tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá
thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp và phát huy hơn
nữa vai trò của công cụ kế toán với sự phát triển của doanh nghiệp.
Để quản lý và hạch toán chi phí sản xuất theo từng nội dung cụ thể, theo
từng đối tượng tập hợp chi phí, đối tượng tính giá thành, phải tiến hành phân

loại chi phí một cách khoa học, thống nhất theo những tiêu chuẩn nhất định.
Phân loại chi phí một cách khoa học và hợp lý là một yêu cầu quan trọng
trong công tác kế hoạch hoá, hạch toán và tính giá thành sản phẩm. Tuỳ theo yêu
cầu của công tác quản lý và hạch toán, người ta có nhiều cách phân loaị khác
nhau.
Có nhiều phương pháp phân loại tuỳ theo mục đích, yêu cầu của quản lý
chi phí. Sau đây chỉ xét đến một số phương pháp phân loại chủ yếu:
- Căn cứ vào phương pháp tính chi phí, vào giá thành, những chi phí dịch
vụ chia ra làm hai loại: Chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp.
- Chi phí trực tiếp
Là những chi phí có liên quan trực tiếp tới quá trình hoạt động sản xuất
kinh doanh dịch vụ ở đơn vị. Chi phí trực tiếp phát sinh phải được hạch toán đầy
đủ, chính xác, kịp thời cho từng đối tượng tập hợp chi phí và từng đối tượng
chịu chi phí. Các chi phí trực tiếp của ngành Giao thông vận tải chủ yếu gồm các
chi phí về nhiên liệu, phụ tùng, vật liệu phụ, công cụ lao động nhỏ, tiền lương,
bảo hiểm xã hội của công nhân sản xuất sản phẩm, khấu hao TSCĐ trực tiếp sử
dụng cho sản xuất kinh doanh.
- Chi phí gián tiếp
Trang 8
Trần thị Xuân Nam K– ế toán 7 Khoá 34–
Là những chi phí quản lý hành chính của bộ máy sản xuất và những chi phí
khác có tính chất chung cho toàn HTX. Để đảm bảo phản ánh chính xác chi phí
vào đối tượng sử dụng, cần thu hẹp phạm vi và nội dung các chi phí phải hạch
toán gián tiếp vào các đối tượng tính giá thành
Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh dịch vụ thành chi phí trực tiếp và chi
phí gián tiếp, chủ yếu là để kiểm tra chính xác của việc hạch toán chi phí vào giá
thành theo từng loại sản xuất kinh doanh dịch vụ, trên cơ sở đó xác định chính
xác kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Ở ngành Giao thông vận tải người ta còn chia chi phí sản xuất kinh doanh
dịch vụ thành các yếu tố chi phí và các khoản mục chi phí.

 Phân theo yếu tố chi phí
Để phục vụ cho việc tập hợp, quản lý chi phí theo nội dung kinh tế ban đầu
đồng nhất của nó mà không xét đến công dụng cụ thể, địa điểm phát sinh, chi
phí được phân theo các yếu tố chi phí. Cách phân loại này giúp cho việc xây
dựng và phân tích định mức vốn lao động cũng như việc lập, kiểm tra và phân
tích dự toán chi phí.
- Yếu tố chi phí là các chi phí có cùng tính chất kinh tế ban đầu. Trong
ngành Giao thông vận tải chi phí theo yếu tố gồm:
+ Khấu hao tài sản cố định.
+ Nhiên liệu mua ngoài.
+ Động lực mua ngoài.
+ Tiền lương công nhân viên chức.
+ Trích bảo hiểm xã hội và kinh phí công đoàn của CNVC.
+ Chi phí khác bằng tiền.
 Phân loại chi phí theo yếu tố kinh tế
Cần thiết để xác định tính chất sản xuất kinh doanh của ngành vì khi thay
đổi mối tương quan giữa các yếu tố chi phí sẽ thể hiện sự thay đổi tính chất của
sản xuất và điều kiện hoạt động của HTX. Qua kết cấu yếu tố chi phí còn thể
hiện mức độ trang bị kỹ thuật của HTX, năng suất lao động của HTX
Phân loại chi phí theo yếu tố kinh tế còn để xác định nhu cầu vốn lưu động,
tính toán tiêu hao vật chất khi lập kế hoạch sản xuất, kỹ thuật, tài chính...
Phân loại chi phí sản xuất theo cách này doanh nghiệp có thể biết được kết
cấu cũng như tỷ trọng của các loại chi phí đã chi ra trong hoạt động sản xuất
kinh doanh làm cơ sở để lập thuyết minh báo cáo tài chính (Phần chi phí sản
Trang 9
Trần thị Xuân Nam K– ế toán 7 Khoá 34–
xuất kinh doanh theo yếu tố) phục vụ cho yêu cầu thông tin và quản trị doanh
nghiệp, phân tích tình hình dự toán chi phí và lập dự toán cho kỳ sau.
 Phân loại chi phí sản xuất theo khoản mục chi phí trong giá thành
sản phẩm

Căn cứ vào ý nghĩa của chi phí trong giá thành sản phẩm và để thuận tiện cho
việc tính giá thành toàn bộ, chi phí được phân theo khoản mục. Cách phân loại
này dựa vào công dụng của chi phí và mức phân bổ chi phí cho từng đối tượng.
Do đặc điểm của từng ngành trong ngành Vận tải nên các khoản mục giá
thành của từng ngành đường bộ như sau:
 Giá thành Vận tải ôtô gồm các loại chi phí sau:
- Chi phí khấu hao cơ bản và thuê phương tiện.
- Chi phí bảo dưỡng sửa chữa phương tiện.
- Chi phí săm lốp.
- Chi phí nhiên liệu - vật liệu.
- Lương của lái và phụ xe.
- Bảo hiểm xã hội của lái và phụ xe.
- Chi phí khác.
Các loại chi phí trên được tập hợp thành các khoản mục chi phí:
- Chi phí nhiên liệu - vật liệu trực tiếp (TK 621).
- Chi phí nhân công trực tiếp (TK 622).
- Chi phí sản xuất chung (TK 627).
Ngoài ra, khi tính chỉ tiêu giá thành sản phẩm toàn bộ thì chỉ tiêu giá thành
còn bao gồm khoản mục chi phí quản lý doanh nghiệp .
Cách phân loại này cho thấy ảnh hưởng của từng khoản mục chi phí tới kết
cấu giá thành. Qua đó cung cấp những thông tin cần thiết để xác định phương
hướng và biện pháp hạ giá thành sản phẩm. Phân loại chi phí theo khoản mục
giá thành trước hết nhằm mục đích quản lý chi phí theo sản phẩm, từng khu vực
sản xuất. Từ đó có thể xác định được trách nhiệm vật chất ở mỗi khoản chênh
lệch trong giá thành giúp cho việc phân tích hoạt động kinh tế trong doanh
nghiệp vận tải.
Chi phí sửa chữa phương tiện vận tải, khấu hao phương tiện vận tải đều qui
định thành những điều khoản chi tiết trong mục lục chi tiêu vận doanh, không
đặt thành một khoản mục riêng. Nội dung các khoản đó nếu là chi phí về nhân
Trang 10

Trần thị Xuân Nam K– ế toán 7 Khoá 34–
công thì kế toán vào khoản mục tiền lương, nếu là vật liệu hay nhiên liệu thì kế
toán vào khoản vật liệu, nhiên liệu...
Chi phí gián tiếp (quản lý phí nghiệp vụ và quản lý HTX) sau khi tập hợp
vào TK 642 “Chi phí quản lý doanh nghiệp” được kết chuyển toàn bộ vào TK
911 “Xác định kết quả”.
1.2.2. Bản chất, nội dung kinh tế của giá thành sản phẩm vận tải và phân
loại giá thành
1.2.2.1. Bản chất, nội dung kinh tế của giá thành sản phẩm vận tải
Trong hoạt động sản xuất, khi quyết định lựa chọn phương án sản xuất một sản
phẩm nào đó doanh nghiệp cần phải tính đến lượng chi phí bỏ ra để sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm đó. Điều đó có nghĩa là doanh nghiệp phải xác định được giá
thành sản phẩm.
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí
về lao động sống và lao động vật hoá có liên quan đến khối lượng công tác, sản
phẩm, lao vụ đã hoàn thành.
Để xác định được giá thành sản phẩm, trước hết doanh nghiệp phải tập hợp
được toàn bộ chi phí sản xuất chi ra trong kỳ có liên quan đến quá trình hoạt
động sản xuất của doanh nghiệp. Do đó, chi phí sản xuất là cơ sở để hình thành
nên giá thành sản phẩm. Giá thành sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản
ánh chất lượng toàn bộ hoạt động sản xuất và quản lý doanh nghiệp.
Giá thành sản phẩm là một phạm trù của quá trình sản xuất, phản ánh lượng
giá trị của những hao phí lao động sống và lao động vật hoá đã thực sự chi ra
trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Trong giá thành sản phẩm chỉ bao
gồm những chi phí tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình hoạt động sản
xuất. Những chi phí đưa vào giá thành sản phẩm phải phản ánh được giá trị thực
của các tư liệu sản xuất tiêu dùng cho quá trình sản xuất, tiêu thụ và các khoản
chi tiêu khác có liên quan đến việc bù đắp giản đơn hao phí lao động sống.
1.2.2.2 Phân loại giá thành sản phẩm vận tải
Để đáp ứng các yêu cầu của quản lý, hạch toán và kế hoạch hoá giá thành cũng

như yêu cầu xây dựng cước vận tải, giá thành được xem xét dưới nhiều góc độ,
nhiều phạm vi tính toán khác. Về lý luận cũng như trên thực tế, ngoài các khái
niệm giá thành xã hội và giá thành cá biệt, còn có các khái niệm về giá thành
công xưởng, giá thành toàn bộ, vv...
 Phân loại giá thành sản phẩm theo thời điểm tính và nguồn số liệu
để tính giá thành
Bao gồm:
Trang 11
Trần thị Xuân Nam K– ế toán 7 Khoá 34–
- Giá thành kế hoạch: Giá thành kế hoạch được xác định trước khi bước
vào sản xuất trên cơ sở giá thành thực tế kỳ trước và các định mức, các dự toán
chi phí của kỳ kế hoạch.
Giá thành kế hoạch là chỉ tiêu kinh tế quan trọng trong kế hoạch sản xuất
kinh doanh, là mốc phấn đấu của doanh nghiệp để tiết kiệm chi phí sản xuất và
hạ giá thành sản phẩm, tăng mức lợi nhuận, là gốc để so sánh với giá thành thực
tế, từ đó đánh giá mức độ hoàn thành kế hoạch giá thành của doanh nghiệp. Vì
thế việc xác định giá thành kế hoạch là rất quan trọng, cần xuất phát từ thực tế
và chính xác, có tính khả thi. Có như thế mới làm cơ sở phân tích, đánh giá kế
hoạch giá thành.
- Giá thành thực tế: Giá thành thực tế là chỉ tiêu được xác định sau khi kết
thúc quá trình sản xuất sản phẩm dựa trên cơ sở các chi phí thực tế phát sinh
trong quá trình sản xuất sản phẩm.
Như vậy, về thời điểm thì giá thành thực tế được xác định khi hoàn thành
việc sản xuất sản phẩm, trên cơ sở những chi phí thực tế phát sinh trong quá
trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Giá thành thực tế là cơ sở để xác định giá trị
sản phẩm, là căn cứ để tính giá cước vận tải. Mặt khác, giá thành thực tế còn
phản ánh tổng hợp kết quả phấn đấu của doanh nghiệp trong việc tiết kiệm chi
phí, hạ giá thành sản phẩm. Và còn là căn cứ để phân tích đánh giá kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, là căn cứ để xây dựng giá thành kế
hoạch cho kế hoạch kỳ sau, đảm bảo giá thành kế hoạch ngày càng sát thực, có

tính khả thi, làm cơ sở phấn đấu của doanh nghiệp.
Cách phân loại này có tác dụng trong việc quản lý và giám sát chi phí, xác
định được các nguyên nhân vượt (hoặc hụt) định mức chi phí trong kỳ hạch
toán. Từ đó, điều chỉnh kế hoạch hoặc định mức chi phí cho phù hợp.
 Phân loại giá thành theo phạm vi phát sinh chi phí
Theo phạm vi phát sinh chi phí, chỉ tiêu giá thành được chia thành giá
thành vận tải và giá cước vận tải:
- Giá thành vận tải: là chỉ tiêu phản ánh tất cả những chi phí phát sinh liên
quan đến việc sản xuất kinh doanh, để tạo sản phẩm vận tải trong phạm vi các xe
sản xuất.
Giá thành sản phẩm vận tải được tính theo công thức sau :

Tổng giá
thành
=
Giá trị SP làm
dở dang đầu kỳ
+
Chi phí SX phát
sinh trong kỳ
-
Giá trị SP làm
dở dang cuối kỳ
Trang 12
Trần thị Xuân Nam K– ế toán 7 Khoá 34–
Do đặc điểm cuả nghành vận tải không có sản phẩm dở dang nên giá thành
vận tải được xác định:
Giá thành = Tổng chi phí phát sinh
vận tải trong kỳ
Giá thành sản phẩm = Tổng giá thành

1 đơn vị Khối lượng sản phẩm hoàn thành
- Giá cước vận tải (còn gọi là giá thành toàn bộ) là chỉ tiêu phản ánh toàn
bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm.
Giá cước vận tải được tính theo công thức:
Giá cước
vận tải
=
Giá thành
vận tải
+
Chi phí quản
lý doanh
nghiệp
+
Chi phí
bán hàng
Giá thành toàn bộ có tác dụng để tính kết quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Còn giá thành vận tải thể hiện hao phí trực tiếp sản xuất ra sản
phẩm vận tải trong một khoảng thời gian. Nó phản ánh tính hiệu quả trong quá
trình sản xuất.
Cách phân loại này có tác dụng giúp cho nhà quản lý biết được kết quả sản
xuất kinh doanh(lãi, lỗ) của sản phẩm, từng loại dịch vụ mà doanh nghiệp sản
xuất.
1.2.3. ý nghĩa của giá thành trong lãnh đạo và quản lý kinh tế
Giá thành là chỉ tiêu kinh tế dùng để đánh giá chất lượng hoạt động của doanh
nghiệp và phản ánh một cách tổng quát các mặt kỹ thuật - kinh tế - tổ chức của
doanh nghiệp.
Trong điều kiện hoạt động theo cơ chế thị trường, cùng với chất lượng sản
phẩm, giá thành sản phẩm luôn luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu của các
nhà sản xuất. Phấn đấu hạ giá thành sản phẩm và nâng cao chất lượng sản phẩm

vận tải là nhân tố quyết định nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp và thu nhập của người lao động, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của mỗi
doanh nghiệp. Do đó, việc hạch toán và tính giá thành sản phẩm có vị trí hết sức
quan trọng, là căn cứ để tính toán kết quả sản xuất kinh doanh.
1.2.4. Kỳ tính giá thành sản phẩm
Kỳ tính giá thành là thời kỳ mà bộ phận kế toán cần phải tiến hành công việc
tính giá thành cho các đối tượng cần tính giá. Xác định kỳ tính giá thành thích
hợp sẽ giúp cho công tác tính giá thành sản phẩm được hợp lý, đảm bảo cung
cấp kịp thời các số liệu, tài liệu cần thiết cho việc phân tích, đánh giá tình hình
Trang 13
Trần thị Xuân Nam K– ế toán 7 Khoá 34–
thực hiện kế hoạch giá thành. Tuỳ thuộc vào đặc điểm tổ chức sản xuất và chu
kỳ sản xuất sản phẩm mà người ta xác định kỳ tính giá thành thích hợp cho các
đối tượng tính giá.
Kết quả sản phẩm dịch vụ vận tải là do việc vận chuyển hàng hoá hay
khách hàng từ nơi này đến nơi khác nên đơn vị đo được tính bằng Tkm, KHkm.
1.2.5. Nhiệm vụ của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
Trong quản lý sản xuất ở các doanh nghiệp, kế toán giữ vai trò quan trọng vì nó
là công cụ có hiệu lực để điều hành, quản lý, kiểm tra, tính toán hiệu quả sử
dụng vốn trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đảm bảo
quyền chủ động sản xuất kinh doanh và chủ động về tài chính. Do đó kế toán
trong ngành vận tải cần phải thực hiện những nhiệm vụ cụ thể sau :
- Theo dõi, ghi chép phản ánh các nghiệp vụ về kinh tế có liên quan đến chi
phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
- Cung cấp thông tin cho quản lý một cách kịp thời, chính xác làm cơ sở
cho việc quyết định sản xuất đúng đắn.
- Xác định đúng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất, lựa chọn phương pháp
tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất phù hợp với đặc điểm của ngành mình, thực
hiện tốt công tác tập hợp chi phí sản xuất.
- Xác định đúng đối tượng tính giá thành và lựa chọn phương pháp tính giá

thành.
1.2.6. Sự cần thiết phải tổ chức hạch toán chi phí và tính giá thành sản
phẩm
Chi phí sản xuất gắn liền với việc sử dụng tài sản, vật tư, lao động,... trong các
hoạt động chế tạo sản xuất ra sản phẩm, hàng hoá. Vì vậy, việc quản lý chi phí
sản xuất thực chất là quản lý việc sử dụng hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả các loại
tài sản, máy móc thiết bị, vật tư, lao động, tiền vốn trong quá trình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay, đặc biệt với sự
cạnh tranh gay gắt về tiêu thụ các doanh nghiệp muốn đứng vững và phát triển
thì sản phẩm đưa ra thị trường không những đòi hỏi phải có chất lượng tốt mà
bên cạnh đó phải còn có giá cả hợp lý mới được người tiêu dùng chấp nhận. Chi
phí sản xuất lại là cơ sở cấu tạo nên giá thành sản phẩm, do vậy việc sử dụng tiết
kiệm, có hiệu quả các khoản chi phí nhằm hạ thấp giá thành sản phẩm và nâng
cao chất lượng của sản phẩm, hàng hoá dịch vụ luôn là bài toán đặt ra và là mục
tiêu phấn đấu của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Trang 14
Trần thị Xuân Nam K– ế toán 7 Khoá 34–
Yêu cầu của công tác quản lý kinh tế nói chung, quản lý chi phí và giá
thành nói riêng đòi hỏi các doanh nghiệp phải tổ chức công tác kế toán tập hợp
chi phí và tính giá thành sản phẩm một cách đầy đủ và chính xác. Muốn vậy,
phải tổ chức việc ghi chép, tính toán và phản ánh từng loại chi phí phát sinh theo
từng địa điểm, đối tượng phải chịu chi phí.
Muốn quản lý tốt giá thành sản phẩm cần phải tổ chức tính đúng, tính đủ
giá thành các loại sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra. Muốn vậy, phải xác
định đúng đối tượng tính giá thành, vận dụng hợp lý phương pháp tính giá thành
và phải dựa trên cơ sở các số liệu của kế toán tổng hợp chi phí sản xuất một cách
đầy đủ, chính xác.
Việc tính đúng, tính đủ giá thành sản phẩm trên cơ sở các số liệu chi phí
sản xuất giúp cho việc phản ánh đúng tình hình và kết quả thực hiện kế hoạch

giá thành của doanh nghiệp, xác định đúng đắn kết quả sản xuất kinh doanh, góp
phần quan trọng trong việc tăng cường và cải tiến công tác quản lý kinh tế trong
doanh nghiệp.
Để đảm bảo hạch toán đầy đủ, chính xác chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm cung cấp thông tin kịp thời cho quản trị doanh nghiệp, kế toán cần
phải thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Phải nắm vững nội dung và bản chất kinh tế của chi phí.
- Phải phân loại chi phí sản xuất hợp lý theo yêu cầu của công tác quản lý
và hạch toán.
- Phải phân định chi phí với giá thành sản phẩm và nắm rõ mối quan hệ
giữa chúng.
- Xác định đúng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất, vận dụng chính xác
phương pháp tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất, phương pháp tính giá thành
sản phẩm phù hợp với những đặc điểm sản xuất và qui trình công nghệ của
doanh nghiệp.
- Tính chính xác giá thành thực tế của sản phẩm và công việc hoàn thành.
Thường xuyên tổng hợp kết quả hạch toán kinh tế, kiểm tra việc thực hiện dự
toán chi phí sản xuất và kế hoạch giá thành sản phẩm của từng đội xe, từng bộ
phận sản xuất kinh doanh.
- Xác định trình tự hạch toán và tổng hợp chi phí sản xuất thích ứng. Lập
các báo cáo và phân tích tình hình thực hiện kế hoạch chi phí và giá thành, phát
hiện mọi khả năng tiềm tàng để phấn đấu hạ thấp giá thành sản xuất.
Trang 15
Trần thị Xuân Nam K– ế toán 7 Khoá 34–
1.3. ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT,
TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM VẬN TẢI.
1.3.1. Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất
Xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là công việc đầu tiên và quan
trọng của tổ chức hạch toán quá trình sản xuất. Tổ chức hạch toán quá trình sản
xuất bao gồm 2 giai đoạn kế tiếp nhau và có quan hệ mật thiết với nhau. Đó là

giai đoạn hạch toán chi tiết chi phí sản xuất phát sinh trong quá trình tạo ra sản
phẩm và giai đoạn tính giá thành sản phẩm, chi tiết sản phẩm theo đơn vị tính
giá thành qui định. Việc phân chia này xuất phát từ yêu cầu quản lý, kiểm tra và
phân tích chi phí, yêu cầu hạch toán sản xuất nội bộ và theo đặc điểm tổ chức
sản xuất, đặc điểm qui trình công nghệ của từng doanh nghiệp và yêu cầu tính
giá thành sản phẩm theo đơn vị tính giá thành qui định. Có thể nói, việc phân
chia quá trình hạch toán thành 2 giai đoạn là do sự khác nhau cơ bản về giới hạn
tập hợp chi phí trong hạch toán chi phí sản xuất - tức là đối tượng hạch toán chi
phí sản xuất và sản phẩm hoàn thành - tức là đối tượng tính giá thành.
Như vậy, xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất chính là việc xác
định giới hạn tập hợp chi phí mà thực chất là xác định nơi phát sinh chi phí và
chịu chi phí. Do đó đối tượng hạch toán chi phí sản xuất sản phẩm vận tải được
chi tiết đến từng xe tham gia hoạt động .
Trang 16
Trần thị Xuân Nam K– ế toán 7 Khoá 34–
1.3.2. Đối tượng tính giá thành sản phẩm
Khác với công tác hạch toán chi phí sản xuất, công việc tính giá thành thực tế
của doanh nghiệp là nhằm xác định chi phí thực tế của toàn bộ sản phẩm. Bởi
vậy, đối tượng tính giá thành là những sản phẩm, dịch vụ, lao vụ đã hoàn thành.
Nguyên tắc xác định đối tượng tính giá thành là căn cứ vào đặc điểm sản
xuất kinh doanh, loại sản phẩm, qui trình công nghệ cho phù hợp với thực tế của
doanh nghiệp.
Đơn vị tính giá thành của từng loại sản phẩm, dịch vụ phải là đơn vị tính
được xã hội thừa nhận và phù hợp với đơn vị tính trong kế hoạch.
Đối tượng tính giá thành trong ngành vận tải là Tkm, hoặc KHkm.
Do có sự khác nhau về đối tượng cho nên phải có phương pháp hạch toán
chi phí sản xuất và phương pháp tính giá thành khác nhau phù hợp với từng loại
đối tượng.
1.3.3. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất
Trên cơ sở đối tượng hạch toán chi phí, kế toán lựa chọn phương pháp hạch toán

chi phí thích ứng. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất là một phương pháp
hoặc hệ thống các phương pháp được sử dụng để tập hợp và phân loại các chi
phí sản xuất trong phạm vi giới hạn của đối tượng hạch toán chi phí. Nội dung
chủ yếu của phương pháp hạch toán chi phí sản xuất là kế toán mở thẻ (hoặc sổ)
chi tiết hạch toán chi phí sản xuất theo từng đối tượng đã xác định, phản ánh
các chi phí phát sinh có liên quan đến đối tượng, hàng tháng tổng hợp chi phí
theo từng đối tượng. Mỗi phương pháp hạch toán chỉ thích ứng với một loại đối
tượng hạch toán chi phí nên tên gọi của các phương pháp này là biểu hiện đối
tượng mà nó cần tập hợp và phân loại chi phí.
Trong quá trình tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất cho các đối tượng chịu
chi phí phải chú ý đến mối quan hệ giữa chi phí phát sinh với các đối tượng tập
hợp chi phí. Trong ngành vận tải chỉ dùng phương pháp tính giá thành trực tiếp.
Phương pháp trực tiếp
Đối với những chi phí sản xuất có quan hệ trực tiếp đến từng đối tượng tập
hợp chi phí riêng biệt thì tập hợp trực tiếp cho từng đối tượng chịu chi phí đó.
Phương pháp này đòi hỏi phải tổ chức công tác ghi chép ban đầu theo đúng
các đối tượng phải chịu chi phí, từ đó kế toán tập hợp số liệu từ các chứng từ
trực tiếp theo từng đối tượng chịu chi phí riêng biệt.
Trang 17
Trần thị Xuân Nam K– ế toán 7 Khoá 34–
1.3.4. Phương pháp tính giá thành sản phẩm
Phương pháp tính giá thành là một phương pháp hoặc hệ thống phương pháp
được sử dụng để tính giá thành sản phẩm và đơn vị sản phẩm, nó mang tính
thuần tuý kỹ thuật tính toán chi phí cho từng đối tượng tính giá thành. Về cơ
bản, phương pháp tính giá thành trong ngành vận tải chỉ dùng một phương pháp
cơ bản nhất là:
Phương pháp tính giá thành trực tiếp (còn gọi là phương pháp giản đơn)
Phương pháp tính trực tiếp áp dụng trong trường hợp đối tượng hạch toán
chi phí phù hợp với đối tượng tính giá thành đơn vị. Thep phương pháp này giá
thành sản phẩm được tính bằng cách căn cứ trực tiếp vào chi phí sản xuất đã

phát sinh trong kỳ để xác định giá thành sản phẩm.
Phương pháp này có ưu điểm là rất đơn giản, dễ tính toán và có thể cung
cấp các chỉ tiêu giá thành một cách kịp thời trong công tác quản lý nhưng cũng
có nhược điểm là độ chính xác không cao. Phương pháp này áp dụng thích hợp
cho các doanh nghiệp sản xuất có qui trình công nghệ giản đơn, khép kín từ
khâu đưa nguyên liệu vào cho tới khi hoàn thành sản phẩm, mặt hàng ít, khối
lượng lớn, chu kỳ sản xuất ngắn, kỳ tính giá thành phù hợp với báo cáo.
1.4. TRÌNH TỰ HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT TRONG NGÀNH VẬN
TẢI
Chi phí sản xuất của doanh nghiệp gồm nhiều loại với tính chất, nội dung khác
nhau, phương pháp tính hạch toán và tập hợp chi phí và giá thành sản phẩm
cũng khác nhau. Khi phát sinh, trước hết chi phí được biểu hiện theo yếu tố chi
phí rồi mới được biểu hiện thành các khoản mục khi tính giá thành sản phẩm.
Việc tập hợp chi phí sản xuất phải được tiến hành theo một trình tự hợp lý, khoa
học thì mới có thể tính giá thành sản phẩm một cách chính xác, kịp thời.
1.4.1. Hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh trong ngành Giao thông vận
tải
Trong ngành Giao thông vận tải, chi phí trực tiếp là các chi phí có liên quan trực
tiếp đến đối tượng hạch toán nên được ghi thẳng vào tài khoản phản ánh đối
tượng hạch toán đó.
Chi phí cho các hoạt động nói trên thường liên quan trực tiếp đến từng loại
hoạt động vận tải hàng hoá, vận tải hành khách của từng nghiệp vụ đối với các
đơn vị, do đó phải căn cứ vào chứng từ gốc để ghi trực tiếp vào đối tượng tính
giá thành.
Đối với các đơn vị vận tải vừa làm nhiệm vụ vận chuyển hàng hoá, vừa
làm nhiệm vụ vận chuyển hành khách (vận chuyển hỗn hợp) thì một số tài khoản
Trang 18
Trần thị Xuân Nam K– ế toán 7 Khoá 34–
chi phí nếu không ghi trực tiếp cho từng đối tượng thì phải dùng phương pháp
phân bổ căn cứ vào định mức, kế hoạch hoặc theo trọng tải, theo giờ máy, theo

công suất máy móc...
Chi phí về tiền lương, bảo hiểm xã hội của công nhân lái phụ xe (vận tải
ôtô), cán bộ thuyền viên (vận tải sông, biển), vật liệu phụ, nhiên liệu, chi phí sửa
chữa thường xuyên, chi phí săm lốp (vận tải ôtô), khấu hao phương tiện.... đều
phải căn cứ vào chứng từ gốc (bảng thanh toán lương, phiếu xuất vật liệu...) để
tập hợp trong các bảng tổng hợp phân bổ tiền lương, công cụ lao động, bảng tính
khấu hao TSCĐ... làm căn cứ ghi vào đối tượng tính giá thành.
SƠ ĐỒ 1: SƠ ĐỒ HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN PHẨM VẬN TẢI
TK 621 TK 154 TK 152, 111, 112,...
Chi phí NVL trực tiếp Các khoản ghi giảm chi
phí
TK 622 TK 632
Chi phí NC trực tiếp Kết chuyển giá vốn
TK 627
Chi phí SXC
1.4.1.1. Hạch toán chi phí nhiên liệu - vật liệu trực tiếp
 Khái niệm và cách thức tập hợp, phân bổ
Chi phí về nhiên liệu - vật liệu trong các doanh nghiệp vận tải là những chi
phí sản xuất cơ bản bao gồm: chi phí nhiên liệu, chi phí dầu nhờn, chi phí săm
lốp... phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Đối với những vật liệu khi xuất dùng có liên quan trực tiếp đến từng đối
tượng tập hợp chi phí riêng biệt (các xe, bộ phận sản xuất hoặc sản phẩm, loại
Trang 19
Trần thị Xuân Nam K– ế toán 7 Khoá 34–
sản phẩm, lao vụ,...) thì hạch toán trực tiếp cho đối tượng đó. Trường hợp vật
liệu xuất dùng có liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí không thể tổ
chức hạch toán riêng được thì phải áp dụng phương pháp phân bổ gián tiếp để
phân bổ chi phí cho các đối tượng có liên quan.
Các chi phí nhiên liệu - vật liệu chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành sản
phẩm vận tải, vì vậy việc hạch toán đầy đủ, chính xác các chi phí nhiên liệu - vật

liệu không những là một điều kiện quan trọng để đảm bảo cho việc tính giá
thành được chính xác, mà còn là một biện pháp không thể thiếu được để phấn
đấu tiết kiệm chi phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm.
Yêu cầu của việc hạch toán chi phí nhiên liệu - vật liệu là hạch toán trực
tiếp chi phí này vào các đối tượng hạch toán chi phí và đối tượng tính giá thành.
Trong trường hợp không thể hạch toán trực tiếp chi phí nhiên liệu - vật liệu và
giá thành sản phẩm thì phải lựa chọn các tiêu chuẩn phân bổ phù hợp.
 Tài khoản sử dụng:
Để theo dõi các khoản chi phí nhiên liệu - vật liệu trực tiếp, kế toán sử
dụng TK 621- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Tài khoản này được mở chi tiết
theo từng đối tượng tập hợp chi phí (phân xưởng, bộ phận sản xuất, nhóm sản
phẩm,....)
TK 621
-Tập hợp chi phí vật liệu trực –Trị giá nhiên vật liệu sử dụng
không
tiếp thực tế phát sinh . hết trả lại kho
-Kết chuyển chi phí nhiên liệu
vào tài khoản tính giá thành
TK621 cuối kỳ không có số dư
 Phương pháp hạch toán
Hạch toán chi phí nhiên liệu
Chi phí nhiên liệu là một khoản chi phí chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành vận
tải, nhất là vận tải ôtô, nên cần quản lý chặt chẽ mức tiêu hao nhiên liệu ở từng
đầu xe.
Nhu cầu tiêu hao nhiên liệu được xác định trên cơ sở định mức cho từng
đầu phương tiện. Nhiên liệu tính vào giá thành vận tải phải là số thực tế tiêu hao
(không phải là số đã cấp phát) cho các phương tiện vận tải, do đó cần phân biệt
nhiên liệu xuất tạm ứng và nhiên liệu thực tế tiêu hao. Kế toán nhiên liệu phải
theo dõi nhiên liệu xuất tạm ứng, nhiên liệu tiêu hao trong quá trình vận tải và
Trang 20

Trần thị Xuân Nam K– ế toán 7 Khoá 34–
nhiên liệu còn lại trên phương tiện. Tất cả những số liệu này được xác định vào
giấy đi đường của lái xe.
Trong giấy đi đường của lái xe có phần giành riêng cho việc ghi chép và
hạch toán nhiên liệu. Mỗi khi nhận nhiệm vụ vận tải, lái xe được cấp một giấy đi
đường. Căn cứ vào nhiệm vụ vận tải và định mức chi phí nhiên liệu lái xe được
lĩnh một số tiền tương ứng với giá trị nhiên liệu định mức. Khi lĩnh số nhiên liệu
đó được ghi ở cột cấp. Cuối chuyến đi lái xe xác định số nhiên liệu thực tế tiêu
hao trong vận tải và số nhiên liệu còn lại trên xe. Số nhiên liệu thực tế tiêu hao
được so sánh với định mức, nếu thực tế tiêu hao thấp hơn so với định mức (có
tiết kiệm) thì lái xe được thưởng. Ngược lại nếu thực tế nhiên liệu tiêu hao cao
hơn định mức thì phải tìm nguyên nhân để xử lý, trường hợp do lái xe gây nên
thì lái xe bị phạt.
Số nhiên liệu thực tế tiêu hao trong vận tải được hạch toán vào giá thành
vận tải, số nhiên liệu còn lại trên xe được chuyển sang giấy đi đường mới và trừ
vào phần sẽ cấp phát đợt sau.
Khi quyết toán số thực tế chi về nhiên liệu bao giờ cũng phải tiến hành
kiểm kê nhiên liệu còn lại trong số đã cấp tạm ứng và còn lại trên phương tiện
vận tải, đối chiếu số liệu tạm ứng với số liệu ở phòng kế toán thống kê. Nếu số
liệu thực tế nhiên liệu tiêu hao tập hợp theo giấy đi đường của lái xe không khớp
với số liệu xuất tạm ứng trừ (-) đi số còn tồn đọng trên phương tiện vận tải cộng
(+) với số liệu còn lại trên phương tiện vận tải đầu kỳ chuyển sang thì phải tìm
ra các nguyên nhân chênh lệch để xử lý.
Trên khoản mục này còn tính cả tiền thưởng cho các xe do tiết kiệm nhiên
liệu so với định mức (hoặc mức khoán).
Hiện nay các doanh nghiệp vận tải sử dụng định mức làm tỷ lệ khoán nhiên
liệu cho các phương tiện coi định mức như tỷ lệ khấu hao thực tế.
Để có cơ sở hạch toán chi phí nhiên liệu, phải lập bảng theo dõi nhiên liệu
tiêu hao cho vận tải của từng phương tiện. Sau mỗi chuyến về, căn cứ vào giấy
đi đường của lái xe (phần tính nhiên liệu) kế toán ghi chép vào bảng theo dõi

nhiên liệu tiêu hao. Cuối tháng cộng từng bảng, sau đó tổng hợp báo cáo tiêu
hao nhiên liệu dùng cho vận tải của HTX
♦ Căn cứ vào bảng theo dõi nhiên liệu tiêu hao, kế toán ghi:
Nợ TK 621
Có TK 152,111,331
♦ Cuối kỳ kế toán kết chuyển vào TK tập hợp chi phí, kế toán ghi:
Nợ TK 154
Trang 21
Trần thị Xuân Nam K– ế toán 7 Khoá 34–
Có TK 621
Hạch toán chi phí dầu nhờn trong ngành vận tải, ngoài chi phí nhiên liệu xăng
và dầu diezen còn có thêm khoản chi phí dầu nhờn. Dầu nhờn cần thiết để bảo
dưỡng,
duy trì và đảm bảo tính năng kỹ thuật của xe.
Tỷ lệ dầu nhờn được tính trên cơ sở 100 lít nhiên liện tiêu hao thực tế. Với
căn cứ này sẽ tính được chi phí dầu nhờn cho từng đầu phương tiện.
Hạch toán chi phí dầu nhờn cũng được tiến hành tương tự hạch toán chi phí
nhiên liệu.
Hạch toán chi phí săm lốp
Chi phí về săm lốp bao gồm các khoản chi phí thay thế săm lốp ôtô hư
hỏng, sửa chữa đắp lại lốp, vá lại săm, thưởng tiết kiệm săm lốp...
Số chi phí săm lốp tính vào giá thành vận tải ôtô có đặc điểm nổi bật là
khi đầu tư phương tiện ôtô giá trị những bộ săm lốp đầu tiên vào ôtô được tính
vào giá trị đầu xe. Như vậy khi tính khấu hao cơ bản xe ôtô thì giá trị những bộ
săm lốp được chuyển dần vào giá thành vận tải. Vì vậy khi tính chi phí săm lốp
ôtô vào giá thành vận tải ôtô phải trừ đi giá trị hao mòn các bộ phận săm lốp gắn
liền với phương tiện mà hàng tháng đã tính khấu hao để khỏi trùng lắp, đến khi
phương tiện vận tải thanh lý không còn tình trạng dư thừa giá trị những bộ săm
lốp đầu tư ban đầu theo xe.
Trong quá trình vận tải săm lốp bị hao mòn với mức độ nhanh hơn mức

khấu hao đầu xe nên thường phải thay thế nhiều lần nhưng giá trị săm lốp thay
thế không tính vào giá thành vận tải ngay một lúc khi xuất dùng thay thế mà
chuyển dần từng tháng. Như vậy hàng tháng, các đơn vị vận tải ôtô phải trích
trước khoản chi phí này tính vào giá thành vận tải để giữ cho giá thành vận tải
tương đối ổn định.
Trang 22
Trần thị Xuân Nam K– ế toán 7 Khoá 34–
Số trích trước chi phí săm lốp ôtô được qui định theo công thức sau:
Số trích trước
chi phí săm lốp
trong tháng
=
Định mức chi phí
cho 1km xe chạy
trên đường tiêu
chuẩn (loại 1)
x
Số km xe đã
hoạt động
trong tháng
x
Hệ số tính đổi
sang đường tiên
chuẩn( đường
loại 1)
Trong đó:
Định mức chi
phí cho 1km
xe chạy trên
đường tiêu

chuẩn
=
Nguyên giá của
1 bộ săm lốp
trừ(-) giá trị
đào thải ước
tính
Định mức km
xe lăn bánh
cho một bộ săm
lốp trên đường
tiêu chuẩn
x
Số bộ săm lốp
phải sử dụng
cho 1 chiếc xe
ôtô (hoặc Rơ
moóc)
-
Nguyên giá của
các bộ săm lốp
đầu tiên của
phương tiện trừ (-)
giá trị đào thải
ước tính
Định ngạch kỹ
thuật đời xe
( Rơmoóc)
Săm lốp ôtô có thể hư hỏng đúng với định mức km xe lăn bánh, vượt định
mức hoặc không đạt định mức. Vì vậy định kỳ hàng năm vào 0 giờ ngày 1 tháng

1 các HTX vận tải ôtô phải kiểm kê toàn bộ săm lốp đang lắp trên các phương
tiện vận tải hiện có ở HTX để xác định giá trị còn lại thực tế của săm lốp đồng
thời cũng xác định giá trị còn lại của các bộ phận săm lốp đầu tư ban đầu của
phương tiện vận tải tính theo tỷ lệ tương ứng với tỷ lệ giá trị còn lại của phương
tiện vận tải so với nguyên giá của nó. Căn cứ vào kết quả kiểm kê cuối năm phải
tính toán, điều chỉnh tăng hoặc giảm giá thành vận tải giữa số phải trích với số
đã trích vào giá thành vận tải trong năm.
Số phải trích chi phí săm lốp vào giá thành vận tải hàng năm được xác
định bằng cách lấy giá trị còn lại thực tế của săm lốp đầu năm (theo kết quả
kiểm kê 0 giờ ngày 1 tháng 1) cộng (+) chi phí về săm lốp phát sinh trong năm
trừ (-) giá trị còn lại thực tế của săm lốp cuối năm (theo kết quả kiểm kê 0 giờ
ngày 1 tháng1 năm sau) trừ (-) phần giá trị hao mòn bộ săm lốp đầu tư ban đầu
của phương tiện vận tải tương ứng với tỷ lệ hao mòn của vận tải trừ (-) các
khoản thu hồi về giá trị săm lốp loại bỏ và các khoản thu khác nếu có.
Về nguyên tắc, khi đào thải săm lốp phải trích chi phí săm lốp vào giá
thành phải bằng giá trị bộ săm lốp đã đào thải, nếu giá trị bộ săm lốp đào thải
Trang 23
Trần thị Xuân Nam K– ế toán 7 Khoá 34–
lớn hơn số đã trích thì số chênh lệch được ghi tăng giá thành vận tải trong năm,
ngược lại thì số chênh lệch được ghi giảm giá thành vận tải trong năm.
Chi phí trích trước săm lốp của phương tiện vận tải dùng cho công tác
quản lý và chuyên chở nhiên liệu không hạch toán vào các khoản mục này mà
hạch toán vào chi phí quản lý Công ty và giá thành nhiên liệu, vật liệu.
Hàng tháng, HTX vận tải căn cứ vào công thức chọn tính số chi phí trích
trước về săm lốp. Vào tháng cuối năm sẽ tính toán điều chỉnh tăng, giảm vào giá
thành giữa số phải trích với số đã trích trong năm căn cứ vào kết quả kiểm kê
định kỳ 0 giờ ngày 1 tháng 1 hàng năm. HTX phải coi trọng việc kiểm kê toàn
bộ số săm lốp (bằng tỷ lệ còn sử dụng nhân với nguyên giá bộ săm lốp). Đồng
thời cũng xác định giá trị còn lại của bộ săm lốp đầu tư ban đầu của phương tiện
(bằng tỷ lệ tương ứng với tỷ lệ giá trị còn lại của phương tiện nhân với nguyên

giá bộ săm lốp).
HTX phải lập phiếu kiểm kê săm lốp cho từng phương tiện, sau đó tổng
hợp chung toàn xí nghiệp. Căn cứ vào kết quả tổng hợp kiểm kê, tính toán số
phải trích vào giá thành như nói trên.

SƠ ĐỒ 2: SƠ ĐỒ HẠCH TOÁN TỔNG HỢP CHI PHÍ VL - NL TRỰC
TIẾP
TK 111, 112,
331
TK 621 TK 154
Nguyên liệu, dầu nhờn, săm
Kết chuyển chi phí
nguyên
lốp xuất dùng cho từng đối
tượng
vật liệu trực tiếp
TK 133
TK 152
TK 335 Nhiên liệu, dầu nhờn dùng
Trích trước
xây
không hết chuyển hành
trình sau
lắp
Trang 24
Trần thị Xuân Nam K– ế toán 7 Khoá 34–
1.4.1.2. Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp
 Khái niệm:
Chi phí nhân công trực tiếp là khoản thù lao lao động phải trả cho công nhân lái,
phụ xe trực tiếp sản xuất sản phẩm, trực tiếp thực hiện các lao vụ, dịch vụ như

tiền lương chính, lương phụ và các khoản phụ cấp có tính chất lương (phụ cấp
khu vực, phụ cấp đắt đỏ, độc hại, phụ cấp làm đêm, thêm giờ, ...). Ngoài ra, chi
phí nhân công trực tiếp còn bao gồm các khoản đóng góp cho các quĩ BHXH,
BHYT, KPCĐ do chủ sử dụng lao động chịu và tính vào chi phí sản xuất kinh
doanh theo một tỷ lệ nhất định với số tiền lương phát sinh của công nhân trực
tiếp sản xuất.
Theo qui định của Nhà nước về trích lập quĩ BHXH:
- BHXH trích 15% theo quỹ lương cơ bản.
- BHYT trích 3% theo quỹ lương cơ bản.
- KPCĐ trích 2% theo quỹ lương thực trả.
Nguyên tắc hạch toán của chi phí nhân công trực tiếp cũng tương tự như
chi phí nhiên liệu - vật liệu trực tiếp. Trong trường hợp phải phân bổ gián tiếp
người ta thường phân bổ theo từng khoản mục dựa trên các tiêu thức lựa chọn để
phân bổ.
Trong ngành giao thông vận tải, chi phí nhân công trực tiếp là chi phí nhân
công trả cho các lái, phụ xe. Tiền lương lái, phụ xe là khoản tiền trả cho lái, phụ
xe tương ứng với số lượng, chất lượng và kết quả lao động. Cơ sở để tính tiền
lương của lái, phụ xe dựa trên đơn giá tiền lương sản phẩm và sản phẩm làm ra.
 Tài khoản hạch toán
Để theo dõi chi phí nhân công trực tiếp, kế toán sử dụng TK 622 - Chi phí nhân
công trực tiếp. Tài khoản này được mở chi tiết theo từng đối tượng tập hợp chi
phí tương tự TK 621.
TK 622
- Tập hợp chi phí nhâncông trực tiếp - Kết chuyển hoặc phân bổ chi phí
thực tế phát sinh . nhân công trực tiếp vào tài khoản
tính giá thành sản phẩm.

TK 622 không có số dư cuối kỳ.
Trang 25

×