Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

BÀI GIẢNG CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT GIỐNG ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (980.33 KB, 60 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ
DỰ ÁN HỢP TÁC VIỆT NAM – HÀ LAN





BÀI GIẢNG
CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT GIỐNG













Người biên soạn: TS. Lê Tiến Dũng














Huế, 08/2009


1

Bài 1
Mở đầu
I. Vai trò của giống trong sản xuất nông nghiệp
1/ Giống là tư liệu sản xuất đặc biệt, không thay thế
Vai trò đặc biệt của giống thể hiện ở chỗ nó là sinh vật sống, khác với mọi tư
liệu sản xuất khác và không thay thế bởi vì từ nó mà sản xuất ra loại nông sản mà
người trồng cần.
2/ Sử dụng giống thích hợp là biện pháp nhanh nhất, kinh tế nhất để nâng cao
năng suất cây trồng
Các giống mới đã góp phần quan trọng trong sản xuất nông nghiệp. Người ta
đã xác nhận rằng, góp phần làm tăng năng suất hạt ngũ cốc trên thế giới ở thế kỷ
XX thì hơn 40% là do vai trò của chọn giống, còn theo nhiều kết quả nghiên cứu
thì các giống lúa mới có năng suất tăng 50-60%, thậm chí cao hơn nhiều so với các
giống cổ truyền. Năng suất ngô cao nhất giữa thế kỷ XIX là 5 tấn/ha còn ở Mỹ năng
suất bình quân hiện nay đã đạt 10-15 tấn/ha, năng suất kỷ lục là 25,4 tấn/ha. Các
giống lúa mì mới đã đạt năng suất 6-8 tấn/ha, kỷ lục trên 10 tấn/ha.
3/ Giống quyết định chất lượng nông sản
Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng nông sản do bản chất di truyền của giống
quyết định. Trừ một số đặc tính có thể thay đổi theo điều kiện vùng sinh thái, hầu hết ít
thay đổi dưới ảnh hưởng của điều kiện ngoại cảnh. Vì vậy, việc chọn giống này hay

giống khác để gieo trồng sẽ quyết định chất lượng nông sản sẽ được sản xuất ra.
4/ Hạn chế thiệt hại do thiên tai, sâu bệnh
Mỗi giống có đặc tính chống chịu khác nhau với các điều kiện bất thuận và
sâu bệnh.
5/ Phù hợp với điều kiện gieo trồng và phương thức canh tác nhất định
Sử dụng các giống mới trong sản xuất với các khả năng thích ứng khác nhau
không chỉ làm tăng năng suất, chất lượng nông sản ở những vùng có điều kiện thâm
canh, mà còn khai thác tốt các vùng đất, các điều kiện sinh thái, khí hậu khác nhau
làm tăng sản lượng và hiệu quả của sản xuất nông nghiệp.
6/ Biện pháp quan trọng trong việc bố trí cơ cấu cây trồng
Có thể tạo ra các giống có thời gian sinh trưởng khác nhau để bố trí trong cơ cấu
luân canh, xen canh, gối vụ với các cây trồng khác.
7/ Do dân số tăng nhanh cần đảm bảo an ninh lương thực:

2

- Chúng ta đang sống trong một thời kỳ bùng nổ dân số. Dân số tăng nhanh
đến mức "chóng mặt". Tỷ lệ tăng dân số bình quân của thế giới 1,8 %. Cứ mỗi giây
trôi qua trái đất phải lo thêm hơn 2 miệng ăn và như thế mỗi ngày 200.000 người,
mỗi năm lo thêm 72 triệu người.
- Theo tính toán của FAO lượng ngũ cốc thiếu hụt vào khoảng cuối thế kỷ
giao động từ 70 - 130 triệu tấn vừa đúng bằng tổng sản lượng lương thực hàng năm
của khối EC. Như vậy, vấn đề xóa đói không thể chỉ giải quyết bằng từng con
đường đơn lẻ của từng ngành riêng biệt mà là một vấn đề của các vấn đề liên quan
trong một hệ thống thống nhất.
Trong đó, công tác sản xuất giống cây trồng giữ vị trí then chốt, có vai trò
cực kỳ quan trọng và đã được minh chứng bằng cuộc "cách mạng xanh" khởi đầu từ
những năm của thập kỷ 60 của thế kỷ 20.
Những năm gần đây, bằng những sự chuyển biến mạnh mẽ của các công
nghệ về tạo giống và sản xuất giống; con người đã dần dần đưa các công nghệ cao

vào cải tạo và làm biến đổi các giống cây trồng, vật nuôi theo những hướng có lợi
nhằm phục vụ cuộc sống của con người; bằng cách tạo ra những giống có giá trị cao
hơn, có tính chống chịu hơn đối với sâu bệnh và các điều kiện bất thường của môi
trường, các giống cần ít phân, ít nước ít phải phun thuốc phòng trừ sâu bệnh mà
vẫn cho năng suất cao (các giống Low - input - cây đầu vào ít). Ngoài ra còn tìm
các biện pháp thích hợp để có thể gia tăng sự phong phú của cây trồng, mở rộng sự
thích nghi của các giống đã trồng trọt.
II. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN PHẢI TIẾN HÀNH SẢN XUẤT GIỐNG:
1. Hiện tượng thoái hóa: Hiện tượng năng suất, phẩm chất, sức sống của
giống giảm dần trong quá trình sản xuất gọi là hiện tượng thoái hóa giống.
Trong sản xuất cũng như trong các điều kiện tự nhiên, giống thường gặp hiện
tượng thoái hóa, sức sống và năng suất giảm, kéo theo các tính trạng khác cũng
giảm theo
Đối tượng các loại cây trồng bị thoái hóa:
Các cây tự thụ phấn, nếu tự thụ phấn liên tục không được tiến hành lai giống,
tuyển lựa sẽ có hiện tượng thoái hóa giống.
Các cây giao phấn, nếu tự thụ phấn liên tục sẽ nhanh chóng làm cho giống bị
thoái hóa.
Các cây sinh sản vô tính, nếu tiếp tục trồng bằng phương pháp vô tính liên
tục cũng bị thoái hóa.

3

Trong các biện pháp kỹ thuật, nếu không được đầu tư và chú trọng, thiếu cân
đối, hoặc kỹ thuật không thích hợp cũng làm cho giống bị thoái hóa.
Bởi vì, chúng ta biết rằng sự biểu hiện của Fenotip là do kiểu gen và yếu tố
môi trường quyết định.
P = G + E
P: fenotip;
G: là kiểu genotip (quyết định);

E: Evironmetmon (các yếu tố của môi trường) có tác động mạnh mẽ để các
gen biểu hiện.
2. Nguyên nhân gây nên hiện tượng thoái hóa giống:
2.1. Do bản thân giống: Bản thân giống không tốt, bị lẫn tạp nhiều trong quá
trình sản xuất giống dẫn đến khi đưa ra sản xuất giống bị phân li, làm cho năng suất
và chất lượng sản phẩm giảm.
2.2. Do điều kiện ngoại cảnh không tốt, ngoại cảnh có ảnh hưởng rất lớn đến
chất lượng hạt giống.
Khi điều kiện giống thay đổi khác xa so với nơi nguyên sản, làm cho giống
không thích hợp với điều kiện sống mới, do đó các đặc trưng, đặc tính tốt của giống
không được biểu hiện, làm ảnh hưởng đến chất lượng giống.
Trong điều kiện sống không thay đổi, giống sống trong cùng một điều kiện
quá lâu, nên ít phát sinh các biến dị, do đó tính thích ứng ngày càng bị thu hẹp lại,
giống cũng bị thoái hóa.
2.3. Do điều kiện thụ phấn không tốt:
Đối với cây tự thụ phấn, do quá trình tự thụ phấn liên tục từ đời này qua đời
khác, quần thể luôn luôn đồng nhất về kiểu gen và kiểu hình, không có tuyển lựa và
lai giống, quần thể không có biến dị, phạm vi thích ứng ngày càng thu hẹp lại làm
cho sức sống giảm dần.
Đối với cây giao phấn, nếu bị cách ly nghiêm ngặt sẽ dẫn đến hiện tượng cận
giao, sẽ có nhiều cây đồng hợp tử ẩn có hại xuất hiện gây ra hiện tượng dị hình, làm
cho năng suất, phẩm chất của quần thể bị giảm sút.
2.4. Do đột biến:
Những thay đổi đột ngột của các yếu tố môi trường, sự tác động của các chất
độc hóa học, các chất gây đột biến, các tia phóng xạ đều có thể làm cho một số

4

các cá thể phát sinh đột biến nhiễm sắc thể, hoặc đột biến gen: gây nên những hiện
tượng bất dục, dị hình làm cho giống giảm sức sống.

2.5. Do chế độ sản xuất giống không tốt:
Do lẫn cơ giới
Do lẫn sinh học
Do kỹ thuật trồng trọt không tốt
2.6. Do bị sâu bệnh phá hoại:
Sâu bệnh là đối tượng phá hoại nghiêm trọng nhất, nó làm cho chất lượng
của giống bị giảm sút nghiêm trọng không những ngoài đồng mà ngay cả khi cất
giữ không đúng các quy trình, quy phạm cũng làm cho giống phẩm chất kém và
giống bị thoái hóa.
3. Các biện pháp nâng cao sức sống của giống:
3.1. Thay đổi các điều kiện sống của giống:
Người ta thường dùng các biện pháp sau đây:
Sản xuất hạt giống ở nhiều nơi khác nhau.
Thay đổi thời kỳ gieo giống
Cải thiện điều kiện trồng trọt để nâng cao sức sống của giống.
Áp dụng các biện pháp kỹ thuật thích hợp làm cho giống biểu hiện hết các
đặc trưng, đặc tính của nó mà trong điều kiện sống trước đây không có.
3.2. Không ngừng tuyển lựa và bồi dưỡng:
Tuyển lựa thường xuyên là một biện pháp có hiệu quả ngăn ngừa giống thoái
hóa. Trong quá trình tuyển lựa, nếu càng loại bỏ nghiêm khắc những biến dị xấu,
chú ý giữ được những biến dị tốt thì hiệu quả nâng cao sức sống của giống càng
nhanh chóng, rõ ràng.
3.3. Nhân giống vô tính:
- Phương pháp chắn rễ
- Phương pháp áp cành xuống đất
- Phương pháp tách chồi cây con
- Phương pháp dâm cành
- Phương pháp chiết cành
Các phương pháp này giữ được tính di truyền của vật liệu khởi thủy (cây
mẹ), từ đời này qua đời khác và được áp dụng phổ biến vì dễ làm.


5

3.4. Nhân giống Invitro:
Nhân giống Invitro tạo ra được những cây khỏe, trẻ hóa cây, sạch bệnh, là
vật liệu để chọn tạo giống, tạo ra các giống mới, duy trì được các đặc tinh di truyền
cua các đời trước cho thế hệ sau. Có hệ số nhân giống cao, đáp ứng được các yêu
cầu của sản xuất.
3.5. Sản xuất hạt lai:
Sản xuất hạt lai đối với tất cả các loại cây trồng là mục tiêu cuối cùng cần
phải đạt được của các cơ quan sản xuất giống cây trồng.
Tùy từng đối tượng cây trồng mà có các cách sản xuất hạt lai khác nhau.
3.6. Lai cùng giống: tự do thụ phấn trong cùng giống để tăng sức sống cho
giống.
III. ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC THU HOẠCH VÀ XỬ LÝ GIỐNG ĐẾN CHÂT
LƯỢNG GIỐNG:
Đối với cây trồng, việc xác định thời điểm thu hoạch đặc biệt đối với các cây
lấy hạt là một vấn đề hết sức quan trọng chúng ta cần nghiên cứu và giải quyết.
Độ chín được xác định: chín sinh lý và chín hoàn toàn.
Chín sinh lý là độ chín được xác định mà ở đó các hợp chất được tích lũy
nhiều nhất và đã đến mức độ thuần thục hoàn toàn. Thu hoạch vào giai đoạn đó sẽ
đảm bảo chất lượng cao nhất và hạt giống cũng được đảm bảo hoàn hảo nhất. Nếu
chúng ta xác định giai đoạn này không tốt sẽ dẫn đến chất lượng hạt giống, làm cho
hạt giống có sức nẩy mầm kém, ảnh hưởng xấu đến năng suất cây trồng do không
đảm bảo mật độ khi cây mọc
Thu hoạch đúng lúc, sẽ làm tăng chất lượng của giống.

1. Thời hạn thu hoạch:
Thời hạn thu hoạch là thời điểm mà hạt giống đã có độ chín sinh lý thuần
thục. Đây là khâu quan trọng quyết định đến phẩm chất của hạt giống sau này.

Để thu hoạch đúng độ chín, chúng ta cần xác định đúng độ chín của nó mà
quyết định thời điểm thu hoạch thích hợp.
Đối với cây lấy hạt (như lúa chẳng hạn), việc thu hoạch thích hợp nhất lúc
ẩm độ hạt đạt 25 ÷ 30% ở ngoài đồng. Đó là giai đoạn hạt có sức sống và khả năng
nẩy mầm cao nhất. Hạt được chỉ tiêu đó vào khoảng 25 ÷ 30 ngày sau khi có 50%

6

số cây trổ bông. Thu hoạch vào lúc này đòi hỏi phải kết hợp với các biện pháp phơi
sấy đúng kỹ thuật.
2. Ảnh hưởng của các điều kiện xử lý hạt giống.
Chúng ta biết rằng, nhiệt độ và ẩm độ hạt là yếu tố quyết định chính đến tuổi
thọ trong việc cất giữ giống.
Nguyên lý của sự hạt khô: Nguyên lý của sự hạt khô phụ thuộc vào:
- Ẩm độ hạt.
- Ẩm độ không khí.
- Mối quan hệ giữa hai ẩm độ này.
* Ẩm độ hạt là lượng nước ở trong hạt và được biểu thị bằng %. Do đặc
điểm hấp thu của hạt (hấp thu khí, nước) cho nên hạt sẽ luôn luôn cân bằng độ ẩm
với độ ẩm tương đối của không khí xung quanh nó. Độ ẩm này gọi là độ ẩm cân
bằng của hạt. Giữa các hạt trong cùng một giống, giữa các giống trong cùng một
loài độ ẩm cân bằng không chênh lệch nhau quá 1% ẩm độ.
* Ẩm độ không khí: là lượng nước có ở trong không khí và được biểu thị
bằng %.
Hàm lượng độ ẩm cân bằng:
Nếu ẩm độ không khí được giữ không đổi (không kể ảnh hưởng ẩm độ hạt)
hạt giống sẽ hút ẩm hoặc mất nước đến khi ẩm độ hạt và ẩm độ không khí cân bằng.
Hàm lượng ẩm độ này gọi là hàm lượng ẩm độ cân bằng.
Sự cân bằng độ ẩm hạt ở nhiệt độ 25
o

C

% độ ẩm tương đối Loài Tên
Việt Nam
30 45 60 75 90
Barley (Hordeum) Đại mạch 8,4 10,0 11,2 14,4 19,5
Beet (Beta) Củ cải 5,8 7,6 9,4 11,2
Buckwheat (Fagopyrum) Kiều mạch 9,1 10,8 12,7 15,0 19,1
Cabbage (Brassica) Bắp cải 5,4 6,4 7,6 9,6
Carrot (Daucus) Cà rốt 6,8 7,9 9,2 11,6
Cucumber (Cuccumis) Dưa chuột 5,6 7,1 8,4 10,1
Egg Plant (Solamum) Cây cà 6,3 8,0 9,8 11,9
Flax (Linum) Cây lanh 5,6 6,3 7,9 10,0 15,2
Groundnut (Arachis) Lạc 4,2 5,6 9,8 13,0
Lettuce (Lactuca) Rau diếp 5,1 5,9 7,1 9,6
Lima Bean (Phaseolus) Đậu Lima 7,7 9,2 11,0 13,8
Maize (Zea) Ngô 8,4 10,2 12,7 14,4 18,8
Mustard (Brasssice) Cải mù tạt 4,6 6,3 7,8 9,4

7

Oat (Avena) Yến mạch 8,0 9,6 11,8 13,8 18,5
Okra (Abelmoschus) Mướp tây 8,3 10,0 11,2 13,1
Onion (Allium) Hành 8,0 9,5 11,2 13,4
Rice (Oryza) Lúa 7,9 9,8 11,8 14,0 17,6
Rye (Secale) Lúa mạch 9,7 10,5 12,2 14,8 20,6
Sorghum (Sorghum) Cao lương 8,6 10,5 12,0 15,2 18,8
Soyabean (Glycine) Đậu tương 6,5 7,4 9,3 13,1 18,8
Tomato (Lycopersicon) Cà chua 6,3 7,8 9,2 11,1
Turnip (Brassica) Su hào 5,1 6,3 7,4 9,0

Wheat (Triticum) Lúa mì 8,5 14,0 12,1 14,6 19,8
Winter Squash (Cucurbita) Bầu bí 5,6 7,4 9,0 10,8
Ghi chú:
Theo Robert, E.H. (1972) Seed Viability. Chapmen and Hall, London
Sự thay đổi trong ẩm độ không khí.
Ẩm độ không khí không cố định. Nó thay đổi suốt ngày và đêm, và có nhiều
thay đổi trong suốt năm, từ mùa này sang mùa khác. Đương nhiên, điều này sẽ ảnh
hưởng đến hàm lượng ẩm độ cân bằng của hạt để ngoài không khí, trong bọc giấy,
hay túi vải, để cất giữ trong phòng (kho). Nếu sự khác biệt mùa quá lớn, sẽ ảnh
hưởng đến cách sử dụng hạt giống ở những thời điểm khác nhau của năm.


Nhiệt độ.
Sự liên quan giữa ẩm độ hạt và ẩm độ không khí ít nhiều tùy thuộc vào nhiệt
độ. Dạng biểu đồ giống nhau nhưng vị trí hơi thay đổi vì ở điều kiện nhiệt độ cao
hơn thì ẩm độ không khí và ẩm độ cân bằng sẽ thấp hơn
Thành phần hạt.
Yếu tố khác quan trọng hơn ảnh hưởng đến mối quan hệ là loại hạt. Lý do
chủ yếu của sự khác biệt giữa các loại giống là do sự thay đổi hàm lượng dầu chứa
trong hạt. Hàm lượng dầu lớn nhất trong hạt luôn thấp hơn hàm lượng ẩm độ cân
bằng của nó.
Làm khô hạt.
Nguyên tắc:
- Không bao giờ đặt hạt dưới ánh nắng trực tiếp khi nhiệt độ quá cao.
- Đặt hạt cách mặt đất để tránh sức nóng, và cho không khí lưu thông, tránh
gia súc, gia cầm
- Không sử dụng khay kim loại vì nó dẫn nhiệt.

8


- Không nên để hạt giống ngoài trời suốt đêm.
Sau khi phơi hoặc sấy hạt giống cần làm theo đúng các nguyên tắc sau đây:
Hạt được bắt đầu sấy ở nhiệt độ khoảng 35 ÷ 37
o
C, sau đó nâng dần nhiệt độ
lên đến 42 ÷ 45
o
C theo mức độ giảm dần độ ẩm trong hạt. Mối tương quan này giữa
ẩm độ hạt và nhiệt độ sấy theo tỷ lệ nghịch. Một điều chú ý là sấy khô từ từ, không
nên sấy khô quá nhanh ở nhiệt độ cao hạt sẽ bị nứt bên trong, làm cho sức sống của
hạt giống sẽ bị giảm, ảnh hưởng đến tỷ lệ nẩy mầm sau này.
Hạt càng chứa nhiều dầu thì phải càng phơi sấy ở nhiệt độ thấp, tránh phơi
các loại hạt có dầu như đay, đậu phộng - peanut (Arachip hypogaea. L - lạc), đậu
nành - soya (Glycine - đậu tương) vào lúc nắng gắt giữa ban trưa, hoặc phơi trên
sân gạch, ciment mà nên phơi trong ánh sáng tán xạ, và phơi trên nong, nia, hoặc
các dụng cụ khác.
Điều kiện phơi sấy phải được thông gió tốt, tránh tình trạng giống sau khi
thu hoạch về không tiến hành phơi sấy ngay mà còn ủ đống sau đó mới đem phơi.
Phơi sấy giống phải được ưu tiên hàng đầu.
Sau khi phơi sấy, hạt phải được làm sạch khỏi các tạp chất, hạt cỏ dại, hạt bị
tổn thương, hạt bị sâu bệnh, và phải tiến hành phân loại hạt theo kích thước để tiến
hành đóng gói bảo quản.
Trong quá trình ra hạt, sàng sẩy, phơi phóng cần lưu ý tránh các va chạm
mạnh sẽ gây ra những ảnh hưởng xấu đối với sức sống của hạt giống sau này.
Sau khi xử lý và kiểm tra xong, hạt giống phải được đóng bao ngay. Việc
quyết định sử dụng loại bao bì với kích thước cỡ nào tùy thuộc vào các yếu tố sau:
- Loại hạt giống.
- Kích thước hạt.
- Thời gian cần bảo quản.
- Điều kiện vận chuyển và bảo quản.

- Lượng hạt giống thích hợp để gieo trồng trên một đơn vị diện tích.
- Giá trị của hạt giống.
- Chi phí bao bì.
- Mỹ quan của bao giống.
Vật liệu phổ biến được dùng đựng hạt giống là bao vải, bao đay, bao giấy,
các loại bao không thấm nước như bao Polyethylen, bao giấy nhôm

9

Đối với các loại hạt giống rau, người ta dùng các hộp sắt tráng kẽm để bảo
quản.
Ngoài ra, chất lượng hạt giống còn phụ thuộc vào việc sử dụng phân bón.
Nếu bón phân đạm đơn độc thường làm cho thời gian sinh trưởng kéo dài,
quá trình chín không đồng đều, dễ bị nhiễm sâu bệnh
Các thí nghiệm của Viện Hàn lâm Nông nghiệp Timiriazep cho rằng, nếu chỉ
dùng phân đạm bón cho lúa mạch đen thì trung bình trong 3 năm tỷ lệ nẩy mầm của
hạt giảm từ 88% xuống còn 70%, còn nếu bón kết hợp với phân lân và kali thì tỷ lệ
nẩy mầm của hạt tăng lên đến 95%.
Ngoài ra, bón phân đạm đơn độc thường làm cho thời gian chín của hạt kéo
dài, không đồng đều và dễ nhiễm sâu bệnh.
Trái với phân đạm, phân lân có tác dụng nâng cao chất lượng của hạt giống.
Điều này được giải thích là do lân giữ một vai trò rất quan trọng trong quá trình trao
đổi chất, các hợp chất của lân trong cây rất di động và chứa nhiều năng lượng cần
thiết cho quá trình hô hấp, tổng hợp Protein cũng như các phản ứng quan trọng khác
trong quá trình nẩy mầm và sinh trưởng của cây con. Mặt khác, lân còn có tác dụng
hạn chế tác hại của hiện tượng thừa đạm dẫn đến hiện tượng tích lũy trong cây
nhiều NH4+, NO3- làm cho quá trình tổng hợp Protein bị kìm hãm. Nhiều tác giả
nhận thấy, bón nhiều đạm làm quá trình hút thu K, Ca, Mg của cây bị kìm hãm;
trong khi đó lân có tác dụng làm tăng sự hút thu các nguyên tố dinh dưỡng trên, nên
làm tăng chất lượng hạt giống.

Kali có tác dụng làm tăng sự tích lũy tinh bột trong hạt, hạn chế được sự tích
lũy đạm thừa nên cũng có ảnh hưởng tốt đến chất lượng của hạt giống.
Trong một số trường hợp, phẩm chất hạt giống bị giảm sút là do thiếu một số
nguyên tố vi lượng. Các nguyên tố vi lượng trong hạt không những cần thiết cho sự
nẩy mầm và phát triển bình thường của cây con mà còn làm tăng khả năng chống
chịu điều kiện bất lợi của môi trường.
Như vậy, việc bón phân kết hợp và cân đối giữa các chất N: P: K và các
nguyên tố vi lượng đối với sản phẩm là giống cần phải được chú trọng tuân theo
các quy trình và các quy định đặt ra để nâng cao sức sống của hạt giống; đặc biệt
đối với các loại giống cất giữ lâu.
Ngoài những yếu tố như đã nêu ở trên, phẩm chất hạt giống còn chịu ảnh
hưởng của mật độ cây trồng, thời vụ, lượng nước tưới

10
Mật độ cây trồng chẳng những có ảnh hưởng đến năng suất mà còn ảnh
hưởng đến phẩm chất hạt giống thông qua độ lớn, độ đồng đều, kích thước, thành
phần hóa học của hạt Đối với lúa mì, các tác giả Liên Xô trước đây nhận thấy chất
lượng hạt giống nâng cao theo mức gia tăng tỷ lệ chồi chính trong quần thể. Từ
nhận định trên, các tác giả đề nghị trồng mật độ cao ở ruộng sản xuất lúa mì.
Đối với các cây trồng cạn, độ ẩm cao trong đất cũng như việc dùng những
liều lượng nước tưới lớn có ảnh hưởng xấu đến chất lượng hạt giống. Vì độ ẩm cao,
đặc biệt đối với các cây nhiều dầu sẽ tích lũy hàm lượng nước trong hạt cao, nên khi
phơi sấy ở điều kiện nhiệt độ cao sẽ làm ảnh hưởng đến sức sống của hạt giống
IV. ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC ĐIỀU KIỆN BẢO QUẢN ĐẾN CHẤT LƯỢNG
HẠT GIỐNG.
Các điều kiện bảo quản và cất giữ đối với các loại hạt giống là điều kiện tối
cần thiết và cần phải tuân thủ một cách nghiêm ngặt.
Sự giảm sức sống của hạt giống trong quá trình bảo quản là kết quả của
những diễn biến sinh lý, sinh hóa bên trong của hạt. Quá trình đó phụ thuộc vào ẩm
độ của hạt lúc ban đầu và điều kiện cất giữ. Nếu trong quá trình cất giữ mà ẩm độ

hạt không được khống chế, dẫn đến độ ẩm tăng lên, các quá trình thủy phân xảy ra,
chất lượng hạt giống chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
CHON + H
2
O các hợp chất dễ tiêu.
Nhiệt độ cũng như độ ẩm của hạt và của không khí trong kho càng cao thì
hạt giống càng chóng mất sức nẩy mầm.
Theo quy luật Harrington, trong phạm vi ẩm độ của hạt từ 5 ÷ 14%, sự giảm
thấp mỗi phần trăm ẩm độ sẽ có tác dụng gia tăng gần gấp đôi thời hạn bảo quản
hạt giống. Như vậy hạt giống được phơi hoặc sấy càng khô thì càng có khả năng
bảo quản được lâu.
Cũng theo Harrington, cần lưu ý là giữa độ ẩm của hạt và độ ẩm của không
khí trong kho cao thì hạt sẽ hút ẩm từ không khí và ngược lại khi độ ẩm của không
khí thấp thì một phần nước ở trong hạt sẽ thoát ra ngoài. Sự trao đổi nước giữa
không khí và hạt sẽ tiếp diễn cho đến khi đạt được một trạng thái cân bằng nào đó.
Theo J.C. Delouche và N.D. Rodda (1976), đã xác định được những mức cân
bằng giữa độ ẩm của hạt đậu nành và không khí như sau:




11
Ẩm độ không khí % Ẩm độ cân bằng của hạt %
15 43,3
30 6,5
45 7,4
60 9,3
65 11,0
75 13,1
80 16,0

90 18,8
Như vậy, ẩm độ không khí và ẩm độ cân bằng của hạt có mối quan hệ mật
thiết với nhau.
Các số liệu nói trên cho ta thấy rõ là trong việc bảo quản hạt giống ở vùng có
khí hậu nhiệt đới, ẩm độ là yếu tố phải quan tâm trước tiên.
Ảnh hưởng của nhiệt độ thì theo quy luật Harrington, trong khoảng nhiệt độ
từ 0 ÷ 50
o
C, mỗi sự gia tăng 5
o
C của môi trường sẽ làm giảm thời hạn cho phép
bảo quản hạt giống đi một nửa.
Như vậy, trung bình việc giảm 1% độ ẩm của hạt sẽ có tác dụng đối với việc
kéo dài thời gian bảo quản hạt giống tương đương với nhiệt độ trong kho xuống bớt
5
o
C. Vì thế, những nơi không có kho lạnh thì việc hạ thấp độ ẩm của hạt giống và
của không khí trong kho cần được đặc biệt quan tâm.
Sự phá hoại của sâu bệnh trong quá trình bảo quản hạt giống cũng cần được
chú ý, kho phải được dọn vệ sinh cẩn thận sau mỗi vụ và có thể định kỳ xử lý các
loại thuốc xông hơi để trừ mọt. Kho cũng phải được bảo vệ khỏi sự xâm nhập của
chim và chuột, không phải chỉ ở số hạt bị chúng ăn, số bao bì bị chúng phá hoại mà
chúng còn làm lẫn giống, thải chất thải của chúng vào kho sẽ làm cho độ ẩm trong
kho tăng lên và đây chính là những ổ dễ bị phát sinh nguồn bệnh
Harrington đã đề ra điều kiện bảo quản an toàn để duy trì phẩm chất hạt mà
không giảm tỷ lệ nẩy mầm từ 3 ÷ 10 năm, điều kiện này rất khó áp dụng đối với các
nước vùng nhiệt đới, nơi có độ ẩm khá cao.
Điều kiện bảo quản đặc biệt (kho có máy lạnh) chỉ áp dụng cho hạt có giá trị
cao như hạt của các nhà làm công tác giống, hạt của các cây quý hiếm. Trong sản


12
xuất hạt giống trong vùng Á nhiệt đới và Nhiệt đới có thể áp dụng theo các mức
sau:
1. Bảo quản ngắn hạn (từ 1 ÷ 9 tháng) là các điều kiện để duy trì phẩm chất
hạt từ vụ này đến vụ trồng sau:
T = 30
o
C, RH = 45%; MC < 7% cho hạt có dầu
MC < 11% cho hạt có Protein
T = 20
o
C, RH = 60%; MC < 9% cho hạt có dầu
MC < 12% cho hạt có Protein
2. Bảo quản trung hạn (từ 9 ÷ 18 tháng) là các điều kiện mà nó cho phép cất
giữ hạt dự phòng có phẩm chất cao:
T = 30
o
C, RH = 40%; MC < 6% cho hạt có dầu
MC < 10% cho hạt có Protein
T = 20
o
C, RH = 50%; MC < 7% cho hạt có dầu
MC < 11% cho hạt có Protein
T = 10
o
C, RH = 60%; MC < 9% cho hạt có dầu
MC < 11% cho hạt có Protein
T = 30
o
C, RH = 45%; MC < 7% cho hạt có dầu

MC < 11% cho hạt có Protein
3. Bảo quản trung hạn (từ 1,5 ÷ 10 năm) là các điều kiện bảo quản hạt giống
quý hiếm.
T = 10
o
C, RH = 45%; Đảm bảo an toàn đến 5 ÷ 10 năm
Ghi chú: T: nhiệt độ, RH độ ẩm không khí, MC: độ ẩm hạt.
Ngoài ra người ta còn bảo quản bằng chất khí hay hút chân không.
Hiện nay, người ta thường bảo quản trong kho lạnh, trong kho sấy khô; tùy
thuộc vào điều kiện có thể cho phép.
Trong kho lạnh, tùy thuộc vào thời gian cất giữ hạt giống mà được bảo quản
trong các kho có nhiệt độ khác nhau:
Loại hàng năm, cất giữ trong kho có nhiệt độ từ 10 - 30
o
C
Loại lâu năm, cất giữ trong kho có nhiệt độ từ 4 - 10
o
C
Loại cất giữ đặc biệt trong kho có nhiệt độ từ 0 đến - 5
o
C hoặc có thể -10
o
C.
Trong các thí nghiệm cho thấy rằng những hạt giống sẽ sống sót ở nhiệt độ
càng thấp khoảng -272
o
C và những phương tiện cất giữ đang được khảo sát ở -196

13
o

C - nhiệt độ chất lỏng Nitơ. Giữ giống ở nhiệt độ này sẽ ngăn cản mọi hoạt động
trao đổi chất. Và một thực tế không có nhiều hiệu quả đến tuổi thọ hơn khi cất giữ
hạt ở nhiệt độ - 20
o
C.
Vậy điều kiện tối ưu là gì? Không có câu trả lời chính xác cho vấn đề này vì
sự kết hợp khác nhau giữa nhiệt độ và ẩm độ đã được lựa chọn, sẽ có cùng ảnh
hưởng đến tuổi thọ. Những điều kiện chọn lựa này cũng phá vỡ thế cân bằng giữa
điều mong muốn, điều có thể có khả năng thực hiện, và điều này tùy theo hoàn cảnh
riêng mà lựa chọn
Cất giữ cực khô:
Những nghiên cứu gần đây cho thấy rằng nhiều hạt có dầu có thể được sấy
khô để có hàm lượng ẩm độ rất thấp mà không gây tác hại, ngược lại điều này cũng
nâng cao tuổi thọ. Thí dụ, người ta đã tính toán rằng khi sấy khô hạt vừng (sesamun
indicum) để hạ ẩm độ từ 5 % xuống 2% thì tuổi thọ tăng lên gấp 40 lần và bằng
cách giảm nhiệt độ từ 20
o
C xuống -20
o
C, chúng cũng đạt được việc nâng cao tuổi
thọ tương tự như vậy (Ellis, Hong và Robert, 1986).
Đây là sự cất giữ cực khô như đã gọi, đưa ra khả năng duy trì tuổi thọ mà
không cần nhiệt độ dưới 0
o
C.
Trong kho sấy khô, độ ẩm không khí luôn luôn được sấy ở độ ẩm 30 - 45%,
hoặc có thể cao hơn là tùy thuộc vào thời gian cất giữ giống và các loại giống cây
trồng khác nhau.
Thời gian cất giữ hạt giống phụ thuộc vào ẩm độ của hạt và nhiệt độ phòng.
Ẩm độ thấp, nhiệt độ thấp, thời gian cất giữ càng dài. Nhiệt độ cao, ẩm độ cao thì

ngược lại thời gian bảo quản giống sẽ ngắn
Mối quan hệ giữa độ ẩm hạt và nhiệt độ trong kho đến thời gian cất giữ (năm)
o
C 5% 7% 8% 10% 12%
-20 1761 331 170.5 56.5 23
-10 1253 236 121.5 40 16
0 711.5 134 69 23 9
5 493 93 47.5 16 6.5
10 322 60 31 10.5 4
20 116 22 11 3.5 1.5
25 64 12.5 6 2 1

14
Ngoài ra, khi tồn trữ giống, người ta còn cất giữ trong ngân hàng Gen, ngân
hàng Invitro, nơi mà các mẫu cây trồng có bảo quản trong môi trường trung gian,
đây là cách bảo tồn xen với bảo tồn trong ngân hàng giống trên đồng.
Có 2 phương pháp để duy trì invitro "sinh trưởng chậm" cho giai đoạn cất
giữ từ ngắn đến trung bình và bảo quản lạnh trong chất lỏng Nitrogen đối với những
bảo quản trong thời gian dài. Invitro là phương pháp chỉ tồn tại cho sự bảo quản
thời gian lâu dài đối với giống.


15
Bài 2
SẢN XUẤT GIỐNG
I. KHÁI NIỆM, MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA.
1. Khái niệm về cấp và loại hạt giống.
Trong công tác sản xuất giống, sự phân cấp hạt giống được dựa trên cơ sở
chủ yếu là độ thuần của hạt giống. Theo sự phân cấp hiện nay trên thế giới thì các
cấp hạt giống bao gồm:

1.1. Hạt giống siêu nguyên thủy hay hạt giống gốc của nhà chọn giống
(Breeder's seed) là hạt mang đầy đủ những tính nguyên thủy của giống được tạo
ra. Có số lượng ít nhưng chất lượng cao nhất. Trách nhiệm giữ độ thuần của hạt
giống gốc trong suốt cả thời gian mà giống vẫn được dùng trong sản xuất là thuộc
về cơ quan chọn giống. Trong hệ thống sản xuất hạt giống gốc nói trên là vật liệu
khởi đầu nên được ký hiệu là G0 (G. genegation).
1.2. Hạt giống nguyên chủng hay hạt giống cơ sở (Foundation Seed,
Basid) là hạt thu được từ những lần nhân đầu hạt giống gốc (khoảng 2 - 3 thế hệ).
Hạt nguyên chủng mang đầy đủ các đặc tính nguyên chủng của giống. Các thế hệ
được nhân ra từ hạt giống được ký hiệu là G1, G2, G3. Nếu xem G1 là nguyên
chủng cho bước nhân trước thì G1, G2 là hạt "siêu nguyên chủng" là hạt "Elite" và
"Super Elite". Độ thuần của hạt nguyên chủng đối với phần lớn các cây trồng phải
đạt cao hơn 99%. Trách nhiệm sản xuất hạt giống nguyên chủng thuộc về các công
ty giống và các cơ quan nghiên cứu về giống.
1.3. Hạt giống kiểm định (Registered Seed) được nhân ra từ hạt nguyên
chủng được ký hiệu là R1, R2, R3 tương ứng với từ thường dùng ở nước ta là hạt
giống cấp 1, cấp 2, cấp 3. Cuối cùng của bước này (R2 hoặc R3) là hạt giống
thương phẩm (Certified Seed).
Ở một số nước người ta nhân hạt giống thương phẩm (Certified Seed) thành
một cấp hạt giống riêng. Hạt giống thương phẩm được sản xuất trên quy mô lớn ở
các cơ sở sản xuất giống, nhằm cung cấp hạt giống cho sản xuất đại trà, sau khi đã
sơ chế, xử lý, kiểm nghiệm và đóng gói thích hợp.
Các tiêu chuẩn về độ thuần và phẩm chất được quy định riêng cho từng cấp
hạt nói trên theo 10 TCN,
Dựa trên cơ sở các chỉ tiêu đánh giá chất lượng hạt giống, người ta phân hạt
kiểm định hay hạt giống thương phẩm ra làm 3 loại: loại 1, loại 2, loại 3.
Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng hạt giống gồm:

16
* Độ thuần của hạt giống - được đánh giá theo tỷ lệ hạt có đầy đủ các đặc

tính kinh tế - sinh học của giống gốc. Độ thuần được biểu thị bằng chỉ số phần trăm.
Đối với các giống cây tự thụ phấn thì hạt loại 1 phải có độ thuần trên 95,5%.
Số hạt đúng giống
Độ thuần % =

Số hạt mẫu giống đem ra kiểm tra
x 100
Độ thuần nói lên tính thuần khiết của giống. Độ thuần cao, chứng tỏ chất
lượng giống tốt, giống không bị lẫn tạp; góp phần tăng năng suất cây trồng.
* Độ sạch của hạt giống - được đánh giá theo tỷ lệ trọng lượng của các
thành phần lẫn tạp, bao gồm những hạt cỏ dại và những hạt giống đã bị hư hỏng vì
những lý do khác nhau.
Khối lượng hạt sạch
Độ sạch % =

Khối lượng mẫu đem xác định
x 100
Độ sạch xác định được số lượng hạt giống đem ra sản xuất cho một đơn vị
diện tích. Độ sạch cao, thể hiện giống không bị lẫn bởi các tạp chất như rơm rạ, cát
sạn, đất, cỏ dại lẫn trong giống trong quá trình sản xuất, vận chuyển và phơi sấy.
Độ sạch thấp, lô hạt giống đó cần phải được làm sạch lại trước khi đưa ra sản
xuất. Có như vậy lượng hạt giống gieo quy định và mật độ cho một đơn vị diện tích
mới được đảm bảo.
* Tỷ lệ nẩy mầm của hạt giống - là tỷ lệ hạt có khả năng nẩy mầm bình
thường.
Số hạt nẩy mầm
Tỷ lệ nẩy mầm % =

Số lượng hạt đem thử
x 100

Đây là một trong những chỉ tiêu chính để phân loại hạt giống. Để xác định
chỉ tiêu này, người ta cho hạt nẩy mầm trong điều kiện tối hảo. Thời gian này tùy
thuộc vào đặc điểm nẩy mầm nhanh hay chậm của từng loại hạt, trung bình khoảng
một tuần đối với hạt các cây lương thực.
* Sức nẩy mầm - được đánh giá theo khả năng hạt mọc đồng đều trong một
thời gian nhất định và được biểu thị bằng % số hạt mọc mầm so với tổng số hạt
gieo.
Số hạt nẩy mầm
Sức nẩy mầm % =

Số hạt đem thử
x 100 (cùng đơn vị thời gian)
Chỉ tiêu này nói lên:

17
- Tốc độ nẩy mầm của giống, giống nào có tốc độ nẩy mầm cao chứng tỏ có
chất lượng tốt.
- Giống càng thuần chủng, sức nẩy mầm càng đồng đều, khả năng sinh
trưởng và phát triển càng đồng đều.
Ví dụ, đối với phần lớn cây lương thực tỷ lệ nẩy mầm được xác định sau khi
thử một tuần, còn sức nẩy mầm được xác định căn cứ vào tỷ lệ hạt nẩy mầm sau 3
ngày.
Để có tỷ lệ nẩy mầm, sức nẩy mầm tốt, vấn đề quan trọng là trong bảo quản
hạt giống chúng ta cần phải chú ý đến sức sống của hạt giống.
Sức sống của hạt là tỷ lệ hạt sống, có thể phát triển thành cây, cây đó có thể
sinh trưởng và phát triển trong điều kiện cho phép.
Sức sống của hạt cần được xác định trong giai đoạn bắt đầu bảo quản và
trong khoảng thời gian nhất định trong quá trình bảo quản để dự đoán đúng thời hạn
làm trẻ hóa hạt giống.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sức sống của hạt giống:

- Môi trường: nhiệt độ không khí, sự ngưng tụ hơi nước, sự nhiễm của vi
sinh vật, gió, mưa, bão lụt khi thu hoạch.
- Các hoạt động khi thu hoạch, gặt, đập, độ ẩm hạt khi thu hoạch.
- Quá trình làm khô hạt (do phương pháp làm khô). Nếu hạt quá ẩm với ẩm
độ > 20% không được làm khô ở nhiệt độ > 40
o
C, trừ khi độ ẩm hạt < 15%.
- Độ chín sinh lý của hạt, đặc điểm amylose của hạt, ngủ nghỉ hạt và đặc
điểm của giống.
Yêu cầu để kéo dài sức sống hạt:
- Hạt chín sinh lý đúng tiêu chuẩn.
- Độ ẩm hạt đúng yêu cầu.
- Hạt làm sạch đúng tiêu chuẩn.
- Điều kiện kho lạnh (T
o
, độ ẩm của kho )
Phương trình tính khả năng nẩy mầm:
P
V = K
i
-

10
k - c
1
log - c
2
m - c
3
t


Trong đó những số c1, c2, c3, k là những hằng số, nó tùy thuộc theo loài
đang xem xét. Hai hằng số c1, c2 biểu thị ảnh hưởng của nhiệt độ đến tuổi thọ, c3
biểu thị độ nhạy cảm của sự sống đối với ẩm độ, k là hằng số liên quan đến tiềm

18
năng di truyền học trong tồn trữ. Ki là hằng số đặc biệt cho mỗi lô hạt giống; biểu
thị chất lượng hạt ban đầu (tính bằng giới hạn của % độ nẩy mầm), m và t là % ẩm
độ hạt và nhiệt độ tồn trữ tương ứng. P là số ngày tồn trữ; V là mức độ khả năng
nẩy mầm ở bất kỳ thời gian định sẵn.
Giá trị của c1, c2, c3, k đã được tính cho số lượng nhiều dạng khác nhau của
loài nhưng vẫn còn được tính cho nhiều loài khác nữa. Trong hầu hết những loài
thiếu những đặc điểm nổi bật, như lúa mạch và hành có thể sử dụng phương trình
này như cẩm nang bởi vì có những loài có tính chất tồn trữ tốt và cũng không tốt
tương ứng.
Ví dụ: 3 lô hạt lúa mạch được cất giữ ở 40
o
C, ẩm độ 10% đến khi khả năng
nẩy mầm của nó hạ xuống 80%. Khả năng nẩy mầm ban đầu của nó là 99,9%;
99,0% và 90%, những con số rất cao. Thời gian cần cho khả năng nẩy mầm giảm
còn 80% như sau:
Khả năng nẩy mầm ban đầu Thời gian
99,9% 18.368 ngày (50,3 năm)
99,0% 12.353 ngày (33,8 năm)
90,0% 3.661 ngày (10,0 năm)
Như vậy, sự khác biệt rất nhỏ trong khả năng nẩy mầm ban đầu có thể dẫn
đến sự khác biệt gấp 5 lần trong thời gian tồn trữ. Thêm vào đó, mức độ sai khác về
khả năng nẩy mầm ban đầu rất khó phát hiện bằng cách kiểm tra độ nẩy mầm
chuẩn. Để thống kê chắc chắn rằng sự khác nhau về kích cỡ được quan sát là có
thật, đòi hỏi kiểm tra vài trăm giống nghĩa là với số lượng lớn, điều này khó thực

hiện đối với những nguồn giống quý hiếm. Vì vậy, mọi việc làm cần thiết để đảm
bảo chất lượng hạt giống thu được là bảo quản chúng thật tốt như đã trình bày ở
trên.
* Khối lượng 1000 hạt - chỉ tiêu này chẳng những cần thiết để đánh giá chất
lượng hạt giống mà còn cần thiết để xác định lượng hạt giống để gieo trên một đơn
vị diện tích.
* Độ ẩm của hạt được biểu thị bằng % khối lượng nước trong hạt.
M
2
- M
3
Độ ẩm hạt % =

M
2
- M
1
x 100
Trong đó: M1 = Khối lượng bao giấy, bao nhôm hoặc đĩa Petri
M2 = Khối lượng bao + Khối lượng hạt chưa sấy

19
M3 = Khối lượng bao + Khối lượng hạt sau khi sấy
Có thể xác định độ ẩm bằng máy đo độ ẩm nhưng cách xác định chính xác
hơn là sấy mẫu hạt ở nhiệt độ 100
o
C trong 5 giờ hoặc ở 130
o
C trong 60 phút. Đối
với các loại hạt nhỏ như hạt cỏ, hạt cải thì có thể để nguyên hạt để sấy. Đối với

những loại hạt to như bắp, đậu thì cần phải nghiền nhỏ rồi sấy mẫu, trung bình 5 giờ
để sấy. Theo ISTA nhiệt độ từ 130 - 133
o
C; thời gian sấy 2 giờ đối với ngũ cốc, 4
giờ cho ngô, 1 giờ cho tất cả các loài khác ở danh sách của ISTA. Phụ lục cuối sách.
* Mức độ nhiễm sâu bệnh được đánh giá bằng tỷ lệ hạt bị nhiễm sâu bệnh.
Khi đánh giá chỉ tiêu này cần phân biệt hai dạng: Dễ nhận thấy (hạt có vết bị phá
hoại rõ ràng) và dạng cần dùng phương pháp đặc biệt để phát hiện (cắt hạt, dùng
hóa chất, kính hiển vi, chụp quang tuyến X ).
Số hạt bị nhiễm
Mức độ nhiễm % =

Số mẫu hạt quan sát
x 100
* Ở một số nước người ta còn sử dụng chỉ tiêu "giá trị của hạt giống".
Giá trị của lô hạt giống được xác định bằng cách nhân chỉ tiêu tỷ lệ nẩy
mầm của hạt với độ thuần của hạt chia cho 100.
Ví dụ: Độ thuần của hạt là 98% và tỷ lệ nẩy mầm của hạt là 95% thì giá trị
của lô hạt giống là:
98 x 95/100 = 92,1.
Cùng một "giá trị của hạt giống" có thể là kết quả của sự phối hợp giữa các
giá trị khác nhau của chỉ tiêu tỷ lệ nẩy mầm và độ thuần của hạt giống.
Thực tiễn sản xuất đã chứng minh là việc dùng hạt giống có chất lượng tốt
mang lại hiệu quả kinh tế không khác gì các biện pháp thâm canh khác.
II. PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT HẠT GIỐNG ĐỐI VỚI CÂY TỰ THỤ
PHẤN.
1. Đặc điểm sinh vật học của quần thể tự thụ phấn:
Trong các loại cây trồng có một số lượng lớn các cây tự thụ phấn, với sự
thích nghi đa dạng giúp cho việc tự thụ phấn và ngăn ngừa khả năng giao phấn.
Cây tự thụ phấn thường thụ phấn bằng chính phấn hoa của cùng một hoa

hoặc cùng cây.
Sự thích nghi này không tuyệt đối và không loại trừ sự giao phấn bởi lẽ đó là
con đường tiến hóa của thực vật. Tuy vậy, sự tự thụ phấn vẫn là kiểu phổ biến trong
sinh sản hữu tính của một số loài thực vật. Để thích nghi với tự thụ phấn, cấu tạo

20
hoa của chúng thường lưỡng tính, hoa nhỏ, không có màu sắc sặc sỡ, ít mùi vị, nhụy
cái được bao bọc kỹ, nhị đực dài hơn nhụy cái, thời gian nở hoa ngắn.
Quần thể tương đối đồng nhất, tính di truyền cho các đời sau tương đối ổn
định do các cá thể trong quần thể thường có kiểu gen giống nhau và ở dạng đồng
hợp thể. Nếu trong quần thể do đột biến, hoặc do lai giống mà xuất hiện gen dị hợp
thì sau một vài đời tự thụ phấn liên tục, sẽ dẫn đến kết quả là trong quần thể chỉ có
các cá thể mang kiểu gen đồng hợp thể.
Do đặc điểm này, khi sản xuất giống chúng ta biết để ứng dụng và tìm các
biện pháp kỹ thuật tác động tích cực để các đặc trưng, đặc tính tốt của giống được
biểu hiện ra nhằm nâng cao chất lượng của giống.
Đối với cây tự thụ phấn, hiện nay chúng ta đang tập trung nâng cao phẩm
chất hạt giống đối với cây lúa là chính, thứ đến một số cây ngũ cốc khác, một số cây
đậu đỗ khác.
2. Tiêu chuẩn chất lượng hạt giống:Đọc tài liệu
Tiêu chuẩn Việt Nam 10TCN
3. Quá trình sản xuất hạt giống nguyên chủng và hạt giống các cấp:
Khâu then chốt của việc đổi mới hạt giống là sản xuất hạt nguyên chủng.
Yêu cầu đổi mới hạt giống nguyên chủng rất cao, ruộng sản xuất hạt giống nguyên
chủng đòi hỏi phải được áp dụng quy trình kỹ thuật thâm canh thích hợp và việc
chọn lọc phải được tiến hành một cách có hệ thống trong suốt quá trình sản xuất.
* Phương pháp chọn lọc chủ yếu để dùng trong sản xuất ra hạt giống siêu
nguyên chủng là chọn lọc cá thể có kiểm soát đời con. Tùy theo đặc điểm của từng
loại cây trồng người ta áp dụng các sơ đồ chọn lọc khác nhau.
Nguồn vật liệu khởi đầu để sản xuất ra hạt nguyên chủng là hạt giống gốc

của nhà chọn giống cung cấp hoặc hạt siêu nguyên chủng hay nguyên chủng của đợt
trước.
Quá trình sản xuất hạt nguyên chủng theo phương pháp chọn lọc cá thể
(Pedigrremultiplifcation) được thực hiện theo các bước cơ bản như sau:
1- Tuyển chọn cá thể tiêu biểu từ ruộng hạt nguyên chủng hay hạt siêu
nguyên chủng đợt trước.
2- Đánh giá các thế hệ tuyển chọn thông qua thế hệ con. Chọn các dòng tốt.
3- Nhân hỗn hợp của những dòng hạt được tuyển chọn.
4- Sản xuất hạt nguyên chủng.

21
Công việc cụ thể được tiến hành như sau:
Bước 1: Tuyển chọn trên 300 cá thể từ quần thể ruộng sản xuất hạt siêu
nguyên chủng hay hạt nguyên chủng đợt trước theo các đặc tính kinh tế - sinh học
tiêu biểu của giống - giữ riêng từng cá thể tuyển chọn và cất giữ riêng. Áp dụng
phương pháp chọn lọc cá thể để chọn.
Bước 2: Gieo hạt của những cá thể đã được tuyển chọn vụ trước thành hàng
(dòng). Đối chứng là hạt siêu nguyên chủng hay hạt nguyên chủng được gieo lại
qua một số hàng nhất định (thường khoảng 20 - 30 hàng). Trong quá trình trồng
theo dõi những cá thể xấu và những dòng không mang đầy đủ các đặc tính tiêu biểu
của giống được đánh dấu và loại bỏ trước khi thu hoạch. Hạt của những dòng tốt
được thu hoạch riêng và được kiểm tra trong phòng thêm một lần nữa trước khi
quyết định như sau:
* Trong trường hợp cần thiết do yêu cầu của thị trường và yêu cầu dự trữ
giống có thể tuyển chọn lại thêm một lần nữa những thế hệ tuyển chọn với 2 - 3 lần
lặp lại và tiếp tục chọn lọc như những vụ trước.
* Hạt của những dòng tiêu biểu được trộn chung với nhau để nhân bước tiếp
theo.
Bước 3: Nhân hỗn hợp hạt của những dòng được tuyển chọn. Tiến hành chọn
lọc quần thể để loại bỏ những cá thể không có những đặc tính tiêu biểu của giống

hoặc bị nhiễm sâu bệnh.
Sau khi thu hoạch, phân loại hạt theo kích thước và chỉ dùng hạt có kích
thước lớn để nhân tiếp vụ sau. Tùy theo nhu cầu về lượng hạt giống mà lặp lại giai
đoạn nhân hạt này từ 2 - 4 vụ. Hạt của các bước nhân này có thể xem là hạt siêu
nguyên chủng.
Các bước này phần lớn đều do cơ quan chọn giống của Nhà nước, các công
ty giống của Nhà nước hoặc của tư nhân đảm nhận.
+ Việc sản xuất hạt giống kiểm định: (cấp 1, cấp 2, cấp 3) từ hạt nguyên
chủng được tiến hành theo phương pháp chọn lọc quần thể nghiêm ngặt để loại bỏ
những cá thể xấu hoặc lẫn tạp hay bị nhiễm sâu bệnh có thể lây qua hạt. Các cấp hạt
này thường do các hợp tác xã tiên tiến sản xuất theo đơn đặt hàng của các công ty
sản xuất giống dưới sự chỉ đạo, kiểm tra, giám sát của các cơ quan đó.
Phương pháp tuyển chọn sử dụng phương pháp chọn âm tính để khử lẫn. Khi
khử lẫn, căn cứ vào các giai đoạn sinh trưởng và phát triển của cây trong từng giai

22
đợn mà tiến hành thực hiện. Nguyên tắc loại trừ một cách triệt để các cây lẫn giống,
cây xấu, cây bị bệnh
Các quy trình kỹ thuật áp dụng cho sản xuất các cấp hạt giống trên phải đạt
ở mức độ tiên tiến, đặc biệt là khâu chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh và áp dụng tất cả
các biện pháp cần thiết để loại trừ khả năng lẫn giống cơ giới và sinh học.
+ Đối với lúa trong suốt quá trình sản xuất hạt nguyên chủng nhất thiết phải
áp dụng biện pháp cấy một dảnh/ khóm. Quá trình nhân hạt từ nguyên chủng ra hạt
giống kiểm định (hạt cấp 1, cấp 2 và cấp 3) có thể gieo cấy bình thường.
Diện tích ruộng nhân giống cung cấp cho sản xuất tùy theo từng loại cây
trồng mà quyết định. Thường cây trồng có hệ số nhân cao - diện tích nhỏ; cây trồng
có hệ số nhân giống thấp - diện tích lớn. Như diện tích nhân giống đối với lúa từ 3 ÷
5%; ngô 4 ÷ 8%; bông vải 15%; đậu tương 5 ÷ 7%; cao lương 1,5 ÷ 3%; khoai lang
10 % diện tích so với trồng đại trà.
Ngoài ra, giống hiện nay có tính hàng hóa cao, có thể sản xuất theo nhu cầu

của thị trường.
Sản lượng của giống
Hệ số nhân =

Khối lượng hạt giống gieo
(trên đơn vị diện tích)
Ví dụ: sản lượng 4 tấn, lượng hạt giống gieo 160 kg/ ha; hệ số nhân giống là
25.
4000

25 =

160


III. CÁC PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT GIỐNG ĐỐI VỚI CÂY GIAO PHẤN.
1. Đặc điểm sinh học của quần thể cây giao phấn:
Trong tự nhiên, phổ biến là cây giao phấn vì giao phấn làm cho đời sau nâng
cao được sức sống, tăng phạm vi thích ứng với môi trường. Ngay những cây tự thụ
phấn nghiêm khắc cũng thường giao phấn với một tỷ lệ nhất định.
Cây giao phấn thường có hoa đơn tính cùng cây hay đơn tính khác cây. Nếu
hoa lưỡng tính tự thụ phấn sẽ bất dục, hoặc sức sống giảm sút, biểu hiện dị hình,
tính chống chịu kém, năng suất giảm sút nhanh chóng.
Ở cây giao phấn, giữa các cá thể thường không đồng nhất, đời sau thường
không ổn định.

23
Trong quần thể cây giao phấn nếu để các cá thể giao phấn tự do, không có
quá trình chọn lọc xảy ra, và không có phát sinh đột biến gen thì trong quần thể có
sự cân bằng di truyền, có ý nghĩa là tỷ lệ các kiểu gen trong quần thể vẫn giữ

nguyên từ đời này qua đời khác. Tuân theo quy luật Hardi - Vanbec.
Với những đặc điểm trên, việc sản xuất giống đối với cây giao phấn cũng
khác so với cây tự thụ phấn. Nó phức tạp hơn, tốn công hơn.
2. Các bước sản xuất hạt giống nguyên chủng đối với cây giao phấn:
Đối với cây giao phấn, việc sản xuất hạt nguyên chủng có thể được tiến hành
theo phương pháp chọn lọc quần thể.
1- Tuyển chọn và nhân giống gốc
2- Sản xuất hạt siêu nguyên chủng
3- Sản xuất hạt nguyên chủng
Hạt dùng làm nguồn vật liệu khởi đầu để sản xuất ra hạt giống gốc được lấy
từ các cá thể chọn lọc từ quần thể giống gốc đợt trước.
Có thể thực hiện bước một nói trên theo sơ đồ sau (ví dụ đối với giống ngô
thụ phấn tự do):
2.1. Sơ đồ thụ phấn hỗn hợp:
Tuyển chọn từ quần thể tự do thụ phấn hạt giống gốc hạt siêu nguyên chủng
khoảng 3000 cá thể mang các đặc trưng, đặc tính kinh tế - sinh học của giống.
Dùng hỗn hợp phấn của những cây được tuyển chọn để thụ phấn cho chúng.
Khi thu hoạch tuyển chọn để giữ lại khoảng 500 bắp từ những cá thể nói trên. Hỗn
hợp lượng hạt bằng nhau của 500 bắp này được xem là hạt giống gốc.
Trong trường hợp hạt giống cần cho bước nhân sau lớn hơn hỗn hợp hạt từ
các cây đã được tuyển chọn và thụ phấn hỗn hợp còn lại, những bắp lấy thêm này
không dùng làm hạt giống gốc.
2.2. Chọn lọc quần thể cách ly:
Quần thể ban đầu được trồng cách ly và phân thành nhiều ô nhỏ, khi trổ cờ
tuốt bỏ cờ của tất cả các cá thể không đạt yêu cầu. Trước khi thu hoạch tuyển chọn
các cá thể tiêu biểu cho giống với số lượng tương đương nhau từ mỗi ô sao cho tổng
số bắp tuyển chọn đạt khoảng 500 bắp. Hỗn hợp hạt bằng nhau của từ 500 bắp này
được coi là giống gốc.
Cũng theo phương pháp này trên ruộng cách ly có thể quy định phân thành
các hàng cha và mẹ và những cây không tiêu biểu cho giống ở những hàng cây bố.


24
Theo cách này những hàng làm bố đồng thời cũng là những hàng chỉ thị về sự biến
động của môi trường giúp cho sự tuyển chọn được chính xác hơn.
2.3. Tái tạo hạt giống gốc theo phương pháp bắp trên hàng ruộng cách ly:
Hạt của 500 bắp được tuyển chọn từ vụ trước được giữ lại. Hạt của mỗi bắp
được gieo thành một hàng cây mẹ. Hàng cây được gieo từ hỗn hợp lượng hạt bằng
nhau từ 500 bắp trên được gieo thành hàng bố. Tỷ lệ hàng bố và hàng mẹ thay đổi
từ 1 hàng bố trên 2 hàng mẹ hoặc 4 hàng mẹ (phụ thuộc vào khả năng cho phấn của
hàng làm bố). Nguyên tắc chung là tăng số lượng hàng mẹ được nhiều là tốt nhất vì
hàng làm mẹ quyết định đến năng suất hạt lai.
Tuốt cờ tất cả các cây hàng mẹ và những cây không tiêu biểu cho giống ở
hàng bố (chú ý: khi cờ bắt đầu nhú lên cần tuốt cờ ngay, mỗi ngày cần ra ruộng tuốt
cờ đúng lúc và triệt để vì đây là vấn đề quyết định sự thành bại của công tác sản
xuất giống).
Các hàng làm bố đồng thời cũng là những hàng chỉ thị về độ biến động của
môi trường. Cũng tiến hành tuyển chọn theo các sơ đồ trên ở các hàng mẹ để có
khoảng 500 bắp nguyên bản làm hạt giống gốc.
Trong trường hợp lượng hạt giống cần thiết cho bước nhân tiếp theo lớn hơn
số hạt thu được từ 500 bắp nói trên có thể chọn thêm một số bắp từ các hàng làm
mẹ đã tuyển để làm giống nhân tiếp.
3. Cách ly ruộng giống:
Là yêu cầu trước tiên cần coi trọng để tránh tạp giao tự nhiên do gió và côn
trùng làm ảnh hưởng đến chất lượng hạt giống. Khoảng cách cách ly thay đổi tùy
theo quy định của từng nước có điều kiện tự nhiên khác nhau. Nói chung ruộng sản
xuất giống gốc phải cách ly nghiêm ngặt hơn ruộng nhân giống.
Theo Pháp:
Đối với lúa mì, lúa nước, đậu phộng, đại mạch, yến mạch, ruộng dòng thuần:
cách nhau 30m (với ruộng khác tên giống), ruộng siêu nguyên chủng 30m (với
ruộng khác tên giống) và 10m (với ruộng cùng tên giống), ruộng nguyên chủng 20m

(với ruộng khác tên giống) và 10m (với ruộng cùng tên giống), ruộng nhân giống
lần thứ nhất: 10m (với ruộng khác tên giống cũng như ruộng cùng tên giống), ruộng
nhân giống lần thứ hai: 5m (với ruộng khác tên giống) và 1m (với ruộng cùng tên
giống).
Đối với ngô, ruộng nhân dòng thuần: 400m (với ruộng khác tên giống),
ruộng sản xuất giống lai đơn: 400m (với ruộng khác tên giống), ruộng nhân giống

×