Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

BÀI GIẢNG CANH TÁC HỌC doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 112 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ
DỰ ÁN HỢP TÁC VIỆT NAM – HÀ LAN





BÀI GIẢNG
CANH TÁC HỌC













Người biên soạn: ThS. Nguyễn Văn Quy














Huế, 08/2009


1

Bài 1
ĐIỀU KIỆN SỐNG CỦA CÂY TRỒNG VÀ BIỆN PHÁP ĐIỀU TIẾT

Điều kiện sống là những yếu tố quan trọng của mọi sinh vật sống tồn tại trong thế
giới tự nhiên. Điều kiện sống của cây trồng bao gồm: ánh sáng, nhiệt độ, không khí,
nước và dinh dưỡng. Điều kiện sống cung cấp năng lượng và vật chất chủ yếu cho quá
trình tạo thành vật chất hữu cơ, tạo năng suất của cây trồng. Có đến 90 - 95% chất hữu
cơ của cây là do quá trình quang hợp với sự cung cấp năng lượng của ánh sáng mặt
trời. Cây trồng tận dụng cao các điều kiện sống sẽ cho năng suất cũng như hiệu quả
kinh tế cao nhất. Vì vậy, có thể nói điều kiện sống là yếu tố quan trọng bậc nhất đối với
cây trồng.
Điều kiện sống của cây trồng bao gồm:
1. Ánh sáng.
1.1. Vai trò, tác dụng của ánh sáng đối với cây trồng.
- Ánh sáng là nguồn cung cấp năng lượng cho quá trình quang hợp, tổng hợp chất
hữu cơ cho cây.
- Ánh sáng cung cấp nhiệt độ cho bầu khí quyển của trái đất từ đó ảnh hưởng đến
nhiệt độ không khí và nhiệt độ đất của tiểu khí hậu cây trồng.
- Cường độ và thời gian chiếu sáng có ảnh hưởng trực tiếp đến các quá trình sinh
lý, sinh hoá trong cây. Mỗi loại cây trồng có yêu cầu khác nhau về cường độ chiếu

sáng cũng như thời gian chiếu sáng, do đó phải dựa vào chế độ sáng của từng vùng để
có sự bố trí cây trồng một cách hợp lý.
Ví dụ: Các cây quang hợp theo chu trình C4 và chu trình cam là những cây ưa
sáng (điểm bão hoà ánh sáng 0,6 - 1,4 cal/cm
2
/phút). Các cây quang hợp theo chu trình
C3 yêu cầu ánh sáng thấp hơn (điểm bão hoà ánh sáng 0,2 -0,8 cal/cm
2
/phút). Trong
các cây C3 có những cây yêu cầu ánh sáng khá thấp như cà phê arabica, bèo hoa dâu
1.2. yêu cầu ánh sáng của cây trồng.
Cây xanh dựa vào ánh sáng để tiến hành quá trình quang hợp, tuy nhiên yêu cầu
về ánh sáng của mỗi loại cây trồng lại có sự khác nhau.
Yêu cầu về ánh sáng của cây trồng được thể hiện trên các mặt sau:
- Cường độ chiếu sáng: dựa vào yêu cầu về cường độ chiếu sáng người ta chia
cây trồng làm hai loại.
+ Cây âm tính: Là những cây trồng thích hợp với điều kiện chiếu sáng yếu.
Chúng không chịu được điều kiện ánh sáng mạnh.
VD: Lúa mì, khoai tây, cà chua, cà phê Arabica
+ Cây dương tính: Là những cây trồng thích hợp với điều kiện ánh sáng mạnh.
Trong điều kiện ánh sáng yếu chúng sẽ sinh trưởng phát triển kém.
VD: Ngô, mía, kê, dứa, cà phê Rôbusta, chuối
Khi bố trí cây trồng chúng ta cần dựa vào đặc điểm này để có sự phân vùng địa lý

2

cũng như tạo điều kiện trồng trọt cho cây trồng có được cường độ ánh sáng thích hợp
nhất
- Thời gian chiếu sáng trong ngày (chu kỳ quang): Một số loại cây trồng để ra hoa
kết quả được chúng yêu cầu phải có thời gian chiếu sáng trong ngày thích hợp. Căn cứ

vào đặc điểm này người ta phân cây trồng ra làm ba nhóm.
+ Nhóm cây ngày ngắn: Là những cây trồng chỉ ra hoa kết quả trong điều kiện
chiếu sáng dưới 14 giờ trong một ngày như lúa, khoai lang, đậu tương, lạc, mía, cúc,
thược dược
+ Nhóm cây ngày dài: Bao gồm những loại cây chỉ ra hoa kết quả trong điều kiện
ngày dài trên 14 giờ chiếu sáng hoặc liên tục chiếu sáng như lúa mì, mạch, bắp cải, ngô
phương bắc, layơn
+ Nhóm cây trung tính: Gồm những cây không có phản ứng với độ dài chiếu sáng
trong ngày. Nhóm cây này thường thuộc loại cây cảm ôn, trong điều kiện nhiệt độ cao
cây thường phát dục nhanh, ra hoa sớm. (cà rốt, dưa chuột, thuốc lá, bông )
Cũng chính vì lý do này mà khi đưa một giống cây trồng từ nơi này sang nơi
khác, do thời gian chiếu sáng thay đổi, khiến thời gian ra hoa của chúng cũng thay đổi
rất nhiều, thậm chí là không ra hoa được.
Ở nước ta độ dài ngày thay đổi như sau: Mùa hè ngày dài nhất rồi dần ngắn lại
trong mùa thu, mùa đông là ngày ngắn nhất, sang xuân lại dài ra. Do yếu tố này mà
trên một vùng sinh thái có thể tồn tại nhiều nhóm cây có phản ứng chu kỳ quang khác
nhau. Trong trồng trọt, cần dựa vào đặc điểm này để có sự bố trí cây trồng và mùa vụ
gieo trồng thích hợp.
Cùng một loại cây trồng, nhưng giống khác nhau cũng yêu cầu điều kiện ánh sáng
không giống nhau. Ngay đối với lúa, có loại hình nhạy cảm với ánh sáng ngày ngắn
nghĩa là buộc phải có điều kiện ngày ngắn mới ra hoa kết quả được, như lúa mùa muộn
ở nước ta. Dù cấy sớm hay cấy muộn, song thường cứ đến mùa thu, ngày ngắn lại, lúa
mới trổ. Còn lúa chiêm, lúa xuân là loại hình không nhạy cảm với ánh sáng, gieo mùa
nào thì sau một thời gian nhất định là có thể ra hoa kết quả được.
Các thời kỳ khác nhau của cây trồng, yêu cầu điều kiện ánh sáng cũng khác nhau.
Thời kỳ cây trưởng thành là thời kỳ cây cần ánh sáng đầy đủ nhất. Còn thời kỳ nảy
mầm là thời kỳ cây không có chất diệp lục thì không cần ánh sáng. Thời kỳ chín cũng
là thời kỳ tác dụng quang hợp giảm đi rõ rệt, nên yêu cầu sinh lý về ánh sáng cũng
không nhiều.
Tuy nhiên ánh sáng không có lợi cho sự phát triển của bộ rễ. Thí dụ các rễ chân

kiềng của ngô mọc ở các đốt cây ngô trên mặt đất, nếu được vun đất (ánh sáng bị che
đi) thì các rễ này sẽ phát triển tốt hơn. Đối với sự hình thành củ của cây có củ, tác dụng
của vun đất che ánh sáng cũng rất rõ, như đối với khoai tây nếu vun đất không tốt, mặt
củ trơ ra ngoài có thể hình thành lớp vỏ xanh có chất độc có hại cho người và gia sức.
Qua phân tích ở trên, ta thấy yêu cầu ánh sáng có mức độ khác nhau tuỳ loại cây

3

trồng, song cây trồng nào cung phải có ánh sáng mới tổng hợp được chất hữu cơ. Như
Timiriazep đã nói "Mỗi một vạt ánh sáng không chiếu vào cây xanh, đều là một tổn
thất của loài người". Chính vì vậy trong sản xuất nông nghiệp, người ta phải dùng mọi
biện pháp kỹ thuật để sử dụng ánh sáng được tốt. Thí dụ, việc gieo hạt đều, trồng dày
vừa phải, trồng đúng hướng, gieo ô vuông, trồng xen hợp lý, làm dàn cho cây leo đều
là các biện pháp mà trong chừng mực nào đó, đã nâng cao hiệu suất sử dụng ánh sáng
của cây trồng.
1.3. Biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng ánh sáng trong sản xuất
nông nghiệp.
Hiện nay cây trồng chỉ mới hấp thụ được khoảng 1,5-2% tổng bức xạ quang hợp
(PAR) chiếu tới đồng ruộng. Theo A.A Nhicôpovich nếu nâng hiệu xuất hấp thụ bức
xạ của cây trồng lên tới 4-5% thì có thể nâng năng suất cây trồng lên gấp đôi. Để nâng
cao hiệu suất sự dụng năng lượng mặt trời cần áp dụng các biện pháp sau:
- Đánh giá chính xác tiềm năng bức xạ quang hợp có được ở các vùng địa lý khác
nhau theo không gian và thời gian. Khả năng đảm bảo yêu cầu của cây trồng về năng
lượng bức xạ quang hợp trong các giai đoạn sinh trưởng và phát triển của chúng.
- Xác định yêu cầu về năng lượng bức xạ quang hợp của từng giống cây trồng
trong từng giai đoạn sống khác nhau, đặc biệt yêu cầu về cường độ bức xạ, thời gian
chiếu sáng trong ngày, để có cơ sở bố trí thời vụ và phân vùng khí hậu nông nghiệp
phù hợp nhằm đạt được năng suất cây trồng cao nhất.
- Chọn tạo những giống cây trồng có những đặc trưng hình thái thích hợp, có thể
nhận được năng lượng bức xạ nhiều nhất như: góc lá, sự phân bố cành, sự phân bố lá

trên cây, diện tích lá, bề dầy lá Nghiên cứu mật độ cây trên đơn vị sao cho phù hợp
nhất. Những loại cây ưa sáng yêu cầu trồng ở nơi có khả năng chiếu sáng tốt.
- Trồng hàng cây theo hướng thích hợp sao cho cây trồng trong ngày có thể nhận
được năng lượng mặt trời nhiều nhất. Thông thường, nên bố trí hàng cây theo hường
Bắc - Nam để hạn chế sự che chắn ánh sáng lẫn nhau của các cây trong vườn.
- Biện pháp trồng xen các loại cây có độ cao khác nhau, có nhu cầu ánh sáng khác
nhau cũng là cách tăng hiệu quả sử dụng bức xạ quang hợp tốt nhất. Ví dụ: trồng xen
cây cao với cây thấp (cây ăn quả-dứa), cây dài ngày với cây ngắn ngày (sắn-lạc).
- Các biện pháp kỹ thuật khác như: Xới xáo đất, bón phân, tưới nước thích hợp sẽ
giúp cây tăng khả năng chống chịu với các điều kiện bất thuận của ngoại cảnh, tăng
diện tích và tuổi thọ của lá, làm tăng khả năng hấp thụ năng lượng bức xạ mặt trời, dẫn
đấn năng suất tăng.
2. Nhiệt độ.
Từng loại cây trồng, các bộ phận của cây cũng như các quá trình sinh lý trong
cây, sẽ phát triển tốt ở nhiệt độ thích hợp và chỉ an toàn ở một nhiệt độ nhất định. Nhiệt
độ lại có sự thay đổi theo tháng trong năm. Để bố trí cây trồng phù hợp với nhiệt độ
cần nắm được tình hình nhiệt độ của các tháng trong năm cũng như yêu cầu về nhiệt độ

4

của từng loại cây trồng, từng giai đoạn trong quá trình phát triển.
2.1. Tác dụng của nhiệt độ đối với cây trồng.
- Nhiệt độ đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá trình hình thành khí hậu của
trái đất, từ đó ảnh hưởng đến tiểu khí hậu của cây trồng.
- Nhiệt độ quyết định tốc độ các phản ứng sinh lý hoá sinh, các chỉ số quan trọng
của cây trồng như quang hợp, hô hấp, trao đổi chất, hút nược, hút khoáng, vận chuyển
vật chất và tích luỹ các sản phẩm đồng hoá.
- Nhiệt độ ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát triển của cây trồng.
- Nhiệt độ ảnh hưởng đến hoạt động của môi trường tác động đến cây trồng như
môi trường đất (vi sinh vật, quá trình khoáng hoá), môi trường không khí (ẩm độ, tiểu

khí hậu quanh cây trồng).
2.2. Ảnh hưởng của nhiệt độ đối với cây trồng.
Nhiệt độ có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình sinh trưởng, phát triển và tạo năng
suất của cây trồng. Nó được thể hiện ở các mặt sau:
- Nhiệt độ tối thấp sinh vật học: Là nhiệt độ thấp nhất mà tại đó cây ngừng sinh
trưởng. Mỗi loại cây trồng khác nhau, ở mỗi giai đoạn sống khác nhau có giới hạn tối
thấp sinh vật học khác nhau.
Ví dụ: nhiệt độ tối thấp sinh vật học của lúa ở giai đoạn đầu là 13
0
C, giai đoạn trỗ
bông là 20-22
0
C. Đối với ngô giai đoạn đầu là 13-14
0
C. giai đoạn phun râu trỗ cờ là
16-17
0
C.
Nhiệt độ thấp làm cho lượng nước trong nguyên sinh chất trong tế bào giảm đi,
mật độ dịch bào tăng lên, quá trình vận chuyển nước và chất dinh dưỡng trong cây bị
cản trở gây ảnh hưởng đến quá trình sinh lý khác của cây. Nếu nhiệt độ xuống quá thấp
(dưới 0
0
C), nước trong tế bào bị đóng băng gây hiện tượng co nguyên sinh, cây sẽ dần
dần bị chết. Khả năng chịu rét của thực vật khác nhau, thực vật ôn đới chịu rét tốt hơn
so với thực vật nhiệt đới và xích đạo.
Đối với cây trồng, nhìn chung thời kỳ cây non, ra hoa và kết quả kém chịu rét hơn
cả. Nếu vào thời kỳ này, cây gặp rét kéo dài sẽ ảnh hưởng đến năng suất và phẩm chất
của cây trồng. Sau đợt rét, nếu nhiệt độ tăng lên từ từ thì mức độ hại sẽ thấp hơn so với
nhiệt độ tăng lên đột ngột.

Nhiệt độ đất thấp làm cho hạt giống mọc mầm chậm hoặc không mọc mầm được.
Bộ rễ cây trồng kém phát triển.
- Nhiệt độ thích hợp: Là khoảng nhiệt độ lớn hơn nhiệt độ tối thấp và thấp hơn
nhiệt độ tối cao. Trong khoảng này, theo Vanhop nếu nhiệt độ tăng 10
0
C thì quá trình
sống của thực vật sẽ tăng lên 1-2 lần.
Trong khoảng nhiệt độ thích hợp, quá trình hút các chất dinh dưỡng khoáng và
nước của cây sẽ thuận tiện. Cường độ hoạt động của hệ vi sinh vật đất mạnh, tốc độ
phân giải các chất hữu cơ và hoà tan các chất dinh dưỡng trong đất diễn ra mạnh
- Nhiệt độ tối cao sinh vật học: Là nhiệt độ mà tại đó, hoạt động sống của thực vật

5

bị ngừng lại. Hầu hết các loại cây trồng, nhiệt độ tối cao sinh vật học ở vào khoảng 35 -
40
0
C.
Dưới ảnh hưởng lâu dài của nhiệt độ cao, thời gian sinh trưởng của cây trồng rút
ngắn lại, không đủ cho cây trồng tích luỹ sản phẩm hình thành năng suất, dẫn đến năng
suất thấp.
Nhiệt độ cao còn xúc tiến quá trình thoát hơi nước của cây trồng. Nếu trong thời
kỳ hạn sẽ làm cây thiếu nước và chết.
Nhiệt độ cao, làm tăng quá trình hô hấp của thực vật, làm giảm khả năng tích luỹ
trong cây. Dẫn tới năng suất và phẩm chất giảm.
Nhiệt độ cao, ảnh hưởng xấu đến quá trình thụ tinh, thụ phấn của cây, làm giảm
năng suất.
2.3. Yêu cầu về nhiệt độ của cây trồng.
Cây trồng khác nhau, yêu cầu về nhiệt độ cũng khác nhau. Yêu cầu nhiệt độ của
cây trồng được thể hiện qua các mặt sau.

- Tổng nhiệt độ cây cần một vụ: Để hoàn thành chu kỳ sinh trưởng, mỗi cây cần
một tổng tích ôn nhất định. Tổng tích ôn này phụ thuộc vào thời gian sinh trưởng và
yêu cầu nhiệt độ cao hay thấp của cây.
VD: Nhóm cây ưa lạnh như khoai tây, có thời gian sinh trưởng 80-90 ngày cần
tổng ôn: 1500 - 1700
0
C. Nhóm cây ưa nóng như lúa có thời gian sinh trưởng 100 - 120
ngày cần tổng ôn 2500 - 2600
0
C. Nhóm cây trung gian như đậu cô ve có thời gian sinh
trưởng 80 - 110 ngày cần tổng ôn 1600 - 2000
0
C. Nếu tính cả thời gian làm đất thì cây
ưa lạnh cần thêm 300
0
C/vụ, cây ưa nóng cần thêm 400
0
C/vụ, thì một vụ cây ưa lạnh
cần khoảng 1800 - 2000
o
C và cây ưa nóng khoảng 3000
o
C. Nếu làm một năm hai vụ
cây ưa nóng và một vụ cây ưa lạnh (phía bắc) cần khoảng 7800 - 8000
o
C. Một năm 3
vụ cây ưa nóng (phía Nam) cần khoảng 9000
o
C.
Từ yêu cầu tổng nhiệt độ/vụ ở trên, ta thấy rằng để xác định được số vụ bố trí

trên một năm ta cần nắm được tổng số nhiệt độ trong một năm và yêu cầu tổng nhiệt
độ/vụ của từng giống cây để từ đó có sự bố trí số vụ và giống cây trồng trên mỗi vụ
cho thích hợp.
- Nhiệt độ thích hợp để sinh trưởng phát triển: Dựa vào nhiệt độ thích hợp của
cây trồng người ta phân cây trồng ra làm ba loại sau:
+ Cây ưa nóng: Là những cây sinh trưởng và ra hoa kết quả tốt ở nhiệt độ trên
20
0
C như các cây lúa, lạc, đay, mía
+ Cây ưa lạnh: Là những cây sinh trưởng và ra hoa kết quả tốt ở nhiệt độ dưới
20
0
C như lúa mì, khoai tây và các cây rau như xu hào, cải bắp.
+ Ngoài hai nhóm cây trên ra còn có nhóm cây trung gian là nhưng cây yêu cầu
nhiệt độ trên dưới 20
o
C một ít để sinh trưởng ra hoa, kết quả.
Khi bố trí thời vụ cây trồng cần chú ý đảm bảo nhiệt độ thích hợp cho cây ở gian
đoạn cuối (45-60 ngày) nghĩa là cần khoảng 2 tháng có những ngày trên 20
0
C cho

6

những cây ưa nóng và dưới 20
0
C cho những cây ưa lạnh. Vì trong giai đoạn này cây
trồng diễn ra song song hai quá trình phát triển, phát triển các cơ quan sinh thực và cơ
quan sinh trưởng. Nếu không có nhiệt độ phù hợp với đặc tính ưa nhiệt của cây quá
trình thụ phấn, thụ tinh không an toàn dẫn đến hiện tượng hoa bị thui, quả, hạt bị lép,

sức chứa giảm, năng suất giảm.
2.4. Những biện pháp kỹ thuật điều hoà chế độ nhiệt cho cây trồng.
- Nghiên cứu, nắm vững nhu cầu về nhiệt độ của các giống cây trồng khác nhau,
trong từng giai đoạn sống khác nhau. Đánh giá nguồn tài nguyên về nhiệt độ của từng
vùng, trong từng thời kỳ. Trên cở sở đó, xác định số mùa vụ, giống cây trồng trong
từng thời vụ một cách thích hợp nhất.
- Trồng rừng phòng hộ, bằng biện pháp này, có thể giảm được nhiệt độ không khí
vào thời kỳ mùa hè và nhiệt độ không khí trong thời kỳ mùa đông.
- Xác định thời vụ cho thích hợp để đảm bảo nhiệt độ cần thiết cho cây sinh
trưởng và phát triển.
* Những biện pháp kỹ thuật giữ và tăng nhiệt độ trong mùa đông:
Trong thời kỳ mùa đông, lượng bức xạ nhận được ít, lại kèm theo gió lạnh. Đặc
biệt ở khu vực từ vùng duyên hải miền trung đến biên giới phía bắc. Chính vì vậy, vấn
đề giữ nhiệt độ trong thời kỳ mùa đông cần được quan tâm đến. Có một số biện pháp
kỹ thuật cần được lưu ý sau đây.
- Cải thiện thành phần cơ giới và kết cấu đất. Giảm tỷ lệ cát, tăng tỷ lệ sét trong
đất, xới xáo, giữ cho đất tơi xốp, thoáng khí, bón phân hữu cơ cho đất.
- Dùng vật che phủ mặt đất: Trong mùa đông ta có thể dùng rơm rạ hay cỏ mục
để che tủ mặt đất, lớp che tủ này hạn chế bức xạ hữu dụng của mặt đất hoặc có thể rải
tro trên mặt đất sẽ làm tăng khả năng hấp thụ năng lượng bức xạ mặt trời của đất.
- Phương pháp tưới nước, dữ ẩm cho cây trồng cạn: Đối với cây trồng cạn, tăng
ẩm độ đất sẽ làm tăng nhiệt dung của đất, tăng khả năng hấp thụ năng lượng bức xạ của
mặt trời như vậy đất sẽ có nhiệt độ cao hơn.
- Trồng cây theo hàng, theo luống và hướng: Người ta thấy rằng nhiệt độ đất ở
nơi có lên luống luôn cao hơn so với không đánh luống.
- Trồng cây theo hướng bắc nam: Sẽ giảm sự che chắn lẫn nhau của các cây trồng
trong hàng, như vậy các cây trong hàng có thể nhận được nhiều năng lượng mặt trời
hơn.
* Các biện pháp kỹ thuật giảm nhiệt độ trong mùa hè:
- Biện pháp che tủ: Dùng rơm rạ hay cỏ mục che phủ lên mặt đất để giảm năng

lượng bức xạ chiếu trực tiếp xuống mặt đất. Dùng dàn che cho những cây non.
- Tưới nước cho cây: Đất nóng khi được tưới nước sẽ làm tăng khả năng bốc hơi
nước từ bề mặt đất. Nhiệt độ đất cũng như nhiệt độ không khí sẽ giảm đi.
- Xới xáo đất, bón phân hữu cơ cho đất làm giảm khả năng hấp phụ nhiệt độ của
đất, tăng sức chống chịu của cây. San phẳng mặt ruộng cũng là biện pháp tích cực để

7

giảm nhiệt độ đất.
- Trồng cây che bóng: Tuỳ theo mục đích sử dụng đất, tuỳ từng loại cây trồng.
Người ta có thể trồng các loại cây che bóng (thường là những loại cây phân xanh như:
Muồng, trinh nữ không gai, cây cốt khí )
3. Nước.
Nước là điều kiện khởi nguồn cho sự sống trên trái đất. Cũng như các sinh vật
khác, cây trồng cần rất nhiều nước trong quá trinh sinh trưởng, phát triển. Tuy nhiêu
quá trình hấp thu và sử dụng nước của cây trồng có nhiều điểm khác so với các sinh vật
khác.
3.1. Tác dụng của nước đối với cây trồng.
Không riêng gì cây trồng mà nước còn là điều kiện sống hết sức quan trọng đối
với tất cả các sự sống trên trái đất, không có nước thì sẽ không có sự sống trên trái đất.
Qua nghiên cứu các nhà khoa học đã thấy rằng các mầm mống đầu tiên của sự sống
cũng được bắt nguồn từ dưới nước sau đó qua quá trình tiến hoá mới chuyển lên sống ở
trên cạn như ngày nay, như vậy nước có thể được coi là môi trường khởi thuỷ cho sự
sống trên trái đất.
Đối với cây trồng nước có những tác dụng sau đây.
- Nước cần thiết cho quá trình nảy mầm của hạt giống. Hạt cây trồng khi được
gieo sẽ hút nước vào, trương lên. Nước làm môi trường cho quá trình chuyển hoá các
chất dự trữ, cung cấp cho phôi phát triển. Bất kỳ một loại hạt giống nào muốn nảy mầm
được cũng phải hút đủ một lượng nước nhất định (VD hạt ngũ cốc cần hút 40 - 50%
lượng nước so với trọng lượng hạt, đậu tương cần 120%, các loại rau như cải bắp cần

50%, cần tây cần 100%).
- Nước là yếu tố cấu trúc của tế bào thực vật. Trong cơ thể thực vật nước chiếm
70 - 90% trọng lượng tươi. VD như: Thuỷ tảo (96-98%), khoai tây (74-80%), cây thân
gỗ (40-50%).
- Trong quá trình quang hợp, nước là một trong những nguyên liệu để lá chế tạo
ra chất hữu cơ cùng với CO
2
và ánh sáng mặt trời. Phản ứng đơn giản được thể hiện
như sau:
6H
2
O + 6 CO
2
= C
6
H
12
O
6
+ 6O
2

- Nước tham gia vào môi trường xúc tác cho các phản ứng sinh lý, sinh hoá xẩy ra
trong cây trồng.
- Nước là môi trường vận chuyển và phân phối chất dinh dưỡng tới các bộ phận
của cơ thể cây trồng. Nước hoà tan các chất khoáng do cây hút từ đất và đem lên cho
thân, lá để nuôi cây
- Nước có tỷ nhiệt lớn, có thể bay hơi ở bất cứ nhiệt độ nào nên nước còn là môi
trường điều chỉnh nhiệt độ cơ thể cây trồng bằng cách thoát hơi nước qua các lỗ khí
khổng trên bề mặt lá. Đồng thời khi thoát hơi nước, các lỗ khí khổng mở ra còn tạo

điều kiện cho khí CO
2
xâm nhập vào lá để tiến hành quá trình quang hợp. Qua nghiên

8

cứu cho thấy, phần lớn lượng nước cây hút được sử dụng vào quá trình bay hơi trên bề
mặt lá (99,8%), chỉ có 0,1-0,3% lá dùng để xây dựng các bộ phận của cây.
- Nước tạo sức trương cho tế bào thực vật, làm cho cây trồng có hình dáng ổn
định, tạo tư thế có lợi cho sinh trưởng, phát triển của cây trồng. Chính vì vây khi cây
trồng bị mất nước quá nhiều thì thường có hiện tượng bị héo nghĩa là cành lá rũ xuống.
Nguyên nhân là do tế bào bị mất nước, không còn giữ được sức trương nữa và bị co lại,
do đó cây trồng bị biến dạng.
- Ngoài những tác dụng trực tiếp đối với cây trồng ra thì nước còn có tác dụng rất
to lớn đối với môi trường sống của cây trồng. Ví dụ như nước có tác dụng cải tạo, nâng
cao độ mầu mỡ, phì nhiêu của đất, nước còn là môi trường sống và hoạt động của các
loại vi sinh vật sống trong đất
3.2. Yêu cầu về nước của cây trồng.
Muốn cây trồng sinh trưởng tốt, cần nắm vững yêu cầu về nước của từng loại cây
trồng để có biện pháp điều tiết thích hợp. Tuy nhiên, yêu cầu về nước của cây trồng
không phải là một đại lượng cố định mà có sự thay đổi tuỳ thuộc vào giống, các giai
đoạn phát triển và điều kiện ngoại cảnh. Nó Được thể hiện qua các mặt sau:
- Các giai đoạn khác nhau của cây trồng thì yêu cầu về nước rất khác nhau.
Nguyên nhân là do, giai đoạn khác nhau thì kích thước cơ thể khác nhau, diện tích lá
khác nhau, cường độ của các phản ứng sinh lý sinh hoá khác nhau nên nhu cầu nước
khác nhau dẫn đến yêu cầu về nước khác nhau.
+ Ở giai đoạn từ mọc mầm đến cây con, do lá cây trồng còn bé, bộ rễ chưa phát
triển nên cây trồng cần nước chưa nhiều. Giai đoạn này chúng ta chỉ cần tưới một
lượng nước vừa phải là được.
+ Trong giai đoạn sau, nghĩa là giai đoạn từ khi cây sinh trưởng phát triển thân lá

mạnh, khép tán cho đến khi ra hoa kết quả là giai đoạn cần nhiều nước nhất. Đặc biệt là
giai đoạn ra hoa kết quả. Đây là giai đoạn mà cây trồng phản ứng rất nhạy cảm với điều
kiện sống. Nếu cung cấp nước không đủ trong giai đoạn này, sẽ gây hiện tượng rụng nụ
hoặc hạt lép.
Tuy nhiên, cũng trong thời kỳ này thì nhu cầu nước nhiều nhất của mỗi cây trồng
cũng rất khác nhau.
Những loại cây lấy hạt nhu cầu nước nhiều nhất là ở thời kỳ hình thành các cơ
quan sinh sản.
Những loại cây lấy củ cần nước nhiều nhất ở thời kỳ phát triển củ. Ơ thời kỳ này,
cây tiêu thụ nước với hiệu suất tích luỹ chất khô cao nhất và nước đóng vai trò quyết
định đến năng suất cuối cùng.
Các loại rau yêu cầu nước trong suốt quá trình sinh trưởng.
VD: Theo nghiên cứu của trạm khí tượng Liên Xô cho thấy: đối với cây lúa, thời
kỳ đốt dài, trỗ và ra hoa là thời kỳ cần nhiều nước nhất. Đối với ngô thì từ lúc ra hoa
đến chín sữa. Cao lương là từ khi hình thành bông đến mẩy hạt. Đậu đỗ và cây bông là

9

từ khi ra hoa, ra quả. Dưa là từ khi ra hoa đến chín. Khoai tây là từ ra hoa đến ra củ.
Chúng ta cần nắm được các thời kỳ này của các cây trồng khác nhau để có kế hoạch
cung cấp nước kịp thời.
+ Trong giai đoạn cuối nghĩa là từ khi sản phẩm cây trồng bước vào giai đoạn
chín. Do các phản ứng trong cây trồng chậm lại, cây ngừng sinh trưởng, quang hợp
giảm nên yêu cầu nước của cây cũng từ từ giảm dần.
- Các cây trồng khác nhau, nhu cầu về nước cũng khác nhau. Nguyên nhân là do
đặc tính sinh học của chúng khác nhau, biểu hiện ở diện tích lá to nhỏ khác nhau, thời
kỳ sinh trưởng dinh dưỡng dài ngắn khác nhau, bộ rễ mạnh yếu khác nhau, đặc điểm
phân bố bộ rễ trong đất khác nhau. Ngoài ra, các giống khác nhau chỉ cần có một đặc
tính sinh học cá biệt nào đó cũng có ý nghĩa không kém phần quan trọng đến yêu cầu
nước. VD như mật độ khí khổng trên lá, sự phân bố khí khổng trên lá, hàm lượng nước

trong cơ thể
- Yêu cầu của cây đối với nước còn phụ thuộc vào sự đảm bảo các điều kiện sinh
sống khác vì tác dụng phát tán của cây trồng lớn hay nhỏ, không chỉ quyết định do đặc
tính sinh học của bản thân giống cây trồng mà còn quyết định do điều kiện ngoại cảnh.
VD như:
+ Ánh sáng: Ánh sáng có ảnh hưởng rất lớn đến tác dụng phát tán hơi nước của
cây trồng, do ánh sáng làm nhiệt độ lá tăng lên, tác dụng phát tán sẽ tăng lên cùng với
cường độ chiếu sáng của cây
+ Hàm lượng hơi nước trong không khí cũng có ý nghĩa quan trọng đến tác dụng
phát tán. Hệ số phát tán ở năm khô hạn cao hơn năm ẩm ướt.
+ Gió cũng làm tăng rõ rệt tác dụng phát tán. Đặc biệt là khi có gió khô, nghĩa là
gió kết hợp với ẩm độ không khí thấp sẽ làm nước trong cây trồng mất đi rất nhanh.
* Yêu cầu nước của cây trồng phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, khi muốn tưới nước
cho cây trồng hay xác định lượng nước tưới, chúng ta phải xem xét tất cả các yếu tố
này một cách tổng thể để xác định lượng nước tưới cho thích hợp. Có như vậy mới
đảm bảo cho cây trồng sinh trưởng tốt, cho năng suất cao.
3.3. Ẩm độ không khí và ẩm độ đất.
* Ẩm độ không khí
Ẩm độ không khí là môi trường bao quanh cây trồng. Tuy nó không trực tiếp
cung cấp nước cho cây trồng nhưng nó có vai trò rất to lớn đến tiểu khí hậu và môi
trường sống của cây trồng. Đồng thời ẩm độ cũng ảnh hưởng trực tiếp đến các quá
trình sinh lý sinh hoá trong cây trồng. Các ảnh hưởng đó được thể hiện như sau:
- Độ ẩm không khí quá cao, sẽ làm cho quá trình thoát hơi nước của cây trồng gặp
khó khăn, độ mở của khí khổng thu hẹp lại, dẫn đến lượng CO
2
xâm nhập vào cây
giảm xuống làm cho quang hợp giảm. Độ ẩm không khí cao còn làm phát sinh bệnh tật
như các bệnh do phytopthora gây hại mạnh cho cây vụ đông; bệnh lở cổ rễ cho cây bộ
đậu (đặc biệt là ở Miền Trung).


10

Trong thực tế, vẫn có những cây trồng thích ứng với ẩm độ cao như các loại rau
xà lách, cải bắp, xu hào, dau diếp đây là những loại rau ăn lá có nhu cầu lượng nước
lớn mà bộ rễ lại không thuộc loại khoẻ. Vì vậy có thể bố trí trồng vào vụ đông.
- Ngược lại, độ ẩm không khí quá thấp cũng sẽ gây hại cho cây trồng, nhất là ẩm
độ không khí thấp kèm theo nhiệt độ cao sẽ làm cho cây trồng phải thoát hơi nước
nhiều, lượng nước hút lên không đủ bù đắp, cây trồng sẽ bị héo, hạt phấn và nhụy bị
chết, tỷ lệ hạt lép tăng.
Một điều cần chú ý là tác dụng của ẩm độ không khí đối với cây trồng, sâu bệnh
còn tuỳ thuộc vào nhiệt độ không khí. Khi nhiệt độ không khí cao thì ảnh hưởng của
ẩm độ không khí đối với chúng càng rõ rệt.
Trong thực tế, ẩm độ không khí không phải lúc nào cũng nằm ở mức trung bình,
thích hợp cho cây trồng sinh trưởng phát triển mà nó có sự biến động theo nhiệt độ và
lượng mưa ở các tháng trong năm. Chính vì vậy cần nắm được tình hình diễn biến của
ẩm độ không khí trong năm, có kế hoạch đưa vào trồng các loại cây trồng phù hợp với
ẩm độ ở giai đoạn đó.
* Ẩm độ đất
Ẩm độ đất là nguồn cung cấp nước chính cho cây trồng thông qua hoạt động hút
của bộ rễ. Ẩm độ đất còn ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của hệ vi sinh vật đất, ảnh
hưởng đến quá trình phân giải các chất dinh dưỡng trong đất cũng như khả năng hút
dinh dưỡng của cây trồng. Do đó chế độ ẩm của đất có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình
sinh trưởng phát triển của cây trồng.
Ẩm độ đất không phải là một đại lượng ổn định mà có sự thay đổi theo mùa theo
địa hình. Nó chịu sự chi phối của yếu tố như:
- Địa hình: Càng lên cao ẩm độ đất càng giảm do nước bị chảy hoặc thẩm thấu từ
các vùng cao xuống vũng thấp, do đó tại các vùng trũng vào mùa mưa thường bị ngập
lụt còn trong mùa khô thì có ẩm độ vừa. Tại các vùng này trong mùa mưa có thể trồng
các cây trồng các cây trồng nước như cói, lúa… còn trong mùa khô có thể trồng các
loại rau màu ưa ẩm độ cao. Ngược lại tại các vùng cao vào mùa mưa có ẩm độ vừa đủ

còn trong mùa khô thì thường bị hạn. Tại đây có thể bố trí các loại cây trồng chịu hạn
như dứa, sắn, ngô, các cây công nghiệp trong điều kiện quá khô phải chủ động tưới
nước thì cây trồng mới sinh trưởng phát triển được.
- Kết cấu đất: Đất có kết cấu tốt, tơi xốp, sau khi mưa hoặc tưới, nước sẽ ngấm rất
nhanh vào các khe mao quản, các khoảng trống trong đất và tồn tại ở đó rất lâu. Do đó
ẩm độ đất được duy trì tương đối ổn định.
Ngược lại ở các loại đất không có kết cấu tốt như đất sét, sau khi mưa, nước sẽ
ngấm rất chậm vào đất. Trong khi đó, khi nắng hạn nước sẽ theo mao quản bốc hơi lên
rất nhanh làm cho lượng nước dự trữ trong đất giảm, ẩm độ thấp.
Ở các loại đất cát rời rạc, tuy hút nước rất mạnh nhưng khả năng dữ nước lại rất
kém, khi nắng lên nước trong đất bốc hơi rất nhanh, lớp mặt thường xuyên bị khô hạn.

11

- Mùa trong năm: Mưa là nguồn cung cấp nước chủ yếu cho đất đặc biệt là tại các
vùng không có điều kiện tưới. Do đó, trong mùa mưa hầu hất tại các vùng đều có ẩm
độ khá cao và không cần phải tưới thêm nước. Tại các vùng thấp không có khả năng
thoát nước thường bị ngập úng, tại vùng này nên chú ý các biện pháp tiêu nước tránh
cho cây trồng không bị ngập úng.
Trong mùa khô, do không có nước mưa cộng thêm nhiệt độ không khí cao làm
cho nước trong đất bốc hơi mạnh, ẩm độ trong đất giảm. Cần phải tưới thêm nước bổ
sung cho đất trong thời gian này, đặc biệt là ở những vùng có địa hình cao.
- Về khả năng tác động của con người: Việc xây dụng các công trình thuỷ lợi,
biện pháp tưới tiêu đã làm giảm tác hại của nước và tạo điều kiện thuận lợi cho cây
trồng sinh trưởng phát triển, việc xây dựng các hệ thống kênh mương để tưới nước vào
mùa khô đã làm tăng diện tích và số vụ trồng lúa ở các vùng đồng bằng hay các cây rau
mầu vụ đông. Việc tiêu nước khi mưa lớn đã hạn chế được úng ngập cây trồng nên đã
tăng được diện tích trong lúa mùa ở cac vùng chân sâu. Ngoài ra, con người còn có các
biện pháp kỹ thuật tác động vào đất để tăng khả năng sử dụng nước như cải tạo đất
tăng khả năng hút và dữ nước của đất

- Về cây trồng: Đặc tính sinh thái của cây trồng rất khác nhau, có cây sống ở đất
ngập nước (như lúa, cói), có cây sống trên cạn (như ngô, đậu tương, đay ). do đó có
thể dựa vào tình hình diễn biến nước hàng năm và địa hình để bố trí nhiều cơ cấu cây
trồng trong một năm như: hai vụ lúa, một màu một lúa, hai lúa một màu, hai màu một
lúa, ba vụ màu Trong quá trình sản xuất cần khám phá thêm các đặc tính của cây
trồng để có khả năng xây dựng được nhiều cơ cấu luân canh, xen canh mới
3.4. Mưa và mối quan hệ với ẩm độ đất, ẩm độ không khí.
Mưa cung cấp phần lớn nước mà cây yêu cầu, đặc biệt là ở những vùng không có
điều kiện tưới. Nước mưa ảnh hưởng đến các quá trình canh tác như làm đất, thu
hoạch Vì vậy, tại mỗi vùng lượng mưa, thời gian mưa thường là yếu tố được đánh
giá hàng đầu để bố trí cây trồng.
Mưa có đặc điểm là không phân bố đều mà thường tập trung vào một số tháng
trong năm. Trong khoảng thời gian này nếu cường độ mưa vừa phải và phân bố đều thì
sẽ thuận lợi cho quá trình làm đất và gieo trồng.
Tuy nhiên nếu cường độ mưa quá lớn (VD như ở Miền Trung). Thì sẽ gây ra
những tác hại đáng kể như: Không thuận lợi cho quá trình thụ phấn thụ tinh, ảnh hưởng
đến quá trình làm đất do đất bị dí dẽ, gây hiện tượng rửa trôi xói mòn đất. Mưa kéo dài
còn gây ảnh hưởng đến quá trình thu hoạch sản phẩm do điều kiện bảo quản và phơi
không được tốt.
- Trong một phạm vi nhất định mối quạn hệ giữa mưa, ẩm độ đất và ẩm độ không
khí có thể được coi là một vòng tuần hoàn trong thự nhiên.
Mưa sau khi rơi xuống đất một phần sẽ được ngấm vào đất tạo thành ẩm độ đất.
Một phần bốc hơi vào không khí tạo thành ẩm độ không khí.

12

Ẩm độ đất, một phần sẽ được cung cấp cho cây trồng sinh trưởng phát triển và
sau đó lại phát tán vào trong không khí, một phần sẽ bị bốc hơi dần dần để cuối cùng
cũng tạo thành ẩm độ không khí.
Ẩm độ không khí, khi gặp lạnh sẽ tạo thành mây và rơi xuống đất tạo thành mưa,

vòng tuần hoàn lại tiếp tục.
Để sử dụng tốt, hiệu quả nguồn nước mưa. Chúng ta cần phải làm sao cho đất
ngấm được nhiều nước và dữ được nước tốt nhất. Các biện pháp cụ thể như là: Tạo cho
đất có một kết cấu tơi xốp, đất sẽ ngấm được nhiều nước mưa nhất và nhanh nhất. Khi
kết thúc mưa có thể tiến hành xới xáo để cắt các mao quản trên mặt đất, tránh hiện
tượng bốc hơi nước từ đất quá nhiều. Ngoài ra còn có các biện pháp như bón phân hữu
cơ, vô cơ, trồng cây phân xanh, che phủ mặt đất cũng có tác dụng rất tốt cho việc sử
dụng nguồn nước mưa
3.5. Các hằng số nước đáng chú ý trong canh tác học.
- Độ ẩm cây héo: Là độ ẩm ứng với lượng nước còn lại trong đất khi cây bắt đầu
héo. Đây là giới hạn dưới của độ ẩm hữu hiệu. Khi độ ẩm đất bằng độ ẩm cây héo, thực
vật vẫn sống được nhưng không thể hoạt động bình thường. Khi độ ẩm đất thấp hơn độ
ẩm cây héo, nguyên sinh chất bị phá hoại, cây không thể phục hồi được và thường chết
ở ẩm độ đó.
- Độ ẩm đồng ruộng thấp nhất: Là độ ẩm ứng với lượng nước còn lại trong đất
sau khi nước trọng lực tự do đã di chuyển đi. Nó được giữ lại trong điều kiện tự nhiên
ở trạng thái cân bằng giữa lượng nước bốc hơi và lượng nước bổ sung. Độ ẩm đồng
ruộng thấp nhất càng lớn khi mạch nước ngầm càng gần mặt đất. Mực nước ngầm càng
ở sâu, khả năng giữ nước của đất càng giảm sút và trị số độ ẩm này càng nhỏ. Độ ẩm
đồng ruộng thấp nhất thường là giới hạn tối đa (về ẩm độ) của đất cần đạt được sau mỗi
lần tưới cho cây trồng cạn.
- Độ ẩm bão hoà: Là lượng nước lớn nhất mà đất có thể giữ được, bao gồm nước
liên kết chặt, nước liên kết hờ và nước tự do trong đất. Độ ẩm bão hoà là độ ẩm khi đất
no nước, nước chiếm hầu hết các khe hở trong đất. Ở ẩm độ này, những cây màu chịu
nước kém dễ bị héo rũ và chết vì thiếu không khí.
- Độ ẩm tuyệt đối: Là lượng nước trong một đơn vị đất được tính bằng cách lấy
hiệu số giữa trọng lượng ban đầu và trọng lượng nước đã được sấy khô kiệt.
- Độ ẩm tương đối: Là tỷ lệ giữa độ ẩm tuyệt đối và độ ẩm toàn phần.
3.5. Biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nước.
Để nâng cao hiệu quả sử dụng nước, chúng ta cần nắm được một số biện pháp

sau đây:
- Cần nắm được các đặc điểm về chế độ mưa, chế độ ẩm đất của mỗi vùng, mỗi
mùa để có sự bố trí cây trồng thích hợp theo từng chân đất, mùa vụ.
- Cải tạo đất bằng các biện pháp như tăng cường bón phân vô cơ, hữu cơ, trồng
cây phân xanh để nâng cao độ tơi xốp của đất, tăng khả năng giữ ẩm. Trong mùa khô

13

có thể tiến hành xới xáo trên mặt đất để cắt các mao quản trong đất tránh hiện tượng
thoát hơi nước.
- Xây dựng các hệ thống thuỷ lợi và chế độ tưới tiêu nước cho cây trồng. Ở các
vùng đồng bằng có thể xây dựng các hệ thống mương máng để dẫn nước từ các công
trình thuỷ lợi về tưới trong mùa khô, còn trong mùa mưa thì tháo nước từ các vùng
trũng để tiêu úng. Đối với các vùng không thể xây dựng mương máng được thì có thể
chủ động đào giếng hoặc bơm nước từ các nguồn nước về tưới trong mùa khô. Tại các
vùng núi phía bắc để giữ nước trên các quả đồi phục vụ cho trồng lúa, bà con nông dân
thường hay đào núi thành các ruộng bậc thang sau đó đắp bờ ngăn nước và trồng lúa
rất tốt.
- Chọn giống cây trồng có khả năng chịu úng, chịu hạn. Để bố trí trồng ở những
vùng thường xuyên bị úng hoặc bị hạn.
Ví dụ: Tại đồng bằng sông cửu long vào mùa lũ mức nước tại các đồng ruộng rất
cao. Tại đây người ta đã chọn ra các giống lúa cao cây, có khả năng vươn lóng nhanh
để ngoi lên mặt nước và sinh trưởng phát triển bình thường. Còn tại các vùng núi Tây
Nguyên, cũng đã chọn được các giống lúa có khả năng chịu hạn rất cao, có thể trồng
được trên các nương rẫy có ẩm độ rất thấp nhưng vẫn cho năng suất cao.
- Sử dụng các biện pháp che tủ mặt đất để giảm cường độ thoát hơi nước trong
đất về mùa khô. Vật liệu che tủ có thể là rơm rạ, xác bã thực vật, che tủ bằng nilong
hoặc trồng cây phân xanh để che tủ.
- Để sử dụng tốt hơn nguồn nước tưới cho cây trồng chúng ta còn phải biết các
phương pháp tưới thích hợp nhất cho từng loại cây trồng, cho từng vùng. Có thể kể một

số phương pháp tưới sau đây:
+ Tưới ngập: Áp dụng cho cây ưa nhiều nước, quá trình tưới sẽ tạo cho mặt đất
một lớp nước nhất định, nước sẽ ngấm từ từ vào đất, rửa chua, mặn cho đất.
+ Tưới rãnh: Dùng cho các cây trồng cạn như ngô, khoai, mía, đậu được trồng
trên các loại đất bằng phẳng, tưới rãnh sẽ giữ được độ tơi xốp của đất và cung cấp yêu
cầu nước tương đối cao cho cây trồng. Khi tưới nước được dẫn vào các rãnh xen kẽ
giữa các luống và ngấm vào các luống.
+ Tưới phun mưa: Có thể tưới trên nhiều vùng đất khác nhau, đặc biệt là đất đồi
núi, đất dốc. Thường tưới cho những cây không những nhạy cảm với ẩm độ đất mà còn
nhạy cảm với cả ẩm độ không khí, ví dụ như tưới cho các vườn tiêu.
+ Tưới nhỏ giọt: Thường tưới cho những cây lâu năm, nước được nhỏ từng giọt
từ từ làm đất luôn đủ ẩm và vẫn giữ được độ tơi xốp.
4. Không khí:
4.1. Khái niệ m, thành phần của không khí
* Khái niệm: Không khí là hỗn hợp khí bao quanh trái đất cấu tạo nên khí quyển.
Thành phần chính của không khí là Nitơ (N
2
), Oxy (0
2
), Agon (Ar), Oxyt Cacbonic
(CO
2
) và hơi nước (H
2
0).

14

Những chất khí còn lại, có thể không tính khi nghiên cứu tính chất lý học của
chúng cần thiết sử dụng trong nông nghiệp.

Ngoài ra, trong không khí luôn luôn tồn tại các phần tử rắn và lỏng nằm ở trạng
thái lơ lửng đó là bụi khí.
Vai trò của các thành phần chính trong không khí được thể hiện như sau:
- Khí Nitơ có nhiều trong không khí hơn cả. Nhưng Nitơ có tính trơ và chỉ có tác
dụng làm loãng khí Oxy. Cây xanh không thể sử dụng trực tiếp được mà chỉ sử dụng
Nitơ dưới dạng Nitơrat. Sự biến đổi Nitơ sang dạng Nitơrat được thực hiện như các vi
khuẩn cộng sinh sống trong rễ cây họ đậu (đậu, lạc ) hoặc do các nhà máy tổng hợp
các chất đạm hay do sự phóng điện trong các đám mây dông.
- Oxy chiếm 1/5 thể tích không khí. Oxy trong không khí có hoạt tính cao, sẵn
sàng kết hợp với các chất khác. Oxy cần thiết cho sự sống của động và thực vật trong
quá trình hô hấp.
- Khí CO
2
chiếm khoảng 0,03% thể tích không khí. Tuy nhỏ nhưng CO
2
là chất
có vai trò chính trong quá trình quang hợp của cây trồng. Cây xanh hấp thụ C0
2
và nhả
Oxy trong quá trình quang hợp, 70% Oxy có trong khí quyển được cung cấp bởi cây
xanh.
- Hơi nước chứa trong không khí gần mặt đất thay đổi từ 0 - 4% thể tích khí, thông
thường ở vĩ độ trung bình, lượng hơi nước nằm trong khoảng 0,02%. Vùng nhiệt đới
khoảng 2,5%.
4.2. Vai trò, tác dụng của không khí đối với cây trồng.
Cây trồng cũng như các sinh vật khác, cần có đủ không khí để sinh sống.
- Ở thời kỳ nảy mầm, hạt giống cây trồng cần đầy đủ khí ôxi để cung cấp cho
hoạt động của men và quá trình phân giải chất dự trữ. Trong trường hợp đất yếm khí
không có đủ oxy thì hạt giống không thể nảy mầm được hoặc nảy mầm rất yếu. Ngay
cả hạt giống lúa để nảy mầm được cũng cần hàm lượng oxy tối thiểu trong đất đạt

0,5%. Hàm lượng oxy trong đất càng cao thì quá trình nảy mầm càng nhanh và mạnh.
Các biện pháp để tăng hàm lượng oxy trong đất như tạo cho đất có kết cấu tơi xốp, gieo
hạt ở độ sâu thích hợp có tác dụng rất tốt đến khả năng nảy mầm của hạt giống.
- Ở thời kỳ sau nảy mầm, khi cây trồng tiến hành quang hợp, phải hút khí
Cacbonic từ trong không khí rồi cùng nước hút được tổng hợp thành chất hữu cơ dưới
ánh sáng mặt trời. Khi tiến hành hô hấp, cây trồng hút oxy từ trong không khí và nhả ra
Cacbonic đồng thời trong cơ thể cây phát sinh tác dụng oxy hoá, toả ra năng lượng cần
thiết cho nhu cầu đời sống của cây.
Trữ lượng Cacbonic trong không khí chỉ có chừng 600 tỉ tấn, hàng năm cây phải
dùng mất 19 tỷ tấn. Tỷ lệ Cacbonic trong không khí chỉ có 0,03%. Nếu nâng được hàm
lượng Cacbonic trong không khí lên trên 1% thì năng suất cây trồng tăng lên rõ rệt.
- Bộ rễ cây trồng sinh trưởng trong đất, không khí của đất sẽ trở thành nguồn
cung cấp oxy cho tác dụng hô hấp của rễ. Do đó để thoả mãn nhu cầu phát triển của rễ

15

cây, phải tạo điều kiện để không khí được trao đổi tự do vào trong đất bằng cách tăng
độ tơi xốp trong đất. Ở các loại đất chặt, đất bị ngập nước, bị đóng váng quá trình trao
đổi không khí yếu, hàm lượng oxy trong đất thấp rễ cây sẽ không thể phát triển được
và chết.
- Không khí cũng cần cho đời sống của vi sinh vật đất. Ở các loại đất tơi xốp,
hàm lượng oxy trong đất cao, hệ vi sinh vật háo khí phát triển mạnh sẽ phân giải các
chất hữu cơ trong đất thành thức ăn dễ tiêu cung cấp cho cây trồng.
Ngược lại ở các loại đất chặt, đất ngập nước thiếu oxy hệ vi sinh vật kỵ khí sẽ
phát triển mạnh tạo ra các chất độc trong đất gây hại cho cây trồng.
Đạm trong đất cũng được làm giàu thêm dựa vào sự cố định đạm khí trời của các
loại vi khuẩn cố định đạm.
- Nguồn bổ sung Cacbonic trong không khí có thể từ nuớc biển, vì Cacbonic tan
trong nước biển nhiều gấp 4 lần lượng Cacbonic trong không khí. Sự trao đổi Cacbonic
giữa biển và khí quyển là đại tuần hoàn Cacbonic trong thiên nhiên. Song đại tuần hoàn

đó rất ít quan hệ tới đời sống cây trồng. Nguồn bổ sung Cacbonic trong không khí của
khí quyển có liên quan tới đời sống cây trồng nhất chính là cacbonic trong không khí
đất. Cacbonic trong không khí đất được tích luỹ khá nhiều do hô hấp của sinh vật và sự
phân giải chất hữu cơ trong đất.
Hàm lượng Cacbonic trong không khí đất có thể lên tới 0,15 - 1,25% có khi lên tới 2
-10%. Lượng Cacbonic trong đất nếu tích luỹ nhiều mà vượt quá 1% có thể gây tác hại
cho cây trồng.
Như vây đất bổ sung Cacbonic cho khí quyển, không những đã tăng lượng
Cacbonic có ích trong không khí ở lớp đất mặt, mà còn giảm được lượng Cacbonic có
hại tích luỹ trong đất. Đó là sự trao đổi Cacbonic giữa không khí đất và không khí khí
quyển. Sự trao đổi không khí đó, không đơn thuần là sự trao đổi Cacbonic, mà trong
quá trình đó, oxy từ không khí của khí quyển cũng bổ sung vào trong đất cung cấp cho
nhu cầu hô hấp của bộ rễ và hoạt động vi sinh vật. Mặt khác các khí độc cũng được
thải ra ngoài.
Cường độ trao đổi không khí trong đất và khí trời tuỳ điều kiện cụ thể có khác
nhau. Ngoài điều kiện ngoại cảnh khác ảnh hưởng ra, thường thường ở đất tơi xốp có
kiến trúc tốt, có sự trao đổi rất mạnh giữa không khí trong đất với không khí trong khí
quyển. Ngược lại, ở đất có độ chặt cao, nhiều nước, bị đóng váng thì tác dụng trao đổi
yếu. Vì vậy, có thể thông qua biện pháp kỹ thuật nông nghiệp để xúc tiến sự trao đổi
đó, như làm đất chính xác, tăng cường bón phân hữu cơ, tháo nước thừa, thay nước
thường xuyên, phá váng sau khi mưa, tưới nước đều là những biện pháp có hiệu quả
để xúc tiến sự trao đổi không khí trong đất và trong khí quyển.
4.3. Một số biện pháp kỹ thuật sử dụng tốt điều kiện không khí đối với cây trồng.
- Tiến hành các biện pháp cải tạo đất, giúp đất có kết cấu viên có chế độ nước và
không khí thích hợp.

16

- Xây dựng chế độ luân canh cây trồng cạn và cây trồng nước, xu hướng chung là
tăng luân canh, giảm độc canh, luân canh xen kẽ giữa cây trồng nước và cây trồng cạn.

- Các biện pháp như làm đất, làm cỏ sục bùn, xới xáo, làm đất lên luống có tác
dụng rất tốt tới quá trình điều hoà không khí.
- Tưới nước hợp lý, tưới định kỳ, tưới ngầm giúp cho đất thông thoáng.
- Bón phân: Bón phân hữu cơ kết hợp với phân khoáng. Đối với phân hữu cơ cần
chú ý tỷ lệ các chất dinh dưỡng trong các loại phân có liên quan tới việc tạo mùn và
phân huỷ chất hữu cơ, tạo C0
2


5. Chất dinh dưỡng.
5.1. Vai trò của chất dinh dưỡng đối với cây trồng.
Chất dinh dưỡng là cơ sở vật chất quan trọng để cấu tạo nên cơ thể cây trồng, một
điều kiện quan trọng quyết định năng suất cây trồng và phẩm chất sản phẩm. Vai trò
của nó đối với cây trồng được thể hiệ qua các mặt sau:
- Chất dinh dưỡng là nguồn cung cấp các chất vô cơ cho cây trồng, tổng hợp nên
các chất hữu cơ nuôi sống cây trồng và tạo sản phẩm.
- Là nguồn cung cấp các chất kích thích sinh trưởng, các chất kháng sinh đối với
thực vật.
- Dinh dưỡng là một bộ phận của đất và là nguyên liệu tạo nên độ phì nhiêu của
đất. Vì thế, số lượng và tính chất của nó quyết định nhiều đến quá trình hình thành đất
cũng như các tính chất lý hoá, sinh học của đất. Từ đó ảnh hưởng đến cây trồng.
- Dinh dưỡng còn là nguồn thức ăn cho các vi sinh vật sống trong đất.
5.2. Yêu cầu về chất dinh dưỡng của cây trồng.
Cũng như các sinh vật khác, cây trồng cũng cần có nguồn dinh dưỡng để sinh
trưởng và phát triển. Tuy nhiên nguồn dinh dưỡng của cây trồng là các hợp chất vô cơ
tồn tại trong đất. Yêu cầu về dinh dưỡng của cây trồng được thể hiện qua các mặt sau.
- Các loại cây trồng khác nhau có yêu cầu về hàm lượng cũng như thành phần các
loại dinh dưỡng khác nhau. Có loại cây cần nhiều đạm và lân hơn (như lúa), có loại cây
cần nhiều kali hơn (như cây có củ), còn có loại cây cần nhiều Canxi và Lân hơn (như
Đậu Đỗ).

- Ở các thời kỳ sinh trưởng khác nhau, nhu cầu chất dinh dưỡng của một cây cũng
có sự thay đổi. Trong thời kỳ nảy mầm, cây lấy chất dinh dưỡng dự trữ trong nội nhũ
và tử diệp. Thời kỳ chín, quá trình hút chất dinh dưỡng chậm lại. Còn trong thời kỳ
trưởng thành, đây là thời kỳ cây cần hút chất dinh dưỡng ở trong đất nhiều nhất. Thời
kỳ này cũng có nhiều giai đoạn khác nhau, cần chất dinh dưỡng khác nhau tuỳ vào loại
cây.
VD về nhu cầu đạm ở cây lúa qua các thời kỳ chúng ta có thể thấy:
Thời kỳ mạ: Lượng đạm cây hút khoảng 10% so với tổng số, cường độ hút đạm
thấp nhất so với các thời kỳ còn lại.
Thời kỳ đẻ nhánh: Nhất là lúc đẻ nhánh rộ, cường độ hút đạm mạnh nhất. Thời kỳ

17

này cây hút khoảng 40% lượng đạm trong tổng số.
Thời kỳ làm đòng: Đạm rất cần cho quá trình sinh trưởng và làm đòng. Do đó
trong thời kỳ này cây lúa cũng hút khoảng 40% lượng đạm trong tổng số.
Thời kỳ sau trỗ: Sau trỗ thân lá cây không sinh trưởng nữa, nếu hút nhiều đạm sẽ
không tổng hợp thành Prôtit được. Thời kỳ này, cây lúa hút khoảng 10% lượng đạm
tổng số cây cần.
Do đó khi điều tiết chất dinh dưỡng trong đất phải chú ý nhu cầu về chất dinh
dưỡng của từng loại cây trồng cũng như trong các thời kỳ sinh trưởng của cây trồng để
có kế hoạch cung cấp chất dinh dưỡng một cách hợp lý.
* Chất dinh dưỡng trong đất có hai dạng là hữu cơ và vô cơ.
- Dạng vô cơ bao gồm ba dạng là tan trong nước, khó tan và trao đổi.
- Dạng hữu cơ bao gồm tàn dư xác bã động thực vật.
Thức ăn hữu cơ ở trong đất gồm nhiều loại thành phần rất phức tạp, hàm lượng
khá cao, song nói chung, cây trồng không thể hút sử dụng được một cách trực tiếp mà
trước hết phải nhờ tác dụng phân giải của vi sinh vật để biến thành dạng đơn giản và
hoà tan, thì cây trồng mới hút được. Chất dinh dưỡng khó tan trong chất vô cơ cũng
phải thông qua phân giải thành chất dễ tan mới thành chất có ích cho cây.

Hai loại chất dinh dưỡng tan trong nước và trao đổi, tuy cây trồng có thể hút trực
tiếp được song hàm lượng của chúng ở trong đất thường lại ít, không đủ thoả mãn nhu
cầu của cây.
Như vậy lượng dự trữ chất dinh dưỡng của cây trong đất tuy phong phú song thức
ăn dễ tiêu thì vẫn thiếu nhiều. Để điều tiết chế độ dinh dưỡng trong đất, không chỉ bổ
sung nguyên tố dinh dưỡng cần thiết cho cây, mà còn phải làm cho chất dinh dưỡng
trong đất từ dạng hữu cơ, khó tan biến thành dinh dưỡng dễ tan. Muốn làm được việc
đó phải đảm bảo chế độ nước, không khí tốt, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động vi
sinh vật. Biện pháp kỹ thuật nhằm điều hoà chế độ dinh dưỡng trong đất gồm bón phân
hữu cơ, vô cơ, làm đất và luân canh chính xác.
Sau mỗi vụ, cây trồng cũng trả lại cho đất một phần dinh dưỡng thông qua tàn dư
thực vật để lại hoặc do quá trình tổng hợp đạm khí trời (các cây họ đậu). Do đó, để xây
dựng kế hoạch bón phân cho một loại cây trồng chúng ta phải dựa vào hàm lượng dinh
dưỡng có sẵn trong đất, lượng dinh dưỡng cây trồng để lại mỗi vụ cũng như dựa vào
lượng dinh dưỡng cây cần mỗi vụ để từ đó tính toán lượng dinh dưỡng còn thiếu cần
bổ sung vào trong đất.
5.3. Biện pháp điều tiết.
Cần nắm vững số lượng cũng như hàm lượng các chất dinh dưỡng tồn tại trong
từng loại đất để bố trí các loại cây trồng hợp lý, nâng cao hiệu quả sử dụng các chất
dinh dưỡng.
Tiến hành các biện pháp bảo vệ đất, tránh hiện tượng rửa trôi đất làm mất các
chất dinh dưỡng trong đất.

18

Tùy loại cây trồng, loại đất hàng năm cần bón thêm các loại phân bón hợp lý để
nâng cao hàm lượng dinh dưỡng trong đất.
Tăng cường trồng các loại cây phân xanh, làm nguồn cung cấp chất hữu cơ cho
đất.
Tiến hành các biện pháp cày bừa, xới xáo, tưới tiêu hợp lý, tăng cường hoạt động

của các vi sinh vật phân giải đất

* Ở trên chúng ta đã trình bày 5 điều kiện sống cơ bản của cây trồng là ánh sáng,
nhiệt độ, không khí, nước và dinh dưỡng. Đồng thời cũng đề cập đến biện pháp điều
tiết các điều kiện đó trong canh tác. Song trong tự nhiên, các điều kiện đó không thể
tách rời nhau, mà luôn giữ quan hệ chặt chẽ với nhau, chúng kết hợp với nhau thành
một thể thống nhất. Sự sinh trưởng phát triển của bất cứ một loại cây trồng nào, không
bao giờ chỉ do tác động của một điều kiện sinh sống mà do tác động tổng hợp của tất cả
các điều kiện sinh sống. Do đó khi nghiên cứu về điều kiện sống của cây trồng, không
những chỉ xét từng điều kiện mà phải chú ý xét cả sự quan hệ giữa chúng với nhau.


Bài 2:
CƠ CẤU CÂY TRỒNG VÀ CHẾ ĐỘ LUÂN CANH

1. Cơ cấu cây trồng trong hệ thống trồng trọt.
1.1. Khái niệ m cơ cấu cây trồng.
Để tăng hiệu quả kinh tế cho một vùng sản xuất nông nghiệp, ngoài việc tăng
năng suất của từng loại cây trồng thì việc bố trí một cơ cấu cây trồng phù hợp với điều
kiện tự nhiên của vùng là một việc hết sức quan trọng. Nước ta nằm trong vùng khí hậu
nhiệt đới chịu ảnh hưởng của gió mùa, kéo dài trên vĩ tuyến 15 lên có nhiều vùng khí
hậu khác nhau. Sự khác nhau đó đã dẫn đến thành phần cây trồng và cơ cấu mùa vụ ở
mỗi tiểu vùng cũng có sự khác nhau. Vì vậy, để phát huy được tiềm lực nông nghiệp
của mỗi vùng thì việc bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý cho mỗi vùng là hết sức cần thiết.
Cơ cấu cây trồng hợp lý sẽ tận dụng được các nguồn lợi tự nhiên và kinh tế xã hội của
từng vùng nhất định.
Có thể hiểu cơ cấu cây trồng như sau:
Cơ cấu cây trồng là thành phần và các loại giống cây trồng bố trí theo không
gian và thời gian trong một cơ sở hay một vùng sản xuất nông nghiệp.
Cơ cấu cây trồng là một trong những nội dung của một hệ thống các biện pháp kỹ

thuật gọi là chế độ canh tác. Ngoài cơ cấu cây trồng, chế độ canh tác còn bao gồm chế
độ luân canh, làm đất, bón phân, chăm sóc cây trồng, phòng trừ sâu bệnh và cỏ dại. Cơ
cấu cây trồng là yếu tố cơ bản nhất của chế độ canh tác vì nó quyết định nội dung của
các biện pháp kỹ thuật khác.

19

Cơ cấu cây trồng của một vùng sản xuất nông nghiệp sẽ thể hiện cho chúng ta
biết được một số đặc điểm sau:
- Số mùa vụ bố trí trong một năm: Tuỳ điều kiện thời tiết, đất đai và địa hình cụ
thể mà các vùng khác nhau có thể bố trí số vụ trong năm từ 1 vụ, 2 vụ, 3 vụ hặc nhiều
hơn 3 vụ. Số mùa vụ trong năm nhiều hay ít sẽ thể hiện trình độ thâm canh và sử dụng
đất nông nghiệp ở từng nơi. Ở nhiều vùng trồng lúa, trước đây chỉ gieo trồng được một
vụ lúa một năm bắt đầu vào đầu mùa mưa và kết thúc vào cuối mùa mưa hoặc đầu mùa
khô. Việc xây dựng các công trình thuỷ lợi để tưới nước trong mùa khô đã nâng được
diện tích cấy lúa lên hai vụ (đồng bằng Sông Hồng) hoặc ba vụ (Nam trung bộ) trong
một năm, điều đó phản ánh trình độ khai thác đất lúa và thâm canh đất lúa tiến bộ. Ở
một số vùng ngoài hai vụ lúa còn phát triển được một vụ hoa màu trên đất lúa với chế
độ canh tác 2 lúa + 1 màu thì chế độ sử dụng đất lúa lại càng tiến bộ hơn và tổng sản
phẩm trồng trọt có thể cao hơn.
- Thành phần cây trồng trong từng mùa vụ: Tuỳ điều kiện thời tiết và chế độ tưới
tiêu cụ thể của từng vùng mà thành phần cây trồng trong mỗi mùa vụ có sự khác nhau.
Thành phần cây trồng trong từng mùa vụ sẽ cho chúng ta biết được sự hợp lý của cơ
cấu cây trồng đối với điều kiện thời tiết trong từng mùa vụ cụ thể. Đồng thời nó thể
hiện sự đa dạng hoá trong sản xuất cũng như tiêu thụ các sản phẩm nông sản. Tại đồng
bằng Sông Hồng trước đây thường hay canh tác một năm 2 vụ lúa dài ngày (vụ lúa mùa
và vụ lúa chiêm), ngày nay hai vụ lúa này đã được thay bằng hai vụ lúa ngắn ngày (vụ
hè thu và vụ xuân) đồng thời dành được một khoảng thời gian trong vụ đông xuân để
đưa và trồng các loại hoa màu. Điều này đã thể hiện được trình độ thâm canh đất lúa
ngày càng cao, đồng thời tạo ra được tổng sản lượng nông nghiệp ngày cào cao và

phong phú hơn.
- Tỷ lệ diện tích trồng trọt giữa các loại cây trồng: Có thể xem xét các tỷ lệ này
theo nhiều cách như:
Tỷ lệ giữa các loại cây lâu năm và cây hàng năm: Tỷ lệ các loại cây hàng năm cao
hay thấp nói lên trình độ sự dụng đất nông nghiệp theo hướng thâm canh hay quảng
canh. Trong các loại cây hàng năm thì có tỷ lệ giữa các loại cây lương thực thực phẩm,
cây thức ăn gia súc và các loại cây nông nghiệp. Tỷ lệ cây lương thực cao, tỷ lệ các
loại cây thức ăn gia súc và cây công nghiệp thấp phản ánh trình độ phát triển nông
nghiệp còn thấp. Vấn đề lương thực chưa được giải quyết một cách vững chắc, cơ sở
thức ăn cho gia súc còn yếu, và việc cung cấp các nguyên liệu cho công nghiệp cũng
chưa được nhiều. Ngược lại tỷ lệ các loại cây thức ăn gia súc cao trong một cơ cấu cây
trồng có thể cho những nhận định ngược lại: ngành sản xuất lương thực đã thoả mãn
được đầy đủ các nhu cầu lương thực của xã hội và đã cho phép dành một lỷ lệ đất
nông nghiệp lớn hơn để sản xuất thức ăn cho gia súc, tạo ra các loại thực phẩm bổ hơn,
ngon hơn như thịt trứng sữa cần thiết cho sự phát triển và hoạt động bình thường của
con người. Các nước có nền nông nghiệp phát triển có tỷ lệ diện tích dành cho các loại

20

cây công nghiệp và thức ăn gia súc ngày càng cao, chưa kể đến một phần khá lớn
những sản phẩm của các cây lương thực cũng đã được sử dụng để sản xuất ra các loại
thức ăn gia súc với khối lượng ngày càng nhiều nhằm thoả mãn yêu cầy ngày càng tăng
của các hoạt động chăn nuôi theo hướng công nghiệp hoá. Cũng chính trên những cơ
sở ấy và tỷ lệ sản phẩm chăn nuôi đã tăng lên khá nhiều trong tổng sản lượng giá trị
sản lượng nông nghiệp.
Tỷ lệ các loại cây công nghiệp trong cơ cấu cây trồng cũng phản ánh trình độ phát
triển sản xuất lương thực trong nông nghiệp, và trình độ của công nghiệp chế biến các
loại nông sản phẩm. Một nền nông nghiệp có ít sản phẩm hàng hoá, sản xuất lương
thực còn bấp bênh thì tỷ lệ các loại cây công nghiệp thấp. Ngay đối với cây công
nghiệp hàng năm chưa nói đến cây công nghiệp lâu năm.

Trong các cây lương thực thì tỷ lệ giữa các loại cây lương thực khác nhau cũng là
một trị số cần xem xét. Đối với các loại cây lương thực trồng cạn có những loại cây
tương đối khó tính, khó trồng nhưng có tiềm năng về năng suất lớn, lại có nhưng loại
cây tương đối dễ tính, đòi hỏi ít phân bón và công chăm sóc hơn. Tỷ lệ các loại cây
trồng cạn cao, nó phản ánh trình độ thâm canh cao hơn trong sản xuất và cũng chỉ rõ xu
thế thực tiễn nông nghiệp của mỗi vùng hay mỗi nước.
Cơ cấu cây trồng trong những thời gian nhất định đều nhằm thoả mãn những nhu
cầu nhất định cả xã hội. Tuy nhiên nhu cầu của xã hội thì luôn luôn thay đổi, bên cạnh
đó điều kiện tự nhiên của một vùng nhất định cũng thường xuyên có sự thay đổi.
Những thay đổi này dẫn đến cơ cấu cây trồng của một vùng cũng thường xuyên có sự
thay đổi theo xu hướng thích nghi.
Từ những nhận định trên chúnh ta có thể thấy, khi xác định cơ cấu cây trồng của
một vùng hay một đơn vị sản xuất, việc đầu tiên phải đề cập tới là: số mùa vụ trong
một năm, loại cây, loại giống trong từng mùa vụ cũng như tỷ lệ diện tích gieo trồng các
loại cây đó trong toàn vùng để cuối cùng có một tổng sản lượng và năng suất lao
động cao nhất trong những điều kiện tự nhiên và xã hội nhất định sẵn có.
1.2 Ý nghĩa của cơ cấu cây trồng.
- Là một biện pháp kinh tế, kỹ thuật nông nghiệp hoàn chỉnh có mục tiêu để hoàn
thành kế hoạch sản xuất của một vùng hay một đơn vị sản xuất nông nghiệp.
- Cơ cấu cây trồng hợp lý sẽ khai thác được các điều kiện tự nhiên và xã hội của
vùng vì nó giải quyết vấn đề trồng cây gì, ở đâu, vào lúc nào để cây trồng đạt năng suất
cao nhất.
- Làm cơ sở cho việc lập kế hoạch sản xuất của mỗi vùng. Nó cho biết loại cây,
diện tích, loại giống cây trồng, loại đất, số vụ trong năm Đây là những căn cứ của việc
lập kế hoạch.
- Cơ cấu cây trồng quyết định sự phát triển của các ngành như chăn nuôi, trồng
trọt và chế biến Vì nó cung cấp nguyên liệu cho các ngành này.
- Quyết định sự phát triển của các hệ sinh thái trong vùng và chi phối các biện

21


pháp canh tác, các phương thức sản xuất.
- Cơ cấu cây trồng có mối liên hệ chặt chẽ với phương hướng sản xuất. Một mặt,
phương hướng sản xuất quyết định cơ cấu cây trồng nhưng mặt khác cơ cấu cây trồng
là cơ sở hợp lý nhất để xác định phương hướng sản xuất.
- Xác định cơ cấu cây trồng còn là nội dung của việc phân vùng sản xuất nông
nghiệp, công việc không thể thiếu được để xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất lớn
có hiệu quả, kế hoạch và mang tính chất sản xuất hàng hoá cao.
Ở Miền Bắc nước ta trước đây vẫn thường trồng một năm hai vụ lúa: vụ Đông
Xuân (tháng 12 - tháng 5) và một vụ lúa mùa phản ứng ánh sáng (7 - 11) ở đất trong đê
và chỉ có một vụ (vụ Đông Xuân) ở đất ngoài đê. Ngày nay chúng ta đã thay vụ Đông
Xuân bằng vụ Xuân (2-6), thay vụ lúa Mùa bằng vụ lúa mùa sớm (7-10) cùng với các
giống mới đã cho năng suất từng vụ cao hơn.
Ngoài việc nâng cao năng suất từng vụ, việc thay đổi giống đã mở ra khả năng
tăng thêm vụ Đông (10-2), từ một vụ lên hai vụ ở đất ngoài đê và từ hai vụ tăng lên ba
vụ ở đất trong đê.
Năng suất trên một sào bắc bộ (360 m
2
) ruộng hai vụ trước đây tổng cộng là 140 -
230 kg/sào. Nay làm ba vụ năng suất tổng cộng 420 - 660 kg/sào.
Tăng vụ đi đôi với tăng năng suất từng vụ có ý nghĩa rất lớn, đặc biệt là đối với
những nước đông dân và ít đất như nước ta. Việc áp dụng thâm canh trên cơ sở một cơ
cấu cây trồng hợp lý cũng làm tăng khối lượng sản phẩm trên một đơn vị diện tích,
càng làm phát huy tác dụng của thâm canh. Điều này càng có ý nghĩa đối với các nước
đang phát triển, dân số đông diện tích ít.
1.3. Cơ sở khoa học của việc xác định cơ cấu cây trồng.
Cơ cấu cây trồng hợp lý trước hết phải có thành phần cây trồng hợp lý. Muốn vậy
phải dựa vào kế hoạch của nhà nước, dựa vào đời sống của nhân dân, dựa vào nhu cầu
của thị trường. Ngoài ra, yếu tố quyết định nhất khi xác định cơ cấu cây trồng là phải
căn cứ vào một số điều kiện cụ thể của vùng sản xuất. Bao gồm những yếu tố sau đây:


1.3.1. Khí hậu và cơ cấu cây trồng.
Tất cả các điều kiện khí hậu, địa hình, thổ nhưỡng, thuỷ văn đã chi phối cơ cấu
cây trồng của tất cảc các vùng trong cả nước trong những tính chất chung nhất. Còn
trong những điều kiện cụ thể lại là những cơ sở để hình thành nên những vùng nông
nghiệp khác nhau, với những cơ cấu cây trồng, chế độ canh tác thích hợp với mỗi địa
phương thậm chí với mỗi chân ruộng, mỗi sườn đồi.
* Nhiệt độ và cơ cấy cây trồng:
Để bố trí cơ cấu cây trồng phù hợp với nhiệt độ của từng mùa, từng vùng, cần
phải nắm được một số đặc điểm sau:
- Nhiệt độ thích hợp của cây trồng: Theo yêu cầu về nhiệt độ cây trồng được phân
làm hai loại: cây ưa nóng và cây ưa lạnh. Trong đó lấy mốc 20
o
C để phân biệt giữa

22

chúng
Khoảng thời gian có nhiệt độ bình quân ngày của từng vùng trên hoặc dưới 20
o
C
là một chỉ tiêu để xác định có thể trồng một vụ cây ưa lạnh hoặc ưa nóng. Trong đó cần
chú ý đảm bảo nhiệt độ thích hợp cho cây ở giai đoạn ra hoa kết quả (khoảng 45-60
ngày). Nghĩa là cần khoảng 2 tháng có những ngày trên 20
o
C cho những cây ưa nóng
và dưới 20
o
C cho những cây ưa lạnh. Vì vào giai đoạn này, nếu nhiệt độ không phù
hợp, quá trình hình thành hoa, thụ tinh không an toàn dẫn đến hiện tượng hoa bị thui và

hạt bị lép, sức chứa giảm, năng suất giảm.
- Khả năng cung cấp nhiệt độ cho cây trồng: Đối với việc bố trí cơ cấu cây trồng,
nhất là đối với các cây hàng năm, điều quan trọng nhất là mỗi vùng, mỗi năm có thể
làm mấy vụ cây trồng. Điều này phụ thuộc vào tổng số nhiệt lượng mỗi năm có ở từng
vùng và số nhiệt lượng cây trồng cần mỗi vụ.
Để thống kê nhiệt lượng, có thể dùng phương pháp tính tổng số nhiệt độ. Có
nhiều cách tính khác nhau, phổ biến nhất là lấy tổng nhiệt độ bình quân mỗi ngày và
phải loại trừ những ngày có nhiệt độ tối thấp (nhiệt độ giới hạn của sự sinh trưởng). Ở
nước ta số ngày có nhiệt độ bình quân dưới 10
o
C rất ít, do đấy có thể cộng nhiệt độ của
tất cả các ngày trong năm.
Tổng nhiệt lượng hàng năm của nước ta dao động từ 5585
o
C (Sapa) đến 10191
o
C
(Mĩ Tho). Trong đó:
Tổng nhiệt lượng của vùng Hà Nội là 8427
0
C.
Tổng nhiệt lượng của khu vực Bình Trị Thiên cũ: vùng ven biển khoảng 8700-
9000
0
C. Vùng núi cao (Nam Đông, A Lưới) khoảng 7700-8000
o
C
- Tổng số nhiệt độ cây cần một vụ: Để hoàn thành chu kỳ sinh trưởng mỗi cây cần
một tổng ôn nhất định. Tổng ôn phụ thuộc vào thời gian sinh trưởng và yêu cầu nhiệt
độ cao hay thấp của cây.

Ví dụ: cây ưa lạnh như khoai tây có thời gian sinh trưởng 80-90 ngày cần tổng
ôn: 1500-1700
o
C. Cây ưa nóng như lúa có thời gian sinh trưởng 100 - 120 ngày cần
tổng ôn: 2500 -2600
o
C. Cây trung gian như đậu Côve có thời gian sinh trưởng 80 -110
ngày cần tổng ôn: 1600 - 2000
o
C.
Nếu tính cả nhiệt độ cho thời gian làm đất một vụ cây ưa lạnh cần 300
o
C, cây ưa
nóng cần 400
o
C thì một vụ cây ưa lạnh cần khoảng 1800-2000
o
C, và cây ưa nóng
khoảng 3000
o
C. Nếu làm một năm hai vụ cây ưa nóng và một vụ cây ưa lạnh (phía
bắc) cần khoảng 7800 - 8000
o
C; một năm 3 vụ cây ưa nóng (phía Nam) cần 9000
o
C.
Đào Thế Tuấn (1977) đã đề nghị bố trí cơ cấu cây trồng một năm theo nhiệt độ
như sau:






23

Bảng 1. Bố trí cơ cấu cây trồng một năm.

Cơ cấu cây trồng, vụ/năm Vùng

Tổng số
nhiệt độ
(
0
C)
Số ngày có nhiệt
độ < 20
o
C
(ngày)
Cây ưa
nóng
Cây ưa lạnh

Cây ngày
ngắn
I
II
III
IV
<8300

>8300
>8300
>9000
>120
90-120
<90
0
1
2
2
3
1
1




1


Nguồn: VS. Đào Thế Tuấn, 1977
Dựa vào những đặc điểm trên chúng ta có thể thấy tiềm năng về cơ cấu cây trồng
của một số vùng trong cả nước như sau:
Khu vực từ Bắc Miền Trung trở ra, do có mùa đông lạnh, tổng nhiệt độ trong năm
thấp làm cho vùng này có hạn chế nổi bật về cơ cấu cây trồng là nhiệt độ. Chính điều
kiện nhiệt độ đã quy định các thời vụ gieo trồng ở vùng này và ảnh hưởng đến cơ cấu
cây trồng ở mỗi địa phương. Đối với vùng Đồng Bằng Bắc Bộ và khu vực bắc Miền
Trung có tổng nhiệt độ hàng năm cho phép cả hai vụ lúa có thể hoàn thành chu kỳ sinh
trưởng và phát triển, tuy nhiên thời vụ của mỗi vụ lại chịu sự chị sự chi phối hết sức
chặt chẽ của điều kiện nhiệt độ trong từng thời kỳ chuyển tiếp. Vụ lúa đông xuân phải

được gieo cấy vào thời vụ thích hợp để lúa không trổ quá sớm, nhằm tránh những đợt
gió mùa đông muộn. Vụ mùa phải xắp xếp để lúa không trổ quá muộn, tránh những đợt
gió mùa đông sớm. Tại các vùng núi Bắc Bộ chỉ có thể làm một vụ lúa mùa, và vụ này
cũng phải trổ, phơi màu và làm hạt trước khi trời chuyển lạnh. Trong mùa đông lạnh,
vùng này có thể gieo trồng một số loại rau quả có nguồn gốc ôn đới có khả năng chịu
lạnh. Đây đang là một xu thế khá phổ biến trong có cấu cây trồng của vùng này.
Trong khi đó khu vực Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, và Miền Nam, có nhiệt độ
tương đối ổn định, mùa đông không lạnh lắm, nên nhiệt độ không còn là yếu tố hạn chế
đến cơ cấu cây trồng của từng vùng nữa. Tại khu vực Nam Trung Bộ và một số tỉnh
thuộc Đồng Bằng Sông Cửu Long người dân có thể canh tác được 3 vụ lúa trong một
năm cho hiệu quả kinh tế khá cao.
* Ánh sáng và cơ cấu cây trồng:
Cây xanh dựa vào ánh sáng để tiến hành quá trình quang hợp, tuy nhiên yêu cầu
về ánh sáng của mỗi loại cây trồng lại có sự khác nhau.
Yêu cầu về ánh sáng của cây trồng được thể hiện trên các mặt sau:
- Cường độ chiếu sáng: dựa vào yêu cầu về cường độ chiếu sáng người ta chia
cây trồng làm hai loại.
+ Cây âm tính: là những cây trồng thích hợp với điều kiện chiếu sáng yếu. Chúng
không chịu được điều kiện ánh sáng mạnh.

24

VD: Lúa mì, khoai tây, cà chua, cà phê Arabica
+ Cây dương tính: là những cây trồng thích hợp với điều kiện ánh sáng mạnh.
Trong điều kiện ánh sáng yếu chúng sẽ sinh trưởng phát triển kém.
VD: Ngô, mía, kê, dứa, cà phê Rôbusta, chuối
Khi bố trí cây trồng chúng ta cần dựa vào đặc điểm này để có sự phân vùng địa lý
cũng như tạo điều kiện trồng trọt cho cây trồng có được cường độ ánh sáng thích hợp
nhất
- Thời gian chiếu sáng trong ngày (chu kỳ quang): Một số loại cây trồng để ra hoa

kết quả được chúng yêu cầu phải có thời gian chiếu sáng trong ngày thích hợp. Căn cứ
vào đặc điểm này người ta phân cây trồng ra làm ba nhóm.
+ Nhóm cây ngày ngắn: Là những cây trồng chỉ ra hoa kết quả trong điều kiện
chiếu sáng dưới 12 giờ trong một ngày như lúa, khoai lang, đậu tương, lạc, mía, cúc,
thược dược
+ Nhóm cây ngày dài: Bao gồm những loại cây chỉ ra hoa kết quả trong điều kiện
ngày dài trên 12 giờ chiếu sáng hoặc liên tục chiếu sáng như lúa mì, mạch, bắp cải, ngô
phương bắc, layơn
+ Nhóm cây trung tính: Gồm những cây không có phản ứng với độ dài chiếu sáng
trong ngày. Nhóm cây này thường thuộc loại cây cảm ôn, trong điều kiện nhiệt độ cao
cây thường phát dục nhanh, ra hoa sớm. (cà rốt, dưa chuột, thuốc lá, bông )
Đặc điểm về ánh sáng trong các vùng của nước ta được thể hiện như sau:
Càng vào Nam độ dài của ngày và đêm càng thay đổi. Miền Bắc trong mùa hè có
ngày dài đêm ngắn, trong mùa đông có ngày ngắn đêm dài. Sự khác biệt này sẽ thu hẹp
đần ở các vĩ độ thấp. Như vào tiết hạ chí ngày ở Hà Nội dài 13 gờ 30 phút, ở Quảng Trị
13 giờ 10 phút, Quảng Ngãi 13 giờ và ở Phan Thiết 12 giờ 45’. Vào tiết chí đông, ở Hà
Nội dài 10 giờ 30’, ở Quảng Trị 11 giờ, Quảng Ngãi 11 giờ 15 và ở Phan Thiết 11 giờ
30.
Tổng số giờ nắng cũng tăng dần khi đi về phía Nam. Hà Nội trung bình hàng năm
có 1636 giờ nắng, Quảng Trị 1750 giờ, Quy Nhơn 2080 giờ, Nha Trang 2250 giờ, Phan
Thiết 2330 giờ, TP Hồ Chí Minh 2409 gờ và Cần Thơ 2701 giờ. Hà Nội vào tháng 3
(mưa phùn ) có 49 giờ nắng, tháng 7 cao nhất có 149 giờ nắng. Tp Hồ Chí Minh vào
tháng 3 có 254 giờ nắng và vào tháng ít nắng nhất (tháng 8) vẫn có 155 giờ nắng. Chế
độ ánh sáng này là cơ sở thiên nhiên thuận lợi cho tiềm năng năng suất cao của nhiều
loại cây trồng ở Miền Nam.
* Lượng mưa và cơ cấu cây trồng:
Tại những vùng không có điều kiện tưới (vùng đồi núi phía Bắc và khu vực Tây
Nguyên) thì nước mưa là nguồn cung cấp phần lớn lượng nước mà cây yêu cầu. Vì vậy
khi bố trí cơ cấu cây trồng và mùa vụ tại những vùng này phải đặc biệt chú ý đến thời
điểm mưa và lượng nước mưa trong toàn mùa để xác định thời điểm gieo trồng.

Tại khu vực Miền Trung, mưa thường tập trung vào tháng 10 đến tháng 11, với

×