Tải bản đầy đủ (.pdf) (33 trang)

Giáo trình quan hệ kinh tế quốc tế - HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI VIỆT MỸ (BẢN 2) potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.04 KB, 33 trang )

HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI VIỆT MỸ
(BẢN 2)

I. VÀI NÉT VỀ LỊCH SỬ RA ĐỜI CỦA
HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI VIỆT –
MỸ
Ngày 03/02/1994, Chính phủ Hoa
Kỳ công bố bỏ lệnh cấm vận đối với Việt
Nam.
Quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam
và Mỹ được thiết lập ngày 12/7/1995.
Trong quãng thời gian đó, quan hệ giữa hai
nước ngày càng được cải thiện và có sự
phát triển đáng khích lệ.
Từ tháng 09/1996 đến ngày
03/07/2000, hai Bên Việt Nam và Hoa Kỳ
tiến hành 11 vòng đàm phán để soạn thảo
nội dung của Hiệp định Thương mại song
phương.
Từ sự hợp tác ban đầu còn nhỏ lẻ,
bó hẹp trong vấn đề nhân đạo, quan hệ hai
nước đã mở rộng sang các lĩnh vực chính
trị, kinh tế, giáo dục, y tế, khoa học - công
nghệ , và cả những lĩnh vực chưa từng có
trong lịch sử quan hệ hai nước, như tiếp
xúc quốc phòng, chống khủng bố, ma túy,
tội phạm xuyên quốc gia
Gần đây, hai bên đang trao đổi
những biện pháp nhằm đưa quan hệ lên
bước phát triển mới, hướng tới xây dựng
mối quan hệ hợp tác ổn định và lâu dài.


Trong quan hệ hai nước, hợp tác
kinh tế, thương mại luôn là lĩnh vực trọng
tâm và cũng là lĩnh vực đạt nhiều kết quả
tích cực nhất. Hiệp định Thương mại
Việt - Mỹ được ký kết vào 03/7/2000,
tháng 11/2001, Quốc hội nước
CHXHCN Việt Nam thông qua Hiệp
định Thương mại Việt - Mỹ. Ngày
11/12/2001 hiệp định có hiệu lực đã tạo cơ
sở pháp lý quan trọng cho việc thúc đẩy
quan hệ hợp tác kinh tế - thương mại và
đầu tư giữa hai nước.
Ngoài ra, hai bên đã ký một loạt
thỏa thuận và hiệp định kinh tế như Hiệp
định Dệt may (2003), Hiệp định Hàng
không (2003), Thư Thỏa thuận về Sáng
kiến cạnh tranh Việt Nam, Thỏa thuận về
hệ thống cấp visa điện tử cho hàng dệt may
xuất khẩu sang Mỹ và đang trao đổi, đàm
phán tiến tới ký kết Hiệp định khung về
Hợp tác kinh tế - kỹ thuật, Hiệp định Hàng
hải, Bản ghi nhớ về Hợp tác nông nghiệp

II. VAI TRÒ CỦA HIỆP ĐỊNH
THƯƠNG MẠI VIỆT MỸ SO VỚI
CÁC HIỆP ĐỊNH KHÁC
Trong số các hiệp định thương mại
song phương đã ký thì Hiệp định thương
mại Việt Mỹ có ảnh hưởng lớn nhất đối
với nền kinh tế Việt Nam vì:

- Mỹ là nước có nền kinh tế và
thương mại lớn nhất thế giới: Mỹ
chiếm gần 50% sản lượng công
nghiệp, gần 20% trị giá xuất nhập
khẩu của thế giới. Mỗi na8mMỹ
xuất khẩu gần 900 tỷ USD, nhập
khẩu gần 1300 tỷ USD. Năm 2001
GDP của Mỹ lên gần 10.000 tỷ
USD cho nên ký hiệp định với Mỹ
mở ra thị trường thuận lợi có dung
lượng lớn, cho hoạt động xuất khẩu
của Việt Nam.
- Nước Mỹ có vai trò nòng cốt, chi
phối sự hoạt động của các định chế
tài chính và thương mại quốc tế như
IMF, WTO, WB, ADB… cho nên
ký hiệp định thương mại với Mỹ tạo
ra khả năng tăng cường sự ảnh
hưởng thuận lợi của các tổ chức
trên với nền kinh tế của Việt Nam
và giúp đầy nhanh tiến trình hội
nhập của nước ta với khu vực và thế
giới.
- Hiệp định thương mại Việt - Mỹ
được soạn thảo dựa trên các tiêu
chuẩn nội dung của Tổ chức thương
mại thế giới (WTO) giành cho các
nước kém phát triển, cho nên ký
được hiệp định thương mại với Mỹ
là một bước tiếp quan trọng giúp

cho Việt Nam sớm gia nhập tổ chức
WTO.
- Dưới sự ảnh hưởng của Hiệp định
thương mại Việt Mỹ, hệ thống pháp
lý điều tiết nền kinh tế và thương
mại của Việt Nam sẽ thay đổi theo
hướng: đầy đủ, minh bạch, tiếp cận
với các chuẩn mực chung quốc tế
để tạo ra môi trường kinh doanh
bình đẳng, thuận lợi cho các doanh
nghiệp thuộc các khu vực kinh tế
phát triển.
- Từ sau khi Hiệp định thương mại
Việt - Mỹ có hiệu lực (11/12/2002)
thuế nhập khẩu hàng hóa từ Việt
Nam vào Mỹ giản từ 30-40% tạo
điều kiện nâng cao tính cạnh tranh
về giá cho hàng hóa của Việt Nam
trên thị trường này.
- Môi trường đầu tư Việt nam hấp
dẫn hơn vì: tính bình đẳng, rõ ràng,
không phân biệt đối xử và hàng hóa
của các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài sản xuất tại Việt Nam
đưa vào thị trường Mỹ cũng được
hưởng quy chế tối huệ quốc.

So sánh quan hệ thương mại Việt Mỹ
trước và sau khi ký Hiệp định với
quan hệ thương mại Việt Nam - EU

Quan hệ
thương mại
Việt Mỹ
Quan hệ
thương mại
Việt Nam - EU
Cộng đồng
người Việt ở
khu vực này
rất lớn với con
số trên

dưới 1.000.000
người
Cộng đồng
người Việt ở
khu vực này
khá lớn với con
số trên

dưới 500.000
người luôn luôn
hướng về Việt
Nam và muốn
có đóng góp để
xây dựng quê
hương.

- Xuất khẩu
của Việt Nam

vào Mỹ:
Trước năm
1994 không
đáng kể. Từ
năm 1994, sau
khi Mỹ bỏ lệnh
cấm vận, xuất
khẩu của Việt
Nam vào Mỹ
Xuất khẩu của
Việt Nam vào
EU




đạt 94,9 triệu
USD, đứng thứ
9 trong các
nước và vùng
lãnh thổ trên
thế giới nhập
khẩu từ Việt
Nam (sau Nhật
Bản,
Singapore,
Trung Quốc,
Đài Loan,
Hồng Kông,
Pháp, Đức,

Thái Lan).
Từ năm 1995,
sau khi quan
hệ ngoại giao
giữa 2 nước
được thiết lập,
xuất khẩu của
Việt Nam vào
Mỹ đứng thứ
8, đạt 199 triệu
USD (vượt qua
Thái Lan và
Pháp). Đến
năm 2000
đứng thứ 6, đạt
821,30 triệu
USD (vượt qua
Đức, Hồng
Kông, Hàn






Sáu tháng đầu
năm 2000, Việt
Nam xuất khẩu
sang EU đạt
khoảng 1.400

triệu USD.
Những mặt
hàng chủ yếu
Việt Nam xuất
khẩu sang EU
bao gồm hàng
dệt may, giày
dép, thủy sản,
cà-phê, thủ
công mỹ
nghệ
Năm 2003, tổng
kim ngạch xuất
khẩu của Việt
Nam sang EU
đạt hơn 3,8 tỷ
USD, tăng 25
lần so với năm
Quốc).
Từ năm 2001,
sau khi Hiệp
định Thương
mại song
phương Việt -
Mỹ được ký
kết, năm 2000
xuất khẩu của
Việt Nam vào
Mỹ đạt 821,30
triệu USD.

Năm 2001 đạt
1,05 tỷ USD
(vượt qua
Australia,
Singapore, Đài
Loan)
Năm 2002 đạt
2,394 tỷ USD,
năm 2004 đạt
5,2 tỷ USD,
chiếm xấp xỉ
20% tổng kim
ngạch xuất
khẩu của Việt
Nam.
Việt Nam hiện
là 1 trong hơn
30 nước xuất
khẩu lớn nhất
vào Mỹ; Mỹ là
1990. Có 5 mặt
hàng chủ lực là
giầy dép 1,6 tỷ
USD, dệt may
537 triệu USD,
cà phê và chè
gần 268 triệu
USD, thủ công
mỹ nghệ 172
triệu USD và

hải sản hơn 153
triệu USD.

một trong
những khách
hàng lớn nhất
của Việt Nam
về giày dép,
hàng dệt may,
thuỷ sản, dầu
thô, hạt điều,
sản phẩm gỗ,
hàng thủ công
mỹ nghệ, cà
phê, hạt tiêu


- Đầu tư trực
tiếp của Mỹ
vào Việt
Nam:
Tính đến
cuối tháng
5 năm
2005, đầu
tư trực tiếp
của Mỹ vào
Việt Nam
có 276 dự
án, với

tổng số vốn
đăng ký đạt
1.861 triệu
USD, đứng
thứ 9 trong
Đầu tư trực
tiếp của EU
vào Việt Nam:

Chính sách đầu
tư nước ngoài
và những điều
kiện vật chất,
nhất là hạ tầng
cơ sở của Việt
Nam, ngày
càng tốt hơn đã
và đang tạo môi
trường thuận lợi
để thu hút đầu
tư nước ngoài,
trong đó có các

nước EU. Tổng
các nước
và vùng
lãnh thổ
đầu tư vào
Việt Nam
(sau

Singapore,
Đài Loan,
Hàn Quốc,
Nhật Bản,
quần đảo
Virgin
thuộc Anh,
Hồng
Kông,
Pháp, Hà
Lan), trong
đó 5 tháng
đầu năm
2005 đứng
thứ 7.

số vốn đăng ký
đầu tư của EU
vào Việt Nam
tính đến nay đạt
tới 5.380 triệu
USD với 322
dự án được cấp
giấy phép. Tuy
vậy, 71 dự án
đã hết hạn, giải
thể hoặc
chuyển nhượng
vốn. EU còn
251 dự án với

tổng số vốn
đăng ký là
4.380 triệu
USD, chiếm
10% vốn dự án
và 12,2% vốn
đăng ký của các
dự án đang hoạt
động tại Việt
Nam.

Tính đến
31/12/2003, các
doanh nghiệp
EU đã đầu tư
gần 2,3 tỷ USD
trên tổng vốn
đăng ký hơn 5,8
tỷ USD vào 369
dự án. Trong
đó, đứng đầu là
các doanh
nghiệp Pháp
với 134 dự án,
trị giá hơn 2,1
tỷ USD, thứ 2
là các doanh
nghiệp Hà Lan
với 51 dự án, trị
giá hơn 2 tỷ

USD. Đầu tư
của EU tập
trung chủ yếu
vào các ngành
công nghiệp
như dầu khí,
điện, nước, xây
dựng cơ sở hạ
tầng, chế biến
nông sản thực
phẩm, viễn
thông, dịch vụ
tài chính, ngân
hàng Các dự
án đầu tư của
EU nhìn chung
hoạt động có
hiệu quả và
đóng góp tích
cực vào sự phát
triển kinh tế -
xã hội của Việt
Nam, đạt mức
doanh thu 2,3
tỷ USD, thu hút
hơn 23.000 lao
động Việt Nam.
Tuy vậy, so với
tiềm năng và
vốn đầu tư ra

nước ngoài của
EU, thì số vốn
họ đầu tư vào
Việt Nam còn
quá nhỏ bé.
Đây cũng là
điều mà các nhà
hoạch định
chính sách và
giới doanh
nghiệp của Việt
Nam phải suy
nghĩ làm sao
thu hút được
thêm đầu tư của
các nước EU
trong thời gian
tới.

- Du lịch Việt
- Mỹ:
Khách Mỹ đến
Việt Nam năm
1995, đứng thứ
5 sau Đài
Loan, Nhật
- Du lịch Việt
Nam - EU
Quan hệ du lịch
giữa Việt Nam

và EU cũng có
nhiều nét nổi
bật thông qua
Bản, Pháp và
Trung Quốc.
Năm 2000
đứng thứ 4 sau
Trung Quốc,
Đài Loan,
Nhật Bản. Từ
năm 2001
đứng thứ 2 sau
Trung Quốc.
Năm 2004 gấp
trên 4,7 lần
năm 2001,
bình quân 1
năm tăng
18,9%, cao gấp
đôi tốc độ
chung. 5 tháng
đầu năm 2005,
lượng khách
Mỹ đến Việt
Nam đạt trên
134,2 nghìn
lượt người,
tăng 14,2% so
với cùng kỳ
năm 2004.

những dự án hỗ
trợ ngành du
lịch Việt Nam,
góp phần hấp
dẫn một lượng
khách Châu Âu
đáng kể vào du
lịch và tìm hiểu
thị trường đầu
tư, kinh doanh
và buôn bán ở
Việt Nam. Đây
cũng là một
tiềm năng lớn
nếu chúng ta
biết khai thác sẽ
đóng góp
không nhỏ cho
sự phát triển
các mối quan
hệ hợp tác
khác, trước hết
là về chính trị,
kinh tế, thương
mại và đầu tư.
Tiếp tục mở
rộng hợp tác
trên các lĩnh
vực chuyên
ngành, nhân

Văn hóa, giáo
dục - đào tạo,
sự hợp tác giữa
Việt Nam và
EU ngày càng
đạo, song song
với việc tăng
cường hơn nữa
sự trao đổi về
văn hóa, quan
hệ giữa nhân
dân hai nước.
được mở rộng
và đi vào chiều
sâu. Trong
những năm từ
1996 đến 1999,
EU tài trợ cho
chương trình
"liên kết các
trường đại học
khoa học và kỹ
thuật" do cơ
quan đại học
của khối các
nước có sử
dụng tiếng
Pháp (AUF) tổ
chức. Tiếp đó là
dự án "hỗ trợ

Bộ Giáo dục và
Đào tạo" với 3
hợp phần chính
là hỗ trợ về thể
chế, về quản lý
và về sư phạm
nhằm tăng
cường hiệu quả
của mô hình
giảng dạy,
trước hết là
trong các
trường tiểu học.
Ngoài ra, hàng
trăm sinh viên,
nghiên cứu sinh
và công nhân
kỹ thuật của
Việt Nam sang
học tập, nghiên
cứu hoặc thực
tập tại các
trường đại học,
học viện, các cơ
sở công nghiệp
tại các nước EU
theo chương
trình hợp tác
ngắn hạn hoặc
dài hạn giữa hai

bên. Trong năm
1998-1999,
cuộc triển lãm
nghệ thuật
"Việt Nam ở
thế kỷ XX" đã
được tổ chức
thành công ở
Brussels (Bỉ) và
Palermo (Italy)
góp phần nâng
cao hình ảnh về
đất nước và con
người Việt
Nam với một
nền văn hóa
phong phú, đậm
đà bản sắc dân
tộc, nhưung
cũng rất gần gũi
với những giá
trị nhân văn
chung của nhân
loại. Nhiều hoạt
động văn hóa,
văn nghệ khác
cũng được phối
hợp tổ chức
giữa các đối tác
Việt Nam và

EU. Sự hợp tác
trong lĩnh vực
văn hóa, giáo
dục - đào tạo có
ý nghĩa lớn
trong quan hệ
giữa Việt Nam
và EU, và đang
có đà phát triển.

Kinh tế
Mỹ không
công nhận nền
kinh tế VN là
nền kinh tế thị
trường dẫn tới
việc hạn chế
năng lực
thương mại
của hàng hóa
VN
Kinh tế
EU đã chính
thức công nhận
Việt Nam là
nước có nền
kinh tế thị
trường. Sự công
nhận này tạo
thêm điều kiện

thuận lợi trong
quan hệ hợp tác
kinh tế, thương
mại và đầu tư
giữa Việt Nam
và EU.

Quan hệ hai
nước Việt Mỹ
đã đạt được
những bước
phát triển nhất
định, nhưng
vẫn chưa
tương xứng
với tiềm năng
hai nước. Vì
vậy, trong thời
gian tới, Chính
phủ hai nước
cần tiếp tục
khuyến khích
việc trao đổi
các đoàn đại
biểu chính
quyền, quốc
hội; Nâng cấp
các cuộc đối
thoại về các
vấn đề hai bên

cùng quan tâm,
thực hiện tốt
các hiệp định,
thỏa thuận
kinh tế đã có
và tiến tới
Quan hệ Việt
Nam với EU đã
chuyển từ hình
thái mang tính
chất chính trị -
ngoại giao là
chủ yếu sang
một hình thái
hợp tác năng
động, vừa song
phương, vừa đa
phương; từ tiếp
nhận viện trợ là
chủ yếu chuyển
dần sang hợp
tác kinh tế,
thương mại,
đầu tư, khoa
học - kỹ thuật
trên cơ sở hai
bên đều có lợi.
Quan hệ hợp
tác Việt Nam -
EU lại có thêm

điều kiện để
phát triển khi
sự hợp tác
ASEAN - EU
và hợp tác á -
hoàn tất việc
ký kết thêm
một số hiệp
định mới.

Âu (ASEM)
được quan tâm
thúc đẩy với
nhiều sáng kiến
và các dự án
hợp tác phong
phú, đa dạng và
đan xen lẫn
nhau.

III. NỘI DUNG CHÍNH CỦA HIỆP
ĐỊNH THƯƠNG MẠI VIỆT MỸ
Gồm 7 chương, là một văn bản đồ sộ,
chứa đựng nhiều điều và kèm theo các phụ
lục
Chương 1: Thương mại hàng hóa
Gồm 9 điều khoản và kèm
theo các phụ lục A, B, C, D,
E
Chương 2: Quyền sở hữu trí tuệ

Gồm 18 điều khỏan.
Chương 3: Thương mại dịch vụ
Gồm 11 điều khoản và kèm theo
các phụ lục F, G
Chương 4 Phát triển quan hệ đầu

Gồm 15 điều và kèm theo các Phụ
lục H, I, các văn bản bổ sung
Chương 5: Tạo điều kiện thuận
lợi cho kinh doanh
Chỉ bao gồm 3 điều khoản.
Chương 6: Các quy định liên
quan tới tính minh bạch , công
khai và quyền khiếu kiện
Chương 7: Những điều khoản
chung.
Bao gồm 7 điều khoản

Nội dung cốt lõi của Hiệp định thương
mại Việt Mỹ
Hiệp định chứa đựng 4 nội dung cơ bản
sau:
1. Về thương mại hàng hóa
Ngay lập tức và vô điều kiện, hai
Bên Mỹ và Việt Nam dành cho nhau quy
chế tối huệ quốc trong quan hệ thương mại
với nhau.
Trong thương mại hàng hóa, các
doanh nghiệp Việt nam có quyền tham gia
ngay lập tức phân phối hàng hóa tại Mỹ

nếu ta có khả năng. Còn các doanh nghiệp
Mỹ theo lộ trình về thời gian có quyền tổ
chức phân phối hàng hóa tại Việt Nam.
Hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam
đưa vào thị trường Mỹ được giảm thuế
nhập khẩu bình quân từ 30% - 40%. Và
hàng hóa của Mỹ đưa vào Việt Nam cũng
được hưởng quy chế tối huệ quốc.
2. Về bản quyền và tài sản trí tuệ
Về bản quyền, hai bên cam kết thực
hiện Hiệp định về sở hữu trí tuệ mà các
bên đã ký trước đó.
Về tài sản trí tuệ, hai bên thỏa thuận
thực hiện các công ước đa phương về vấn
đề này.
3. Về thương mại dịch vụ:
Hai nước sẽ mở cửa cho nhau: tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam
tự do kinh doanh dịch vụ tại Mỹ và các
doanh nghiệp Mỹ theo lộ trình được kinh
doanh dịch vụ tại Việt Nam.
4. Về họat động dầu tư
Hai bên cam kết dành thuận lợi cho
các nhà đầu tư được họat động kinh doanh
đầu tư trên thị trường của nhau phù hợp
với các thông lệ và quy định của quốc tế.

CHƯƠNG I: THƯƠNG MẠI HÀNG
HOÁ
Điều 1: Quy chế Tối huệ quốc (Quan hệ

Thương mại Bình thường) và hhông
phân biệt đối xử
1. Mỗi Bên dành ngay lập tức và vô
điều kiện cho hàng hoá có xuất xứ tại
hoặc được xuất khẩu từ lãnh thổ của
Bên kia sự đối xử không kém thuận
lợi hơn sự đối xử dành cho hàng hoá
tương tự có xuất xứ tại hoặc được
xuất khẩu từ lãnh thổ của bất cứ nước
thứ ba nào khác trong tất cả các vấn
đề liên quan tới:
A. mọi loại thuế quan và phí đánh
vào hoặc có liên quan đến việc nhập
khẩu hay xuất khẩu, bao gồm cả các
phương pháp tính các loại thuế quan
và phí đó;
B. phương thức thanh toán đối với
hàng nhập khẩu và xuất khẩu, và việc
chuyển tiền quốc tế của các khoản
thanh toán đó;
C. những quy định và thủ tục liên
quan đến xuất nhập khẩu, kể cả
những quy định về hoàn tất thủ tục
hải quan, quá cảnh, lưu kho và
chuyển tải;
D. mọi loại thuế và phí khác trong
nước đánh trực tiếp hoặc gián tiếp
vào hàng nhập khẩu;
E. luật, quy định và các yêu cầu khác
có ảnh hưởng đến việc bán, chào bán,

mua, vận tải, phân phối, lưu kho và
sử dụng hàng hoá trong thị trường nội
địa; và
F. việc áp dụng các hạn chế định
lượng và cấp giấy phép.
2. Các quy định tại khoản 1 của Điều
này sẽ không áp dụng đối với hành
động của mỗi Bên phù hợp với nghĩa
vụ của Bên đó trong Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO) và các hiệp định
trong khuôn khổ của tổ chức này. Tuy
vậy, một Bên sẽ dành cho các sản
phẩm có xuất xứ tại lãnh thổ Bên kia
sự đối xử Tối huệ quốc trong việc
giảm thuế do các đàm phán đa
phương dưới sự bảo trợ của WTO
mang lại, với điều kiện là Bên đó
cũng dành lợi ích đó cho tất cả các
thành viên WTO.
3. Những quy định tại khoản 1 của
Điều này không áp dụng đối với:
A. Những thuận lợi mà một trong hai
Bên dành cho liên minh thuế quan
hoặc khu vực mậu dịch tự do mà Bên
đó là thành viên đầy đủ; và
B. Những thuận lợi dành cho nước
thứ ba nhằm tạo thuận lợi cho giao
lưu biên giới.
4. Các quy định tại mục 1.F của Điều
này không áp dụng đối với thương

mại hàng dệt và sản phẩm dệt.
Điều 2: Đối xử quốc gia
1. Mỗi Bên điều hành các biện pháp
thuế quan và phi thuế quan có ảnh
hưởng tới thương mại để tạo cho
hàng hoá của Bên kia những cơ hội
cạnh tranh có ý nghĩa đối với các nhà
cạnh tranh trong nước.
2. Theo đó, không Bên nào, dù trực
tiếp hay gián tiếp, quy định bất cứ
loại thuế hoặc phí nội địa nào đối với
hàng hoá của Bên kia nhập khẩu vào
lãnh thổ của mình cao hơn mức được
áp dụng cho hàng hoá tương tự trong
nước, dù trực tiếp hay gián tiếp.
3. Mỗi Bên dành cho hàng hoá có
xuất xứ tại lãnh thổ của Bên kia sự
đối xử không kém thuận lợi hơn sự
đối xử dành cho hàng hoá nội địa
tương tự về mọi luật, quy định và các
yêu cầu khác có ảnh hưởng đến việc
bán hàng, chào bán, mua, vận tải,
phân phối, lưu kho và sử dụng trong
nước.
4. Ngoài những nghĩa vụ ghi trong
khoản 2 và 3 của Điều này, các khoản
phí và biện pháp qui định tại khoản 2
và 3 của Điều này sẽ không được áp
dụng theo cách khác đối với hàng
nhập khẩu hoặc hàng hoá trong nước

nhằm tạo ra sự bảo hộ đối với sản
xuất trong nước.
5. Các nghĩa vụ tại các khoản 2, 3 và
4 của Điều này phải tuân thủ các
ngoại lệ được quy định tại Điều III
của GATT 1994 và trong Phụ lục A
của Hiệp định này.
6. Phù hợp với các quy định của
GATT 1994, các Bên bảo đảm không
soạn thảo, ban hành hoặc áp dụng
những quy định và tiêu chuẩn kỹ
thuật nhằm tạo ra sự trở ngại đối với
thương mại quốc tế hoặc bảo hộ sản
xuất trong nước. Ngoài ra, mỗi Bên
dành cho hàng nhập khẩu từ lãnh thổ
của Bên kia sự đối xử không kém
thuận lợi hơn sự đối xử tốt nhất dành
cho hàng nội địa tương tự hoặc hàng
tương tự có xuất xứ từ bất cứ nước
thứ ba nào liên quan đến những quy
định và tiêu chuẩn kỹ thuật nêu trên,
kể cả việc kiểm tra và chứng nhận đạt
tiêu chuẩn. Theo đó, các Bên:
A. bảo đảm rằng, mọi biện pháp vệ
sinh hoặc vệ sinh thực vật không trái
với các quy định của GATT 1994 chỉ
được áp dụng ở mức cần thiết để bảo
vệ cuộc sống hoặc sức khoẻ của con
người, động vật hoặc thực vật, được
dựa trên cơ sở các nguyên lý khoa

học và không được duy trì nếu không
có bằng chứng đầy đủ (cụ thể như
đánh giá mức độ rủi ro), có tính đến
của những thông tin khoa học sẵn có
và điều kiện khu vực có liên quan,
chẳng hạn như những vùng không có
côn trùng gây hại;
B. bảo đảm rằng, những quy định về
kỹ thuật không được soạn thảo, ban
hành hoặc áp dụng nhằm tạo ra hoặc
có tác dụng tạo ra những trở ngại
không cần thiết đối với thương mại
quốc tế. Vì mục tiêu này, những quy
định về kỹ thuật sẽ không mang tính
chất hạn chế thương mại cao hơn mức
cần thiết để hoàn thành một mục tiêu
chính đáng có tính đến những rủi ro
mà việc không thi hành có thể gây ra.
Những mục tiêu chính đáng như vậy
bao gồm những yêu cầu an ninh quốc
gia; ngăn ngừa những hành vi lừa
đảo; bảo vệ sức khoẻ và an toàn cho
con người; đời sống và sức khoẻ động
thực vật, hoặc môi trường. Trong việc
đánh giá những rủi ro như vậy, các
yếu tố liên quan để xem xét bao gồm
những thông tin khoa học và kỹ thuật
có sẵn, công nghệ chế biến có liên
quan hoặc các ý định sử dụng cuối
cùng của sản phẩm.

7. Ngay sau khi Hiệp định này có
hiệu lực, mỗi Bên dành cho công dân
và công ty Bên kia quyền kinh doanh.
Đối với Việt Nam, quyền kinh doanh
đó được dành theo lộ trình như sau:
A. Ngay sau khi Hiệp định này có
hiệu lực và phù hợp với các hạn chế
được quy định tại Phụ lục B và C, tất
cả các doanh nghiệp trong nước được
phép kinh doanh xuất nhập khẩu mọi
hàng hoá;
B. Ngay sau khi Hiệp định này có
hiệu lực và phù hợp với các hạn chế
được quy định tại Phụ lục B và C, các
doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp
của công dân và công ty Hoa Kỳ
được phép nhập khẩu các hàng hoá và
sản phẩm để sử dụng vào/hay có liên
quan đến hoạt động sản xuất, hoặc
xuất khẩu của doanh nghiệp đó cho
dù các sản phẩm nhập khẩu đó có
được xác định một cách cụ thể hay
không trong giấy phép đầu tư ban đầu
của họ.
C. Ba năm sau khi Hiệp định này có
hiệu lực và phù hợp với các hạn chế
được qui định tại Phụ lục B, C và D,
các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực
tiếp của các công dân và công ty Hoa
Kỳ vào các lĩnh vực sản xuất và chế

tạo được phép kinh doanh xuất nhập
khẩu, với điều kiện là các doanh
nghiệp này (i) có các hoạt động kinh
doanh to lớn trong lĩnh vực sản xuất
và chế tạo; và (ii) đang hoạt động hợp
pháp tại Việt Nam;
D. Ba năm sau khi Hiệp định này có
hiệu lực, phù hợp với các hạn chế qui
định tại phụ lục B, C và D, các công
dân và công ty Hoa Kỳ được phép
tham gia liên doanh với các đối tác
Việt Nam để tiến hành kinh doanh
xuất nhập khẩu tất cả các mặt hàng.
Phần góp vốn của các công ty Hoa
Kỳ trong liên doanh không vượt quá
49% vốn pháp định của liên doanh.
Ba năm sau đó mức hạn chế đối với
về sở hữu của Hoa Kỳ là 51%.
E. Bảy năm sau khi Hiệp định này có
hiệu lực, phù hợp với các hạn chế qui
định tại Phụ lục B, C và D, các công
ty Hoa Kỳ được phép thành lập công
ty 100% vốn Hoa Kỳ để kinh doanh
xuất nhập khẩu mọi mặt hàng.
8. Nếu một Bên chưa tham gia Công
ước Quốc tế về Hệ thống Hài hoà về
Mã và Miêu tả Hàng hoá, thì Bên đó
sẽ nỗ lực hợp lý để tham gia Công
ước đó ngay khi có thể, nhưng không
muộn quá một năm kể từ ngày Hiệp

định có hiệu lực.
Điều 3: Những nghĩa vụ chung về
thương mại
1. Các Bên nỗ lực tìm kiếm nhằm đạt
được sự cân bằng thoả đáng về các cơ
hội tiếp cận thị trường thông qua việc
cùng cắt giảm thoả đáng thuế và các
hàng rào phi quan thuế đối với
thương mại hàng hoá do đàm phán đa
phương mang lại.
2. Các Bên sẽ, trừ khi được quy định
cụ thể trong Phụ lục B và C của Hiệp
định này, loại bỏ tất cả các hạn chế,
hạn ngạch, yêu cầu cấp phép và kiểm
soát xuất khẩu và nhập khẩu đối với
mọi loại hàng hoá và dịch vụ, ngoại
trừ những hạn chế, hạn ngạch, yêu
cầu cấp phép và kiểm soát được
GATT 1994 cho phép.
3. Trong vòng hai (02) năm kể từ khi
Hiệp định này có hiệu lực, các Bên
hạn chế tất cả các loại phí và phụ phí
dưới bất kỳ hình thức nào (trừ thuế
xuất nhập khẩu và các loại thuế khác
theo Điều 2 của Chương này) áp dụng
đối với hay có liên quan đến xuất
nhập khẩu, ở mức tương xứng với chi
phí của dịch vụ đã cung ứng và đảm
bảo rằng những loại phí và phụ phí đó
không phải là một sự bảo hộ gián tiếp

đối với sản xuất trong nước hoặc là
thuế đánh vào hàng nhập khẩu hay
xuất khẩu vì mục đích thu ngân sách;
4. Trong vòng hai (02) năm kể từ khi
Hiệp định này có hiệu lực, các Bên áp
dụng hệ thống định giá hải quan dựa
trên giá trị giao dịch của hàng nhập
khẩu để tính thuế hoặc của hàng hoá
tương tự, chứ không dựa vào giá trị
của hàng hoá theo nước xuất xứ, hoặc
giá trị được xác định một cách võ
đoán hay không có cơ sở, với giá trị
giao dịch là giá thực tế đã thanh toán
hoặc phải thanh toán cho hàng hoá
khi được bán để xuất khẩu sang nước
nhập khẩu phù hợp với những tiêu
chuẩn được thiết lập trong Hiệp định
về việc Thi hành Điều VII của GATT
1994; và
5. Trong vòng hai (02) năm kể từ khi
Hiệp định này có hiệu lực, các Bên
bảo đảm rằng, các khoản phí và phụ
phí qui định tại khoản 3 của Điều này
và hệ thống định giá hải quan qui
định tại khoản 4 của Điều này được
quy định hay thực hiện một cách
thống nhất và nhất quán trên toàn bộ
lãnh thổ hải quan của mỗi Bên.
6. Ngoài các nghĩa vụ qui định tại
Điều I, Việt nam dành sự đối xử về

thuế cho các sản phẩm có xuất xứ từ
lãnh thổ hải quan của Hoa kỳ phù hợp
với các quy định của Phụ lục E.
7. Không Bên nào yêu cầu các công
dân hoặc công ty của nước mình tham
gia vào phương thức giao dịch hàng
đổi hàng hay thương mại đối lưu với
công dân hoặc công ty của Bên kia.
Tuy nhiên, nếu các công dân hoặc
công ty quyết định tiến hành giao
dịch theo phương thức hàng đổi hàng
hay thương mại đối lưu, thì các Bên
có thể cung cấp cho họ thông tin để
tạo thuận lợi cho giao dịch và tư vấn
cho họ như khi các Bên cung cấp đối
với hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu
khác.
8. Hoa Kỳ sẽ xem xét khả năng dành
cho Việt Nam Chế độ Ưưu đãi Thuế
quan Phổ cập.
Điều 4: Mở rộng và thúc đẩy thương
mại
Mỗi Bên khuyến khích và tạo thuận
lợi cho việc tổ chức các hoạt động
xúc tiến thương mại, như hội chợ,
triển lãm, trao đổi các phái đoàn và
hội thảo thương mại tại lãnh thổ nước
mình và lãnh thổ của Bên kia. Tương
tự, mỗi Bên khuyến khích và tạo
thuận lợi cho các công dân và công ty

của nước mình tham gia vào các hoạt
động đó. Tuỳ thuộc vào luật pháp
hiện hành tại lãnh thổ của mình, các
Bên đồng ý cho phép hàng hoá sử
dụng trong các hoạt động xúc tiến đó
được nhập khẩu và tái xuất khẩu mà
không phải nộp thuế xuất nhập khẩu,
với điều kiện hàng hoá đó không
được bán hoặc chuyển nhượng dưới
hình thức khác.
Điều 5: Văn phòng Thương mại Chính
phủ
1. Tuỳ thuộc vào luật pháp và quy
chế của mình về cơ quan đại diện
nước ngoài, mỗi Bên cho phép văn
phòng thương mại chính phủ của Bên
kia được thuê công dân của nước chủ
nhà và, phù hợp với luật và thủ tục
nhập cư, được phép thuê công dân
của nước thứ ba.
2. Mỗi Bên bảo đảm không ngăn cản
các công dân của nước chủ nhà tiếp
cận văn phòng thương mại chính phủ
của Bên kia.
3. Mỗi Bên cho phép công dân và
công ty của mình tham dự vào các
hoạt động vì mục đích thương mại
của văn phòng thương mại chính phủ
của Bên kia.
4. Mỗi Bên cho phép nhân viên của

văn phòng thương mại chính phủ của
Bên kia được tiếp cận các quan chức
liên quan của nước chủ nhà kể cả các
đại diện của công dân và công ty của
Bên chủ nhà.
Điều 6:Hành động Khẩn cấp đối với
Nhập khẩu
1. Các Bên đồng ý tham vấn nhanh
chóng theo yêu cầu của một Bên khi
việc nhập khẩu hiện tại hay trong
tương lai hàng hoá có xuất xứ từ lãnh
thổ Bên kia gây ra hoặc đe dọa gây ra
hay góp phần đáng kể làm rối loạn thị
trường. Sự rối loạn thị trường xảy ra
trong một ngành sản xuất trong nước
khi việc nhập khẩu một sản phẩm
tương tự hay cạnh tranh trực tiếp với
một sản phẩm do ngành sản xuất
trong nước đó sản xuất ra, tăng lên
một cách nhanh chóng, hoặc là tuyệt
đối hay tương đối, và là một nguyên
nhân đáng kể gây ra, hay đe dọa gây
ra thiệt hại về vật chất đối với ngành
sản xuất trong nước đó. Việc tham
vấn được quy định tại khoản này
nhằm mục đích: (a) trình bày và xem
xét các yếu tố liên quan tới việc nhập
khẩu đó mà việc nhập khẩu đó có thể
gây ra hoặc đe dọa gây ra, hay góp
phần đáng kể làm rối loạn thị trường,

và (b) tìm ra biện pháp ngăn ngừa hay
khắc phục sự rối loạn thị trường đó.
Việc tham vấn như vậy sẽ được kết
thúc trong vòng sáu mươi ngày kể từ
ngày đưa ra yêu cầu tham vấn, trừ khi
các Bên có thoả thuận khác.
2. Trừ khi các bên thoả thuận được
một giải pháp khác trong thời gian
tham vấn, Bên nhập khẩu có thể: (a)
áp đặt các hạn chế định lượng nhập
khẩu, các biện pháp thuế quan hay bất
kỳ các hạn chế nào khác hoặc biện
pháp nào khác mà Bên đó cho là phù
hợp, và trong khoảng thời gian mà
Bên đó cho là cần thiết, để ngăn chặn
hay khắc phục tình trạng thị trường
thực tế bị rối loạn hay đe dọa bị rối
loạn, và (b) tiến hành các biện pháp
thích hợp để bảo đảm rằng, việc nhập
khẩu từ lãnh thổ của Bên kia tuân thủ
các hạn chế định lượng hay các hạn
chế khác được áp dụng liên quan đến
sự rối loạn của thị trường. Trong
trường hợp này, Bên kia được tự ý
đình chỉ việc thi hành các nghĩa vụ
của mình theo Hiệp định này với giá
trị thương mại cơ bản tương đương.
3. Nếu theo đánh giá của Bên nhập
khẩu, hành động khẩn cấp là cần thiết
để ngăn chặn hay khắc phục sự rối

loạn thị trường như vậy thì Bên nhập
khẩu có thể tiến hành hành động đó
vào bất kỳ thời điểm nào mà không
phải thông báo trước hoặc tham vấn,
với điều kiện là việc tham vấn sẽ
được thực hiện ngay sau khi tiến hành
hành động đó.
4. Các Bên thừa nhận rằng, việc chi
tiết hoá các quy định tự vệ nhằm
chống rối loạn thị trường tại Điều này
không làm tổn hại đến quyền của mỗi
Bên áp dụng pháp luật và các quy
định của mình đối với thương mại
hàng dệt và sản phẩm dệt, và luật và
quy định của mình đối với thương
mại không lành mạnh kể cả các đạo
luật chống phá giá và luật thuế đối
kháng.
Điều 7: Tranh chấp Thương mại
Theo Chương I của Hiệp định này:
1. Công dân và công ty của mỗi Bên
được dành sự đối xử quốc gia trong
việc tiếp cận tất cả các toà án và cơ
quan hành chính có thẩm quyền tại
lãnh thổ của Bên kia, với tư cách là
nguyên đơn, bị đơn hoặc những
người liên quan khác. Họ không được
quyền đòi hoặc được hưởng quyền
miễn bị kiện hoặc miễn thực hiện
quyết định của toà án, thủ tục công

nhận và thi hành các quyết định trọng
tài, hoặc nghĩa vụ pháp lý khác trên
lãnh thổ của Bên kia liên quan tới các
giao dịch thương mại. Họ cũng không
được đòi hoặc hưởng quyền miễn
thuế đối với các giao dịch thương mại
trừ khi được quy định trong các hiệp
định song phương khác.
2. Các Bên khuyến khích việc sử
dụng trọng tài để giải quyết các tranh
chấp phát sinh từ các giao dịch
thương mại được ký kết giữa các
công dân và công ty của Cộng hoà Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam và các công
dân và công ty của Hợp Chúng Quốc
Hoa Kỳ. Việc giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài như vậy có thể được
quy định bằng các thoả thuận trong
các hợp đồng giữa các công dân và
công ty đó hoặc bằng văn bản thoả
thuận riêng rẽ giữa họ.
3. Các bên trong các giao dịch này có
thể quy định việc giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài theo bất kỳ quy
tắc trọng tài nào đã được quốc tế
công nhận, kể cả các Quy tắc của
UNCITRAL ngày 15 tháng 12 năm
1976 và mọi sửa đổi của các qui tắc
này, trong trường hợp này các bên
cần xác định một Cơ quan Chỉ định

theo những quy tắc nói trên tại một
nước không phải là Cộng hoà Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam hoặc Hợp
Chúng Quốc Hoa Kỳ.
4. Các bên tranh chấp, trừ trường hợp
có thoả thuận khác, cần cụ thể hoá địa
điểm trọng tài tại một nước không
phải là Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam hoặc Hợp Chúng Quốc
Hoa Kỳ và nước đó là thành viên
tham gia Công ước New York ngày
10 tháng 6 năm 1958 về Công nhận
và Thi hành các phán quyết trọng tài
nước ngoài.
5. Không có quy định nào trong Điều
này được hiểu là ngăn cản, và các
Bên không ngăn cấm các bên tranh
chấp thoả thuận về bất cứ hình thức
trọng tài nào khác, hoặc về luật được
áp dụng trong giải quyết trọng tài,
hoặc những hình thức giải quyết tranh
chấp khác mà các Bên cùng mong
muốn và cho là phù hợp nhất cho các
nhu cầu cụ thể của mình.
6. Mỗi Bên bảo đảm tại lãnh thổ của
mình có một cơ chế hiệu quả để công
nhận và thi hành các phán quyết trọng
tài.
Điều 8: Thương mại Nhà nước
1. Các Bên có thể thành lập hoặc duy

trì doanh nghiệp nhà nước, hay dành
cho một doanh nghiệp nhà nước bất
kỳ, trên thực tế hay trên danh nghĩa,
sự độc quyền hay đặc quyền nhập
khẩu và xuất khẩu các sản phẩm liệt
kê tại Phụ lục C, tuy nhiên với điều
kiện là doanh nghiệp bất kỳ đó, trong
hoạt động mua và bán của mình liên
quan đến hàng xuất khẩu hay hàng
nhập khẩu, cũng phải hoạt động phù
hợp với những nguyên tắc chung là
không phân biệt đối xử, như được
quy định trong Hiệp định này đối với
các biện pháp của chính phủ có ảnh
hưởng đến hàng nhập khẩu và xuất
khẩu của các công ty thương mại tư
nhân.
2. Các quy định tại khoản 1 của Điều
này sẽ được hiểu là yêu cầu các
doanh nghiệp như vậy, có cân nhắc
thích đáng tới các quy định khác của
Hiệp định này, thực hiện những việc
mua và bán nói trên hoàn toàn chỉ căn
cứ vào các tính toán thương mại, bao
gồm giá cả, chất lượng, khả năng
cung ứng, khả năng tiếp thị, vận tải
và các điều kiện mua hoặc bán khác,
và dành cho các doanh nghiệp của
Bên kia cơ hội thoả đáng, phù hợp
với tập quán kinh doanh thông

thường, để cạnh tranh trong việc tham
gia vào các vụ mua hoặc bán đó.
3. Những quy định trong khoản 1 của
Điều này không áp dụng đối với việc
nhập khẩu các sản phẩm cho tiêu
dùng trước mắt hoặc lâu dài của
Chính phủ và không được bán lại
hoặc sử dụng để sản xuất ra hàng hoá
để bán. Đối với việc nhập khẩu này,
mỗi Bên dành sự đối xử công bằng và
bình đẳng cho thương mại của Bên
kia.
Điều 9: Định nghĩa
Các thuật ngữ dùng trong Chương
này được hiểu như sau:
1. "công ty" có nghĩa là bất kỳ một
thực thể nào được thành lập hay tổ
chức theo luật áp dụng, bất kỳ vì mục
đích lợi nhuận hay phi lợi nhuận, và
do chính phủ hay tư nhân sở hữu hoặc
kiểm soát, và bao gồm công ty, công
ty tín thác, công ty hợp danh, doanh
nghiệp một chủ, chi nhánh, liên
doanh, hiệp hội hay các tổ chức khác.
2. "doanh nghiệp" là một công ty.
3. "công dân" là một thể nhân và là
công dân của một Bên theo luật áp
dụng của Bên đó.
4. "tranh chấp thương mại" là tranh
chấp phát sinh giữa các bên trong một

giao dịch thương mại.
5. "quyền kinh doanh" là quyền tham
gia vào các hoạt động nhập khẩu hay
xuất khẩu.

IV. THỰC TRẠNG NỀN KINH TẾ
VIỆT NAM HIỆN NAY
Sau đây là số liệu về tổng sản phẩm
quốc nội của Việt Nam theo giá so sánh
năm 1994 do Tỏng cục Thống kê công
bố:
Năm

Tổng sản
phẩm
quốc nội
(nghìn tỷ
đồng)
Tốc độ
tăng so với
năm trước
(%)
1986

109,2 2,8
1987

113,1 3,6
1988


120,0 6,0
1989

125,6 4,7
1990

132,0 5,1
1991

139,6 5,8
1992

151,8 8,7
1993

164,1 8,1
1994

178,5 8,8
1995

195,6 9,5
1996

213,8 9,3
1997

231,3 8,2
1998


244,7 5,8
1999

256,2 4,8
2000

273,6 6,8
2001

292,5 6,9
2002

313,2 7,1
2003

336,2 7,3
2004

362,4 7,8
2005

393,0 8,4
Dù có mức tăng trưởng ấn tượng tới
23% trong năm 1999 ở lĩnh vực xuất khẩu
đạt tới 11.5 tỷ dollar, sự suy giảm rõ rệt
trong cam kết đầu tư nước ngoài báo trước
một sự giảm sút tăng trưởng kinh tế so với
giai đoạn đầu thập kỷ 1990. Việc chính
phủ kiểm soát nền kinh tế cộng với một
đồng tiền tệ không chuyển đổi được đã bảo

vệ Việt Nam khỏi những tác động nghiêm
trọng từ cuộc Khủng hoảng tài chính Đông
Á. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng cộng với
việc để mất đà tăng trưởng trong giai đoạn
cải cách kinh tế đầu tiên cũng giúp nước
này nhận thấy những vấn đề kém hiệu quả
nghiêm trọng bên trong cơ cấu kinh tế.
Vị thế kinh tế Việt Nam sau cuộc
khủng hoảng Đông Á cũng đáng lo ngại,
nhấn mạnh sự ổn định kinh tế vi mô hơn là
sự tăng trưởng. Trong khi đất nước đang
tiến về một nền kinh tế theo định hướng thị
trường, chính phủ Việt Nam tiếp tục quản
lý chặt chẽ các lĩnh vực chính của nền kinh
tế, như hệ thống ngân hàng, các doanh
nghiệp nhà nước, và các lĩnh vực đầu tư
nước ngoài.
Việc ký kết Thoả thuận thương mại
song phương (BTA) ngày 13 tháng 7, 2000
giữa Việt Nam và Hoa Kỳ là một mốc
quan trọng đối với kinh tế Việt Nam. BTA
khiến hàng hoá Việt Nam được hưởng quy
chế Quan hệ thương mại bình thường
(NTR) trên thị trường Hoa Kỳ. Khả năng
tiếp cận thị trường Hoa Kỳ sẽ cho phép
Việt Nam nhanh chóng tiếp tục quá trình
chuyển đổi nền kinh tế sang nền kinh tế
dựa trên sản xuất với định hướng xuất
khẩu. Nó cũng khiến đầu tư nước ngoài
vào Việt Nam, không chỉ từ Hoa Kỳ mà

còn từ Châu Âu, Châu Á, và các vùng khác
tăng thêm.
Nông nghiệp và Công nghiệp
Sau nhiều biện pháp cải cách ruộng
đất, hiện Việt Nam là nhà sản xuất đào lộn
hột lớn nhất thế giới với một phần ba thị
trường toàn cầu và nhà xuất khẩu gạo lớn
thứ hai thế giới. Bên cạnh gạo, các mặt
hàng xuất khẩu chính khác là hồ tiêu,cà
phê, chè, cao su, và các sản phẩm thuỷ sản.
Tuy nhiên, phần trăm nông nghiệp trong
toàn cảnh kinh tế đã có sự suy giảm, từ
mức 42% GDP năm 1989 xuống còn 26%
năm 1999, bởi sản lượng sản xuất trong
các lĩnh vực khác đã tăng lên.
Song song với những nỗ lực tăng
sản lượng nông nghiệp, Việt Nam đã tìm
cách tăng cường sản lượng sản phẩm công
nghiệp. Công nghiệp chiếm 32.5% GDP
năm 1999. Tuy nhiên, đa số các ngành
công nghiệp nặng – xi măng, phosphate,
thép vân vân – đều ở tình trạng trì trệ hay
thụt lùi. Tuy vậy, đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) – đa số tập trung vào các vùng
công nghiệp mới ở phía nam – dù sao đã
cho thấy một số bước hướng về việc
chuyển đổi sang một nền kinh tế công
nghiệp.
Ngoài ra, Việt Nam đã có được một số
thành công trong tăng trưởng xuất khầu

các mặt hàng cần nhiều nhân công trong
những năm gần đây.
Mỏ là một lĩnh vực công nghiệp quan
trọng ở Việt Nam. Than là một mặt hàng
xuất khẩu chính của nước này. Các xí
nghiệp hoá chất tại Việt Nam đang dần
phát triển. Đóng góp vào việc cải thiện
tổng thể nền kinh tế.
Thương mại và Cân bằng thanh toán
Từ cuối thập kỷ 1970 tới thập kỷ
1990, Việt Nam là một thành viên của
Comecon, và vì thế phụ thuộc nhiều vào
thương mại với Liên bang xô viết và các
nước đồng minh Đông Âu. Sau khi
Comecon giải tán và mất đi các đối tác
thương mại truyền thống, Việt Nam buộc
phải tự do hoá thương mại, phá giá tiền tệ
để tăng cường xuất khẩu, và tiến hành
chính sách tư bản hoá kinh tế vùng cũng
như quốc tế.
Trong suốt thập niên 1990, xuất
khẩu tăng trưởng ngoạn mục ở mức 20%-
30% một số năm. Năm 1999, xuất khẩu
chiếm tới 40% GDP, một con số ấn tượng
tại vùng Châu Á đang hồi phục sau khủng
hoảng. Những nỗ lực nhằm kiểm soát mức
tăng trưởng nhập khẩu của Việt Nam khá
thành công. Trong bốn năm qua, mức nhập
khẩu khá ổn định. Năm 1999, trong hai
năm liên tiếp, Việt Nam có thặng dư trong

thanh toán thương mại. Thặng dư thương
mại của Việt Nam không chỉ xuất phát từ
tăng trưởng xuất khẩu mạnh mẽ mà còn tự
những hộ trợ phát triển chính thức cũng
như số tiền được gửi về từ những người
Việt ở nước ngoài. Tổng số nợ nước ngoài
của Việt Nam ở mức 37.1% GDP năm
1999, tương đương 10.6 tỷ dollar.

Bảng: Tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu
trung bình hàng năm(%)
Giai
đoạn
Xuất
khẩu
Nhập
khẩu
khẩu
1986-
1990
28,0 8,2
1991-
1995
17,8 24,3
1996-
2000
21,6 13,9
2001-
2005
17,5 18,8

Nguồn: Tổng cục Thống kê
Khác
GDP:
 Sức mua tương đương:
$203.7 B (2003 ước
tính)
 Tỷ lệ tăng trưởng thật sự:
7.2% (2003 ước tính)
 Trên đầu người: sức mua
tương đương - $2,500
(2003 ước tính)
 Tỷ lệ theo lĩnh vực:
o nông nghiệp: 21.8%
o công nghiệp: 39.7%
o dịch vụ: 38.5% (2003
ước tính)
Dân số:
 dưới mức nghèo khổ:
37% (1998 ước tính)
 thu nhập hộ hay tiêu thụ
theo phần trăm:
o thấp nhất 10%: 3.6%
o cao nhất 10%: 29.9%
(1998)
Lực lượng lao động:
 45.74 triệu (2003 ước
tính)
 theo nghề nghiệp:
o Nông nghiệp 63%
o Công nghiệp và dịch

vụ 37% (2000 ước
tính)
 Tỷ lệ thất nghiệp: 6.1%
(2003 ước tính)
Ngân sách:
 Thu: 8.689 tỷ dollar
 Chi: $9.718 tỷ dollar,
gồm chi phí vốn1.8 tỷ
dollar (2003 ước tính)
Sản xuất công nghiệp:
 Sản phẩm: chế biến thực
phẩm, áo quần, giầy, máy
xây dựng, mỏ, xi măng,
phân bón hoá chất, kính,
săm lốp, dầu mỏ, than,
thép, giấy
 Tỷ lệ tăng trưởng: 16%
(2003 ước tính)
Điện:
 Sản xuất: 29,800 GWh
(2001)
 Theo nguồn:
o Nhiên liệu hoá thạch:
12.95%
o Nước: 87.05%
o Hạt nhân: 0%
o Khác: 0% (1998)
 Tiêu thụ: 27,710 GWh
(2001)
 Xuất khẩu: 0 kWh (2001)

 Nhập khẩu: 0 kWh
(2001)
Nông nghiệp:
 Sản phẩm: gạo, ngô,
khoai tây, cao su, đỗ
tương, cà phên, chè,
chuối, gà, lợn, cá
Xuất khẩu:
 19.88 tỷ dollar (f.o.b.,
2003 ước tính)
 Các hàng hoá: dầu thô,
sản phẩm biển, gạo, cà
phê, cao su, chè, may
mặc, giầy
 Đối tác: Nhật Bản, Đức,
Singapore, Đài Loan,
Hồng Kông, Pháp, Hàn
Quốc, Hoa Kỳ, Cộng hoà
Nhân dân Trung Hoa
Nhập khẩu:
 $22.5 tỷ dollar (f.o.b.,
2003 ước tính)
 Hàng hoá: máy móc và
thiết bị, sản phẩm hoá
dầu, phân bón, các sản
phẩm thép, nguyên liệu
bông, ngũ cốc, xi măng,
xe máy
 Đối tác: Singapore, Hàn
Quốc, Nhật Bản, Pháp,

Hồng Kông, Đài Loan,
Thái Lan, Thuỵ Điển
Nợ:
 Nước ngoài: 14.69 tỷ
dollar (2003)
Trợ giúp kinh tế
 Nhận: 2.8 tỷ dollar tín
dụng và các khoản bảo
đảm từ các nhà tài trợ
trong năm 2000 (2004)
Tiền tệ:
 Tỷ lệ lạm phát (giá hàng
hoá tiêu dùng): 4% (1999
ước tính)
 Tỷ lệ trao đổi: đồng (D)
trên dollar Mỹ 1 - 15,788
(tháng 1, 2005), 14,020
(tháng 1, 2000), 13,900
(tháng 12, 1998), 11,100
(tháng 12, 1996), 11,193
(1995 trung bình), 11,000
(tháng 10, 1994), 10,800
(tháng 11, 1993)

V THỰC TRẠNG DOANH NGHIỆP
VIỆT NAM HIỆN NAY
V.1 Theo điều tra của Phòng Thương
mại và Công nghiệp Việt Nam
Về năng lực xuất khẩu và khả năng
cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất

công nghiệp, chỉ có 23,8% DN có hàng
XK, 13,7% DN có triển vọng XK và
62,5% hoàn toàn chưa có khả năng tham
gia XK. Hơn nữa, các DN còn đang phải
chịu sức ép mất thị trường nội địa khi hàng
rào thuế quan bảo hộ đang dần bị bãi bỏ.

Nguyên nhân của tình trạng trên,
ngoài việc do chưa xây dựng được chiến
lược kinh doanh, nghiên cứu thị trường,
thiếu hiểu biết về khách hàng và đối thủ
cạnh tranh thì yếu tố cơ bản là do các
DN vẫn theo lối tư duy truyền thống là dựa
vào lợi thế sức cạnh tranh của nguồn tài
nguyên phong phú và nhân công giá rẻ, mà
không chủ động chuyển sang cạnh tranh
bằng tăng năng suất lao động và áp dụng
công nghệ tiên tiến; tức phải chuyển từ
những sản phẩm “thô” với hàm lượng giá
trị gia tăng thấp sang các sản phẩm “tinh”
có hàm lượng chất xám cao.

Điều này được phản ánh qua nhóm
sản phẩm được đánh giá là có năng lực
cạnh tranh của Việt Nam, hiện nay chủ yếu
vẫn là những nông sản, khoáng sản chưa
qua chế biến hoặc những sản phẩm gia
công cho đối tác nước ngoài (như dầu thô,
gạo, cà phê, tiêu, điều, dệt may, da giầy );
do đó, hầu hết các mặt hàng này khi phải

đối mặt với cạnh tranh gay gắt sẽ dẫn đến
thất bại. Thực tế này cũng chỉ ra phần lớn
lời giải cho những hạn chế kể trên nằm ở
trình độ công nghệ của DN. Đơn cử như ở
ngành điều, ông Hồ Ngọc Cầm, Chủ tịch
Hiệp hội cây điều Việt Nam khẳng định:
“Việt Nam là nước XK điều thứ 2 thế giới,
tuy nhiên đến thời điểm này ngành công
nghiệp điều của Việt Nam vẫn chưa có
thiết bị cơ khí tự động hóa cho công đoạn
cắt tách và bóc vỏ lụa mà phải làm thủ
công. Chính công đoạn này đã làm tăng giá
thành và làm giảm khả năng cạnh tranh
của sản phẩm điều Việt Nam trên thị
trường thế giới”.

Theo kết quả điều tra về thực trạng
DN Việt Nam của Tổng cục thống kê công
bố ngày 11-5-2005, hầu hết các DN nước
ta ở quy mô vừa và nhỏ, thậm chí siêu nhỏ,
do đó khả năng trang bị máy móc thiết bị,
kỹ thuật công nghệ tiên tiến là rất hạn chế.
Đối với các DNNN lớn cũng ít quan tâm
đến đổi mới công nghệ vì thường có vị thế
độc quyền nên không chịu sức ép cạnh
tranh và có tâm lý dựa dẫm vào sự bảo hộ
của Nhà nước. Ngay cả các DN ngành
công nghiệp, ngành được coi là chủ lực
hoàn toàn cũng tương tự. Theo Bộ Công
nghiệp, phần lớn giá trị máy móc thiết bị

sản xuất chỉ còn 30% so với giá trị ban đầu
và đã lạc hậu hơn 30 năm như dệt may có
đến 45% thiết bị máy móc của các DN cần
phải đầu tư nâng cấp và 30-40% cần thay
thế; mũi nhọn công nghiệp là cơ khí thì đã
lạc hậu hơn 40 năm so với khu vực và 50
năm so với các nước phát triển về công
nghệ và thiết bị sản xuất. Đầu tàu kinh tế
của cả nước là TP Hồ Chí Minh cũng chỉ
có 25% DN có công nghệ sản xuất tiên
tiến, 32% ở mức trung bình, còn lại là dưới
trung bình và lạc hậu, trong đó DN có
công nghệ lạc hậu chiếm 20%.

Các chuyên gia cho rằng, có 2
luồng chuyển giao công nghệ chính vào
nước ta hiện nay: hoặc là qua hình thức
liên doanh với nước ngoài và DN 100%
vốn nước ngoài, hoặc mang tính thương
mại thuần túy thông qua việc mua bán
công nghệ trên thị trường. Song luồng thứ
hai chiếm tỷ lệ rất ít; còn luồng thứ nhất
tuy chiếm tới 90% số hợp đồng chuyển
giao, nhưng trong đó cũng có không ít
những hợp đồng có trình độ công nghệ
không cao, mà chủ yếu là khai thác nhân
công giá rẻ và trốn tránh các tiêu chuẩn về
môi trường ở chính quốc.

V.2 Cuộc điều tra Doanh nghiệp năm

2006 là cuộc điều tra toàn diện của Tổng
cục Thống kê tiến hành trên phạm vi cả
nước
Số lượng doanh nghiệp tăng nhanh và
ngày càng có vị trí quan trọng hơn trong
nền kinh tế

×