Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Giáo trình quan hệ kinh tế quốc tế - RÀO CẢN KỸ THUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG NGOẠI THƯƠNG (BẢN 1) doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (314.77 KB, 26 trang )

1

RÀO CẢN KỸ THUẬT
TRONG HOẠT ĐỘNG NGOẠI THƯƠNG
(BẢN 1)

I. HÀNG RÀO KỸ THUẬT TRONG
THƯƠNG MẠI :
1. Khái niệm :
Hàng rào kỹ thuật là một loại hàng
rào phi thuế quan, được xem là một trong
những nhóm biện pháp hữu hiệu nhất để
ngăn chặn hàng xuất khẩu. Hàng rào này
liên quan tới việc áp dụng các biện pháp
kỹ thuật như tiêu chuẩn chất lượng hàng
hóa, các biện pháp nhằm đảm bảo quá
trình sản xuất hàng hóa phải an toàn, vệ
sinh, bảo vệ môi trường, các vấn đề liên
quan tới ghi nhãn, vận chuyển, bảo quản
hàng hóa Chúng là các rào cản hợp lý và
hợp pháp, cần được duy trì. Tuy nhiên, còn
có những hàng rào kỹ thuật được dựng lên
để hạn chế thương mại của nước khác hoặc
mang tính phân biệt đối xử giữa các quốc
gia và vùng lãnh thổ, giữa hàng hóa trong
nước hoặc nhập khẩu.
2. Hiệp định về Hàng rào kĩ thuật trong
thương mại
Hiệp định hàng rào kỹ thuật trong
thương mại (gọi tắt là Hiệp định TBT) là
một trong 18 hiệp định của WTO được xây


dựng và thực thi. Theo Hiệp định TBT
(Technological Barrier to Trade), hàng rào
kỹ thuật được thể hiện dưới các hình thức
như Tiêu chuẩn và Văn bản quy phạm
pháp luật về kỹ thuật, quy chuẩn kỹ thuật;
quy trình đánh giá sự phù hợp. Đây là hàng
rào quy định về hệ thống quản trị chất
lượng, môi trường, đạo đức kinh doanh,
điểm kiểm soát tới hạn , đối với các
doanh nghiệp khi thâm nhập vào thị
trường.
• Mục tiêu của Hiệp định :
- Thúc đẩy các mục tiêu của hiệp
định chung về hàng rào thuế quan
- Khẳng định vai trò quan trọng trong
các tiêu chuẩn và các hệ thống quốc
tế về đánh giá sự phù hợp trong quá
trình nâng cao hiệu quả sản xuất và
kinh doanh thương mại
- Bảo đảm các tiêu chuẩn, văn bản
pháp quy kỹ thuật và các quy trình
đánh giá sự phù hợp, không gây trở
ngại cho thương mại quốc tế.
2

- Không ngăn cản các nước áp dụng
áp dụng các biện pháp cần thiết để
bảo đảm chất lượng hàng xuất khẩu,
bảo vệ sức khỏe, an toàn cuộc sống
con người, động thực vật, bảo vệ

môi trường, chống gian lận thương
mại và đảm bảo an ninh quốc gia.

2.1 Hiệp định TBT gồm có 15 điều khoản
và 3 phụ lục
Điều 1 : Các điều khoản chung
Điều 2 : Soạn thảo, thông qua và áp dụng
các văn bản pháp quy kỹ thuật do các cơ
quan chính phủ trung ương ban hành
Điều 3 : Xây dựng, ban hành và áp dụng
các văn bản pháp quy kỹ thuật do các cơ
quan nhà nước địa phương và tổ chức phi
Chính phủ ban hành
Điều 4 : Xây dựng, ban hành và áp dụng
tiêu chuẩn
Điều 5 : Các quy trình đánh giá sự phù
hợp do các cơ quan nhà nước trung ương
thực hiện
Điều 6 : Thừa nhận kết quả đánh giá sự
phù hợp bởi các cơ quan nhà nước trung
ương
Điều 7 : Quy trình đánh giá sự phù hợp do
các cơ quan nhà nước địa phương thực
hiện
Điều 8 : Các quy trình đánh giá sự phù
hợp do các tổ chức phi chính phủ thực hiện
Điều 9 : Các hệ thống quốc tế và khu vực
Điều 10 : Các thông tin về các văn bản
pháp quy kỹ thuật, tiêu chuẩn và quy trình
đánh giá sự phù hợp

Điều 11 : Trợ giúp kỹ thuật cho các Thành
viên khác
Điều 12 : Đối xử đặc biệt và khác biệt đối
với các nước thành viên đang phát triển
Điều 13 : Uỷ ban về hàng rào kỹ thuật đối
với thương mại
Điều 14 : Tham vấn và giải quyết tranh
chấp
Điều 15 : Điều khoản cuối cùng
- Bảo lưu
- Soát xét
Các phụ lục
Phụ lục 1 (của Hiệp định TBT) : Thuật
ngữ và định nghĩa của Hiệp định này
1. Pháp quy kỹ thuật
2. Tiêu chuẩn
3

3. Các quy trình đánh giá sự phù hợp
4. Tổ chức hoặc hệ thống quốc tế
5. Tổ chức hoặc hệ thống khu vực
6. Cơ quan Chính phủ trung ương
7. Cơ quan Chính phủ ở địa phương
8. Tổ chức phi chính phủ
Phụ lục 2 (của Hiệp định TBT) : Các
nhóm chuyên gia kỹ thuật
Phụ lục 3 (của Hiệp định TBT) : Quy
chế thủ tục đối với việc soạn thảo chấp
nhận và áp dụng các tiêu chuẩn
- Các quy định chung

- Các quy định bổ sung
2.2 Hệ thống TBT gồm có:
2.2.1 Hệ thống quản trị chất lượng ISO
9001:2000
Hệ thống này đã được trên 140
quốc gia áp dụng. ISO 9001:2000 đề cập
chủ yếu đến các lĩnh vực về chất lượng,
theo Tổ chức Phát triển công nghiệp của
Liên hợp quốc (UNIDO) các doanh nghiệp
áp dụng hệ thống này sẽ:
- Đáp ứng được yêu cầu của khách
hàng trong và ngoài nước.
- Nâng cao tinh thần làm việc và
đoàn kết của nhân viên trong doanh
nghiệp.
- Vượt qua rào cản trong thương
mại quốc tế.
- Gia tăng thị phần, diện tích, lợi
nhuận và phát triển bền vững.
Trong thực tế, sản phẩm của doanh
nghiệp nào được cấp giấy chứng nhận phù
hợp với ISO 9001:2000 sẽ dễ dàng thâm
nhập thị trường các nước phát triển.
2.2.2 Hệ thống quản trị môi trường ISO
14001:2000
Hệ thống này xem xét khía cạnh
bảo vệ môi trường của tổ chức và của sản
phẩm. thị trường thế giới hiện nay rất chú
trọng đến vấn đề môi trường, tổ chức Môi
trường thế giới đã khuyến cáo các doanh

nghiệp nên cung ứng những sản phẩm
“xanh và sạch”. Mức độ ảnh hưởng đến
môi trường của 1 sản phẩm có vai trò lớn
tới sức cạnh tranh của sản phẩm đó trên thị
trường.
2.2.3 Hệ thống thực hành sản xuất tốt
GMP (Good Manufacturing Practices).
Đây là 1 hệ thống đảm bảo chất
lượng vệ sinh an toàn thực phẩm, đặc biệt
là dược phẩm. Các nước lớn như Mỹ, EU,
Nhật Bản, Australia đều yêu cầu các sản
4

phẩm là thực phẩm và dược phẩm khi nhập
vào thị trường nước họ phải được công
nhận đã áp dụng GMP. Bộ Y tế Việt Nam
quy định đến năm 2005 doanh nghiệp sản
xuất dược phẩm nào không đạt GMP sẽ
không được cấp số đăng ký sản xuất thuốc.
2.2.4 Hệ thống phân tích mối nguy và điểm
kiểm soát tới hạn HACCP (Hazard
Analysis Critical Control Point):
Đây là yêu cầu bắt buộc đối với các
doanh nghiệp chế biến hàng thuỷ sản nếu
muốn thâm nhập vào thị trường Mỹ, EU,
NB, Australia, Canada , Bộ Thuỷ sản
Việt Nam quy định các doanh nghiệp chế
biến hàng thuỷ sản phải áp dụng HACCP
kể từ năm 2000.
2.2.5 Tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội SA

8000:
Đây là tiêu chuẩn quốc tế dựa trên
công ước quốc tế về lao động của Tổ chức
Lao động Quốc tế (ILO) của Liên hợp
quốc về quyền trẻ em và nhân quyền. Các
nước Mỹ, EU, Nhật Bản, Canada quy
định cấm nhập khẩu hàng hoá mà trong
quá trình sản xuất có sử dụng lao động trẻ
em, lao động cưỡng bức, phân biệt đối xử,
bắt người lao động làm việ quá thời hạn
cho phép của Luật lao động.
Ngoài ra còn 1 số hệ thống khác
như QS 9000: áp dụng cho các doanh
nghiệp sản xuất ôtô; Q-Base: áp dụng cho
các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Như một tất yếu khách quan, khi
các hàng rào thuế quan được các nước
giảm sử dụng theo xu hướng tự do hoá
thương mại, các hàng rào phi thuế quan
trong thương mại quốc tế ngày càng được
gia tăng áp dụng để bảo hộ sản xuất trong
nước.

II. CÁC HÌNH THỨC RÀO CẢN:
Các rào cản kỹ thuật trong thương
mại quốc tế rất đa dạng và được áp dụng
rất khác nhau ở các nước tuỳ thuộc vào
điều kiện cụ thể của từng nước. Các rào
cản này có thể được chia làm các loại hình
sau:

1. Các tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật, an
toàn vệ sinh dịch tễ:
Cơ quan chức năng đặt ra các yêu
cầu liên quan chủ yếu đến kích thước, hình
dáng, thiết kế, độ dài và các chức năng của
sản phẩm. Theo đó, các tiêu chuẩn đối với
sản phẩm cuối cùng, các phương pháp sản
xuất và chế biến, các thủ tục xét nghiệm,
giám định, chứng nhận và chấp nhận,
những quy định và các phương pháp thống
kê, thủ tục chọn mẫu và các phương pháp
đánh giá rủi ro liên quan, các yêu cầu về an
toàn thực phẩm, … được áp dụng. Mục
5

đích của các tiêu chuẩn và quy định này là
nhằm bảo vệ an toàn, vệ sinh, bảo vệ sức
khoẻ, đời sống động, thực vật, bảo vệ môi
trường, …
Các tiêu chuẩn thường dược áp
dụng trong thương mại là HACCP đối với
thuỷ sản và thịt, SPS đối với các sản phẩm
có nguồn gốc đa dạng sinh học, …

2. Các tiêu chuẩn chế biến và sản xuất
theo quy định môi trường:
Đây là các tiêu chuẩn quy định sản
phẩm cần phải được sản xuất như thế nào,
được sử dụng như thế nào, được vứt bỏ
như thế nào, những quá trình này có làm

tổn hại đến môi trường hay không. Các
tiêu chuẩn này được áp dụng cho giai đoạn
sản xuất với mục đích nhằm hạn chế chất
thải gây ô nhiễm và lãng phí tài nguyên
không tái tạo.

3. Các yêu cầu về nhãn mác:
Biện pháp này được quy định chặt chẽ
bằng hệ thống văn bản pháp luật, theo đó
các sản phẩm phải được ghi rõ tên sản
phẩm, danh mục thành phần, trọng lượng,
ngày sản xuất, thời hạn sử dụng, thời hạn
bảo quản, xuất xứ, nước sản xuất, nơi bán,
mã số mã vạch, hướng dẫn sử dụng, hướng
dẫn bảo quản … Quá trình xin cấp nhãn
mác cũng như đăng ký thương hiệu kéo dài
hàng tháng và rất tốn kém, nhất là ở Mỹ.
Đây là một rào cản thương mại được sử
dụng rất phổ biến trên thế giới, đặc biệt tại
các nước phát triển.

4. Các yêu cầu về đóng gói bao bì:
Gồm những quy định liên quan đến
nguyên vật liệu dùng làm bao bì, những
quy định về tái sinh, những quy định về xử
lý và thu gom sau quá trình sử dụng, …
Những tiêu chuẩn và quy định liên quan
đến những đặc tính tự nhiên của sản phẩm
và nguyên vật liệu dùng làm bao bì đòi hỏi
việc đóng gói phải phù hợp với việc tái

sinh hoặc tái sử dụng.
Các yêu cầu về đóng gói bao bì
cũng ảnh hưởng đến chi phí sản xuất và
sức cạnh tranh của sản phẩm do sự khác
nhau về tiêu chuẩn và quy định của mỗi
nước, cũng như chi phí sản xuất bao bì, các
nguyên vật liệu dùng làm bao bì và khả
năng tái chế ởmỗi nước là khác nhau.

5. Phí môi trường:
Phí môi trường thường được áp
dụng nhằm 3 mục tiêu chính: thu lại các
chi phí phải sử dụng cho môi trường, thay
6

đổi cách ứng xử của cá nhân và tập thể đối
với các hoạt động có liên quan đến môi
trường và thu các quỹ cho các hoạt động
bảo vệ môi trường. Các loại phí môi
trường thường gặp gồm có:
- Phí sản phẩm: áp dụng cho các sản
phẩm gây ô nhiễm, có chứa các hoá chất
độc hại hoặc có một số thành phần cấu
thành của sản phẩm gây khó khăn cho việc
thải loại sau sử dụng.
- Phí khí thải: áp dụng đối với các
chất gây ô nhiễm thoát vào không khí,
nước và đất, hoặc gây tiếng ồn.
- Phí hành chính: áp dụng kết hợp
với các quy định để trang trải các chi phí

dịch vụ của chính phủ để bảo vệ môi
trường.
- Phí môi trường có thể được thu từ
nhà sản xuất hoặc người tiêu dùng hoặc cả
nhà sản xuất và người tiêu dùng.

6. Nhãn sinh thái:
Sản phẩm được dán nhãn sinh thái
nhằm mục đích thông báo cho người tiêu
dùng biết là sản phẩm đó được coi là tốt
hơn về mặt môi trường. Các tiêu chuẩn về
dán nhãn sinh thái được xây dựng trên cơ
sở phân tích chu kỳ sống của sản phẩm, từ
giai đoạn tiền sản xuất, sản xuất, phân
phối, tiêu thụ, thải loại sau sử dụng, qua đó
đánh giá mức độ ảnh hưởng đối với môi
trường của sản phẩm ở các giai đoạn khác
nhau trong toàn bộ chu kỳ sống của nó.
Sản phẩm được dán nhãn sinh thái,
thường được gọi là “sản phẩm xanh”, có
khả năng cạnh tranh cao hơn so với sản
phẩm cùng chủng loại nhưng không dán
nhãn sinh thái do người tiêu dùng thường
thích và an tâm khi sử dụng các “sản phẩm
xanh” hơn. Ví dụ, trên thị trường Mỹ, các
loại thuỷ sản có dán nhãn sinh thái thường
có giá bán cao hơn, ít nhất 20%, có khi gấp
2-3 lần thuỷ sản thông thường cùng loại.

III. TÌNH HÌNH ÁP ĐĂT RÀO CẢN

KỸ THUẬT Ở CÁC NƯỚC NHẬP
KHẨU VỚI HÀNG THỦY SẢN VÀ
MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP CỤ THỂ
XẢY RA ĐỐI VỚI HÀNG THỦY SẢN
XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM
1. Các tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật và
an toàn vệ sinh:
Đây sẽ là một trong những rào cản
được phát huy tác dụng nhiều nhất trong
giai đoạn sắp tới, đặc biệt là đối với hàng
thuỷ sản từ các nước đang phát triển. Đáp
ứng những đòi hỏi khắt khe, đôi khi quá
đáng của các nước phát triển mà trình độ
khoa học – kỹ thuật – công nghệ đã đi
trước hàng thập kỷ đối với các nước đang
7

phát triển là cả một vấn đề hết sức nan
giải, đòi hỏi một sự đầu tư lâu dài. Theo
PGS. TS. Võ Thanh Thu, 90% thương vụ
gặp khó khăn khi đưa thuỷ sản vào các
nước nhập khẩu có liên quan đến tiêu
chuẩn kỹ thuật.
Sau đây là một số quy định của các
nước nhập khẩu :
1.1. Quy định của Mỹ:
Theo Bộ Luật Liên bang Mỹ 21
CFR, chỉ có các doanh nghiệp nước ngoài
nào đã thực hiện chương trình HACCP có
hiệu quả mới được xuất khẩu thuỷ sản vào

thị trường Mỹ. Đây là một hệ thống quản
lý chất lượng mang tính phòng ngừa nhằm
đảm bảo an toàn thực phẩm và chất lượng
thực phẩm thông qua việc phân tích những
mối nguy và thực hiện các biện pháp kiểm
soát tại các điểm kiểm soát tới hạn.
HACCP nhấn mạnh tính nhất thiết phải
kiểm soát dây chuyền công nghệ sản xuất
để đảm bảo an toàn, vệ sinh cho sản phẩm
thay vì kiểm soát sản phẩm cuối cùng.
Để được phép đưa hàng thuỷ sản
vào Mỹ, doanh nghiệp phải gửi kế hoạch,
chương trình HACCP cho Cục Thực phẩm
và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA). FDA xem
xét kế hoạch, chương trình HACCP, khi
cần thì kiểm tra. Nếu FDA kết luận là đạt
yêu cầu thì cấp phép cho doanh nghiệp đó.
FDA kiểm tra từng lô hàng nhập
khẩu. Nếu phát hiện có lô hàng không đảm
bảo an toàn, vệ sinh thực phẩm hoặc có
các vi phạm khác, lô hàng sẽ bị FDA từ
chối nhập khẩu, bị gửi trả về nước hoặc
tiêu huỷ tại chỗ với chi phí do doanh
nghiệp chịu, đồng thời, tên doanh nghiệp
sẽ bị đưa lên mạng Internet ở chế độ
“Cảnh báo nhanh” (Detention). 5 lô hàng
tiếp theo của doanh nghiệp này sẽ bị tự
động giữ ở cảng nhập để kiểm tra theo chế
độ tự động. Chỉ sau khi cả 5 lô hàng đó
đều đảm bảo an toàn, vệ sinh và doanh

nghiệp làm đơn đề nghị, FDA mới xoá tên
doanh nghiệp đó ra khỏi danh sách “Cảnh
báo nhanh”.
Nếu nước xuất khẩu thuỷ sản sang
Mỹ đã ký được Bản ghi nhớ (MOU) với
FDA, cơ quan có thẩm quyền cao nhất về
kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm của
nước xuất khẩu tự chỉ định các doanh
nghiệp được đưa thuỷ sản vào Mỹ mà
không cần trình kế hoạch, chương trình
HACCP. Tuy nhiên, FDA chỉ mới ký
MOU cho mặt hàng nhuyễn thể 2 mảnh
với Canada, Hàn Quốc và vài nước Nam
Mỹ.
b. Quy định của Nhật Bản:
Hiện nay ở Nhật việc kiểm tra hàng
thuỷ sản nhập khẩu được thực hiện theo
Luật Vệ sinh thực phẩm. Ngoại trừ cá hồi
có xuất xứ từ Trung Quốc, CHDCND
8

Triều Tiên và Đài Loan, hàng xuất khẩu
không cần có giấy chứng nhận đảm bảo vệ
sinh an toàn thực phẩm của cơ sở sản xuất,
nhưng họ phải và chỉ cần đáp ứng các tiêu
chuẩn của Luật Vệ sinh thực phẩm.
Hàng thuỷ sản nhập khẩu vào Nhật
Bản phải thông báo cho Bộ Y tế và Phúc
lợi xã hội. Khi nhận được thông báo, các
thanh tra viên của Bộ sẽ có mặt tại cảng để

kiểm tra sản phẩm. Việc quyết định xem
có cần thiết kiểm tra chuyến hàng nhập
khẩu hay không phụ thuộc vào sự đánh giá
các yếu tố sau: đã từng vi phạm trước đó
hay chưa, lịch sử nhập khẩu của một mặt
hàng cụ thể, liệu đã có sự vi phạm được cơ
quan hải quan báo cáo, thông tin về lĩnh
vực vệ sinh của hàng hoá hay thông tin do
nước xuất khẩu cấp có đầy đủ không. Các
nội dung sẽ được kiểm tra gồm có:
- Nhãn hàng
- Kiểm tra cảm quan: màu sắc, độ
tươi sáng, mùi, vị, …
- Kiểm tra tạp chất
- Kiểm tra nấm mốc
- Kiểm tra container, bao bì, …
Nếu như trong quá trình kiểm tra,
lô hàng được xem là đạt yêu cầu, giấy
chứng nhận sẽ được chuyển đến cơ quan
quản lý nhập khẩu và sau đó được thông
quan. Nếu như lô hàng bị kết luận là không
đạt yêu cầu thì sẽ bị giữ lại để gửi trả về
nước hoặc tiêu huỷ.
c. Quy định của EU:
Theo các chuyên gia thuỷ sản, EU
có hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật và an toàn
vệ sinh thực phẩm vào loại nghiêm ngặt
nhất thế giới. Hàng thuỷ sản của các nước
đang phát triển đưa vào EU phải tuân thủ
theo các quy định sau đây:

- Quy định về vệ sinh: các nước
muốn đưa hàng thuỷ sản vào EU phải nằm
trong danh sách các nước được xuất khẩu
vào EU. Từng lô hàng phải kèm theo giấy
chứng nhận đáp ứng các yêu cầu của EU
do cơ quan chức năng của nước xuất khẩu
cấp.
- Quy định về chất lượng và an toàn
thực phẩm: theo các quy chế 91/492/EEC
và 91/493/EEC, các sản phẩm phải đáp
ứng các tiêu chuẩn cụ thể về vệ sinh gồm
độ tươi, độ sạch, mức nhiễm vi sinh tối đa
(bao gồm các vi sinh vật gây bệnh và các
vi sinh vật chỉ thị), dự lượng hoá chất (kim
loại nặng, kháng sinh và thuốc trừ sâu),
chất độc, độc tố sinh học biển và ký sinh
trùng.
- Quy định về giám sát: Quyết định
94/356/EEC yêu cầu nhà sản xuất có hàng
thuỷ sản xuất khẩu sang EU phải tổ chức
giám sát hoạt động sản xuất và chế biến
của mình phù hợp với HACCP. Tiêu chuẩn
HACCP là điều kiện quan trọng của doanh
nghiệp xuất khẩu thuỷ sản vào EU.
9

Nếu hàng nhập khẩu thuỷ sản bị
một nước thành viên EU phát hiện có vấn
đề về chất lượng lập tức sẽ bị đưa lên Hệ
thống cảnh báo nhanh về thực phẩm

(RASFF) cho tất cả các nước thành viên
biết. Việc cấm và hạn chế nhập khẩu thuỷ
sản vào EU đã được thực hiện không ít lần
như trường hợp cấm nhập khẩu cá của Ấn
Độ, Bangladesh và Madagascar năm 1997,
bắt buộc kiểm tra toàn bộ hàng thuỷ sản
Trung Quốc năm 2001, …
Ngày 4/3/1999, EU ban hành quyết
định số 508/1999 quy định 10 hoá chất
không được phép có trong sản phẩm thực
phẩm có nguồn gốc động vật, gồm có:
- Aristolochia spp. và các chế phẩm
- Chloramphenicol
- Chloroform
- Chlorpromazine
- Colchicine
- Dapsone
- Dimetridazole
- Metronidazole
- Các nitrofuran, bao gồm cả
furazolidone
- Ronidazole

Ví dụ cụ thể :
Ngày 19/9/2001, EU ra quyết định
số 699/EU về tăng cường kiểm tra dư
lượng kháng sinh trong tôm nhập khẩu từ
Trung Quốc, Indonesia và Việt Nam.
Tháng 1/2002, EU quy định chỉ cho phép
nhập khẩu lô hàng thuỷ sản nào có dư

lượng kháng sinh chloramphenicol từ 0,3
ppb (phần tỷ) trở xuống. Tháng 3/2002,
EU chính thức thông báo phát hiện ra hàng
thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu sang thị
trường này có hoá chất nitrofuran, do đó
quyết định áp dụng các biện pháp kiểm tra
nghiêm ngặt ở cả 2 chỉ tiêu là dư lượng
kháng sinh chloramphenicol và hoá chất
nitrofuran đối với 100% các lô hàng xuất
khẩu từ Việt Nam. Tính đến cuối tháng
7/2002 đã có 66 lô hàng thuỷ sản các loại
của Việt Nam bị phát hiện nhiễm các
kháng sinh và hoá chất trên.
Quy định mới này rõ ràng gây ra
những khó khăn lớn cho xuất khẩu thuỷ
sản của Việt Nam. Trước đây, EU đã công
nhận phương pháp và thiết bị kiểm tra dư
lượng chloramphenicol của Việt Nam cũng
như chấp nhận hàng thuỷ sản xuất khẩu
của Việt Nam vào EU phải có hàm lượng
chloramphenicol dưới 1,5 ppb. Các phòng
kiểm nghiệm tại các chi nhánh của Trung
tâm kiểm tra chất lượng và vệ sinh thuỷ
sản (Nafiqacen) hiện tại chỉ mới phân tích
được chất chloramphenicol ở mức thấp
nhất là 1,5 ppb, còn về nitrofuran thì chưa
có phòng thí nghiệm nào ở Việt Nam có
khả năng phân tích được. Hiện nay, công
tác quản lý việc sử dụng các chất kháng
10


sinh, hoá chất ở nước ta còn rất yếu kém,
hầu hết nông dân nuôi trồng và đánh bắt
thuỷ sản cũng như các đại lý thu gom
nguyên liệu chưa được hướng dẫn về sử
dụng kháng sinh và hoá chất, các doanh
nghiệp thực hiện chưa nghiêm chỉnh các
tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm của
ngành. Điều đó khiến cho khi gặp các tiêu
chuẩn khắt khe, thuỷ sản Việt Nam khó
đáp ứng được.
Khi có lô hàng bị phát hiện có dư
lượng kháng sinh và hoá chất cao hơn mức
quy định, thiệt hại đầu tiên đối với doanh
nghiệp xuất khẩu là mất trắng tiền hàng do
lô hàng đó không bán được nữa. Nghiêm
trọng hơn, EU đã thông báo sẽ tịch thu và
tiêu huỷ những lô hàng đó thay vì trả về
cho chủ hàng như trước đây, chủ hàng phải
trả chi phí lưu kho và tiêu huỷ (khoảng
7.100 USD/container).
Thiệt hại sâu xa hơn, đó là sự sút
giảm uy tín đối với khách hàng, do tên
doanh nghiệp bị đưa lên mạng cảnh báo
nhanh cho toàn châu Âu. Nhiều doanh
nghiệp sau khi hàng xuất khẩu bị phát hiện
có dư lượng kháng sinh cao hơn quy định
đã bị đối tác ở châu Âu ngưng đặt hàng.
Trước tình hình trên, một số doanh
nghiệp trong nước tỏ ra e ngại khi xuất

khẩu thuỷ sản sang EU, do đó tỷ trọng
thuỷ sản xuất khẩu vào EU tiếp tục giảm.
Lãnh đạo của một công ty xuất khẩu thuỷ
sản đông lạnh đã lý giải việc công ty của
anh ngừng xuất khẩu tôm vào thị trường
châu Âu như sau: “Lợi nhuận khi xuất
hàng vào EU chỉ khoảng 1-2%, nhưng rủi
ro có khi lên đến 100%”. Phản ứng trên rõ
ràng không phải đúng cách vì không chỉ
EU, các nước khác như Mỹ, Nhật, Canada,
… cũng đang đẩy mạnh kiểm tra các tiêu
chuẩn kỹ thuật, an toàn vệ sinh dịch tễ.
Ngay cả Trung Quốc và Hồng Kông, thị
trường thường được nhìn nhận là dễ dãi
nhất trong nhóm thị trường chủ lực của
thuỷ sản Việt Nam cũng đang nâng cao
những tiêu chuẩn đối với hàng thực phẩm.
Thực tế này môt lần nữa đặt ra câu
hỏi về tốc độ mở rộng quy mô sản xuất
nhưng chưa có sự phát triển tương xứng về
nhận thức và môi trường kinh doanh, mà
những tranh chấp giữa người nuôi và nhà
chế biến, cũng như việc thủy sản Việt Nam
liên tục bị phát hiện nhiễm kháng sinh
trong thời gian gần đây cho thấy câu hỏi
này vẫn chưa được giải đáp thỏa đáng.







11

Mặt hàng thuỷ sản của Việt Nam xuất
sang Hoa Kỳ năm 2000 – 2004 Đơn vị :
Nghìn USD
Mặt
hàn
g
200
0
200
1
200
2
200
3
200
4
Tôm
nước
lợ
185,
12
308,
70
368,
62
468,

93
277,
45

sống

175 216 201 271 357

sấy
khô,
ướp
muối
, hun
khói

374 596 722
1,00
5
3,54
9
Hải
sản
thân
mềm
,
nhuy
ễn
8,17 6,16 5,82 7,44 6,18
thể


đông
lạnh
(khô
ng
bao
gồm

filê
hoặc

thịt
khác
)
6,80
10,2
2
9,23
10,7
0
14,7
1

tươi
(khô
ng
bao
gồm

filê
hoặc


thịt
khác
)
9,59
16,6
4
24,6
7
23,6
6
25,3
8
Cá 32,6 41,7 69,1 56,4 78,3
12

filê
và cá
thịt
khác
tươi,
hoặc
đông
lạnh
1 2 7 5 6
Nguồn : Số liệu của Bộ Thương mại Hoa
Kỳ
d. Quy định của một số thị trường khác:
Nhìn chung, ở các thị trường khác
như Trung Quốc, Hồng Kông, Hàn Quốc,

Thái Lan, … hệ thống các tiêu chuẩn kỹ
thuật, an toàn vệ sinh không nghiêm ngặt
như ở Nhật, EU và Mỹ, nhưng các nước
này vẫn đòi hỏi giấy chứng nhận chất
lượng sản phẩm của cơ quan có thẩm
quyền của nước xuất khẩu hoặc nước nhập
khẩu. Tuy nhiên, không sớm thì muộn các
thị trường này cũng sẽ nâng cao yêu cầu về
kỹ thuật, an toàn vệ sinh theo xu hướng
của thế giới.

2. Các tiêu chuẩn chế biến và sản xuất
theo quy định môi trường:
Mỹ là nước áp dụng các rào cản này
rất triệt để. So với các tiêu chuẩn kỹ thuật,
an toàn vệ sinh, các tiêu chuẩn chế biến và
sản xuất theo quy định môi trường không
phổ biến bằng nhưng hiệu suất cản trở cao
hơn, khả năng đáp ứng của các nước đang
phát triển là rất hạn chế. Andy Urso,
chuyên gia kinh tế Anh đã nhận định
“những đòi hỏi về môi trường của Mỹ
khiến các nước đã phát triển còn trở tay
không kịp, nói chi đến các nước mới phát
triển”. Mỹ đơn phương áp dụng các tiêu
chuẩn của mình để hạn chế nhập khẩu cá
hồi và tôm bằng cách cấm nhập khẩu cá
hồi từ những nước mà Mỹ cho rằng
phương pháp đánh bắt của họ làm ảnh
hưởng xấu đến cá heo và cấm nhập khẩu

tôm từ những nước sử dụng lưới quét có
hại cho rùa biển.

3. Các yêu cầu về nhãn mác:
Các nước nhập khẩu đều quy định
sản phẩm thực phẩm nói chung và thuỷ sản
nói riêng khi nhập khẩu phải được ghi
nhãn đầy đủ theo danh mục do cơ quan
chức năng đưa ra.
- Phải có nhãn dán phía bên ngoài,
nơi dễ nhìn thấy nhất trên các thùng chứa
hoặc bao bì.
- Nội dung trên nhãn bao gồm: tên
sản phẩm, xuất xứ, nơi sản xuất, tên và địa
chỉ nhà sản xuất, ngày sản xuất, hạn sử
dụng, sản phẩm sử dụng có thể ăn sống
13

hay không, phương pháp bảo quản, khối
lượng, mã số mã vạch.
- FDA còn đưa ra yêu cầu phải ghi
rõ thành phần, giá trị dinh dưỡng.
- Một hình thức rào cản mới trong
biện pháp này là đưa ra các cấm đoán về
ghi tên sản phẩm. Canada, Chile và Peru
từng kiện EU ra WTO vì EU chỉ cho phép
sử dụng tên gọi sò Saint Jacque cho một
loại sò của Pháp.
Tháng 5/2002, Tổng thống Mỹ đã
ký ban hành Đạo luật An ninh trang trại và

Đầu tư nông thôn, gọi tắt là Đạo luật H.R.
2646, trong đó có điều khoản 10806 quy
định chỉ có giống cá da trơn có tên khoa
học là Ictaluridae nuôi trồng ở nước Mỹ
mới được dùng chữ catfish để ghi nhãn
mác, còn các loại cá da trơn khác không
được ghi chữ catfish trên nhãn mác, bao bì.
Các doanh nghiệp xuất khẩu cá da trơn vào
thị trường Mỹ sẽ phải chịu thiệt hại đáng
kể do sản phẩm sẽ phải thay đổi thương
hiệu và bao bì. Các doanh nghiệp phải in
lại toàn bộ bao bì, phải tổ chức quảng cáo,
tiếp thị lại, … rất tốn kém.
Ví dụ trường hợp cụ thể : Việc Mỹ
cấm sản phẩm cá tra và cá basa của Việt
Nam ghi nhãn catfish theo điều khoản
10806 của Đạo luật H.R. 2646 cũng ảnh
hưởng không nhỏ đến nước ta. Với vị trí là
nước xuất khẩu cá da trơn lớn nhất vào
Mỹ, Việt Nam là nước chịu ảnh hưởng
nặng nề nhất từ biện pháp này. Xét về mặt
ngư học, catfish Việt Nam và catfish Mỹ
đều là catfish. Tháng 10/2001, theo đề
nghị của FDA với Thương vụ Việt Nam tại
Mỹ, Bộ Thuỷ sản Việt Nam đã tổ chức lấy
mẫu và gửi mẫu cá cho Phòng thí nghiệm
của FDA tại Washington. Trên cơ sở mẫu
cá được cung cấp, FDA đã công nhận tên
cá tra và cá basa vẫn có đuôi catfish. Cụ
thể, cá basa được mang 1 trong 5 tên

thương mại là basa, bocourti, bocourtifish,
basa catfish, bocourti catfish và tên khoa
học là Pangasius bocourti, cá tra được
mang 1 trong 3 tên thương mại là swai,
striped catfish, sutchi catfish và tên khoa
học là Pagasius hypophthalmus.
Ảnh hưởng của biện pháp này thật
sự không nhỏ. Các doanh nghiệp xuất
khẩu của nước ta phải đăng ký lại nhãn
hiệu (chi phí khoảng 450 USD) cũng như
thay đổi toàn bộ bao bì, nhãn mác, … rất
tốn kém. Việc tổ chức tiếp thị, giới thiệu lại
sản phẩm cũng góp phần làm tăng giá
thành sản phẩm. Hơn nữa, theo các
chuyên gia của VASEP, việc phải thay đổi
tên gọi của sản phẩm ở thị trường Mỹ sẽ
ảnh hưởng đến lượng hàng hoá được tiêu
thụ vì người tiêu dùng chưa quen với tên
sản phẩm mới.

4. Các yêu cầu về đóng gói bao bì:
14

Hiện nay, thị trường các nước phát
triển quy định tương đối chặt và tương
đồng với nhau về bao bì sản phẩm. Có thể
khái quát một số điểm đáng lưu ý như sau:
- Chất liệu bao bì đóng gói giới hạn
trong một số chất cho phép, có thể tái sinh
và tái sử dụng. Nếu doanh nghiệp xuất

khẩu không đáp ứng được thì doanh
nghiệp nhập khẩu phải đóng gói lại, hao
phí đóng gói lại khiến doanh nghiệp nhập
khẩu không muốn mua hàng từ người xuất
khẩu cũ nữa.
Bao bì nhựa phải đảm bảo không
ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm, việc
tiếp xúc giữa sản phẩm và chất nhựa của
bao bì không gây ra bất cứ phản ứng và
nguy hại nào. EU đã ban hành một danh
sách các loại bao bì nhựa được phép sử
dụng, trong đó hơn một nửa loại vật liệu
làm bao bì các nước đang phát triển không
sản xuất được.
- Các sản phẩm đóng hộp phải đáp
ứng các yêu cầu về kim loại.
- Khay bìa phải đảm bảo khi bị
nung nóng không bị cong, ngả màu.

5. Nhãn sinh thái:
Gần đây Mỹ, EU và Nhật Bản đã
cho thanh tra lại việc cho dán nhãn sinh
thái đối với các sản phẩm thuỷ sản nhập
khẩu và đưa thêm một số tiêu chuẩn kỹ
thuật, an toàn vệ sinh, bảo vệ môi trường,
… vào những yêu cầu để sản phẩm có thể
dán nhãn sinh thái. Sắp tới, việc sử dụng
công cụ nhãn sinh thái kết hợp với các tiêu
chuẩn kỹ thuật và môi trường sẽ rất phổ
biến, nhất là trong các nước phát triển do

xu hướng yêu thích sản phẩm có dán nhãn
sinh thái tăng lên rất nhanh.

IV. THÁCH THỨC, GIẢI PHÁP VÀ
KINH NGHIỆM
Việc gia nhập WTO nói chung và
việc thực thi Hiệp định TBT nói riêng chứa
đựng những thách thức và cả những thuận
lợi. Nếu hàng hóa của VN đáp ứng được
các vấn đề về hàng rào kỹ thuật thì sẽ tăng
khả năng cạnh tranh. Hàng rào kỹ thuật
trong thương mại được dựng lên là cách
làm duy nhất và tất yếu để các nước có thể
bảo vệ người tiêu dùng, lợi ích quốc gia,
sản xuất trong nước,… nhưng nó cũng là
thách thức đối với các doanh nghiệp. Câu
hỏi lớn đặt ra hiện nay là làm thế nào để
hàng hóa của các doanh nghiệp không bị
tiêu hủy hay bị trả về khi xuất khẩu, lưu
thông trên thị trường thế giới vì hàng hóa
của một số doanh nghiệp đã bị trả về do
không đạt các yêu cầu về an toàn vệ sinh
thực phẩm, các quy chuẩn kỹ thuật chặt
chẽ của nước nhập khẩu,…
15

1. Thách thức :
Thách thức lớn nhất hiện nay đối
với doanh nghiệp là phải chấp nhận tiêu
chuẩn quốc tế như một loại ngôn ngữ quốc

tế thống nhất về tiêu chuẩn chất lượng
hàng hóa. Trong khi đó, với trình độ công
nghệ, quản lý và khả năng tài chính còn
hạn chế, quy mô nhỏ, chi phí sản xuất cao,
kiểu dáng sản phẩm đơn điệu, chất lượng
sản phẩm chưa cao và thiếu mạng lưới
phân phối, tiếp thị, nhiều doanh nghiệp
khó có thể áp dụng ngay tiêu chuẩn quốc tế
đối với sản phẩm, hàng hóa của mình. Do
vậy, các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất khó
tiếp cận trực tiếp được với thị trường nước
ngoài. Các doanh nghiệp còn thiếu thông
tin về tiêu chuẩn, chất lượng sản phẩm, đối
thủ cạnh tranh cùng loại khiến doanh
nghiệp khó có những bước đi thích hợp để
tạo lợi thế cạnh tranh hàng hóa cùng loại.
Môi trường kinh doanh, pháp lý không ổn
định và năng lực quản lý còn yếu là những
thách thức của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp còn hiểu khái niệm
về TBT rất mơ hồ, mờ nhạt thậm chí cả
cấp chỉ đạo, hoạch định chiến lược,… do
chưa hiểu, chưa nhận thức được vài trò và
tầm quan trọng của TBT, quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế. Việc thực hiện TBT
là tất yếu vì chỉ có như vậy hàng hóa của
các doanh nghiệp mới có thể “hội nhập”
được, nhiều doanh nghiệp hiểu được điều
này nhưng không phải ai cũng thực hiện
đúng và tốt được, có nhiều doanh nghiệp

áp dụng tiêu chuẩn chất lượng của các
nước mà họ định xuất khẩu hàng hóa của
mình sang nhưng họ lại không đầu tư cho
việc mua thiết bị, máy móc để thử nghiệm,
đó cũng là hạn chế lớn của các doanh
nghiệp.
Hiện nay xu thế các quốc gia
chuyển các chất kháng sinh trong thực
phẩm từ danh mục chất hạn chế cấm sang
danh mục cấm hoàn toàn đang ngày một
trở nên phổ biến.
Trình độ công nghệ, quản lý và khả
năng tài chính còn hạn chế, nhiều DNVN
khó có thể áp dụng ngay tiêu chuẩn quốc tế
đối với sản phẩm hàng hóa của mình.
DN thiếu thông tin về tiêu chuẩn,
chất lượng sản phẩm, đối thủ cạnh tranh
hàng hóa cùng loại, khiến DN khó có
những bước đi thích hợp để tạo ra lợi thế
cạnh tranh cho hàng hóa của mình, đặc biệt
là chất lượng. Môi trường kinh doanh,
pháp lý không ổn định và năng lực quản lý
còn yếu là những thách thức của DN.
Trong số 5.600 tiêu chuẩn Việt
Nam thì chúng ta mới có khoảng 24%
tiêu chuẩn bảo đảm
hài hòa với tiêu chuẩn quy định của quốc
tế và khu vực.
16


Tin cảnh báo từ Uỷ ban Châu Âu
Ngày 29 tháng 1 năm 2007, Cục Y
tế và Bảo vệ người tiêu dùng của Ủy ban
Châu Âu đã ban hành thông báo số
2007.AGB về lô hàng đậu phộng nước cốt
dừa của Việt Nam xuất sang Cộng hòa Séc
đã bị trả lại. Lý do là trong sản phẩm này
có chứa hàm lượng aflatoxin vượt quá mức
cho phép. Cụ thể: Aflatoxin B1: 171,9
µg/kg và tổng lượng aflatoxin là: 193,5
µg/kg. Trong đó, theo quy định của EU,
lượng aflatoxin tối đa được phép có trong
sản phẩm này là 2-4 µg/kg.
Ngày 1/2/2007, Cục Y tế và Bảo vệ
người tiêu dùng của Ủy ban Châu Âu đưa
ra thông báo số 2007.AHO về việc hàm
lượng sulphite quá cao và không được
công bố xuất hiện trong dừa bảo quản của
Việt Nam được xuất khẩu sang Pháp và
sản phẩm này đã bị cấm phân phối trên thị
trường Pháp. Theo như kết quả thử
nghiệm, hàm lượng sulphite có trong lô
hàng dừa bảo quản là 940 mg/kg, trong đó
theo như quy định của Châu Âu, hàm
lượng tối đa sulphite trong sản phẩm này
không được vượt quá 100 mg/kg.

2. Giải pháp :
Xét về lâu về dài, trước áp lực cạnh
tranh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ phải

tích cực nâng cao năng lực quản lý, đổi
mới công nghệ, chú trọng sử dụng nguồn
nhân lực có chất lượng, nghiên cứu kỹ về
yêu cầu đối với khu vực thị trường xuất
khẩu, pháp luật chi phối, các doanh nghiệp
cần trang bị đầy đủ kiến thức về tiêu chuẩn
chất lượng, về các rào cản kỹ thuật, về hội
nhập kinh tế quốc tế và cải thiện văn hoá
doanh nghiệp nhằm nâng cao chất lượng
sản phẩm, hàng hóa (tạo ra được các sản
phẩm đảm bảo chất lượng, an toàn vệ sinh
thực phẩm, không gây ảnh hưởng đến môi
trường).
Doanh nghiệp VN nên chủ động
trong việc tìm hiểu luật pháp quốc tế, đặc
biệt là những thay đổi trong những quy
định của các quốc gia. Sự không cập nhật
thông tin thường xuyên sẽ khiến các doanh
nghiệp rơi vào thế bị động. Ngoài ra, các
doanh nghiệp VN cũng phải có những biện
pháp tích cực để đối phó mỗi khi xảy ra
tranh chấp thương mại. Nếu thấy những
cáo buộc từ phía đối tác là bất công thì
phải đấu tranh đến cùng để tránh tiền lệ.

Ví dụ : 'Mỹ dùng rào cản kỹ thuật
để cản cá basa VN'
Xung quanh vụ cá da trơn VN có
nguy cơ mất thị trường Mỹ, việc Mỹ phát
hiện ra dư chất kháng sinh trong cá da

trơn của VN là bình thường, không chỉ xảy
17

ra đối với VN. Giới luật sư cho rằng, đây
chính là một rào cản kỹ thuật mà Mỹ muốn
đưa ra để hạ uy tín cá basa VN trên thị
trường và bảo hộ hàng trong nước.
Cá tra, basa của VN từ lâu đã thâm
nhập được vào những thị trường lớn như
EU, Nhật Bản. Đây đều là những quốc gia
có các tiêu chí rất cao trong vấn đề dư chất
kháng sinh trong hàng thuỷ sản, thậm chí
còn cao hơn cả của Mỹ. Tuy nhiên, thuỷ
sản VN vẫn vào được các thị trường này
và luôn được đánh giá cao, điều này chứng
tỏ cá basa của VN đảm bảo tốt các yếu tố
về mặt kỹ thuật và chất lượng.
Việc Mỹ chỉ dựa vào một vài lô
hàng nhỏ có chứa dư chất kháng sinh để đe
doạ trừng phạt cá basa VN trên diện rộng
là bất công cho người sản xuất khác và đây
có thể xem là một dạng phân biệt đối xử,
vi phạm những quy định của chính quốc
gia giàu có này. Một điều đáng lo ngại hơn
là sự việc trên có thể sẽ gây ra một cuộc
tẩy chay hàng hoá của Mỹ tại VN và
ngược lại. Trong trường hợp ấy, người bị
thiệt hại chính là người tiêu dùng ở cả hai
nước và tác động tiêu cực đến ngành thủy
sản hai bên.

Việc cấm bán cá basa của một số
bang tại Mỹ là một kiểu hàng rào kỹ thuật
mà Mỹ dựng lên nhằm tẩy chay cá da trơn
của VN. Trước đây, Mỹ từng áp thuế bán
phá giá đối với cá basa của VN nhưng sau
đó mặt hàng này của VN vẫn bán chạy trên
thị trường nước này. Vì thế, có thể lần này
Mỹ muốn ngăn chặn nguồn hàng nhập
khẩu từ VN để khôi phục lại thị trường cá
basa trong nước. Đó cũng là một trong
những biện pháp chống bán phá giá của
Mỹ nhưng ở mức độ cao hơn.
Việt Nam hiện là nhà sản xuất cá
basa lớn nhất thế giới với sản lượng gần
500.000 tấn mỗi năm, cao hơn 200.000 tấn
so với sản lượng tại Mỹ. Hơn nữa, cá basa
của VN luôn được đánh giá là ngon hơn và
chất lượng hơn catfish của Mỹ. Vì thế, một
số bang ở phía Nam của Mỹ - khu vực tập
trung nhiều nhất các khu nuôi trồng catfish
nước này- lên sức ép với chính phủ cấm
bán cá tra, basa của VN là nhằm bảo vệ
cho lợi ích của một vài cá nhân chứ không
phải cho người tiêu dùng Mỹ.

* THÀNH LẬP ĐIỂM HỎI ĐÁP VỀ
HÀNG RÀO KỸ THUẬT CỦA VIỆT
NAM
Đối với
Việt Nam, Cơ quan Thông báo và Điểm

hỏi đáp Quốc gia về Tiêu chuẩn Đo lường
Chất lượng gọi tắt là Văn phòng TBT Việt
Nam trực thuộc Tổng cục Tiêu chuẩn Đo
lường Chất lượng, được thành lập ngày
25/03/2003 theo Quyết định số 356/QĐ -
18

BKHCN của Bộ trưởng Bộ Khoa học và
Công nghệ, là đầu mối quốc gia thực hiện
việc hỏi đáp và thông báo về các Quy định
kỹ thuật, Tiêu chuẩn, Quy trình đánh giá
sự phù hợp và các vấn đề khác liên quan
đến hàng rào kỹ thuật trong thương mại
theo hướng dẫn của Tổ chức thương mại
thế giới (WTO). Có chức năng và nhiệm
vụ cụ thể như sau:
Chức năng thông báo:
Thông báo các quy định kỹ thuật và
các quy trình đánh giá sự phù hợp đã, đang
và sẽ áp dụng của Việt Nam đến Ban Thư
ký của Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO);
Tiếp nhận và phổ biến các thông
báo của các nước thành viên WTO tới các
tổ chức có liên quan trong nước theo
hướng dẫn của Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO).
Chức năng hỏi đáp:
Trả lời các câu hỏi của các Thành
viên WTO về các Pháp quy kỹ thuật, Tiêu

chuẩn (kể cả dự thảo), Quy trình đánh giá
sự phù hợp đã, đang và sẽ áp dụng đối với
Việt Nam,
Chuyển đến các nước Thành viên
WTO các câu hỏi của các bên có liên quan
trong nước về hàng rào kỹ thuật, nhằm
thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam.
Các hoạt động khác:
Tổ chức, tham gia các hoạt động
nghiệp vụ hướng dẫn, phổ biến kiến thức
về hàng rào kỹ thuật đối với thương mại
cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên
quan;
Là cổng thông tin nhằm hỗ trợ các
doanh nghiệp Việt Nam đẩy mạnh xuất
khẩu hàng hoá trên thị trường quốc tế.
Là đầu mối trung tâm của mạng
lưới TBT Việt Nam, bao gồm các điểm
TBT tại 12 Bộ chuyên ngành và 64 tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương.
Là thư ký của Ban liên ngành của
Việt Nam và TBT. Thực hiện các nhiệm
vụ khác do Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường
Chất lượng phân công.

3. Kinh nghiệm từ Casumina , Ngô Han
và Trung Quốc
Để vượt qua rào cản về kỹ thuật của
các nước, các DNVN cần lưu ý mấy điểm
chính: hàng hóa phải đáp ứng được chất

lượng, các vấn đề về an toàn kỹ thuật
(hoặc vệ sinh thực phẩm), bảo vệ môi
trường… Việc áp dụng các tiêu chuẩn từ
các nước tiên tiến không khó do các nước
đã có sẵn các bộ tiêu chuẩn.
19

Chỉ cần chúng ta đầu tư thiết bị, học
hỏi và sản xuất theo công nghệ của họ là
được. Chẳng có nước nào bắt chúng ta
phải trả tiền khi sử dụng hệ thống tiêu
chuẩn của họ. Điều quan trọng là khi sử
dụng, các DN cần phải chọn đúng những
nước tiêu biểu, hàng hóa của họ có ảnh
hưởng lớn đến khu vực và các nước trên
thế giới.
Chẳng hạn, ở châu Á nên chọn bộ
tiêu chuẩn của Nhật Bản, ở Bắc Mỹ chọn
tiêu chuẩn của Mỹ, và châu Âu thì tiêu
chuẩn chung từ EU…
3.1 Công ty Casumina
Ngay từ khi VN mở cửa thị trường,
Casumina đã tự xây dựng các bộ tiêu
chuẩn nội bộ tương thích với các tiêu
chuẩn tiên tiến trong khi chưa có tiêu
chuẩn VN (TCVN) và xin công nhận sự
hợp chuẩn của các tiêu chuẩn đó. Cụ thể,
Casumina áp dụng tiêu chuẩn JIS 6366-
6676 (của Nhật) cho lốp xe máy từ năm
2000. Đây cũng là tiền đề cho việc xây

dựng TCVN 5721.
Để có được kết quả này, Casumina
phải xây dựng một hệ thống phòng thí
nghiệm đủ sức kiểm tra các chỉ tiêu kỹ
thuật tiên tiến trên thế giới. Hàng năm
Casumina dành khoảng 10%-20% vốn đầu
tư thiết bị cho các thiết bị thử nghiệm, xây
dựng một đội ngũ thiết kế sản phẩm phù
hợp với chuẩn mực quốc tế ; Chú trọng
đến sản xuất sản phẩm không gây ô nhiễm
môi trường. Nhờ vậy, sản phẩm như vỏ
ruột xe máy của Casumina đã chiếm tới
45% thị phần cả nước, đồng thời xuất khẩu
sang 25 nước và vùng lãnh thổ khác trên
thế giới.

3.2 Công ty cổ phần Ngô Han
Là đơn vị chuyên sản xuất dây điện
từ với mặt hàng dây điện từ ở VN đã có
tiêu chuẩn 4305-92, 6337-1997, 6338-
1997. Các tiêu chuẩn này được xây dựng
dựa trên tiêu chuẩn phổ biến trên thế giới
như JIS C 3202 và JIS 3204 của Nhật;
NEMA MW –1000 của Mỹ; IEC 60317
của Ủy ban Kỹ thuật điện quốc tế.
Các tiêu chuẩn thường không khác
biệt ở các phần cơ bản, nhưng mỗi tiêu
chuẩn có điểm khác biệt riêng, như kích
thước, phương pháp và điều kiện thử
nghiệm. Các tiêu chuẩn này thường được

soát xét khi cần thiết và cập nhật thường
xuyên. Ngô Han hiện có các tiêu chuẩn
trên, đa số cập nhật và mua qua mạng
Internet, có đầy đủ các thiết bị thử nghiệm
theo các tiêu chuẩn. Thậm chí một số
khách hàng muốn cung ứng theo đúng
mẫu, đảm bảo chất lượng của họ đề ra, để
từ đó họ dễ dàng kiểm soát, kiểm tra từng
công đoạn cho phù hợp.
20

Tất nhiên, để làm được việc này,
nhà nước phải có kế hoạch xây dựng hoặc
hỗ trợ DN trang bị các phòng thí nghiệm
trọng điểm. Qua phòng thí nghiệm và hệ
thống tiêu chuẩn tiên tiến, chúng ta xây
dựng hàng rào kỹ thuật để tự vệ, ngăn
ngừa các nhà sản xuất có chất lượng thấp,
làm ảnh hưởng đến hàng hóa VN.
3.3 Điểm hỏi đáp về hàng rào kỹ thuật của
Trung Quốc và những kinh nghiệm áp
dụng cho Việt Nam .
Ngay từ đầu năm 1997, khi đang
trong giai đoạn chuẩn bị trở thành
thành viên của Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO), Chính phủ Trung
Quốc đã nhận thức được tầm quan
trọng hoạt động của Điểm hỏi đáp quốc
gia về hàng rào kỹ thuật (Điểm hỏi đáp)
và đã cho thành lập cơ quan này để

chuẩn bị cho việc thông báo, hỏi đáp và
nghiên cứu về hàng rào kỹ thuật.
Cuối năm 2001, Trung Quốc chính
thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế
giới. Chính phủ Trung Quốc đã củng cố
hơn nữa việc xây dựng Điểm hỏi đáp.
Theo quyết định của chính phủ, Điểm hỏi
đáp trực thuộc Tổng cục Kiểm dịch, Kiểm
định và Giám sát chất lượng (AQSIQ) và
có tên chính thức là “Điểm hỏi đáp và
thông báo quốc gia về hàng rào kỹ thuật
của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa”.
Điểm hỏi đáp này hiện có 15 nhân viên
được chia thành ba phòng là Phòng hỏi đáp
và thông báo về hàng rào kỹ thuật, Phòng
nghiên cứu về hàng rào kỹ thuật và Phòng
mạng lưới. Kinh phí hoạt động của Điểm
hỏi đáp được lấy từ ngân sách của chính
phủ.
Cho đến nay, Điểm hỏi đáp và
thông báo quốc gia về hàng rào kỹ thuật
của Trung Quốc đã thực hiện được rất
nhiều công việc quan trọng mà tựu chung
có thể được xem xét dưới một số điểm
đáng lưu ý sau:
Trước hết, phải kể đến công tác
kiểm tra kỹ thuật đối với những thông
báo về biện pháp Hàng rào kỹ thuật
(TBT) của Trung Quốc. Điểm hỏi đáp là
cơ quan chịu trách nhiệm kiểm tra kỹ thuật

đối với các mẫu thông báo TBT do các Bộ
hoàn thành để trình lên WTO bao gồm
mẫu, nội dung, cách diễn đạt, v.v theo quy
định của Ủy ban TBT. Những vấn đề này
sẽ được gửi tới cơ quan thông báo TBT
của Trung Quốc thuộc Bộ Thương mại để
chính thức thông báo tới WTO.
Kể từ khi Trung Quốc gia nhập
WTO cho đến cuối tháng 9 năm 2004, đã
có 59 thông báo TBT về các quy phạm kỹ
thuật và các thủ tục đánh giá hợp chuẩn
của Trung Quốc được đệ trình lên Ban Thư
ký WTO, trong đó có 18 thông báo được
đệ trình vào năm 2002, 22 thông báo trong
năm 2003 và 19 thông báo được đệ trình
21

trong 9 tháng đầu năm 2004. Để thực hiện
được một khối lượng công việc lớn như
vậy với những kết quả tích cực, Trung
Quốc đã có một số cách thức làm việc và
kinh nghiệm mà các nước khác có thể đáng
xem xét và lưu ý học tập, cụ thể là:
- Điểm hỏi đáp hiện có một đội ngũ
cán bộ có trình độ cao. Tất cả các nhân
viên làm việc tại Điểm hỏi đáp đều có trình
độ đại học, hai phần ba nhân viên trong số
họ là kỹ sư lâu năm. Các nhân viên đều
thành thạo tiếng Anh và mỗi người đều có
khả năng hoàn thành tốt công việc của

mình.
- Văn phòng Điểm hỏi đáp được
trang bị các thiết bị tiên tiến. Tại Điểm hỏi
đáp quốc gia, mỗi nhân viên đều được
trang bị một máy tính có thể xử lý nhanh
các văn bản và kết nội mạng bất cứ lúc
nào. Ngoài ra, tất cả các thông tin đều
được chia sẻ nhờ hệ thống mạng LAN, vì
vậy mà nâng cao được hiệu quả công việc.
- Các nguyên tắc và thủ tục do Ủy
ban TBT quy định được tuân thủ chặt chẽ.
Để làm được điều đó, Trung Quốc đã dịch
toàn bộ 85 Nghị quyết và Khuyến nghị của
Ủy ban TBT kể từ năm 1995. Sau đó,
Trung Quốc đã biên soạn lại thành một
quyển sách hướng dẫn chuyên ngành và
cho xuất bản để làm cẩm nang hướng dẫn
cho cán bộ của Điểm hỏi đáp, các doanh
nghiệp và những người có liên quan. Một
thực tế đã chứng minh là các quy định về
thông báo và hỏi đáp trong cuốn sách đó
rất hữu ích trong công việc hàng ngày của
các cán bộ làm việc tại Điểm hỏi đáp.
- Ban lãnh đạo Điểm hỏi đáp đã đề
ra những nguyên tắc và quy trình làm việc
rất chuyên nghiệp như ta vẫn thường thấy
ở các tập đoàn đa quốc gia. Thậm chí,
những nguyên tắc và quy trình này được
chi tiết tới cấp độ công việc hàng ngày.
Chẳng hạn như trong việc thông báo,

Trung Quốc áp dụng hệ thống kiểm tra ba
cấp nhằm đảm báo chất lượng của các
thông báo.
Điều đáng lưu ý thứ hai ở đây là
Điểm hỏi đáp đóng vai trò nơi tiếp nhận
các thông báo TBT từ các nước Thành
viên khác. Mỗi năm, Điểm hỏi đáp tiếp
nhận khoảng 500 đến 800 thông báo TBT
do Ban Thư ký của WTO gửi đi từ trang
web của họ. Cách thức làm việc của Trung
Quốc là trong vòng hai đến ba ngày kể từ
ngày nhận được thông báo, họ sẽ dịch
thông báo sang tiếng Trung Quốc sau đó
gửi cả bản tiếng Trung Quốc và bản tiếng
Anh đến các cơ quan chính phủ và các tổ
chức trung gian có liên quan dưới dạng
văn bản giấy (bản cứng) và dưới dạng thư
điện tử (bản mềm) đồng thời đưa các thông
báo này lên trang web TBT-SPS của Điểm
hỏi đáp để giúp công chúng có thể tham
khảo miễn phí.
22

Hơn nữa, Điểm hỏi đáp cho xuất
bản các “Bản tin về thông báo
TBT/WTO”. Mỗi số, Điểm hỏi đáp in 500
cuốn và phát cho các Bộ và cơ quan chính
phủ có liên quan, chính quyền địa phương
và các tổ chức liên quan khác. Tính đến
nay đã có khoảng 30.000 cuốn bản tin loại

này được phát hành.
Các thông tin về TBT cũng được
phổ biến thông qua các phương tiện truyền
thông như báo và tạp chí. Hàng tuần vào
thứ bảy, các thông báo quan trọng của
TBT-SPS sẽ được phát trên kênh kinh tế
của Đài truyền hình Trung ương Trung
Quốc (CCTV).
Bên cạnh những chức năng nêu
trên, Điểm hỏi đáp còn đóng vai trò như
một “Dịch vụ hỏi đáp TBT”. Theo Thỏa
thuận về TBT, Điểm hỏi đáp TBT có nghĩa
vụ cung cấp dịch vụ giải đáp các thắc mắc
của các doanh nghiệp nhà nước, các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu cũng như các hiệp
hội thương mại trong và ngoài nước về
TBT. Cùng với sự gia tăng của các thắc
mắc từ các đơn vị có liên quan, số lượng
dịch vụ giải đáp mà Điểm hỏi đáp này đã
đáp ứng cũng không ngừng tăng lên. Vì
vậy, vai trò của Điểm hỏi đáp trở lên
không thể thiếu được đối với các doanh
nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp
xuất khẩu.
Vai trò góp ý cho các thông báo
về biện pháp TBT của các thành viên
khác cũng hết sức quan trọng. Góp ý cho
các biện pháp TBT do các thành viên khác
đưa ra không chỉ là quyền lợi của thành
viên WTO mà còn là phương thức hữu

hiệu để phối hợp các yêu cầu kỹ thuật và
nguyên tắc quản lý sản phẩm giữa các
thành viên WTO. Công việc này đóng một
vai trò quan trọng nhằm làm giảm và loại
bỏ các trở ngại không cần thiết trong
thương mại. Trong giai đoạn đầu khi
Trung Quốc mới gia nhập WTO, giới kinh
doanh trong nước, đặc biệt là các doanh
nghiệp xuất khẩu, không quen với các
nguyên tắc của WTO. Họ không nhận thức
được tầm quan trọng của việc góp ý cho
các thông báo TBT. Vì vậy, các doanh
nghiệp đã không đưa ra được những ý kiến
ngay từ giai đoạn đầu khi các thành viên
khác thông báo về các yêu cầu kỹ thuật và
thủ tục đánh giá hợp chuẩn có thể ảnh
hưởng đến sản phẩm xuất khẩu của doanh
nghiệp. Các doanh nghiệp chỉ nhận ra sự
nghiêm trọng của vấn đề khi các sản phẩm
của họ không còn được phép nhập khẩu
vào một thị trường nào đó do các yêu cầu
kỹ thuật và thủ tục đánh giá hợp chuẩn đã
thông báo bắt đầu có hiệu lực thi hành và
đến lúc đó mọi việc đã trở nên quá muộn.
Trước tình hình đó, Điểm hỏi đáp
đã phối hợp với các cơ quan liên quan để
tiến hành công tác tuyên truyền và tập
23

huấn nhằm phổ cập kiến thức về Hiệp định

TBT đến các doanh nghiệp trong nước.
Điểm hỏi đáp cũng đã tổ chức các hội thảo
để thực hiện việc góp ý một cách hiệu quả
cho các thông báo TBT. Cơ quan này cũng
nhận thức rất rõ rằng việc góp ý này có
tầm quan trọng tích cực. Nó giúp cho các
doanh nghiệp xuất khẩu sớm biết được các
yêu cầu kỹ thuật của nước nhập khẩu, do
đó mà tránh được những rủi ro tiềm tàng
trong thương mại, giúp cho hoạt động trao
đổi công nghệ quốc tế nhằm ngày càng
hoàn thiện việc xây dựng các quy định kỹ
thuật. Ngoài ra, nó còn thúc đẩy tự do hóa
thương mại và tạo điều kiện thuận lợi cho
tự do hóa thương mại ở cấp quốc tế.
Trong việc góp ý, Điểm hỏi đáp
cũng gặp một số khó khăn, đặc biệt là
những khó khăn về vấn đề ngôn ngữ. Do
tiếng Anh không phải là ngôn ngữ mẹ đẻ
nên mỗi thông báo đều được dành từ hai
đến ba ngày để dịch sang tiếng Trung
Quốc và đưa lên mạng lưới TBT-SPS. Cứ
15 ngày, Điểm hỏi đáp lại xuất bản một
cuốn “Bản tin về thông báo TBT”. Tuy
nhiên, hiện có một vấn đề khó khăn là phải
dịch cho đúng các yêu cầu kỹ thuật trong
thông báo. Một số từ khó về mặt thuật ngữ
chứ không phải là vì tiếng Anh. Hiện nay,
Điểm hỏi đáp phải dùng một công ty dịch
thuật thuộc chính phủ để làm việc này và

chi phí cho việc dịch thuật khá tốn kém.
Với tư cách là Điểm hỏi đáp quốc
gia, Điểm hỏi đáp cũng nhận được những
góp ý từ các thành viên khác của WTO về
các thông báo của Trung Quốc. Về điểm
này, Điểm hỏi đáp sẽ chuyển những góp ý
đó tới các cơ quan có thẩm quyền xử lý.
Trong trường hợp cần thiết các góp ý đó sẽ
được dịch sang tiếng Trung Quốc và Điểm
hỏi đáp sẽ phải có trách nhiệm kiểm tra về
mặt ngôn ngữ đối với các câu trả lời bằng
tiếng Anh từ các cơ quan khác nhau. Nếu
có điểm gì đó Điểm hỏi đáp cảm thấy chưa
rõ hoặc chưa thỏa đáng, Điểm hỏi đáp sẽ
trao đổi với cơ quan ban hành yêu cầu đó.
Sau đó, Điểm hỏi đáp sẽ thông tin phản hồi
tới các thành viên của WTO đã góp ý kiến
sau khi đã thông nhất với cơ quan liên
quan về mặt ngôn ngữ.
Về công tác nghiên cứu TBT,
Điểm hỏi đáp thường tiến hành các công
tác nghiên cứu và viết báo cáo về các vấn
đề quan trọng trong thương mại quốc tế.
Các báo cáo này phải đảm bảo hai yếu tố
là kịp thời và nhanh chóng. Mỗi báo cáo
viết về một vấn đề cụ thể và được sử dụng
như là tài liệu tham khảo cho các ngành
liên quan. Các báo cáo đã biên soạn bao
gồm: “Tổng hợp các Nghị quyết và
Khuyến nghị của Ủy ban TBT kể từ năm

1995”, “Hướng dẫn của EU về tiêu chuẩn
tiết kiệm năng lượng đối với các thiết bị
điện gia dụng”, “Hướng dẫn của EU về
thiết bị
24

thải điện và điện tử”, “Tổng hợp các thông
báo về nồi hơi và bình áp suất”, “Tổng hợp
các thông báo về hệ thống đo lường”,
“Tổng hợp các thông báo về an toàn thực
phẩm”, v.v.
Bên cạnh đó, mạng lưới TBT-SPS
là một kênh truyền dẫn thông tin hết
sức quan trọng. Để giúp công chúng và
những người sử dụng nắm được các thông
tin về WTO và các thông báo của TBT-
SPS, Trung Quốc đã lập một trang web của
TBT-SPS. Trang web này đăng tải một
lượng lớn các thông tin về hàng rào kỹ
thuật trong thương mại ở trong và ngoài
nước. Trang web sử dụng 43 cơ sở dữ liệu
và có hơn 8.000 trang kết nối. Người sử
dụng có thể truy cập vào mạng lưới và tìm
kiếm các biện pháp TBT-SPS đang được
soạn thảo, hoặc các yêu cầu kỹ thuật, tiêu
chuẩn và thủ tục đánh giá hợp chuẩn của
các nước và các khu vực khác nhau, hoặc
các thông tin cảnh báo về hàng rào kỹ
thuật trong thương mại, góp ý trực tuyến,
v.v. Các trương mục chính trên trang web

bao gồm: xây dựng biện pháp TBT trong
thương mại, thông báo TBT, thông báo
SPS, hỏi đáp và góp ý về TBT-SPS, cảnh
báo, chuyên đề, nghiên cứu chuyên ngành,
luật và quy định về kiểm định chất lượng,
thông tin về tiêu chuẩn và thủ tục đánh giá
hợp chuẩn, tiếp cận thị trường, diễn đàn
các tổ chức quốc tế và WTO, v.v.
Việc phát hành các ấn phẩm cũng
là một trong những nội dung hết sức quan
trọng trong việc mở rộng kiến thức và
phục vụ tốt hơn các đơn vị liên quan. Để
thực hiện tốt công việc này, Điểm hỏi đáp
TBT của Trung Quốc đã biên soạn và xuất
bản một số ấn phẩm như “Bản tin TBT”
xuất bản mỗi tháng hai số, “Báo cáo của
Điểm hỏi đáp TBT-SPS”, “Hiểu biết về
Thỏa thuận TBT”, v.v. Hiện tại, Trung
Quốc đang chuẩn bị cho việc xuất bản định
kỳ trên toàn quốc thông tin về các hàng rào
kỹ thuật trong thương mại.
Qua những vấn đề đã nêu trên về
Điểm hỏi đáp TBT của Trung Quốc, chúng
ta có thể rút ra một số kinh nghiệm để xem
xét áp dụng vào Điểm hỏi đáp ở Việt Nam
như sau:
- Thứ nhất, sự quan tâm đúng mức
của chính phủ đối với Điểm hỏi đáp TBT
là hết sức quan trọng. Chẳng hạn như để
xác định rõ vai trò của công tác thông báo

TBT, Trung Quốc đã đưa ra những quy
định rõ ràng về chức năng và nhiệm vụ của
Điểm hỏi đáp, đồng thời đảm bảo đầy đủ
sự hỗ trợ về tài chính cho hoạt động của
Điểm hỏi đáp.
- Thứ hai, nguyên tắc làm việc của
điểm hỏi đáp phải rõ ràng, đòi hỏi phải
tuân thủ theo một quy trình cụ thể, nghiêm
túc. Có thể lấy một ví dụ trong việc gửi các
thông báo TBT của Trung Quốc, trước hết
25

các cơ quan chính phủ sẽ điền vào các mẫu
thông báo về nội dung quy định kỹ thuật
hay thủ tục hợp chuẩn, sau đó chuyển sang
cho Điểm hỏi đáp kiểm tra lại trước khi
trình lên Bộ Thương mại. Bộ Thương mại
sẽ kiểm tra lại thông báo này rồi trình lên
Ban Thư ký của WTO thông qua Phái
đoàn thường trực tại WTO.
- Thứ ba, đội ngũ nhân viên của
Điểm hỏi đáp phải được tuyển chọn kỹ
lưỡng, có trình độ chuyên môn, kỹ thuật
cao, trình độ tiếng Anh tốt, phong cách
làm việc chuyên nghiệp và được trang bị
các thiết bị văn phòng hiện đại. Đây là một
công việc đòi hỏi sự chuyên tâm nghiên
cứu, có trách nhiệm cao và phải có trình độ
nhất định. Do vậy, việc có được một đội
ngũ chuyên viên, cán bộ như của Trung

Quốc là hết sức quan trọng, đóng vai trò
quyết định trong việc thành công của Điểm
hỏi đáp.
- Cuối cùng, việc chủ động tham gia
vào các cuộc họp của Ủy ban TBT và các
hoạt động liên quan khác cũng hết sức
quan trọng, nhờ đó mà Điểm hỏi đáp kịp
thời nắm được xu thế và chủ động phối
hợp trong công tác TBT. Góp phần cập
nhật các thông tin chính xác cho các doanh
nghiệp trong nước, đặc biệt là những
doanh nghiệp tham gia xuất khẩu.

V. CẢM NGHĨ :
Ngày nay, khi Việt Nam gia nhập
WTO, các Doanh nghiệp phải “bơi ra biển
lớn”, phải chấp nhập cuộc chơi, .ngành
thủy sản sẽ trang bị cho mình những gì,
doanh nghiệp Việt Nam phải làm gì để
không bị tấn công bởi những hàng rào
thương mại, những rào cản kỹ thuật,
…đưa đất nước đi lên giàu mạnh, vững
chắc mà không phải trả giá hoặc mua
những bài học kinh nghiệm quá đắt

×