Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Giáo trình hướng dẫn cách áp dụng tỷ giá thị trường vào kinh tế hợp lý phần 3 doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.79 KB, 10 trang )

Tỷ giá hối đoái


quản lý ngày càng đợc nhiều quốc gia lựa chọn đặc biệt là các
nớc đang phát triển.
Tỷ giá hối đoái


2.2.1.3. Chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý (bán thả nổi):
Đây là chế độ tỷ giá hối đoái có sự can thiệp của hai chế độ
cố định và thả nổi. ở đó, tỷ giá đợc xác định và hoạt động theo quy
luật thị trờng, chính phủ chỉ can thiệp khi có những biến động
mạnh vợt quá mức độ cho phép.
Có 3 kiểu can thiệp của chính phủ:
- Kiểu can thiệp vùng mục tiêu: Chính phủ quy định tỷ giá tối
đa, tối thiểu và sẽ can thiệp nếu tỷ giá vợt quá các giới hạn đó.
- Kiểu can thiệp tỷ giá chính thức kết hợp với biên độ dao
động: Tỷ giá chính thức có vai trò dẫn đờng, chính phủ sẽ thay đổi
biên độ dao động cho phù hợp với từng thời kỳ.
- Kiểu tỷ giá đeo bám: Chính phủ lấy tỷ giá đóng cửa ngày
hôm trớc làm tỷ giá mở cửa ngày hôm sau và cho phép tỷ giá dao
động với biên độ hẹp.
Hiện nay, chế độ tỷ giá "bán thả nổi" hay "cố định bò trờn"
có nhiều tính u việt hơn và đợc nhiều nớc sử dụng, đặc biệt là
các nớc đang phát triển. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là "thả nổi" hay
"bò trờn" ở mức độ bao nhiêu nên gần với thả nổi hay gần với cố
định hơn? biên độ dao động là bao nhiêu? Rất khó để đa ra một
câu trả lời chung cho mọi quốc gia mà phải tuỳ thuộc vào điều kiện
thực tiễn và mục tiêu của từng quốc gia theo đuổi. Nhìn chung, đối
với các nớc kinh tế đang phát triển trong đó có Việt Nam, với một
hệ thống công cụ tài chính còn nhiều yếu kém, sự phối hợp giữa các


chính sách còn thiếu đồng bộ, đồng tiền yếu và dự trữ ngoại tệ còn
hạn hẹp thì tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý tỏ ra là một chính sách
hợp lý nhất.
2.2.2 Cơ sở lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái
Việc lựa chọn chế độ tỷ giá xoay quanh 2 vấn đề chính : Mối
quan hệ giữa các nền kinh tế quốc gia với cả hệ thống toàn cầu và
mức độ linh hoạt của các chính sách kinh tế trong nớc.
Thứ nhất, lựa chọn chế độ tỷ giá là lựa chọn hệ thống mở của
hay đóng cửa.Các phơng án lựa chọn hệ thống tỷ giá thiên về hoặc
tỷ giá cố định hoặc tỷ giá linh hoạt.Một quốc gia lựa chọn tỷ giá cố
định tức là chấp nhận sự ràng buộc đối với các chính sách kinh tế
Tỷ giá hối đoái


quốc gia.Các chính sách kinh tế của quốc gia phải phù hợp với duy
trì tỷ giá hối đoái cố định,vì vậy việc hoạch định chính sách đối nội
trở thành ngoại sinh và tuân thủ theo thoả ớc tỷ giá.Từ đó có thể
thấy rằng sự lựa chọn này ngang với việc áp đặt các ràng buộc quốc
tế vào các chính sách kinh tế quốc gia.Nói rộng hơn, lựa chọn cơ
chế tỷ giá cố định tơng đơng với lựa chọn một hệ thống mở
cửa,trong đó luôn có sự tơng tác giữa các nhân tố quốc gia và cả hệ
thống thế giới.Ngợc lại,phơng án tỷ giá linh hoạt, về nguyên tắc
không chấp nhận một sự ràng buộc nào vào các chính sách kinh tế
đối nội.Các chính sách có tác động gì đi nữa thì sự giao động tỷ giá
sẽ giữ chúng chỉ gây ảnh hởng trong phạm vi quốc gia.Và tơng
ứng với điều đó,kết quả của các chính sách kinh tế nớc ngoài dù
thế nào đi chăng nữa thì điều chỉnh tỷ giá sẽ giữ chúng ngoài phạm
vi quốc gia.Thực tế, lựa chọn này giữ cho chính sách quốc gia
không bị ràng buộc quốc tế.Nói rộng hơn,lựa chọn cơ chế hối đoái
linh hoạt sẽ tach rời nền kinh tế quốc gia khỏi môi trờng quốc tế.

Thứ hai, chúng ta cần quan tâm đến mức độ linh hoạt của các
chính sách kinh tế đối nội.Mức độ này khác nhau rõ ràng giữa việc
lựa chọn nột trong hai loại chế độ tỷ giá.Vì tỷ giá cố định thể hiện
sự cam kết áp đặt các ràng buộc đối với các chính sách kinh tế quốc
gia, có nghĩa rằng không thể theo đuổi các chính sách kinh tế đối
nội một cách độc lập.Ngợc lại,tỷ giá linh hoạt là một công cụ có
thể sử dụng để giữ cho các hoạt động kinh tế của hệ thống quốc tế
không ảnh hởng tới các chính sách quốc gia.Vì vậy có thể theo
đuổi các chính sách quốc gia mà không cần quan tâm đến thế giới
bên ngoài và nh vậy đặc thù của chúng là hệ thống đóng.



Tỷ giá hối đoái



Chơng 2
Sự ảnh hởng của chính sách tỷ giá hối
đoái tới tốc độ phát triển kinh tế của
Việt Nam

1. Sự hình thành và vận động của tỷ giá cùng chính sách
TGHĐ trong giai đoạn trớc tháng 3/1989 thời kế hoạch hoá ,
tập trung kinh tế.
Năm 1950 đợc coi nh là một cái mốc khi mà Trung Quốc ,
Liên Xô và các nớc chủ nghĩa xã hội Đông Âu thiết lập quan hệ
ngoại giao với Việt Nam , đặt nền móng đầu tiên cho việc hình
thành các quan hệ kinh tế - thơng mại giữa Việt Nam và các
nớc.Trong hai năm liên tiếp,1952-1953,Việt Nam lần lợt kí hiệp

định thơng mại và nghị định th mậu dịch tiểu nghạch với Trung
Quốc.Từ ngày 25 tháng 11 năm 1955, tỷ giá chính thức đợc quy
định giữa đồng Việt Nam(VND) và nhân dân tệ Trung Quốc(CNY)
là 1 CNY=1470 VND. Tỷ giá giá này đợc xác định dựa trên việc
so sánh giá bán lẻ của 34 mặt hàng tiêu dùng tại một số tỉnh lớn của
hai nớc. Vào thời điểm này, tỷ giá Rúp của Liên Xô (SUR) và nhân
dân tệ của Trung Quốc (CNY) là 1 CNY = 2SUR. Từ đó,tỷ giá tính
chéo tạm thời giữa đồng Việt Nam và Rup của Liên Xô là 1 SUR =
735VND.Sau đợt đổi tiền vào đầu năm 1959 (1 đồng Việt Nam mới
bằng 1000 đồng Việt Nam cũ) cũng đã có những điều chỉnh tỷ giá
tơng ứng với sự thay đổi mệnh giá của đồng tiền (1SUR =
0,735VND). Đến đầu năm 1961 tỷ giá giữa đồng Việt Nam và Rup
của Liên Xô đợc điều chỉnh lại là 1SUR=3,27VND,do hàm lợng
vàng trong đồng Rup đợc điều chỉnh tăng 4,44 lần.
Tỷ giá hối đoái


Năm 1977, các nớc xã hội chủ nghĩa thoả thuận thanh toán
với nhau bằng tiền Rup chuyển nhợng ( là đồng tiền ghi sổ dùng
trong thanh toán mậu dịch giữa các nớc trong khối với tỷ giá đợc
quy định sao cho tài khoản giữa các bên sau khi trao đổi ngoại
thơng theo khối lợng đã đợc ghi trong hiệp định ký kết vào đầu
năm thì cuối năm số d phải bằng zero ) có hàm lợng vàng quy
định là 0,98712 gam trên mỗi đồng Rup chuyển nhợng. Bên cạnh
tỷ giá Nhà nớc còn sử dụng tỷ giá kết toán nội bộ 1SUR=5,64VND
, đợc hình thành từ năm 1958 và đợc xác định trên cơ sở so sánh
giá cả hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam bằng đồng Rup nhân dân
tệ với giá hàng hoá đó bằng đồng Việt Nam trong 3 năm 1955,
1956, 1957. Tỷ giá kết toán nội bộ này dùng để thanh toán giữa các
tổ chức và đơn vị kinh tế Nhà nớc có thu chi ngoại tệ với ngân

hàng, tính thu chi với các đối tác ngoại thơng. Tỷ giá kết toán nội
bộ này đợc xác định cố định cho đến tận năm 1986 mới đợc điều
chỉnh lại là 1SUR=18VND, năm 1987 điều chỉnh lại là
1SUR=150VND , cuối năm 1988 mới đợc điều chỉnh lại là
1SUR=700VND và cho đến tháng 3 năm 1989 thì huỷ bỏ chế độ kết
toán nội bộ này. Sau khi bắt đầu có chủ trơng thu hút vốn đầu t
nớc ngoài (1985 ) thì vấn đề luồng ngoại tệ bằng Dola Mỹ vào Việt
Nam phải đợc tính đến ( nhất là khi Việt Nam thông qua luật đầu
t nớc ngoài vào năm 1987). Và TGHD chính thức giữa đồng Việt
Nam và Dola Mỹ đã đợc xác định một cách chủ quan theo tỷ giá
hiện tại giữa đồng Việt Nam và đồng Rup ( năm 1985:
1SUR=18VND và mối tơng quan Dola-Rup xem nh tơng đơng
1:1.Do đó, TGHD chính thức giữa đồng Việt Nam và Dola Mỹ vào
năm 1985 là 1USD=18VND ) . Cũng bắt đầu từ năm này, thị trờng
ngoại tệ chợ đen mà chủ yếu là thị trờng Dola Mỹ bắt đầu bột phát
một cách mạnh mẽ vơí sự trợ lực của ba dòng chảy là: dòng kiều hối
của kiều bào đổ về thay thế dân cho những kiện hàng quà biếu mà
một phần đáng kể là dới hình thức bất hợp pháp. Những lợng lớn
Tỷ giá hối đoái


Dola Mỹ đợc cất trữ từ khi miền Nam đợc giải phóng bởi các tiểu
t sản Sài Gòn cũ cũng bắt đầu đợc tung ra ít nhiều.Thứ ba, cùng
với việc xoá bỏ ngăn sông cấm chợ thì dòng chảy hàng buôn lậu qua
biên giới cũng gia tăng theo. Mức TGHD trên thị trờng chợ đen
đợc hình thành và vận động theo những tín hiệu quy luật thị trựờng
đã có một sự chệnh lệch lớn so với tỷ giá chính thức, sự bất hợp lý
trong việc xác lập TGHD ở giai đoạn này thực chất không quan
trọng đối với cả nền kinh tế nói chung vì tỷ giá là một loại giá cả,
mà bản thân phạm trù giá cả cơ bản là không tồn tại trong nền kinh

tế tập trung, bao cấp ngoại trừ việc có ảnh hởng xấu đến ngân sách
Nhà nớc.
Với việc thực hiện tỷ giá kết toán nội bộ, mức tỷ giá chính
thức thờng cố định trong thời gian tơng đối dài và thấp hơn rất
nhiều so với mức tỷ giá trên thị trờng.VD:giai đoạn từ năm 1985
đến 1988, 1 Rup có giá vào khoảng 1500 VND, 1 Dola có giá vào
khoảng 3000 VND . Trong khi đó, tỷ giá kết toán nội bộ trong thanh
toán quan hệ xuất nhập khẩu ở mức khoảng 1SUR=150VND và
1USD=225VND. Từ đó, 1 Rup nhập khẩu Nhà nớc phải bù lỗ một
số tiền là 1350 đồng và 1 Dola phải bù lỗ 2775 đồng. Nh vậy, nếu
kim ngạch trong năm 1987 là 650 triệu SUR-USD , trong đó khu
vực đồng Rup là 500 triệu và khu vực Dola là 150 triệu thì số tiền
phải bù lỗ lên đến 900 tỷ VND . Tình hình này dẫn đến một thực
trạng là những địa phơng, những ngành nghề nào đó càng xuất
khẩu nhiều thì ngân sách Nhà nớc càng phải bù lỗ nhiều. Nếu bù lỗ
không đủ hay chậm trễ sẽ dẫn đến tình trạng nợ chồng chất lẫn nhau
và thiếu vốn kinh doanh. Bên cạnh đó, do tỷ giá chính thức quy định
thấp, các tổ chức kinh tế và cá nhân có ngoại tệ lại tìm cách không
bán cho ngân hàng, các tổ chức đại diện nớc ngoài hoặc cá nhân
nớc ngoài cũng hạn chế việc chuyển tiền vào tài khoản ở ngân
hàng để chi tiêu mà thờng đa hàng từ nớc ngoài vào hay sử dụng
Tỷ giá hối đoái


trực tiếp tiền mặt trên thị trờng. Thực tế này vừa gây thiệt hại về
kinh tế cho Nhà nớc vừa làm phát sinh những tiêu cực trong đời
sống kinh tế xã hội, thúc đẩy mạnh mẽ những hoạt động phi pháp và
chính điều này tác động ngợc trở lại làm tình hình tỷ giá trong thị
trờng càng diễn biến phức tạp. Đối với nhập khẩu, Nhà nớc
thờng đứng ra phân phối nguyên vật liệu, trang thiết bị, máy móc

nhập khẩu cho các nghành đơn vị trong nền kinh tế với giá rẻ ( theo
tỷ giá chính thức). Nh vậy, các nghành, các đơn vị đợc phân phối
hàng nhập khẩu thì đợc chênh lệch giá. Do đó, cách thức xây dựng
và điều hành tỷ giá cùng cơ chế ngoại thơng nh vậy đã đợc xem
là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến những thâm hụt
trầm trọng trong ngân sách Nhà nớc ở giai đoạn này. Tóm lại,
TGHD đợc xác lập và vận hành ở Việt Nam trong giai đoạn trớc
tháng 3/1989 là một hệ thống khá phức tạp, đợc xác lập theo ý đồ
phục vụ cho kế hoạch do Nhà nớc quyết định, không xuất phát từ
luật thực tại trong nền kinh tế trong và ngoài nớc mà hậu quả là
làm cho việc tính toán,phản ánh thu chi ngân sách Nhà nớc bị sai
lệch, công tác điều hành ngân sách Nhà nớc gặp khó khăn, cản trở
các quan hệ kinh tế cả trong và ngoài nớc. Đây cũng là vừa một
biểu hiện và cũng vừa là kết quả của một nền kinh tế kế hoạch hoá
tập trung.
2. Sự vận động của tỷ giá và chính sách TGHĐ từ tháng
3/1989 đến nay, thời kì nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị
trờng với định hớng xã hội chủ nghĩa.
2.1. Giai đoạn từ 1989-1992.
Giai đoạn này có thể đợc coi là cái mốc quan trọng trong
phát triển TGHĐ ở nớc ta khi quan hệ ngoại thơng đợc bao cấp
với các thị trờng truyền thống Đông Âu và Liên Xô(cũ) bị gián
đoạn , khiến chúnh ta phải chuyển sang buôn bán với khu vực thanh
toán bằng dola Mỹ.Kể từ đó cơ chế tỷ giá ổn định đã đợc thay thế
Tỷ giá hối đoái


dần bằng cơ chế Nhà nớc điều tiết theo quan hệ thị trờng.Để đi tới
một chính sách TGHĐ tự chủ nh ngày nay,cơ chế quản lý ngoại tệ
nói chung , quản lý hối đoái nói riêng đã trải qua những diều chỉnh

lớn.
Chính trong giai đoạn này nền kinh tế chịu tác động của
chính sách thả nổi tỷ giá.Tỷ giá hối đoái VND/USD biến động
mạnh theo xu hớng giá trị đồng dola Mỹ tăng liên tục kèm theo
các cơn sốt, các đột biến với biên độ rất lớn ( Từ cuối năm 1990
trở đi ) . Đỉnh cao của mức tăng tỷ giá USD là cuối năm 1991 .
Ngày 4/12/1991 giá dola Mỹ trên thị trờng t nhân tại Hà nội và
Thành phố Hồ Chí Minh là 14.450 VND/USD . Giá dola trong
tháng 12/1990 đã tăng từ 60 đến 80% so với mức giá đầu năm.
Mặc dù trong giai đoạn 1989-1992 chính sách quản lý ngoại
tệ của Nhà Nớc đã có nhiều thay đổi , nh chuyển từ hình thức
quản lý theo tỷ giá kết toán nội bộ bình quân cho tất cả các nhóm
hàng hoá và duy trì tơng đối ổn định các tỷ giá này , hoặc nếu có
thay đổi thì cũng chỉ ở mức nhỏ nhằm ổn định hệ thống giá vật t và
xuất khẩu , nhập khẩu , nên tỷ giá công bố vẫn cách xa mức giá
hình thành trên thị trờng.
Diễn biến tỷ giá hối đoái từ năm1989 đến năm 1992 không
những nói nên khoảng cách giữa tỷ giá của nhà nớc với tỷ giá hình
thành trên thị trờng tự do mà còn phản ánh xu hớng tăng nhanh
của giá trị đồng dola ở cả khu vực nhà nớc lẫn thị trờng . Năm
1990,giá trị đồng dola vào thời điểm cuối năm đã tăng tới 50% so
với đầu năm . Mức tăng giá USD trong 1991 còn cao hơn .Tình
trạng leo thang của giá đồng dola đã kích thích tâm lý nắm giữ đồng
dola , nhằm đầu cơ ăn chênh lệch giá . Ngoại tệ vốn đã khan hiếm
lại không đợc dùng cho hoạt động xuất nhập khẩu mà còn bị buôn
bán vòng vèo giữa các tổ chức trong nớc . Mọi cố gắng quản lý
ngoại tệ của chính phủ ít đem lại hiệu quả . Giai đoạn này Ngân
Tỷ giá hối đoái



hàng không kiểm soát đợc lu thông tiền tệ . Trong các năm 1991-
1992 do ảnh hởng của sự đổ vỡ các mối quan hệ ngoại thơng với
LiênXô và Đông Âu , nhập khẩu giảm sút một cách nghiêm trọng (
năm 1991 là 357.0 triệu USD đến năm 1992 chỉ còn 91,1 triệu USD
). Các doanh nghiệp tiến hành nhập khẩu theo hình thức trả chậm và
phải chịu một lãi suất cao do thiếu dola , dola đã thiếu lại càng thiếu
dẫn đến các cơn sốt dola theo chu kỳ vào giai đoạn này.
Đến đầu năm 1992 Chính phủ đã có một số cải cách trong
việc điều chỉnh tỷ giá ( nh buộc các doanh nghiệp có dola phải gửi
vào ngân hàng , bãi bỏ hình thức quy địng tỷ giá theo nhóm hàng )
làm cho giá dola bắt đầu giảm ( cuối năm 1991 tỷ giá VND/USD có
lúc lên tới 14500 đến tháng 3/1992chỉ còn 11550 VND/USD và tiếp
tục giảm cho đến cuối năm 1992.
2.2. Giai đoạn cố định tỷ giá 1993-1996.
Vào thời điểm cuối năm 1992 , do kết quả sự can thiệp của
Ngân hàng Nhà nớc vào thị trờng ngoại tệ, tỷ giá dần ổn định
khiến cho lợng ngoại tệ đầu cơ trong các doanh nghiệp đợc tung
ra , hớng mạnh vào kinh doanh xuất nhập khẩu . Động thời có một
lợng ngoại tệ đợc chuyển về do ngời Việt Nam ở nớc ngoài gửi
về cho ngời thân tăng lên khoảng 300-400 triệu USD làm cung
ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ và kéo theo tỷ giá VND/USD giảm
mạnh. Lĩnh vực tài chính - tiền tệ bắt đầu trở ngại. Bên cạnh đó,
cùng với việc quản lý các đại lý thu đổi ngoại tệ còn lỏng lẻo, sự
chênh lệch lớn giữa TGHĐ ở thị trờng chính thức và thị trờng chợ
đen dẫn đến việc các đại lý lợi dụng danh nghĩa của Nhà nớc để
buôn bán trục lợi, các ngân hàng không thu mua đợc lợng ngoại
tệ đáng kể qua nguồn này. Một mặt tình trạng này làm hạn chế khả
năng kiểm soát các luồng ngoại tệ lu hành trong nớc. Mặt khác
làm gia tăng các giao dịch trên thị trờng chợ đen bất hợp pháp, tâm
lý đầu cơ, găm giữ ngoại tệ tăng mạnh.

Tỷ giá hối đoái


- Việc ngân hàng Nhà nớc khống chế chênh lệch giữa tỷ giá
mua và tỷ giá bán là cứng nhắc. Điều này làm cho tỷ giá vận hành
thoát ly hoàn toàn quan hệ cung cầu và không khuyến khích các tổ
chức tín dụng, các ngân hàng thuơng mại hoạt động theo đúng quan
hệ nội tại của nó và thực tế không ít các ngân hàng thơng mại đã
phá rào. Cuối cùng sự vận động của tỷ giá trong giai đoạn này đã
gợi nên một số điểm cần lu ý trong việc điều hành chính sách nh
sau:
* Trớc tiên, những vận động của TGHĐ trong giai đoạn này
cho thấy TGHĐ của Việt Nam phá nhạy cảm trớc những thay đổi
của tình hình kinh tế từ bên ngoài và yếu tố tâm lý, cán cân thơng
mại luôn là những yếu tố có trọng số lớn đối với sự vận động của
TGHĐ.
* Việc sử dụng các công cụ hành chính trong can thiệp vào tỷ
giá là cần thiết vào những lực cung cầu, ngoại tệ có những mất cân
bằng nhng phải đủ mạnh để yếu tố tâm lý không có khả năng phát
huy tác động xấu.
Các nghiệp vụ trên thị trờng còn quá sơ sài, khi thị trờng
mua 2.2. Giai đoạn từ 92 đến khi nổ ra cuộc khủng hoảng tài chính
Đông Nam á (tháng 7 năm 1997).
Trớc những tồn tại của việcthả nổi mất kiểm soát tỷ giá,
chính phủ đã thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá với những nội dung
cụ thể sau:
- Quy định biên độ giao động của tỷ giá với tỷ giá chính thức
đợc công bố bởi Ngân hàng nhà nớc (công bố tỷ giá chính thức
mỗi ngày và xác định rõ biên độ giao động); Tăng cờng sức mạnh
của các biện pháp hành chính mà cụ thể là buộc các đơn vị kinh tế

(trớc hết là đơn vị kinh tế quốc doanh) có ngoại tệ phải bán cho
Ngân hàng theo tỷ giá nhất định.

×