Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Giá trị mỹ thuật Việt Nam thời Nguyên thủy doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (665.71 KB, 23 trang )

Lịch sử mĩ thuật Việt Nam GVHD: Th.S Đàm Văn Thọ
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn để tài
Trải qua trường kỳ lịch sử với biết bao biến thiên của xã hội bao lần
tiếp xúc và giao lưu văn hoá, mĩ thuật của người việt nói chung cũng luôn vận
động, gắn liền và phát triển cùng cuộc sống. Nhiều lớp văn hoá đã tích hợp
hoặc chồng lấp lên nhau trong mỗi loại hình mĩ thuật nói chung, trong đó có
giá trị mĩ thuật nguyên thủy nói riêng.
Mĩ thuật là bộ phận kiến thức cơ bản về văn minh nhân loại. Các tác
phẩm mĩ thuật là những nhân chứng, dấu tích hiển hiện rõ nhất các bước văn
minh của con người. Dõi theo các tác phẩm mĩ thuật, chúng ta có thể thấy giá
trị mĩ thuật của Việt Nam thời kì nguyên thủy thể hiện ở hàng triệu họa phẩm
từ xa xưa, được thể hiện hết sức đa dạng, đặc biệt là phản ánh qua lăng kính
của nghệ thuật.
Giá trị mĩ thuật Nguyên thủy Việt Nam đã có những ảnh hưởng gì cho
thời đại bây giờ? Những bức tranh hang động, những dụng cụ lao động dùng
trong sản xuất, sinh hoạt hàng ngày, những đồ dùng trang trí hay đến những
đồ trang sức cho mọi người. Nó đã đánh giá một trình độ văn hóa của cả một
thời kì mông muội sang một thời kì mới một thời kì phát triển cuả xã hội văn
minh với trình độ tư duy cao hơn của loài người nói chung, đặc biệt là người
nguyên thủy Việt Nam nói riêng.
Chính vì vậy mà tôi đã tiến hành nghiên cứu tìm hiểu đề tài “ Phân tích
giá trị cơ bản của mĩ thuật Việt Nam thời Nguyên thủy”
2. Mục đích nghiên cứu
Phân tích những giá trị cơ bản của mĩ thuật Việt Nam thời nguyên thủy.
3. Đối tượng nghiên cứu
Giá trị cơ bản của mĩ thuật Việt Nam thời Nguyên Thủy
4. Phạm vi nghiên cứu
Phân tích những giá trị cơ bản của mĩ thuật Việt Nam thời Nguyên thủy.
- Tranh hang động.
SVTH: Nguyễn Thị Ngân – Lớp: 09CVHH Trang 1


Lịch sử mĩ thuật Việt Nam GVHD: Th.S Đàm Văn Thọ
- Điêu khắc.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp lịch sử
- Phương pháp đối chiếu, phân tích, so sánh, tổng hợp.
6. Cấu trúc nghiên cứu
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
Chương 1 Sơ lược tình hình xã hội Nguyên thủy Việt Nam
Chương 2 Giá trị cơ bản của Mĩ thuật Việt Nam thời nguyên thủy
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
SVTH: Nguyễn Thị Ngân – Lớp: 09CVHH Trang 2
Lịch sử mĩ thuật Việt Nam GVHD: Th.S Đàm Văn Thọ
NỘI DUNG
Chương 1 Sơ lược tình hình xã hội Nguyên thủy Việt Nam
Loài người ra đời cách đây hàng triệu năm. Trong quá trình lao động để
tồn tại, người nguyên thuỷ đã sáng tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần.
Nền mĩ thuật nguyên thuỷ ra đời từ đó. Những dấu vết đầu tiên của mĩ thuật
nguyên thuỷ được tìm thấy ở những vùng phía nam châu Âu, châu Á và một
phần lãnh thổ rộng lớn của châu Phi. Những di tích khảo cổ tìm được đã phản
ánh những khái niệm cuộc sống của người nguyên thuỷ. Nó kéo dài trong thời
gian từ khoảng 40.000 - 10.000 năm trước công nguyên (TCN)
Mĩ thuật nguyên
thủy để lại những di tích
vô cùng quý giá đó là
những tác phẩm tạo hình
đầu tiên của loài người.
Hình vẽ bò rừng, ngựa
rừng trên vách các hang

động Tây Ban Nha, Pháp
đã làm cho mọi người hết
sức ngạc nhiên về vẻ đẹp của nó. Đó là những dấu nghệ thuật tiền sử xuất sắc
và là di sản quý báu của thế giới, nền mĩ thuật nguyên thủy này bắt đầu khi
người tiền sử biết sống kết hợp lại theo bầy đàn, và có nhu cầu giao tiếp với
nhau, cũng như khoanh vùng lãnh thổ. Do người tiền sử sống chủ yếu trong
hang động, nên nền cho các bức tranh là các bức vách trong hang. Kĩ thuật tạo
hình có thể là khắc, đục hoặc phun các chất màu lên đá. Sự hiện diện của con
người trong những bức tranh đá rất hiếm hoi. Đa phần chúng vẽ các con vật,
không chỉ những loài vật được sử dụng làm thức ăn mà cả những con vật thể
SVTH: Nguyễn Thị Ngân – Lớp: 09CVHH Trang 3
Lịch sử mĩ thuật Việt Nam GVHD: Th.S Đàm Văn Thọ
hiện sức mạnh như tê giác hay to lớn như các loài mèo. Điều đặc biệt là các
hang có tranh vẽ không nằm trong khu vực có người ở, vì thế có thể chúng đã
từng được dùng cho những lễ nghi. Các con vật được vẽ thêm các dấu hiệu có
thể là ma thuật. Những biểu tượng hình mũi tên, đôi khi được coi như là để
làm lịch. Thuyết vạn vật hữu linh - cơ sở đã nảy sinh ra một hình thức đặc
biệt của tôn giáo nguyên thủy là tín ngưỡng Totem. Tín ngưỡng Totem đánh
dấu sự phân chia ngành nghề và các thị tộc, bộ lạc khác nhau của người
nguyên thủy. Việc thờ cúng tổ tiên biểu hiện của sự kính trọng, lòng biết ơn
đối với những người già cả và những người có công lao với thị tộc, là nét đẹp
văn hóa “ uống nước nhớ nguồn ” của con người trong xã hội nguyên thủy.
Việc tìm ra lửa đánh dấu một bước tiến lớn trong lịch sử loài người. Từ
đây, con người đã biết nướng chín thức ăn bằng lửa, biết dùng lửa để sưởi ấm
và xua đuổi thú dữ, dùng lửa để sản xuất đồ gốm và chế tạo kim loại. Việc
dùng lửa đánh dấu bước đầu con người chinh phục thiên nhiên và tách hẳn
khỏi giới động vật.
Người nguyên thủy sống thành từng nhóm, định cư lâu dài ở một nơi,
những người cùng huyết thống sống chung với nhau và tôn người mẹ lớn tuổi
nhất lên làm chủ, đó là chế độ thị tộc mẫu hệ. Là xã hội có tổ chức đầu tiên .

Xã hội Nguyên thủy được chia làm 3 thời kì quan trọng:
1. Thời kì đồ đá cũ (từ hai vạn đến tám vạn năm)
Di tích núi Đọ - Thanh Hoá được
xếp vào thời kỳ đồ đá cũ. Đây là nơi cư trú
của người việt cổ, đồng thời cũng là nơi
chế tạo ra các công cụ bằng đá thô sơ, đó
là những mảnh tước, công cụ chặt, rìu tay,
nạo Thời kỳ này cách chúng ta mấy vạn
năm và là thời kỳ tổ chức xã hội đang hình
thành. Trải qua quá trình phát triển, con
người dần dần bước vào chế độ thị tộc
SVTH: Nguyễn Thị Ngân – Lớp: 09CVHH Trang 4
Lịch sử mĩ thuật Việt Nam GVHD: Th.S Đàm Văn Thọ
nguyên thuỷ. Để có thể tồn tại trong điều kiện khắc nghiệt của thiên nhiên,
con người phải tụ họp lại với nhau sống thành những bầy người trong các
hang động tự nhiên với công cụ thô sơ, họ sống chủ yếu bằng săn bắt, hái
lượm, người Việt cổ đã cư trú trên một địa bàn khá rộng. Các di tích khảo cổ
học đã cho chúng ta thấy di tích của thời kỳ này có ở nhiều nơi : Miền Bắc từ
Phú Thọ, Sơn La, Lai Châu đến Bắc Ninh, Bắc Giang. Miền Trung từ Thanh
Hoá, Nghệ An đến Quảng Trị. Thời kỳ này các bầy người Nguyên Thuỷ đã
tập hợp lại với nhau, thành các thị tộc, bộ lạc, mỗi thị tộc gồm vài ba thế hệ
cùng huyết thống. Nhiều thị tộc đã hợp lại thành một bộ tộc. Đến thời kỳ này
kỹ thuật chế tác đồ đá đã tiến thêm một bước.
Nếu thời kỳ núi Đọ người nguyên thuỷ dùng đá ba gian để chế tạo
công cụ, thì thời kỳ này con người lại dùng các đá cuội tìm được ở các bãi
sông. Những viên đá cuội được ghẽ đẹo cẩn thận trở thành các công cụ lao
động hiệu quả hơn so với thời kỳ trước. Các di tích của các bộ lạc thời kỳ này
được gọi là văn hoá SơnVi. Văn hoá Sơn Vi thuộc xã Sơn Vi, Huyện Sông
Thao, Tỉnh Phú Thọ. Đây cũng là nơi đầu tiên phát triển ra những hiện vật
của văn hoá cuối thời kỳ đồ đá cũ. Văn hoá Sơn Vi cách ngày nay chừng một

vạn năm đến 18000 năm.
Nhiều di tích văn hoá Sơn Vi:( Năm 1993) tìm được di tích văn hoá ở
huyện Do Linh (Quảng Trị), năm 1994 phát hiện thêm di tích văn hoá Sơn Vi
ở đảo Cồn Cỏ. Những phát hiện mới này cho thấy rõ hơn về lịch sử thời kỳ
đầu tiên của dân tộc chúng ta.
SVTH: Nguyễn Thị Ngân – Lớp: 09CVHH Trang 5
Lịch sử mĩ thuật Việt Nam GVHD: Th.S Đàm Văn Thọ
2. Thời kỳ đồ đá giữa ( thiên niên kỉ tám đến thiên niên kỉ bốn trước công
nguyên )
Sau văn hoá Vi Sơn, Người Việt cổ bước vào thời kỳ đồ đá giữa, tương
đương với nền văn hoá Hoà Bình. Xã hội Nguyên Thuỷ chuyển sang thời kỳ
Hoà Bình đã tiến thêm một bước cao hơn. Ngoài cuộc sống săn bắn, hái
lượm, các cư dân văn hoá Hoà Bình đã bắt đầu làm nông nghiệp. .
Những dấu vết về một nền nông nghiệp sơ khai được tìm thấy ở nhiều
nơi như: Hang Sủng Sàm – Hoà Bình (11.365 ± 80 năm cách ngày nay, Hang
Thẩm Khương – Lai Châu, hoặc hang Xóm Trại – Hoà Bình
Đến thời kỳ văn hoá Hoà Bình, con người đã định cư lâu dài hơn so với
thời kỳ đồ đá cũ. Nếu ở núi Đọ – Thanh Hoá không có kết cấu tầng văn hoá,
thì đến văn hoá Hoà Bình có tầng văn hoá dày tới 3,7 m. Năm 1930, Cô-La-
Ni khai quật ở Quảng Bình, Ninh Bình cũng gặp di chỉ văn hoá tương tự như
ở Hoà Bình. Ngoài dấu vết của văn hoá Hoà Bình, còn tìm thấy ở Hạ Long,
Nghệ An. Con người thời kỳ này thường làm lều, nhà cửa ở Hang gần sông
suối. Bên cạnh các công cụ Lao động bằng đá còn tìm được các công cụ, vũ
khí bằng tre, nứa, xương, sừng rất phong phú. Đồ trang sức bằng vỏ sò, ốc,
SVTH: Nguyễn Thị Ngân – Lớp: 09CVHH Trang 6
Lịch sử mĩ thuật Việt Nam GVHD: Th.S Đàm Văn Thọ
xương thú. Điều này cho thấy cuộc sống của các bộ lạc người Việt Cổ đã phát
triển thêm một bước. Cùng với săn bắt, hái lượm, con người đã biết trồng trọt.
Nền văn minh nông nghiệp bắt đầu được hình thành. Tín ngưỡng tôn giáo bắt
đầu xuất hiện với hình thức sơ khai nhất : Totem giáo (thờ vật cổ).

3. Thời kì đồ đá mới( hơn một vạn năm đến năm nghìn năm cách ngày
nay)
Thời kỳ đố đá mới bắt đầu vào khoảng thiên niên kỷ VI trước công
nguyên. Địa bàn cư trú của người Việt cổ lan rộng trong cả nước, từ miền núi
tới miền biển và miền trung du, dân số ngày càng tăng. Các bộ lạc chủ nhân
văn hoá Hoà Bình đã tạo nên văn hoá Bắc Sơn từ trong quá trình tiến hoá của
họ. Công cụ sản xuất thời kỳ văn hoá Bắc Sơn đã tiến bộ hơn trước rất nhiều.
Những công cụ bằng đá cuội, song kĩ thuật chế tác không dừng lại ở
ghè, dẻo. Các cư dân thời kỳ này đã biết sử dụng kĩ thuật mài đá tạo ra các
lưỡi rìu, mài có tra cán. Với công cụ lao động mới, năng suất lao động đã tăng
lên rất nhiều. Chăn nuôi, trồng trọt phát triển mạnh. Thời kỳ này được gọi là
thời kỳ cách mạng đồ đá. Ngoài công cụ và đồ dùng bằng đá, dân cư thời này
đã biết chế tạo ra đồ gốm. Như vậy, có thể nói cuộc sống sinh hoạt, làm ăn
của cư dân thời kỳ đồ đá mới tiến bộ hơn rất nhiều so với thời kỳ trước. Bên
cạnh việc săn bắt, hái lượm, nhiều nghề mới xuất hiện như trồng trọt ( thuần
SVTH: Nguyễn Thị Ngân – Lớp: 09CVHH Trang 7
Lịch sử mĩ thuật Việt Nam GVHD: Th.S Đàm Văn Thọ
hóa các cây trồng cây ăn quả, rau dại thành sản phẩm thức ăn hàng ngày phục
vụ cho sinh hoạt), chăn nuôi( do thuần hóa và nuôi nhốt những động vật đi
săn được), đánh cá. Nghề nông bắt đầu hình thành trong thời kỳ đồ đá giữa
đến nay tiếp tục phát triển và trở thành một trong những ngành chính. Cây
trồng quan trọng và chủ yếu chính là cây lúa. Đời sống vật chất phát triển, kéo
theo sự phát triển cuả đời sống tinh thần. Đồ trang sức được chế tác trên nhiều
chất liệu phong phú như đá,
đất nung, vỏ trai và nhiều
thể loại khác nhau như : vòng
tay, vòng cổ, khuyên tai
Điều này chứng tỏ nghề thủ
công đã rất phát triển. Ngoài
việc chế tác công cụ lao

động, công cụ gia đình, đồ
trang sức, đồ gốm, con người
kỳ này còn biết dệt vải.
Trong các mộ cổ được khai quật và qua cách chôn người chết, chúng ta
có thể hiểu thêm những quan niệm người Việt cổ về cuộc sống sau khi chết
của con người. Trong ngôi mộ chúng ta đã tìm được nhiều xương sọ và các
xương khác được tô màu đỏ cùng các vật dụng, công cụ lao động. Điều đó
cho thấy trong tư duy của người Nguyên Thuỷ đã hình thành quan niệm về
một thế giới khác tồn tại chỉ khi con người từ giã cuộc sống ở thế giới đó con
người vẫn làm ăn sinh sống như thế giới thực tại.
Thời kỳ đồ đá mới là giai đoạn cuối của thời kỳ Nguyên thuỷ. Tư duy
của con người ngày một phát triển phong phú hơn. Bàn tay ngày một khéo léo
hơn. Phân công lao động trong một bộ lạc ngày một rõ ràng, cụ thể và chuyên
môn hoá hơn. Đời sống ổn định lâu dài hơn. Tất cả những điều đó là sự chuẩn
bị cho việc ra đời một chế độ xã hội mới và sự hoàn thành nhà nước ở giai
đoạn sơ khai nhất.
SVTH: Nguyễn Thị Ngân – Lớp: 09CVHH Trang 8
Lịch sử mĩ thuật Việt Nam GVHD: Th.S Đàm Văn Thọ
Chương 2 Giá trị cơ bản mĩ thuật Việt Nam thời Nguyên thủy
Trải qua bao thăng trầm của
lịch sử, với bao lần biến đổi các lớp
trầm tích đã che dấu rất nhiều di tích
sự thật về tổ tiên loài người của dân
tộc ta. Mặc dù cho đến nay có rất
nhiều di tích, di chỉ vẫn chưa được
các nhà khảo cổ học tìm thấy, nhưng
dựa trên những dấu tích mà người xưa để lại mà đến nay chúng ta khai quật
được đã chứng tỏ một trình độ tư duy của người Việt cổ là rất sáng tạo, nổi
bật nhất trong việc chế tác công cụ lao động, đồ trang sức, đồ gốm, những bức
tranh hang động hay đến việc phát hiện ra lửa để nướng chín thức ăn. Điều đó

chứng tỏ tư duy của con người lúc bấy giờ đã bước sang một trang mới, một
trang sử hào hùng của dân tộc. Trong thời đại sơ khai đó người Việt cổ đã để
lại những thành tựu hết sức nổi bật, định hình cho nền lịch sử mĩ thuật Việt
Nam những nét sơ khai đầu tiên trong hội họa, điêu khắc, kiến trúc… Trong
các thành tựu nổi bật để lại những giá trị cơ bản nhất trong lịch sử mĩ thuật
Việt Nam thời Nguyên thủy đó là
- Tranh hang động
- Đồ gốm
- Điêu khắc
Trong bài viết này của tôi, tôi chỉ tiến hành tìm hiểu 3 thành tựu nổi bật
nhất của mĩ thuật Nguyên thủy để thấy được những giá trị cơ bản của nền mĩ
thuật Việt Nam thời Nguyên thủy.
1. Tranh hang động
Trong những di chỉ đồ đá cũ ở Việt Nam phát hiện được đến nay như ở
Núi Ðọ (Thanh Hóa) hay ở Trung Ðội, Yên Lương (Hà Nam Ninh)… thì
không một vật nào có giá trị về mặt mĩ thuật.
SVTH: Nguyễn Thị Ngân – Lớp: 09CVHH Trang 9
Lịch sử mĩ thuật Việt Nam GVHD: Th.S Đàm Văn Thọ

Từ dụng cụ của sơ kỳ đồ đá
cũ ở Núi Ðọ còn rất thô sơ đến lưỡi
rìu cầm tay như ở Thiệu Dương
(Thanh Hóa), tổ tiên ta đã có ý thức
tìm tòi về hình dáng làm cho dụng
cụ thích ứng hơn trong việc sử dụng.
Những công cụ ấy đã có một hình
thể nhất định. Ðiều đó chứng tỏ bàn
tay người thợ đã thuần thục, vững
vàng.
Đến giai đoạn văn hóa Hòa

Bình tiêu biểu cho đồ đá giữa, và
Bắc Sơn tiêu biểu cho đồ đá mới, thì
nghệ thuật làm đồ đá có những sáng
tạo rất đặc sắc. Công cụ bằng đá
hình dáng thống nhất gọi là “ công
cụ vạn năng” được thay bằng công
cụ chuyên môn. Mỗi công cụ có hình dáng khác nhau: rìu đá, rìu xương, công
cụ hình đĩa ném, kim bằng xương để khâu may Trong việc gia công làm ra
SVTH: Nguyễn Thị Ngân – Lớp: 09CVHH Trang 10
Lịch sử mĩ thuật Việt Nam GVHD: Th.S Đàm Văn Thọ
những vật dụng ấy, ta thấy chủ nhân của chúng không phải có mục đích duy
nhất là dùng được, mà còn quan tâm đến mặt thẩm mỹ.
Dòng máu chân thực của cuộc
sống cũng rõ nét trong nghệ thuật tạo
tượng. Những bức tượng còn để lại tới
ngày nay phần lớn là tượng nhỏ và tượng
tròn. Chất liệu để làm tượng là đá, đất
nung và những thủ pháp kỹ thuật chính là
nặn tay, mài gọt. Đề tài chính của tượng
vẫn là con người, phần nhiều là ở trạng
thái động: nhảy múa, thổi khèn, yêu
đương Đó là những nhóm tượng; một
số khác là tượng chân dung và hầu hết
đều là chân dung phụ nữ.
Di tích thời đồ đá nước ta
không phải chỉ tìm được trong hang
động ở sâu trong đất liền, nhiều di chỉ
hậu kỳ đồ đá mới ở gần bờ sông hay
ven biển thời nguyên thủy như Văn
Ðiển (Hà Nội). Tượng người bằng đá

ở Văn Điển với dấu hiệu nam tính rõ
ràng được tạo ra bằng kỹ thuật chế tác
đá tổng hợp và tinh tế theo một ước lệ
có cân nhắc kỹ càng và được khái quát
hoá cao. Tính chất nghiêm túc cứng
cỏi khắc khổ của pho tượng cho thấy có lẽ nghệ sĩ bị chi phối bởi ý thức tôn
giáo hay như ở Hạ Long (Quảng Ninh) và điển hình như xã Quỳnh Văn,
Quỳnh Tùng, Quỳnh Hoa… ở huyện Quỳnh Lưu (Nghệ An) các xã ấy bây giờ
SVTH: Nguyễn Thị Ngân – Lớp: 09CVHH Trang 11
Lịch sử mĩ thuật Việt Nam GVHD: Th.S Đàm Văn Thọ
là ven biển. Những địa phương ấy có những đống vỏ sò rộng hàng ngàn mét
vuông.
Những đống vỏ sò, điệp to lớn lẫn lộn với những bàn đá nghiền hạt,
mảnh gốm “chì lưới” bằng đất nung tìm được trong nhiều di chỉ hậu kỳ đồ
đá mới, chứng tỏ rằng người nguyên thủy ở Việt Nam bấy giờ không phải chỉ
sống bằng việc săn thú rừng như người nguyên thủy nhiều nơi khác, mà họ
còn sinh sống công việc bắt cá, cua, sò, điệp, trai, tôm, ốc ở sông, biển và đã
bắt đầu biết đến một số cây ăn quả, nhất là lúa nước. Do đó, thú rừng không
phải là vật duy nhất quan hệ đến đời sống của người nguyên thủy Việt Nam.
Nghệ thuật tạo hình thời nguyên thủy ở Việt Nam, chúng ta chưa thấy
hình vẽ hay tạc vào đá mộ trình độ khá. Tại Nà Ca (Bắc Thái), người ta thấy
hình một mặt người khắc vào đá. Trong hang Ðồng Nội (Hà Nam Ninh), thì
có ba mặt người chạm nổi. Cũng ở Ðồng Nội (Hà Nam Ninh), ngoài hình mặt
người, còn có hình đầu một loài thú, không rõ loài gì. Ðây là hình thú tạc vào
đá độc nhất của thời nguyên thủy tìm thấy đến nay ở nước ta.
Những chuôi dao găm làm thành tượng người phụ nữ ở Hoà Bình, Hải
Phòng, Thanh Hoá, Nghệ An - Hà Tĩnh cho thấy tính nghệ thuật, mặc dù
phải phục vụ tính thực dụng vẫn phản ánh khá rõ nét lối trang sức của chị em
thời ấy, toát ra vẻ đẹp riêng của nữ giới. Tính hiện thực đã nâng cao giá trị
của các pho tượng vừa có ý nghĩa trang trí vừa có ý nghĩa thực tiễn này: lối

trang sức bằng vòng tay, hoa
tai là những chi tiết mà
nghệ sĩ dân gian chú ý diễn
tả.
Đặc biệt trong hang
Đồng Nội, xã Đồng Tâm, các
nhà khảo cổ còn phát hiện
những hình khắc trên vách
núi đá tiêu biểu nhất là hình thú và ba mặt người. Có thể nói đó là tác phẩm
SVTH: Nguyễn Thị Ngân – Lớp: 09CVHH Trang 12
Lịch sử mĩ thuật Việt Nam GVHD: Th.S Đàm Văn Thọ
duy nhất của nghệ thuật tạo hình trong nền văn hóa Hòa Bình và có lẽ là tác
phẩm nghệ thuật tạo hình cổ nhất được phát hiện tại Việt Nam tính đến thời
điểm
Thời gian gần đây, tại di chỉ Văn Ðiển, người ta phát hiện một tượng đá
bé bằng ngón tay út chúng ta, tạc hình người. Tượng tròn bé này cũng là
tượng tròn hình người bằng đá độc nhất của người nguyên thủy tìm được ở
nước ta đến nay. Trong hang Lam Gan (Hà Sơn Bình), người ta thấy hình một
cành cây khắc trên mũi dùi bằng xương. Ở Làng Bon, Yên Lạc (Bình Trị
Thiên) có hình cành lá khắc trên đá cuội… Những thể hiện hình người và vật
kể trên còn rất thô sơ. Một điểm đáng chú ý là trên đỉnh đầu những hình mặt
người ở hang Ðồng Nội, người ta thấy như một cái chạc hình chữ “ Y ” không
hiểu tượng trưng cho cái gì? Phải chăng đây là nét thô sơ thể hiện lông chim,
ngụy trang trên đầu người như chúng ta thấy trong hình người trang trí trên
mặt trống đồng Ngọc Lũ và các di vật khác của thời Ðông Sơn?
Hà Giang đã phát hiện di tích bãi đá có hình khắc vẽ thời tiền sử ở xã
Nấm Dẩn, huyện Xín Mần. Khu vực có di tích bãi đá nằm trong một thung
lũng rộng, xung quanh là những dãy núi cao bao bọc. Trên bề mặt thung lũng
có nhiều tảng đá trầm tích lớn nằm ngổn ngang dọc dòng suối. Bề mặt các
tảng đá này thường khá bằng phẳng. Các nhà nghiên cứu đã tìm thấy trên một

số tảng đá có hình khắc vẽ.
Đáng chú ý là trên một tảng đá to có diện tích bề mặt hơn 30m2 ở khu
Nà Lai Shứ (tiếng địa phương có nghĩa là khu ruộng có hình vẽ chữ) đã phát
hiện hơn 40 hình khắc vẽ cổ.
Phân thành một số nhóm mô típ họa tiết:
- Những họa tiết hình học như hình tròn, hình tam giác, hình thang. Đây
là mô típ họa tiết giữ vai trò chủ thể. Những hình tròn ở đây thường là
những vòng tròn đơn. Có hình tròn có 4 tia ở xung quanh có thể là biểu
tượng mặt trời.
SVTH: Nguyễn Thị Ngân – Lớp: 09CVHH Trang 13
Lịch sử mĩ thuật Việt Nam GVHD: Th.S Đàm Văn Thọ
- Những họa tiết hình bàn chân người. Những bàn chân thường là những
bàn chân phải của người lớn và trẻ em, với kích thước to gần như thật,
những ngón chân được khắc lõm sâu vào trong đá. Đây là mô típ thể
hiện được xem là rất cổ trong nghệ thuật tiền sử.
- Những biểu tượng sinh thực khí, chủ yếu là những biểu tượng nữ tính
với hình tam giác có rãnh dọc ở giữa.
- Họa tiết hình người được thể hiện trong tư thế giơ tay, dạng 2 chân như
chúng ta thường thấy trong các bích họa hang động thời tiền sử.
- Những hồi văn hình vuông và hình tròn.
- Những hình khắc chưa xác định được hình dáng và ý nghĩa thể hiện.
Để tạo những hình
này, người xưa đã sử dụng
kĩ thuật rất thô sơ là đục
khắc trực tiếp trên bề mặt
tảng đá. Những nét khắc
chạm này thường có bề
rộng khoảng 2cm, sâu
chừng 1cm. Qua các mô
típ họa tiết được thể hiện, chúng ta thán phục sự cần mẫn và bàn tay khéo léo

của người xưa với những nét đục khắc khá đều đặn. Nhìn chung, những hình
khắc vẽ này còn mang tính biểu tượng, ước lệ, nhưng đó là những sáng tạo
nghệ thuật tạo hình thời tiền sử. Như chúng ta đã biết, từ nhận thức cái đẹp
đến sáng tạo nghệ thuật là cả một quá trình lâu dài trong lịch sử nhân loại.
Chủ nhân của những hình khắc vẽ Xín Mần đã có khái niệm về thẩm mĩ, về
cái đẹp bản năng trong đời sống thiên nhiên, trong sinh hoạt cộng đồng và đã
thể hiện chúng trên đá.
Cho đến nay, ở Việt Nam, những dấu tích của nghệ thuật bích họa thời
tiền sử được tìm thấy còn ít. Trước đây, tại hang Đồng Nội, tỉnh Hòa Bình,
các nhà khảo cổ đã tìm thấy trên vách hang đá những hình khắc vẽ mang tính
SVTH: Nguyễn Thị Ngân – Lớp: 09CVHH Trang 14
Lịch sử mĩ thuật Việt Nam GVHD: Th.S Đàm Văn Thọ
ước lệ về động vật và khuôn mặt người. Ở Sa Pa, tỉnh Lào Cai, các nhà
nghiên cứu đã phát hiện nhiều tảng đá có hình khắc vẽ cổ. Tuy nhiên, việc xác
định niên đại của chúng còn gặp nhiều khó khăn bởi sự chằng chéo nhiều mô
típ thể hiện trong nhiều thời kỳ khác nhau. Nhưng cũng có một số hình khắc
vẽ cổ trên đá Sa Pa có phong cách tạo hình và mô típ đề tài thể hiện tương tự
như những hình khắc họa ở Sín Mần, Hà Giang.
Dựa vào kỹ thuật tạo hình, vào đề tài mô típ thể hiện và so sánh với các
di tích đồng dạng trong khu vực, bước đầu các nhà khảo cổ xác định những
hình khắc vẽ cổ trên đá ở Xín Mần, Hà Giang là những bích họa thời tiền sử,
có niên đại cách đây khoảng vài ngàn năm. Đây là một di tích quan trọng, có
giá trị lớn về nghệ thuật tạo hình của tổ tiên ta, là di sản văn hóa của nhân dân
ta.
2. Đồ Gốm
Việc biết dùng ngũ cốc là thức ăn là một cuộc cách mạng trong xã hội
nguyên thủy. Chẳng những nó cho phép con người có thể định cư mà còn thay
đổi nếp sống và dụng cụ thường dùng. Những khí giới bằng đá không đủ cho
đời sống hàng ngày nữa, người ta còn cần có nồi, niêu, chum, vại để nấu,
đựng thức ăn; do đó, đồ gốm ở nước ta được chế tạo ra rất sớm để đáp ứng

nhu cầu đời sống. Việc chế tạo ra đồ
gốm là một sự kiện hết sức quan trọng
trong đời sống của người nguyên thủy;
và trong việc chế tạo này, tổ tiên ta mới
có điều kiện phát triển khả năng về
trang trí và tạo hình.
Từ thời nguyên thủy xa xôi, nghề
đan lát đã phát triển ở nước ta, do
nguyên liệu tre nứa rất dồi dào. Những
người làm đồ gốm đầu tiên, khi chưa
biết dùng bàn nặn xoay, thì thường đan
SVTH: Nguyễn Thị Ngân – Lớp: 09CVHH Trang 15
Lịch sử mĩ thuật Việt Nam GVHD: Th.S Đàm Văn Thọ
khuôn bằng nan tre theo hình nồi, niêu, chum, vại rồi trát một lớp đất sét dày
mỏng tùy theo ý muốn đồ gốm dày hay mỏng. Khi đất khô, người thợ đem
nung cho cháy khuôn nan và chín đất. Ở di chỉ Minh Cầm (gần Lạng Sơn), di
chỉ Bầu Tré (Bình Trị Thiên) người ta thấy những mảnh gốm có dấu khuôn
đan. Trong buổi đầu của nghề làm đồ gốm, người nguyên thủy ở Việt Nam đã
tìm ra được hình dáng vò, vại, chum, nồi hợp lý. Hình dáng các vật ấy, người
thợ gốm ngày nay không làm khác mấy.
Khuôn đan in vào vại, vò lúc còn
ướt thành một thứ hoa văn trang trí. Ðến
khi trình độ nghệ thuật của người thợ đồ
gốm đã khá, người ta không dùng khuôn
đan nữa, song vì quen mắt và yêu cầu
thẩm mỹ, người ta vẽ bằng que hay dập
hoa văn phỏng theo dấu in của khuôn đan. Dần dần hoa văn trong đồ gốm trở
nên phong phú, chẳng hạn như hình kép của hình sóng gợn (mảnh gốm tìm
được ở di chỉ Khe Tong – Bình Trị Thiên), hình chữ chi, hình nan rổ (mảnh
gốm ở chợ Ghềnh – Hà Nam Ninh), hình răng sói ở nhiều nơi. Nhưng phải

nói cuối thời đồ đá mới, khi kỹ thuật làm đồ đá phát triển đến tuyệt đỉnh của
nó, thì hoa văn trang trí mới đạt đến trình độ phong phú là nền tảng cho nghệ
thuật trang trí đồ gốm và đồ đồng sau này. Ðó chính là bước đầu của thời mà
nhà viết sử của ta gọi là thời vua Hùng dựng nước.
3. Điêu khắc
Trong lịch sử mĩ thuật thế
giới đến cuối thời kỳ đồ đá cũ,
đã xuất hiện những dấu vết đầu
tiên về nghệ thuật tạo hình ở
Việt Nam, thời kỳ đồ đá cũ của
văn hoá Sơn Vi, tìm được chủ
yếu là hòn nghè và các công cụ
SVTH: Nguyễn Thị Ngân – Lớp: 09CVHH Trang 16
Lịch sử mĩ thuật Việt Nam GVHD: Th.S Đàm Văn Thọ
chặt hòn kê, bàn nghiền, chày nghiền to lớn, cối và chày đá. Văn hoá Hoà
Bình được xếp với thời kỳ đồ đá giữa và dần dần phát triển sang thời kỳ đồ đá
mới. Trong nhiều di tích thuộc nền văn hoá Hoà Bình chúng ta đã tìm được
những dấu hiệu mĩ thuật đầu tiên. Mặc dù đó chỉ là những hình khắc đơn giản
về nội dung và bằng trình độ tạo hình sơ khai, nhưng sự xuất hiện của những
hình khắc đã khẳng định được sự ra đời của nghệ thuật tạo hình của người
Việt cổ. Văn hoá Hoà Bình là một khâu phát triển nằm trong truyền thống văn
hoá nghệ thuật đá cuội nảy sinh ở Đông Nam á và phát triển từ sơ kỳ đồ đá cũ
đến thời đại đồ đá mới.
Từ buổi bình minh của lịch sử dân tộc
Việt, tín ngưỡng phồn thực đã là một tín
ngưỡng thực thụ, nảy sinh trong xã hội
Nguyên thuỷ và được đề cao trong một giai
đoạn khá dài. Các di tích còn lại đến ngày
nay đã khẳng định điều đó. Các di chỉ ở gò
Mả Đống ( Hà Tây cũ ) người ta tìm thấy

những vật hình Linga hay di chỉ ở Đồng
Dậu. Các nhà khảo cổ học cũng đã tìm thấy
được những hình ảnh âm vật “ Yoni ” hay
những bức tượng thể hiện rát rõ đặc tính nữ.
Ở hang động Lan Gan ( Hoà Bình), người ta tìm được mũi dùi làm từ
xương thú. Hình sống các lá mọc so le đan thành hình ngọn cây được khắc ở
đầu nhọn của mũi dùi. Mặc dù rất nhỏ, song hình lá được khắc rõ, chi tiết.
Bốn trong sáu chiếc lá còn lại còn khắc cả đường gân song song. Những hình
khắc đó vừa mang lại vẻ đẹp cho mũi dùi, lại còn có tác dụng về mặt kỹ thuật,
hay nói cách khác ở thời kỳ sơ khai của nghệ thuật tạo hình dân tộc, mỹ thuật
luôn chỉ dùng cái có ích, hình chạm với công cụ lao động một cách hữu cơ và
tạo nên một nền tổng thể. các hình khắc trong hang động nơi thuộc xã Đồng
Tâm, huyện Lạc Thuỷ, tỉnh Hoà Bình, chúng ta mới chứng kiến được hình vẽ,
SVTH: Nguyễn Thị Ngân – Lớp: 09CVHH Trang 17
Lịch sử mĩ thuật Việt Nam GVHD: Th.S Đàm Văn Thọ
nhưng tác phẩm hoàn thiện và độc lập hơn, chúng tỏ sự phát triển thêm một
bước của mỹ thuật Nguyên thuỷ.
Cũng như trong lĩnh vực chạm khắc, một chủ nghĩa hiện thực hồn nhiên
và sinh động đã để lại dấu ấn sâu sắc trong phương pháp và phong cách tạo
tượng. Trên mỗi tác phẩm nhỏ nhắn xinh xắn ấy, từ những chiếc vòng tay và
hoa tai, những đường nét trang trí trên xống áo, vẻ say sưa, nghiêm trang hay
ngộ nghĩnh, hóm hỉnh của con người đều được chú ý diễn tả đúng đắn và kỹ
lưỡng.
Cốt cách và chủ đề của con người hay con vật được nghệ sĩ chú ý nhận
chân. Miêu tả người, nghệ sĩ dân gian cũng chú ý diễn đạt cả những sắc thái
nội tâm, tính tình. Phong cách nghệ thuật phóng khoáng ấy phản ánh được
phần nào tâm hồn phóng khoáng, sôi nổi của con người thời đại.
Người Việt từ thời Nguyên thuỷ đến nay vẫn sử dụng màu đỏ nhiều
trong đám tang, có lẽ không nằm ngoài mong muốn đó. Thế giớ tìm được rất
nhiều hình vẽ chứng tỏ sự có mặt của một nền hội hoạ, nhưng về nghệ thuật

chạm khắc trên đất đá, ở mỹ thuật Nguyên thuỷ Việt Nam lại thấy khá nhiều.
Có tác phẩm thì đơn giản như chạm trên viên cuội dài 10cm ở Đông Kỳ
( Thái Nguyên). Ở Lạc Thủy có tám di chỉ thuộc nền văn hóa Hòa Bình gồm:
di vật trống đồng loại I, giáo búp đa, giáo lá lúa, đỉnh đồng, mũi dao đồng
Trên viên cuội có hình khắc ở cả hai mặt. Mặt này là những hình họ, chủ
yếu là hình vuông, được sắp xếp như một mặt người theo kiểu kỷ hà. Mặt kia
là một chân dung người đã chỉ nét mắt, mũi, miệng được tạo bởi những chấm
chấm. Tuy sự thể hiện còn rất đơn giản, tỉ lệ chưa chuẩn xác, nhưng hình
chạm ở đây đã có biểu cảm. Một số tác phẩm còn thể hiện ở tính trang trí và
tượng trưng như tác phẩm bằng đất sét vàng (10 x 4 x 0,7 cm ) tìm thấy ở
Nghinh Tắc (Thái Nguyên).
SVTH: Nguyễn Thị Ngân – Lớp: 09CVHH Trang 18
Lịch sử mĩ thuật Việt Nam GVHD: Th.S Đàm Văn Thọ
Bố cục trên bề mặt tác phẩm được chia
làm hai phần. Phía ngoài là 15 nhóm khắc
vạch xếp xung quanh. Mỗi nhóm có 34 vạch
khắc. Bên trong được bố trí thành 8 đường
song song. Mỗi đường được tạo nên bởi
những hình giống chữ kể liên tiếp. Nhìn vào
tác phẩm này có thể gợi cho chúng ta liên
tưởng đến một khu vườn, một mảnh ruộng
với những hàng cây đều đặn và hàng rào
xung quanh. Tuy vậy mọi sự áp đặt so sánh
đều không chính xác, đôi khi còn giảm giá trị nghệ thuật. Nhưng vượt lên tất
cả những điều đó, tác phẩm đã cho chúng ta thấy một khả năng tạo hình, trang
trí của người Việt Nguyên thuỷ. Cho dù nó biểu hiện cái gì nhưng có một điều
rõ ràng là ở đây có sự sắp xếp các mảnh khắc vạch cân đối, thuận mắt thuận
nhìn với ý thức bố cục cụ thể, điều này dễ nhận thấy khi ta quan sát tác phẩm.
Thành tựu mĩ thuật của người Việt cổ thời đại dựng nước qua những tác
phẩm đồ gốm, đồ trang sức, đồ đồng, qua những hoạt động về tạo dáng, vẽ

hình, chạm khắc, tạo tượng là bằng chứng rõ rệt về tài năng, khiếu thẩm mỹ
của một cộng đồng người sống chan hoà với thiên nhiên và sống khăng khít
với nhau trong các làng chạ. Nền mỹ thuật Việt cổ nhiều màu vẽ có những nét
đẹp bình dị, chững chạc, hài hoà, một nội dung hiện thực, chân chất, phản ánh
khá đầy đủ tư duy, tình cảm và cuộc sống con người thời đó.
SVTH: Nguyễn Thị Ngân – Lớp: 09CVHH Trang 19
Lịch sử mĩ thuật Việt Nam GVHD: Th.S Đàm Văn Thọ
KẾT LUẬN
Thời kì Nguyên thủy là thời kì đầu tiên của xã hội loài người, đây là
thời kì nảy sinh và phát triển của chế độ công xã nguyên thủy đó chính là thời
đại đồ đá.Thời nguyên thủy có lẽ là thời kì dài nhất trong lịch sử phát triển
của xã hội loài người. Đồng thời sự phát triển của xã hội cũng chậm chạp
nhất, cùng vói sự nhích dần chậm chạp ấy con người cũng đã dần tiến tới một
cuộc sống thẩm mĩ. Cùng với lao động, với cái có ích, cái đẹp cũng dần xuất
hiện. Mặc dù phải trải qua một thời gian dài chúng ta mới tìm thấy được
những nét khắc nguyên thủy đầu tiên mở đầu cho một nền mĩ thuật Việt Nam
thời Nguyên thủy. Trên cơ sở đó đến cuối thời kì đồ đá mới,mĩ thuật đã phát
triển hơn một nửa bước so với thời kì trước, tuy mãi đến thời đồ đồng chúng
ta mới tìm được nhiều tác phẩm mĩ thuật thuộc nhiều loại hình nghệ thuật tạo
hình. Những tác phẩm quý bấu ấy là nguồn tư liệu cho các thế hệ sau này tìm
hiểu và học tập vốn tinh hoa của nghệ truyền thống cha ông xưa.
Thành tựu mĩ thuật của người Việt cổ thời đại qua những tác phẩm đồ
gốm, đồ trang sức, đồ đá, qua những hoạt động về tạo dáng, vẽ hình, chạm
khắc là bằng chứng rõ rệt về tài năng, khiếu thẩm mỹ của một cộng đồng
người sống chan hoà với thiên nhiên và sống khăng khít với nhau trong các
làng chạ. Nền mĩ thuật Việt cổ nhiều màu vẻ có những nét đẹp bình dị, chững
chạc, hài hoà, một nội dung hiện thực, chân chất, phản ánh khá đầy đủ tư duy,
tình cảm và cuộc sống con người thời đó.
Phần lớn những tượng được trang trí hoặc giúp vào việc trang trí: được
gắn vào các đồ dùng hay trở thành một bộ phận hữu cơ của đồ dùng như vò,

vại, chum, nồi cùng một số ít tượng mang tính chất tôn giáo, phục vụ cho tín
ngưỡng tôn giáo tự nhiên, tín ngưỡng vật, tổ tín ngưỡng phồn thực.
Cùng với việc phân tích, tìm hiểu các tác phẩm mĩ thuật, các giá trị cơ
bản của mĩ thuật nước ta thời tiền sử, nó làm cho ta tăng thêm lòng say mê
SVTH: Nguyễn Thị Ngân – Lớp: 09CVHH Trang 20
Lịch sử mĩ thuật Việt Nam GVHD: Th.S Đàm Văn Thọ
tìm hiểu về mĩ thuật dân tộc. Từ đó phát huy tinh hoa dân tộc trong sáng tạo
nghệ thuật và giảng dạy.
Từ những tác phẩm mà người xưa để lại cho chúng ta hiện nay nó đã
phản ánh toàn bộ cuộc sống, sinh hoạt con người và cảnh vật của quê hương
đất nước, với một phong cách rất Việt Nam mang đậm đà bản sắc dân tộc.
SVTH: Nguyễn Thị Ngân – Lớp: 09CVHH Trang 21
Lịch sử mĩ thuật Việt Nam GVHD: Th.S Đàm Văn Thọ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Hữu Quýnh(chủ biên), Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh Đại
cương lịch sử Việt Nam – Tập 1. NXB Giáo dục,1998.
2. Ngô Huy Quỳnh, Lịch sử kiến trúc Việt Nam. NXB Văn hóa thông tin,
1998
3. Lịch sử mĩ thuật Việt Nam. NXB Văn hóa thông tin, 2005
4. Ngô Đức Thịnh( chủ biên) Bản sắc văn hóa vùng ở Việt Nam. NXB
Giao dục, 2009
5. Định Ngọc Bảo(chủ biên) – Phạm Văn Đấu, Giáo trình Khảo cổ
học.NXB Đại học sư phạm, 2007.
6. Các tràn web trên google như:
-
- http:// www.phuyen.net.vn
-
-
-
Và một số trang diễn đàn cổ vật, lịch sử mĩ thuật khác.

SVTH: Nguyễn Thị Ngân – Lớp: 09CVHH Trang 22
Lịch sử mĩ thuật Việt Nam GVHD: Th.S Đàm Văn Thọ
MỤC LỤC
SVTH: Nguyễn Thị Ngân – Lớp: 09CVHH Trang 23

×