Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Moi truong sinh thai docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 33 trang )

MỞ ĐẦU
Đất là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, đất là địa bàn cho các quá trình
biến đổi và phân hủy các phế thải khoáng và chất hữu cơ nơi cư trú cho các loại
động thực vật và con người, địa bàn để lọc nước và cung cấp nước. Đất còn phục
vụ cho con người ở nhiều lĩnh vực như nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, giao
thông… Mỗi dạng đất có sự khác nhau về giới hạn của nó và mỗi vùng nông - sinh
thái với các yếu tố khí hậu đặc trưng cho phép tạo ra nhiều thời vụ, đáp ứng những
mục đích sử dụng khác nhau.
Cuộc sống của con người phụ thuộc rất nhiều vào lớp đất trồng trọt để sản
xuất ra lương thực, thực phẩm và các nguyên liệu sản xuất công nghiệp phục vụ
cho cuộc sống của mình. Tuy nhiên lớp đất có khả năng canh tác này lại luôn chịu
những tác động mạnh mẽ của tự nhiên và các hoạt động canh tác do con người. Sự
thoái hóa của đất biểu hiện dưới nhiều hình thức, vì thế rất khó đánh giá tiềm năng
màu mỡ của đất do sự đa dạng của việc sử dụng đất, mức độ công nghệ, các tiêu
chuẩn về quản lí và sức ép dân số.
Việt Nam có diện tích tự nhiên 32.931.456 ha với ¾ lãnh thổ là vùng đồi núi
và trung du,trong đó diện tích sông suối và núi đá không có rừng cây là 1,3 triệu
ha ( chiếm 4,06% diện tích đất tự nhiên ) phần đất liền 31,2 triệu ha (chiếm 94,5%
diện tích tự nhiên) xếp thứ 58 trên thế giới.
Một vấn đề đặt ra là với đặc điểm đất đồi núi chiếm 3/4 toàn lãnh thổ lại
nằm trong vùng nhiệt đới, mưa nhiều và tập trung, nhiệt độ không khí cao, các quá trình
khoáng hoá diễn ra rất mạnh trong đất nên dễ bị rữa trôi, xói mòn, nghèo chất hữu cơ và
chất dinh dưỡng dẫn đến thoái hoá đất.
Thoái hóa đất đang trở thành một vấn đề môi trường cần được quan tâm giải quyết một
cách triệt để không chỉ của thế giới mà còn ở ngay tại nước ta nhằm cứu lấy nguồn tài
nguyên quý giá này .
1
NỘI DUNG
1.Định nghĩa:
Đất bị suy thoái là những loại đất do những nguyên nhân tác động nhất định
theo thời gian đã và đang mất đi những đặc tính và tính chất vốn có ban đầu trở


thành các loại đất mang đặc tính và tính chất không có lợi cho sinh trưởng và phát
triển của các loại cây trồng nông lâm nghiệp
Một loại đất bị thoái hóa nghĩa là bị suy giảm hoặc mất đi:
- Độ phì đất: các chất dinh dưỡng; cấu trúc đất; màu sắc ban đầu của đất;
tầng dày đất, thay đổi pH đất…
- Khả năng sản xuất: các loại cây trồng, các loại vật nuôi, các loại cây lâm
nghiệp
- Cảnh quan sinh thái: Rừng tự nhiên , rừng trồng, hệ thống cây trồng
- Hệ sinh vật: thực vật, động vật, vi sinh vật
- Môi trường sống của con người: cây xanh, nguồn nước, không khí trong
lành, nhiệt độ ôn hòa, ổn định…
Sự thoái hóa đất là hậu quả của các tác động khác nhau từ bên ngoài và bên
trong của quá trình sử dụng đất:
- Thiên tai: khô - hạn - bão - lũ lụt - nóng - rét - lốc xoáy
- Hoạt động sản xuất không hợp lý của con người
• Các hoạt động sản xuất và kinh tế khác nhau
• Từ các hoạt động sản xuất nông nghiệp trực tiếp đến đất
2
2. Nguyên nhân gây ra suy thoái đất
* Do tự nhiên:
- Vận động địa chất của trái đất: động đất, sóng thần, sông suối thay đổi
dòng chảy, núi lở, nước biển xâm nhập…
- Do thay đổi khí hậu, thời tiết: Mưa, nắng, nhiệt độ, gió, bão…
* Do con người gây nên:
- Chặt đốt rừng làm nương rẫy
- Canh tác trên đất dốc lạc hậu: cạo sạch đồi, chọc lỗ bỏ hạt, không chống
xói mòn, không luân canh…
- Chế độ canh tác độc canh, bỏ hoang hóa, không bón phân, hoặc bón phân
không hợp lý, không phun thuốc trừ sâu, trừ cỏ…
- Suy thoái do ô nhiễm đất từ nước thải, chất thải rắn, ô nhiễm dầu, hóa chất

độc hại, thuốc trừ sâu
Từ các nguyên nhân trên đã dẫn đến các kiểu thoái hóa đất
- Phèn hóa, nghèo kiệt dinh dưỡng trong đất
- Nhiễm mặn
- Laterit hóa
- Ô nhiễm đất
- Xói mòn, xói lở
- Sa mạc hóa
3. Hiện trạng sử dụng đất ở nước ta
Diện đất tự nhiên nước ta khoảng 33 triệu ha, được xếp thứ 59/200 nước,
nhưng dân số đông (khoảng 78 triệu người) nên diện tích đất bình quân mỗi người
vào loại thấp (0,5 ha) và xếp vào thứ 159.
Đất vùng đồi núi, dốc chiếm 22 triệu ha (67% diện tích cả nước), đất tốt có
đất bazan 2,4 triệu ha chiếm 7,2%, đất phù sa 3,0 triệu ha chiếm 8,7%. Nhìn chung
đất tốt chỉ được xấp xỉ 20%.
3
Đất nông nghiệp khoảng 7,36 triệu ha, trong đó 5,9 triệu ha trồng cây ngắn
ngày như lúa, hoa màu, lương thực thực phẩm (số liệu năm 1994). Đất rừng
khoảng 9,91 triệu ha. Ngoài ra, có khoảng 13,58 triệu ha chưa được sử dụng trong
đó chỉ có khoảng 400.000 ha có thể sử dụng vào nông nghiệp, còn lại là đồi núi
trọc và mặt nước ao hồ sông suối.
Cơ cấu sử dụng đất ở Việt Nam cũng có xu hướng giống thế giới: tăng đất
nông nghiệp, giảm đất rừng, tăng đất chuyên dùng và đất trống đồi trọc. 55% diện
tích đất tự nhiên được sử dụng vào 4 mục đích cơ bản: nông nghiệp, lâm nghiệp,
chuyên dụng và các khu dân cư. Khoảng 7 triệu ha đất (21,13% diện tích đất tự
nhiên) được sử dụng vào nông nghiệp như trồng cây hàng năm (5,5 triệu ha), trồng
cây lâu năm (1,1 triệu ha), đồng cỏ chăn nuôi (0,35 triệu ha).
Bảng 11. Tình hình sử dụng đất tại Việt Nam (%)
Năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996
Tổng diện tích

đất
: 33.104,22 triệu ha
Đất nông
nghiệp
21,17 22,03 22,20 22,25 22,26 24,09
Đất rừng 29,05 28,77 29,12 29,95 32,61 32,84
Đất chuyên
dụng
3,03 3,34 3,35 3,39 3,84 3,93
Đất định cư 2,44 2,34 2,34 2,17 2,50 2,62
4
Đất chưa sử
dụng
44,31 43,52 42,99 42,24 38,80 36,52
Bảng 12. Diện tích đất nông nghiệp và đất rừng so với diện tích đất tự
nhiên năm 1994 chia theo vùng
Đất
Tự nhiên
(%)
Nông nghiệp
(%)
Rừng
(%)
Cả nước 100 22,3 30,0
Miền núi và trung du Bắc
bộ 100 3,6 6,2
Đồng bằng sông Hồng 100 2,1 0,2
Khu Bốn cũ 100 2,0 5,7
Duyên hải miền Trung 100 1,6 5,6
Tây Nguyên 100 1,9 9,9

Đông Nam bộ 100 2,9 1,5
Đồng bằng sông Cửu
Long 100 8,0 0,9
4. Thực trạng suy thoái đất hiện nay ở nước ta
5
Việt Nam còn khoảng 9 triệu ha đất bị hoang hóa (chiếm khoảng 28% tổng
diện tích đất đai trên toàn quốc), trong đó có 5,06 triệu ha đất chưa sử dụng (Quyết
định số 272/QĐ-TTg ngày 27/2/2007) và 2 triệu ha đất đang được sử dụng bị thoái
hóa nặng.
Đó là con số do Văn phòng thực hiện Công ước chống sa mạc hóa của Liên
hiệp quốc (UNCCD) tại Việt Nam thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
cung cấp Nhân ngày Thế giới chống sa mạc hóa và hạn hán 17-6 năm nay.
Văn phòng UNCCD Việt Nam cho biết, độ phì nhiêu của đất ở Việt Nam
đang có nguy cơ bị giảm xuống hoặc bị thoái hóa nghiêm trọng do xói mòn, rửa
trôi, đá ong hóa, chua mặn hóa. Tài nguyên rừng cũng bị suy giảm đáng kể. Nếu
như năm 1943 Việt Nam có tỷ lệ che phủ của rừng là 43% thì sau nhiều nỗ lực
khắc phục các nguyên nhân mất rừng suốt 60 năm qua, tỷ lệ che phủ hiện nay mới
chỉ là 37,6% (Số liệu công bố tháng 12-2006). Rừng bị mất đã làm tăng diện tích
đất hoang hóa, kéo theo sự giảm sút đáng kể các hệ sinh thái, làm suy thoái vùng
đầu nguồn.
4.1 Xói mòn, xói lở
Lượng đất mất do xói mòn là rất lớn và phụ thuộc vào độ dốc, chiều dài sườn dốc,
thực trạng lớp phủ trên mặt đất, dao động từ 100 đến 500 tấn đất/ha/năm.
Trung bình, lượng chất dinh dưỡng của đất hàng năm bị mất đi là chất hữu
cơ 5.600 tấn/năm; nitơ 199,2 kg/năm; lân 163,2 kg/năm; Ca và Mg 33 kg/năm.
Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp, đất đồi núi miền Bắc nước ta hàng năm mất
khoảng 1cm tầng đất mặt (100m
3
/ha), trong đó có khoảng 6 tấn mùn (tương đương
6

khoảng 100 tấn phân chuồng) và 300kg N (tương đương khoảng 1,5 tấn sunphat
amon). Đặc biệt, có nơi như Tây Bắc mất đi khoảng 3cm đất mặt, tương đương
150 - 300 tấn đất/ha. Mỗi năm nước cuốn ra biển khoảng 250 triệu tấn phù sa màu
mỡ, riêng sông Hồng mất đi khoảng 80 triệu m
3
/năm
7
Xói mòn đất-Sạt lở đất
4.2 Sa mạc hóa
Sa mạc hóa là sản phẩm cuối cùng của thoái hóa đất xảy ra ở vùng khô hạn
và bán khô hạn. Nguyên nhân do tác động qua lại giữa hạn hán và sử dụng môi
trường đất không hợp lý. Việt Nam có sa mạc cục bộ, đó là các dải cát hẹp trải dài
dọc theo bờ biển miền trung, tập trung ở 10 tỉnh từ Quảng Bình đến Bình Thuận
với diện tích khoảng 419.000 ha và ở đồng bằng sông Cửu Long với diện tích
43.000 ha. Theo thống kê trên bản đồ của FAO và UNESCO, Việt Nam có khoảng
462.000 ha cát ven biển (chiếm khoảng 1,4% tổng diện tích tự nhiên toàn quốc) và
87.800 ha trong số này là các đụn cát, đồi cát lớn di động.
Trong gần 40 năm qua, quá trình hoang mạc hoá do cát di động rất nghiêm
trọng. Mỗi năm có khoảng 10-20 ha đất canh tác bị lấn bởi cát di động. Ở các tỉnh
duyên hải Nam Trung Bộ, thời tiết đặc biệt khô nóng vào mùa khô, lượng mưa
trung bình hàng năm ở một số nơi chỉ đạt khoảng 700 mm (vùng nóng hạn nhất là
8
Ninh Thuận và Bình Thuận). Theo kết quả điều tra gần đây nhất của Viện Khoa
học kỹ thuật nông nghiệp Việt Nam, trong số 21 triệu ha đất canh tác nông nghiệp
của Việt Nam thì đã có đến 9,34 triệu ha đất hoang hóa.
Ở Điện Biên: Vùng có nguy cơ hoang mạc hóa mạnh chiếm 14.3% tổng
diện tích tự nhiên toàn tỉnh với 145674,99 ha, có nhiều thời kì thiếu nước kéo dài
6-9 tháng, thời kỳ khô hạn 4-5 tháng.Vùng có nguy cơ hoang mạc hóa trung bình
chiếm 47,22% tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh với 451.546,78ha. Có 6-8 tháng
thiếu nước, thời kỳ khô hạn từ 1-3 tháng.Vùng có nguy cơ hoang mạc hóa yếu

chiếm 30,11% tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh với 281.952,87ha, có 4-5 tháng
thiếu nước và 1-3 tháng hạn.Vùng không bị nguy cơ hoang mạc hóa có 75.216,72
ha, chiếm 7.87% tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh.
Duyên hải Nam Trung bộ đối mặt với hoang mạc hóa:Hiện các tỉnh duyên
hải Nam Trung bộ có diện tích đất trống đồi núi trọc khá lớn (gần 1,2 triệu ha đất
hoang đồi núi và hơn 60.000 ha đất hoang đồng bằng trên tổng diện tích đất tự
nhiên hơn 3 triệu ha), đất đai khô cằn, xói mòn thoái hóa và hoang mạc hóa diễn ra
trên phạm vi nhiều địa phương.
Vùng duyên hải Nam Trung bộ cũng đã hình thành những dải cồn cát kéo
dài khá liên tục từ Đà Nẵng đến Bình Thuận góp phần gây nên sa mạc hóa, nhất là
phân bố ở các tỉnh: Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hòa, nhưng điển hình là 2 tỉnh
Ninh Thuận và Bình Thuận. Ở Bình Định, tổng diện tích đất tự nhiên là 602.506
ha, có 425.835 ha đất xám bạc màu, trong đó diện tích đất cát 15.968 ha, đồi núi
dốc 375.000 ha; diện tích hoang mạc hóa hiện nay của Bình Định là 786 ha.
Theo các nhà khoa học thuộc Viện Khoa học Kỹ thuật nông nghiệp duyên
hải Nam Trung bộ, địa hình của dãy Kon Tum và hướng gió thổi gần song song
9
với hướng địa hình ven biển đã ảnh hưởng và làm cho khu vực Ninh Thuận, Bình
Thuận trở nên khô nóng quanh năm, nhất là ở Ninh Sơn (Ninh Thuận), Tuy Phong
và Bắc Bình (Bình Thuận). Tại đây có chế độ khí hậu bán khô hạn và được xem là
vùng khô hạn nhất nước, đã tạo thành vùng cát hoang mạc hóa trên diện tích hơn
131.000 ha.
Hai huyện Tuy Phong và Bắc Bình (Bình Thuận) có diện tích đất cát hoang
hóa khoảng 35.000 ha phân bố trên chiều dài 50 km bờ biển. Riêng các đồi cát di
động ở đây có diện tích khoảng 5.000 ha và hiện là nguy cơ suy thoái hàng đầu
trong khu vực.
Với điều kiện khô hạn và gió mạnh, đã thường xuyên tạo ra những cơn bão
cát đe dọa chôn vùi làng mạc, ruộng đồng, phủ lấp Quốc lộ 1A trên một phạm vi
rộng hàng ngàn hécta. Nghiêm trọng nhất là khu vực cát di động ở xã Chí Công,
Liên Hương, Bình Thạnh (Tuy Phong - Bình Thuận) ảnh hưởng lớn đến sản xuất

nông nghiệp của khu vực.
Nghiên cứu thực trạng hạn hán, hoang mạc hóa ở Ninh Thuận, GS-TS Lê
Sâm và cộng sự (Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam) đã ghi nhận: tổng số diện
tích đất hoang mạc ở Ninh Thuận là hơn 41.000 ha, chiếm 12,21% diện tích đất tự
nhiên toàn tỉnh. Và cho đến hiện nay, tình trạng hoang mạc hóa vẫn tiếp tục có
chiều hướng gia tăng.
Các nhà khoa học thuộc Trung tâm Xúc tiến phát triển cộng đồng và bảo vệ
môi trường (Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam) cho biết: trong
tổng số khoảng hơn 852.000 ha đất trống đồi núi trọc và hoang hóa của vùng
10
duyên hải Nam Trung bộ thì diện tích đã và đang chịu tác động mạnh bởi hoang
mạc hóa vào khoảng 45%.
Cánh đồng bị sa mạc hóa
11
12
4.3 Ô nhiễm đất
Môi trường đất có thể bị ô nhiễm dẫn đến thoái hóa do nhiều tác nhân như:
nhiễm mặn, nhiễm phèn, gley hóa, ô nhiễm dầu, thuốc bảo vệ thực vật, kim loại
nặng, chất hữu cơ, chất phóng xạ
Theo kết quả các công trình nghiên cứu của Bộ Quốc phòng VN được tiến
hành từ năm 2000 - 2004, hàm lượng trung bình của dioxin ở sân bay Đà Nẵng là
13
35ppb TEQ (phần ngàn tỷ) - cao gấp 35 lần cho phép đối với đất phi nông nghiệp
được quy định ở Mỹ.
Kết quả nghiên cứu của Công ty Tư vấn Môi trường Hatfield (Canada)
cũng cho thấy, mức độ ô nhiễm dioxin cao nhất trong mẫu đất ở sân bay Đà Nẵng
là 365ppb; trong mẫu máu của người dân sống gần sân bay là 1.220ppt và của hai
người dân khác sống ở khu vực lân cận khoảng 600ppt, cao hơn nhiều lần so với
mức cho phép hàm lượng dioxin trong người của các nước công nghiệp phát triển
trên thế giới.

Đất ô nhiễm do đioxin
14
15
Ô nhiễm đất do nước thải ô nhiễm hữu cơ và kim loại nặng
Đất bị ô nhiễm dầu
Theo điều tra của Viện Lúa ĐBSCL thì trong 3 vụ lúa hàng năm, nông dân
tại Cần Thơ, Đồng Tháp bón phân hóa học các loại từ 514 - 613kg/ha. Nếu chỉ sản
xuất 2 vụ hè thu và đông xuân trong năm, nông dân bón từ 348 – 435kg/ha. Nông
dân các tỉnh còn lại trong vùng cũng bón với số lượng tương tự. Chỉ tính lượng
phân bón theo mức thấp nhất (348kg/ha) trong 2 vụ lúa đông xuân và hè thu từ
năm 1995 đến nay, mỗi năm ruộng đồng vùng ĐBSCL tiếp nhận từ 1,357 – 1,696
triệu tấn phân hóa học. Còn về nông dược, hiện chưa có số liệu thống kê cụ thể,
nhưng theo các nhà chuyên môn thì mỗi năm đồng ruộng nhận từ 10.000 tấn trở
16
lên. Đa số nông dân hiện sử dụng thuốc bảo vệ thực vật tùy tiện. Điều này dẫn đến
ô nhiễm đất rất nghiêm trọng ở Đồng bằng sông Cửu Long.
Đất bị ô nhiễm do thuốc bảo vệ thực vật
4.4 Laterit hóa
Quá trình laterit hóa (hay đá ong hóa) là quá trình thổ nhưỡng - địa chất chỉ
xảy ra ở vùng khí hậu nhiệt đới, là quá trình rửa trôi và tích tụ tuyệt đối các cation
Fe
3+
, Fe
2+
; Al
3+
; Mn
6+
. Các cation này có sẵn trong môi trường đất nhiệt đới, do sự
tác động của nước mưa, dòng thấm, nước ngầm, chúng bị rửa trôi và tập trung lại

một chỗ trong đất với mật độ cao.
Các cation này hấp thụ vào một
nhóm mang điện tích âm (hạt keo
đất, oxit sắt…) hoặc hấp phụ vào
một tác nhân khác để có thể tạo sự
kết dính giữa các cation đó nhằm
tạo nên những liên kết tương đối
bền vững. Khi nhiệt độ môi trường lên cao, độ ẩm giảm thấp, các liên kết này mất
nước, sẽ tạo nên những oxit kim loại rất cứng chắc.
17
Qua 2 năm điều tra khảo sát và thu thập số liệu, dữ
kiện, chúng tôi có một số kết luận sau đây (Lê Huy Bá –
1994):
“Quá trình laterit ở miền Đông Nam Bộ nói riêng và đất dốc đồi núi Việt Nam nói
chung đã và đang xảy ra một cách mãnh liệt ở hầu khắp các vùng đất, loại đất.
Riêng ở vùng Đông Nam Bộ với diện tích đất 357.176 ha chiếm tỉ lệ 15.14% đất
toàn miền, laterite ở miền Đông đáng báo động khẩn cấp”.
Đất bị laterit hay còn gọi là đá ong có ở nhiều nơi trên vùng đồi núi bazan
và khu vực Bắc bộ. Đá ong tập trung ở một số nơi như An Nhơn (Bình Định), các
dải đồi nằm ven biển ở khu vực bãi Rạn (Tam Quang- Núi Thành- Quảng Nam),
làng Đường Lâm (Hà Nội).
Đá ong đang được khai thác và sử dụng để xây dựng nhà cửa, các công
trình vì đây là loại đá vô cùng rắn chắc và cũng có giá trị về mặt thẫm mỹ.

Một “mỏ” đá ong được mở ngay trên mép con đường nối Cảng Kỳ Hà và điểm du
lịch bãi Rạn.
4.5 Nhiễm mặn
Định nghĩa: Là quá trình xâm nhiễm mặn, tích tụ muối và các kim loại
kiềm trong môi trường đất, biến đất chưa mặn thành đất mặn.
Nguyên nhân: Nước mặn xâm nhập, sự di chuyển của nước ngầm theo mao

quản và sự bay hơi của nước bề mặt làm cho muối tập trung với nồng độ cao, quá
trình mặn hóa diễn ra thường xuyên
Tác hại:
- Năng suất cây trồng giảm mạnh khi nồng độ muối trên 4 g/l
18
- Nồng độ muối từ 20 – 25 gây chết ở thực vật, đất trở nên nhão và ướt,
nứt nẻ khi khô.
- Dễ dẫn đến nhiễm phèn
19
Ảnh hưởng của mực nước biển dâng
cao, đất nhiễm mặn
Cắt bỏ lúa cháy khô do đất nhiễm mặn
Các loại đất mặn ít và trung bình thường xuyên phân bố ở địa hình trung
bình từ 0,8 đến 1,2 m cách xa biển và sông lớn. Loại đất này được canh tác khá lâu
đời, mùa khô kiệt bị bỏ trống, chế độ bốc hơi rất mạnh, nên đất đã bị kết vón ở độ
sâu từ 80 – 100 cm (Ba Tri, Thạnh Phú ).
Loại đất mặn nhiều, mặn từng thời kỳ thường phân bố ở địa hình thấp hơn,
khi triều cường nước tràn lên, khiến tầng đất mặt có độ mặn cao rất khó rửa nhanh
vào đầu mùa mưa. Ở tầng đất sâu 50 – 80 cm thường có lớp cát xám xanh của bãi
thủy triều, có chứa mica và nhiều mảnh vỡ vôi gốc biển.
Loại đất mặn nhiều thường xuyên dưới rừng ngập mặn, phân bố thành dải
dọc ven biển Bến Tre, dưới các thảm rừng sú, vẹt, mắm mà ngày nay đã bị tàn phá
nhiều, bị ngập thường xuyên do triều, đất thường có độ mặn rất cao, lầy thụt,
không thuận lợi cho các loại cây trồng nông nghiệp.
Chiếm diện tích 96.739 ha (tỉ lệ 43,11% diện tích toàn tỉnh) phân bố hầu
hết ở các huyện ven biển Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú. Tùy theo mức độ và thời
gian nhiễm mặn, nhóm đất mặn ở Bến Tre được chia thành 4 loại:chiếm diện tích
15.127 ha (tỷ lệ 6,74% diện tích toàn tỉnh) phân bố rải rác trên toàn Bến Tre, từ
vùng ngọt, vùng lợ đến vùng mặn.
20

4.6 Nhiễm phèn
Những vùng đất ngập nước, vùng có trầm tích xác bã thực vật nước mặn
tích tụ 4000 - 5000 năm là môi trường thuận lợi hình thành phyrite (FeS
2
) là hoạt
chất chủ yếu gây ra phèn hóa đất.
- Dạng phèn tiềm tàng:do đất chứa nhiều FeS
2
(khóang pyrite) do các vật
liệu có S kết hợp với sắt từ oxyt sắt bị oxy hóa à H+ làm đất rất chua
- Dạng phèn hoạt động:
FeS
2
+ O
2
+ H
2
O + K+ → KFe
3
(SO
4
)
2
(OH)
6
+ SO
4
2-
+ 3H
+

KFe
3
(SO
4
)
2
(OH)
6
. → 3FeO.OH + K
+
+ 3H
+
+ 2SO
4
2-

FeO.OH → Fe
2
O
3
+ H
2
O
Tác hại:
- pH không thích hợp cho cây trồng
- Ion sắt, nhôm gây độc cho cây
- Giảm động vật và vi sinh vật có lợi trong đất
- Giảm khả năng tự làm sạch của đất

Đất nhiễm phèn

21
Trên thế giới có khoảng 12 triệu ha đất phèn (Van Wijk và ctv; 1992). Tại
Việt Nam, diện tích đất phèn vào khoảng 1.863.128 ha, bao gồm đất phèn tiềm
tàng là 652.244 ha và đất phèn hoạt động với 1.210.884 ha (Chiểu và ctv, 1996);
trong đó vùng hạ lưu châu thổ sông Mê Kông chiếm đến khoảng 1,5 triệu ha
(Sterk, 1992), phần lớn tập trung trong vùng Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long
Xuyên, Bán đảo Cà Mau và một phần của Tây Nam Sông Hậu. Ở Miền Bắc đất
phèn chủ yếu tập trung ở vùng Kiến An - Hải Phòng
Đất phèn ở An Giang phân bố nhiều ở vùng tiếp giáp với tỉnh Kiên Giang, thuộc
địa phận huyện Tri Tôn, Tịnh Biên và một phần của Châu Phú, với tổng diện tích
khoảng 30.136 ha, trong đó Tri Tôn chiếm 67%.
Sulfat nhôm mao dẫn lên mặt đất vào
mùa khô trong vùng đất phèn Đồng
Tháp Mười. Lê Phát Quới, 2005
22
4.7 Khai thác khoáng sản và tài nguyên đất:
Quá trình khai thác khoáng sản gồm:mở cửa mỏ, khai thác và đóng cửa mỏ. Như
vậy, tất cả các công đoạn khai thác đều tác động đến tài nguyên và môi trường đất.
Quá trình khai thác bằng cơ giới hay thủ công đều tác động tới môi trường đất
Hơn nữa, công nghệ khai thác hiện nay chưa hợp lý đặc biệt các mỏ KL và các
khu mỏ đang khai thác hầu hết nằm ở vùng núi và trung du. Vì vây việc khai thác
khoáng sản trước hết tác động đến rừng và đất rừng xung quanh mỏ.Các biểu hiện
suy thoái môi trường thể hiện ở các mặt :
Giảm diện tích đất rừng, gia tăng suy thoái đất
Khai thác khoáng sản làm thu hẹp đáng kể diện tích đất nông lâm nghiệp và ảnh
hưởng đến sản xuất như: chiếm dụng đất nông lâm nghiệp để làm khai trường, bãi
thải, thải các chất thải rắn như cát,sỏi,bùn ra đất nông nghiệp thải nước từ ác hệ
tuyển làm ô nhiễm đất nông nghiệp và làm giảm sút năng suất cây trồng


Diện tích rừng và đất rừng bị thu hẹp, thoái hóa ở một số mỏ
Mức độ ô nhiễm đất nông nghiệp do khai thác mỏ

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×