Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Bài giảng: Những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.88 KB, 15 trang )

Bài 2
ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CNXH LÀ MỤC TIÊU, LÝ TƯỞNG
CỦA ĐẢNG TA VÀ DÂN TỘC TA
Phần một: Ý ĐỊNH BÀI GIẢNG
I. MỤC ĐÍNH, YÊU CẦU.
1. Mục đích.
Nhắm giáo dục cho đảng viên nhận thức rõ Độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng và dân tộc ta. Làm cho đảng
viên nhận thức sâu sắc độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội chính là con đường
tất yếu khách quan, phù hợp với qui luật phát triển Đất nước, phù hợp lòng dân.
Đó là sự lựa chọn của Đảng, Bác Hồ và cũng chính là sự lựa chọn của nhân
dân, của lịch sử. Qua đó nâng cao nhận thức, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh
đạo của Đảng, đồng thời nâng cao tinh thần trách nhiệm trong thực hiện nhiệm
vụ được giao.
2. Yêu cầu.
- Giữ trật tự chung, chú ý nghe giảng và ghi chép bài đầy đủ.
- Học mới ôn cũ, khi nghỉ giải lao phải giữ vệ sinh chung, không gây mất trật tự
làm ảnh hưởng đến đơn vị làm việc và không được đi xa quá khu vực học tập.
II. NỘI DUNG.
1. Độc lập Dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội-một sự lựa chọn phù hợp
quy luật, hợp lòng dân.
2. Những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây
dựng.
3. Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
4. Thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử và một số bài học qua 25 năm đổi
mới.
IV. THỜI GIAN.
- Toàn bài 04giờ; lên lớp 03 giờ, thời gian còn lại ôn luyện, tranh thủ các
buổi tối để ôn thêm bài.
V. PHƯƠNG PHÁP.
1. Đối với người dạy.


Giảng giải kết hợp với phân tích có trọng tâm, trọng điểm và lấy ví dụ thực
tiễn chứng minh
2. Đối với người học.
Chú ý nghe giảng ghi chép đầy đủ các nội dung chính của bài, đồng thời
tốc ký các nội dung theo ý hiểu của mình làm tư liệu nghiên cứu bài.
VI. TÀI LIỆU.
Bài giảng được biên soạn từ tài liệu bồi dưỡng lý luận chính trị dùng cho
đảng viên mới (nhà xuất bản chính trị quốc gia năm 2011).
Phần hai: NỘI DUNG BÀI GIẢNG
Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là bài học lớn, xuyên suốt quá trình
cách mạng Việt Nam, là con đường duy nhất đúng mà Đảng ta và dân tộc Việt
Nam đã lựa chọn.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam 1 thế kỉ qua cho chúng ta nhận thức sâu sắc hơn
bài học độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Sự gắn kết giữa độc lập dân tộc và
CNXH cũng chính là con đường tất yếu khách quan hợp với quy luật phát triển
đất nước, hợp lòng người. Đó là sự lựa chọn của Đảng, Bác Hồ và cũng chính là
sự lựa chọn của nhân dân, của lịch sử.
I. ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CNXH - 1 SỰ LỰA CHỌN HỢP
QUY LUẬT, HỢP LÒNG DÂN
1. Sự lựa chọn khách quan của lịch sử
Ngay từ khi Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, nhân dân ta đã liên tiếp
đứng lên đấu tranh chống lại kẻ xâm lược. Từ năm 1858 đến trước 1930, đã có
hàng trăm phong trào, cuộc khởi nghĩa oanh liệt dưới sự lãnh đạo của các sĩ
phu, các nhà yêu nước theo nhiều khuynh hướng khác nhau, nhưng đều bị thực
dân Pháp đàn áp tàn bạo và thất bại. Nguyên nhân chính là do không có đường
lối cách mạng đúng đắn theo một hệ tư tưởng tiên tiến, khoa học và cách mạng.
Đó là sự khủng hoảng đường lối cứu nước.
Tháng 6/1911 người thanh niên Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái Quốc, Hồ
Chí Minh, Bác Hồ…) ra đi tìm đường cứu nước bôn ba nhiều nơi trên thế giới,
vừa lao động vừa quan sát, nghiên cứu lí luận và kinh nghiệm các cuộc cách

mạng tư sản điển hình (Pháp, Mĩ); tham gia hoạt động trong Đảng Xã hội Pháp,
sau đó trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, Người
đã rút ra nhiều bài học quý báu và bổ ích, là cơ sở cho sự lựa chọn con đường
cách mạng của mình.
CMT10 Nga nổ ra và thắng lợi đã ảnh hưởng sâu sắc đến Nguyễn Ái
Quốc. Song, bước ngoặt lớn trong tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc diễn ra khi
Người được đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và
vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin vào tháng 7/1920. Người đã tìm ra con đường
duy nhất đúng đắn để cứu nước, giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của thực dân
Pháp. Đó là con đường giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp; giai cấp
vô sản phải nắm lấy ngọn cờ giải phóng dân tộc, độc lập dân tộc gắn với CNXH;
cách mạng dân tộc tường nước gắn với phong trào cách mạng thế giới…Người
khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản”. Từ đó, Người truyền bá chủ nghĩa Mác-
Lênin vào đất nước ta, sáng lập và rèn luyện Đảng ta, lãnh đạo Đảng và nhân
dân ta giành được hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Toàn dân ta đi theo
Đảng. Vì vậy, có thể nói đó là sự lựa chọn của lịch sử Việt Nam, của toàn dân
tộc Việt Nam.
Sự lựa chọn đó diễn ra dự trên 2 căn cứ chủ yếu:
Một là, thắng lợi của CMT10 Nga 1917 đã mở ra thời đại mới-thời đại quá
độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới. Chính tính chất của thời đại
mới đã tạo ra khả năng hiện thực cho những dân tộc đang còn lạc hậu tiến thẳng
lên CNXH. Những khả năng hiện thực này đã đem lại nhận thức mới mẻ trong
quan niệm cũng như giải pháp để giải quyết vấn đề độc lập dân tộc.
Hai là, chỉ có CNXH mới giải phóng triệt để giai cấp vô sản và nhân dân
lao động khỏi ách áp bức, bóc lột, bất công, mới đem lại cuộc sống ấm no, tự do,
2
hạnh phúc cho nhân dân và đưa nhân dân lao động trở thành những người làm
chủ xã hội. Độc lập dân tộc chỉ có gắn với CNXH thì mới vững chắc. “Độc lập
dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện CNXH và CNXH là cơ sở bảo đảm

vững chắc cho độc lập dân tộc” như cương lĩnh 1991 đã chỉ rõ:
CNXH đảm bảo quyền tự quyết dân tộc, quyên lựa chọn chế độ chính trị.
Lựa chọn con đường và mô hình phát triển, độc lập cả về chính trị, kinh tế, văn hóa.
CNXH thực sự bảo đảm uyền làm chủ của dân; nhân dân có cuộc sống
ấm no, hạnh phúc; con người được phát triển toàn diện, có năng lực và điều
kiện làm chủ, xó bỏ tình trạng áp bức bóc lột, nô dịch của dân tộc này với dân
tộc khác về chính trị, kinh tế và tinh thần.
CNXH tạo ra sự trao đổi, hợp tác kinh tế, văn hóa giưuã các nước dựa
trên nguyên tắc tôn trọng chủ quyền của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, vì một
thế giới không có chiến tranh, không có sự hoành hành của cái ác, của những
sự tàn bạo và bất công, bảo đảm cho con người sống trong hòa bình và hạnh
phúc.
2. Thực tiễn cách mạng nước ta từ khi có Đảng đả khẳng định: độc
lập dân tộc gắn liền với CNXH là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn.
Trong 80 năm qua, Đảng và nhân dân ta luôn kiên trì và thực hiện mục
tiêu này. Nhờ vậy, mà cách mạng nước ta đã giành được những thắng lợi có ý
nghĩa lịch sử và thời đại:
Một là, thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945 và việc thành lập
nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đây là kết quả tổng hợp của các phong
trào cách mạng liên tục diễn ra trong 15 năm sau ngày thành lập Đảng, từ cao
trào Xô Viết – Nghệ Tĩnh, cuộc vận động dân chủ 1936 – 1939 đến phong trào
giải phóng dân tộc 1939 – 1945, cách mạng tháng Tám đã xóa bỏ chế độ thuuọc
địa nửa phong kiến ở nước ta, mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân
tộc gắn liền với CNXH.
Hai là, thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc,
bảo vệ tổ quốc, đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành cách
mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất tổ quốc, đưa cả nước đi
lên CNXH, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Ba là, thắng lợi tô lớn và có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới vì mục

tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”, củng cô vững
chắc hơn độc lập dân tộc, từng bước đưa nước ta lên CNXH.
Bài học lớn, được đặt ở vị trí hàng đầu qua các nhiệm kỳ đại hội của
Đảng, đặc biệt qua 25 đổi mới mà Đại hội 11 xác định là bài học phải “Kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh”.
II. Những đặc trưng cơ bản của xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta
đang xây dựng ở Việt Nam theo tinh thần Đại hội XI của Đảng
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội từ ngày lập nước đến nay của Đảng
và nhân dân ta là quá trình không ngừng vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong cách mạng Việt Nam. Đó cũng là quá trình
không ngừng tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận để vừa xây dựng chủ nghĩa xã
3
hội trong hiện thực, vừa hoàn thiện những đặc trưng xã hội xã hội chủ nghĩa về
mặt lý luận của Đảng qua mười một kỳ đại hội.
Tư tưởng về chủ nghĩa xã hội do các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác -
Lê-nin vạch ra đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo và có kết quả
vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tuy nhiên, đó cũng mới
chỉ là những nét khái quát: Xã hội không có áp bức bóc lột; con người có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, làm theo năng lực, phân phối theo lao động; đời
sống vật chất và tinh thần cao; con người được phát triển toàn diện; xã hội công
bằng, bình đẳng; có chế độ công hữu về tư liệu sản xuất; nhà nước của toàn
dân; v.v Hơn nữa, trong một thời gian dài, chủ nghĩa xã hội được xây dựng
theo mô hình kế hoạch hóa tập trung đã bị biến dạng và tụt hậu không chỉ ở Việt
Nam mà cả ở các nước thành trì của chủ nghĩa xã hội.
Đường lối đổi mới (từ Đại hội VI) của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đột phá
vào những quan điểm sai lầm về chủ nghĩa xã hội, như tuyệt đối hóa vai trò của
chế độ công hữu; đối lập một cách máy móc sở hữu tư nhân với chủ nghĩa xã
hội; đồng nhất chế độ phân phối bình quân với chế độ phân phối xã hội chủ
nghĩa; phủ định chủ nghĩa tư bản một cách sạch trơn; phủ định kinh tế hàng hóa

trong chủ nghĩa xã hội; đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản;
v.v
Tổng kết 5 năm đổi mới, Đại hội VII của Đảng (năm 1991) đã nêu 6 đặc
trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa: “Đó là xã hội: Do nhân dân lao động làm chủ;
Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ
công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc; Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo
năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển toàn diện cá nhân; Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết
và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất
cả các nước trên thế giới”
(1)
.
Đến Đại hội X (năm 2006), Đảng ta nhận định: “lý luận về xã hội xã hội chủ
nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã hình thành trên những nét cơ
bản”. Đặc trưng xã hội xã hội chủ nghĩa được Đảng nêu cụ thể hơn: “là một xã
hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ;
có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất
công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc
trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng
tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp
tác với nhân dân các nước trên thế giới”.
“Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”
(bổ sung, phát triển năm 2011) đã điều chỉnh, chuẩn hóa một số nội dung và cô
đọng hóa một số đặc trưng: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng
là xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm
chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan

4
hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn
diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và
giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu
nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.
1 - Đặc trưng bao quát nhất của xã hội xã hội chủ nghĩa do nhân dân ta
xây dựng được Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định, là: “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là những giá trị xã hội tốt đẹp
nhất, ước mơ ngàn đời của loài người, cho nên cũng là mục tiêu phấn đấu của
chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, đây là đặc trưng phổ quát, có tính bản chất của xã hội
xã hội chủ nghĩa, nó thể hiện sự khác nhau căn bản, sự tiến bộ hơn hẳn của chế
độ xã hội chủ nghĩa so với các chế độ xã hội trước đó. Xã hội tư bản có đời sống
vật chất và tiện nghi rất cao; dân có thể giàu, nước có thể mạnh, nhưng từ trong
bản chất của chế độ xã hội tư bản, ở đó không thể có công bằng và dân chủ:
nhà nước là nhà nước tư sản; giàu có là cho nhà tư bản; sự giàu mạnh có được
bằng quan hệ bóc lột. Trong xã hội như vậy, người dân không thể là chủ và làm
chủ xã hội.
Xây dựng xã hội “dân chủ, công bằng, văn minh” là quá trình vô cùng khó
khăn, gian khổ và lâu dài trong hoàn cảnh và điều kiện Việt Nam - một nước còn
nghèo, đang phát triển, chưa có “nền đại công nghiệp” (điều kiện cần thiết để
xây dựng chủ nghĩa xã hội như C.Mác đã chỉ rõ), v.v Nhưng để trở thành xã hội
xã hội chủ nghĩa với những đặc trưng nêu trên, không có cách nào khác là toàn
Đảng, toàn dân ta phải nỗ lực sáng tạo, chiếm lĩnh các đỉnh cao của xã hội. Và,
Việt Nam đang từng bước đạt tới các mục tiêu cần có trong hiện thực.
Đảng ta đã vạch ra phương hướng, chính sách cụ thể, có cơ sở lý luận -
thực tiễn để thực hiện trong hiện thực: “nước mạnh” gắn với “dân giàu”, “công

bằng” và “văn minh”, bảo đảm “dân chủ”; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với kinh tế tri thức; phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; xây dựng văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; hoàn thiện nhà nước
pháp quyền với nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; v.v
2 - Xã hội “do nhân dân làm chủ”.
“Làm chủ” được coi là bản chất và quyền tự nhiên của con người, bởi xã hội là
xã hội của loài người, xã hội đó do con người tự xây dựng, tự quyết định sứ
mệnh của mình; tuy nhiên trong thực tiễn lại là chuyện khác. Lịch sử đấu tranh
cho tiến bộ của nhân dân các dân tộc trên thế giới chính là lịch sử đấu tranh
giành và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Chỉ đến chủ nghĩa xã hội, nhân
dân mới thực sự có được quyền đó. Cho nên “nhân dân làm chủ xã hội” là đặc
trưng quan trọng và quyết định nhất trong những đặc trưng của xã hội xã hội chủ
nghĩa. Đặc trưng này không thể tách rời những yêu cầu “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”. Nói dân giàu, nước mạnh chính là thể hiện vai
trò chủ thể của nhân dân đối với nhà nước - dân là chủ. “Dân chủ” trong đặc
trưng nêu trên chính là nền dân chủ của xã hội - xã hội vận hành theo chế độ và
5
nguyên tắc dân chủ. Và chính nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng thể hiện xã hội
“do nhân dân làm chủ”. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta; với
bản chất nêu trên, nó vừa là mục tiêu, lại vừa là động lực của sự phát triển đất
nước. Để có một xã hội do nhân dân thực sự làm chủ, chúng ta phải nhanh
chóng xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa để bảo đảm “tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”; mọi đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân; cán bộ, công
chức phải là “công bộc” của nhân dân, hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ
được giao, tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân; có cơ chế để nhân
dân thực hiện quyền làm chủ.
3 - “Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”.
Để có được một xã hội giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, điều

tiên quyết là xã hội đó phải có một nền kinh tế phát triển. Bởi vì kinh tế là lực
lượng vật chất, nguồn sức mạnh nội tại của cơ thể xã hội, nó quyết định sự vững
vàng và phát triển của xã hội. Đến lượt mình, nền kinh tế đó chỉ có thể phát triển
dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại. Mác đã khẳng định: chủ nghĩa xã hội chỉ
thực hiện được bởi “một nền đại công nghiệp”. Nền đại công nghiệp phát triển
trên cơ sở khoa học - công nghệ, là hiện thân và là yếu tố tạo nên lực lượng sản
xuất hiện đại. Lực lượng sản xuất hiện đại quyết định việc nâng cao năng suất
của nền sản xuất - yếu tố quy định sự phát triển lên trình độ cao của phương
thức sản xuất mới. Trên cơ sở đó thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
tiến bộ phù hợp để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Với các nội dung và
lô-gíc vận động như đã luận giải trên, Đảng ta đã tập trung phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mà trước mắt là hoàn thiện thể chế của
nó; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức,
nhằm xây dựng một lực lượng sản xuất hiện đại để có một nền kinh tế phát triển
cao - điều kiện bảo đảm cho sự phát triển bền vững xã hội xã hội chủ nghĩa.
4 - “Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.
Nếu như “nền kinh tế phát triển cao” là nội lực, là sức mạnh vật chất cho
phát triển xã hội thì văn hóa là nguồn lực tinh thần bên trong của phát triển xã
hội. Văn hóa là tinh hoa con người và dân tộc, tinh hoa xã hội và thời đại; bởi
vậy, nó là sức mạnh con người và dân tộc, sức mạnh xã hội và thời đại. Mỗi nền
văn hóa phải kết tinh tinh hoa và sức mạnh thời đại để tiến tới đỉnh cao thời đại,
đồng thời phải chuyển hóa chúng thành các giá trị của dân tộc, làm đậm đà thêm
bản sắc riêng của mình. Nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, vì vậy,
chính là mục tiêu của xã hội xã hội chủ nghĩa, đồng thời là động lực và sức
mạnh thúc đẩy xã hội đó phát triển. Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội,
chúng ta cần kế thừa và phát huy những giá trị, tinh hoa văn hóa tốt đẹp của
cộng đồng các dân tộc; đồng thời, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và văn hóa
thời đại để phát triển văn hóa Việt Nam thực sự là nền văn hóa vừa tiên tiến,
vừa đậm đà bản sắc dân tộc, thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là động
lực và sức mạnh cho xã hội phát triển. Hơn nữa, bản chất xã hội xã hội chủ

nghĩa là tiến bộ, khoa học và nhân văn. Cho nên, chủ nghĩa xã hội đồng chất và
cùng chiều với văn hóa; phấn đấu cho những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội
cũng chính là phấn đấu cho những giá trị văn hóa - xã hội xã hội chủ nghĩa là xã
6
hội văn hóa cao. Những phẩm chất, những giá trị của xã hội xã hội chủ nghĩa là
những phẩm chất và giá trị phổ quát của xã hội tương lai. Tuy nhiên, nói như vậy
không có nghĩa xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội đại đồng không tồn tại
những bản sắc riêng biệt. Xã hội xã hội chủ nghĩa là một vườn hoa muôn sắc
các phẩm chất, các giá trị, ở đó bản sắc văn hóa các dân tộc, cộng đồng người
khác nhau phải được độc lập tồn tại, tôn vinh, phát huy, phát triển. Chính vì vậy,
Đảng ta chủ trương phát triển nền văn hóa vừa tiên tiến, vừa đậm đà bản sắc
dân tộc; thống nhất trong đa dạng, làm phong phú diện mạo văn hóa Việt Nam.
5 - “Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát
triển toàn diện”.
Nói đến cùng, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, quá trình phấn đấu đạt tới
những giá trị của xã hội xã hội chủ nghĩa đều là vì con người. Con người là thực
thể cao nhất của giới tự nhiên, nó là sản phẩm của thiên nhiên nhưng cao siêu
và bí ẩn gấp ngàn lần thiên nhiên. Bởi con người có trí tuệ và tình cảm, có khát
vọng và khả năng chiếm lĩnh những đỉnh cao hiểu biết để tạo cho mình một thế
giới Người - thế giới Văn hóa. Cho nên lịch sử của loài người là lịch sử con
người đấu tranh xóa bỏ mọi lực cản thiên nhiên và xã hội để vươn tới một xã hội
cao đẹp nhất - xã hội đó chính là xã hội xã hội chủ nghĩa. Bản chất xã hội xã hội
chủ nghĩa, trình độ phát triển của xã hội chủ nghĩa, rõ ràng, là bản chất và trình
độ phát triển Người, của Con người. Xã hội xã hội chủ nghĩa phải đem lại ấm no
cho con người như là đòi hỏi tiên quyết. Nhưng bản tính con người là không bao
giờ thỏa mãn với những gì đã đạt được. Con người phải được tự do - tự do
không chỉ bó hẹp trong nghĩa được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, nô dịch, kìm
hãm về mặt xã hội. Điều quan trọng hơn là nó được thăng hoa tiềm năng trí tuệ,
tình cảm và năng lực vốn có để thực hiện những khát vọng cao đẹp của mình.
Sự phát triển toàn diện con người là ước mơ, khát vọng của con người tự do. Xã

hội xã hội chủ nghĩa chính là nơi: sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện
cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người như C.Mác đã nói. Đặc trưng
Người nhất của khát vọng con người là hạnh phúc. Bởi có thể người ta giàu có,
đầy đủ tiện nghi, được phát triển, song vẫn bất hạnh. Hạnh phúc là trạng thái
yên lành, hài hòa, là tinh thần thoải mái biểu hiện sự mãn nguyện thanh cao nhất
của con người. Phấn đấu đạt tới một xã hội bảo đảm hạnh phúc cho con người,
đó là một xã hội văn hóa cao.
6 - “Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng
và giúp đỡ nhau cùng phát triển”.
Nếu như các đặc trưng nêu trên (kinh tế, văn hóa, con người) là những
yếu tố thuộc phẩm chất bên trong tạo nên một chỉnh thể xã hội, thì ở đặc trưng
này đòi hỏi những yếu tố thiết yếu cho sự tồn tại bền vững của xã hội lành mạnh.
“Bình đẳng” là một phẩm chất và giá trị nhân quyền thể hiện trình độ phát triển
và chất nhân văn cao của xã hội. Một đòi hỏi quan trọng của xã hội chủ nghĩa là
bảo đảm bình đẳng không chỉ cho cá nhân người công dân, mà còn ở cấp độ
cho tất cả các cộng đồng, các dân tộc trong một quốc gia. Ngay trong xã hội hiện
đại, ở các nước phát triển, thực hiện bình đẳng giữa các tộc người, các dân tộc
cũng đang là vấn đề nan giải. Mặt khác, “đoàn kết” là sức mạnh - đó là một chân
lý. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, vì thắng lợi của sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội đã kêu gọi: Những người lao động ở tất cả các nước trên
7
thế giới đoàn kết lại (C.Mác); còn trong cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã
khái quát một chân lý: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành
công, đại thành công. Đồng thời đây cũng là một giá trị đặc trưng của xã hội xã
hội chủ nghĩa. “Bình đẳng” và “đoàn kết” chính là nền tảng của sự “tôn trọng và
giúp nhau cùng phát triển”. Tôn trọng và giúp nhau không chỉ là tình thương,
lòng nhân đạo, mà thực sự là đòi hỏi, yêu cầu, trách nhiệm và điều kiện thiết yếu
cho sự phát triển của từng cá nhân, cộng đồng, dân tộc; là một tiêu chuẩn quan
trọng của xã hội phát triển. Đoàn kết toàn dân, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa
các dân tộc đã làm nên thành công của cách mạng Việt Nam. Và giờ đây, tinh

thần đó, phương châm đó đang là những nét đặc sắc của giá trị xã hội xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
7 - “Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo”.
Nhà nước pháp quyền là một hình thức quản lý nhà nước trên một trình
độ cao và hiệu quả. Nó điều hành hoạt động của các cơ quan nhà nước và xã
hội bằng pháp luật. Nhưng vấn đề ở đây là pháp luật nào? Pháp luật của ai và vì
ai?
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước quản lý và điều hành
đất nước và xã hội bằng pháp luật thể hiện quyền lợi và ý chí của nhân dân; vì
vậy, là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Đây là nhà nước mà tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân với
nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm
soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp. Nhà nước ban hành pháp luật, tổ chức và quản lý xã hội bằng hệ thống
pháp luật đó và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự
phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung
ương. Tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng hoạt động của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là đòi hỏi khách quan để thực hiện mục
tiêu xã hội chủ nghĩa hiện nay. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân không thể nào khác là dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản - đảng mang bản chất, lý tưởng, nội dung xã hội
chủ nghĩa, là đảng thực hiện mục tiêu và lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
8 - “Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”.
Theo nguyên lý phát triển xã hội, đặc biệt trong thế giới hiện đại, mỗi quốc
gia là một bộ phận hợp thành cộng đồng quốc tế. Sự phát triển quốc gia xã hội
chủ nghĩa Việt Nam chỉ có được khi đẩy mạnh “quan hệ hữu nghị và hợp tác với
các nước trên thế giới”. Quan hệ hữu nghị và hợp tác chính là thể hiện bản chất

hòa hảo, thiện chí và tạo điều kiện cho các quốc gia hội nhập, tiếp thu những
thành quả phát triển của mỗi bên, tích lũy kinh nghiệm và rút ngắn quá trình phát
triển của mỗi nước. Điều có ý nghĩa lớn lao hơn là ở chỗ, “hữu nghị”, “hợp tác”,
“phát triển” chính là bản chất, là khát vọng hòa đồng theo bản chất trí tuệ và tình
cảm nhân văn cao cả có tính nhân loại của con người, của loài người; điều thể
hiện bản chất cao đẹp nhất của xã hội xã hội chủ nghĩa.
8
Qua đó chúng ta thấy quan điểm, đường lối, chính sách xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam trước sau đều phù hợp với bản chất xã hội xã hội chủ
nghĩa nêu trên. Đây là một đặc trưng nổi bật của nội dung và mục tiêu xây dựng
xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Và chính nó là yếu tố, điều kiện để Việt Nam
phát triển nhanh chóng trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Để thực hiện
được đặc trưng nêu trên, Đảng ta vạch ra đường lối đối ngoại: độc lập, tự chủ,
hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm
trong cộng đồng quốc tế, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã
hội chủ nghĩa giàu mạnh, văn minh.
Với tinh thần và tư duy biện chứng về phát triển xã hội, Đảng ta quan
niệm: Tiến lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình vận động, chuyển hóa liên tục,
không ngừng phát triển từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Các đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa cũng luôn luôn vận động, chuyển hóa
và phát triển. Mười, mười lăm, hai mươi năm tới, các đặc trưng của xã hội xã hội
chủ nghĩa hiện nay chắc chắn sẽ có những bổ sung mới đáp ứng đòi hỏi mới
của phát triển xã hội. Điều đó đặt ra cho Đảng ta trọng trách là phải không ngừng
đổi mới tư duy, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận để vừa tiếp tục khám phá ra
những vấn đề, những nội dung, những đặc trưng mới, vừa sáng suốt lãnh đạo
toàn dân ta xây dựng xã hội đạt tới các phẩm chất và các giá trị, vươn tới các
đặc trưng mới của xã hội xã hội chủ nghĩa trong tương lai.
III. VỀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CNXH Ở NƯỚC TA
Trên cơ sở vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, từ thực tiễn thành

công và thất bại của chủ nghĩa xã hội trên thế giới và nhất là từ thực tiễn những
năm đầu tiến hành đổi mới, tiếp thu chọn lọc tinh hoa nhân loại, Đại hội VII của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (gọi tắt là Cương lĩnh năm 1991). Cương lĩnh
đã tổng kết hơn 60 năm quá trình cách mạng Việt Nam, rút ra 5 bài học lớn,
phân tích bối cảnh quốc tế trong nước; phác hoạ ra mô hình xã hội chủ nghĩa mà
nhân dân ta xây dựng, đồng thời đã phác hoạ ra con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.
Qua tổng kết 20 năm thực hiện cương lĩnh năm 1991, Đại hội XI đã thông
qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011). Sau đây gọi tắt là Cương lĩnh (bổ sung, phát triển
năm 2011).
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: Để thực hiện các
mục tiêu trên (mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta và mục
tiêu đến giữa thế kỷ XXI) toàn Đảng, toàn dân ta cần nêu cao tinh thần cách
mạng tiến công, ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng và trí tuệ, tận
dụng thời cơ, vượt qua thách thức, quán triệt và thực hiện tốt các phương
hướng cơ bản sau đây:
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, gắn với phát
triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Cương lĩnh năm 1991 xác định: Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá
theo hướng hiện đại. Còn Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định:
9
Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, gắn với phát triển kinh tế tri
thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cương lĩnh năm 1991 đã xác định mô hình phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường,
có sự quản lý của Nhà nước. Qua các nhiệm kỳ đại hội, Đảng ta đã chuyển từ
“phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”, sang “phát triển kinh

tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đại hội XI khẳng định: “Phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng
quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”.
Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng
con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Trong bảy phương hướng cơ bản của Cương lĩnh năm 1991 chưa đề cập đến
xây dựng con người. Qua các nhiệm kỳ đại hội, Đảng ta nhận thức ngày càng
đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về nhân tố con người; phát triển con người giữ vị trí
trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của sự phát triển. Đảng ta cũng nhận thức rõ hơn về thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội, khẳng định: Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã
hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, ở từng địa phương; thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị,
hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Về phương hướng trên, ở Cương lĩnh năm 1991 không xác định thành một
phương hướng cơ bản riêng. Việc bổ sung, phát triển phương hướng “chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế” là đúng với thực trạng hội nhập của nước ta hiện nay và
là phương hướng cơ bản, lâu dài trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết
toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Qua các nhiệm kỳ đại hội, Đảng ta đã khẳng định dân chủ xã hội chủ nghĩa là
bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất
nước; khẳng định đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách
mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa
quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ
quốc; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan
trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết.

Bảy là, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân.
Cương lĩnh năm 1991 mới xác định xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa,
nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Khái niệm “nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa” lần đầu tiên được Đảng ta sử dụng tại Hội nghị đại biểu
toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII. Các đại hội VIII, IX và X đều nhấn mạnh xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Vì
vậy, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “Xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” là một
trong tám phương hướng cơ bản là đúng đắn, phù hợp cả về lý luận và thực tiễn.
10
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh.
Cương lĩnh năm 1991 xác định “xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính
trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách
nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta”. Đại hội X đã
viết gọn lại là “xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh”.
Khái quát lại, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định rõ hơn con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Những bổ sung, phát triển này đã
được thực tiễn kiểm nghiệm là đúng đắn, chính xác.
IV. NHỮNG THÀNH TỰU TO LỚN, CÓ Ý NGHĨA LỊCH SỬ VÀ MỘT SỐ
BÀI HỌC QUA 25 NĂM ĐỔI MỚI.
1. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử
Nghị quyết đại hội XI đã khẳng định “25 năm qua với sự nỗ lực nỗ lực phấn
đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, công cuộc đổi mới của nước ta đã đạt
những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử”. Điều đó được thể hiện trên cả 2
mặt kết quả trong thực tiễn và nhận thức.
a) Về mặt thực tiễn:
- Đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội, có sự thay đổi cơ bản
và toàn diện.
- Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa,

phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh.
- Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
- Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và
tăng cường.
- Chính trị-xã hội được tăng cường.
- Quốc phòng và an ninh được giữ vững.
- Vị thế nước ta trên trường quốc tế được nâng cao.
- Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã được tăng lên rất nhiều, tạo ra thế
và thực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với phát triển tốt đẹp.
b) Về mặt lí luận, nhận thức:
- Nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ngày càng sáng tỏ hơn.
Hệ thống quan điểm lí luận về công cuộc đổi mới, về XHCN và con đường đi lên
CNXH ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản.
- Chúng ta cũng nhân thức rõ, cho đến nay nước ta vẫn trong tình trạng
kém phát triển; kinh tế còn lạc hậu so với nhiều nước trong khu vực và trên thế
giới; các lĩnh vực văn hóa, xã hội, xây dựng hệ thống chính trị còn nhiều yếu
kém, lí luận chưa giải đáp được một số vấn đề của thực tiễn đổi mới vã xây
dựng CNXH ở nước ta. Nhận thức đúng những thực trạng và yếu kém giúp
chúng ta xác định rõ hơn nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng mới.
2. Một số bài học lớn qua 25 năm đổi mới
11
Công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng ta khởi
xướng và lãnh đạo từ Đại hội VI (1986) đến nay đã vừa tròn 25 năm. Nhìn lại 1/5
thế kỷ đổi mới, chúng ta ngày càng nhận thức sâu sắc rằng, đổi mới vừa là một
thời cơ lớn cho phát triển, vừa có không ít những thách thức to lớn, thậm chí
nghiệt ngã trên con đường phát triển. Thực tiễn đã chứng tỏ tính đúng đắn và
sáng tạo của đổi mới với tầm vóc và ý nghĩa là một quyết sách chiến lược của
Đảng đối với phát triển đất nước và dân tộc. Đảng ta, với bản lĩnh chính trị của
một Đảng cách mạng chân chính, Đảng do Bác Hồ sáng lập và rèn luyện, với
trọng trách lịch sử của một Đảng cầm quyền, đã lãnh đạo giai cấp công nhân,

nhân dân và dân tộc ta, đón kịp thời cơ, vượt qua thách thức trong đổi mới.
Trong chặng đường 20 năm đổi mới vừa qua, chúng ta đã giành được nhiều
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử và cũng còn không ít hạn chế, yếu kém, khó
khăn. Toàn bộ thực tiễn ấy đem lại cho Đảng và nhân dân ta các bài học lớn.
Một là, trong quá trình đổi mới, phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tình hình đất nước từ giữa thập kỷ 70 thể kỷ 20 với những khó khăn,
khủng hoảng kéo dài và tình hình chủ nghĩa xã hội thế giới lâm vào suy thoái,
khủng hoảng đã làm cho đổi mới, cải cách là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp
cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn. Quá trình này được triển khai thực
hiện ở hàng loạt quốc gia xã hội chủ nghĩa, gần như trong cùng một thời kỳ,
nhưng kết quả thì rất trái ngược nhau. Ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
Đông Âu, cải tổ đã mắc phải những sai lầm nghiêm trọng về chính trị và rơi vào
tình trạng mất phương hướng. Trong khi đó, ở Trung Quốc, Việt Nam cũng như
ở Cuba và Cộng hoà dân chủ Nhân dân Lào, công cuộc đổi mới, cải cách đã
từng bước tạo lập được ổn định, khắc phục được khủng hoảng, đem lại thế và
lực mới cho chủ nghĩa xã hội. Thành thử, vấn đề hệ trọng đầu tiên là phải xác
định đúng mục tiêu và nền tảng tư tưởng của công cuộc đổi mới, cải cách chủ
nghĩa xã hội. Đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội, mà là làm
cho chủ nghĩa xã hội đi tới thắng lợi. Đổi mới không phải là xa rời chủ nghĩa Mác
– Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và
phát triển học thuyết, tư tưởng đó, lấy đó làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam
cho hành động của Đảng. Xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa
trong bối cảnh hiện nay là một sự nghiệp vô cùng khó khăn, phức tạp và lâu dài,
nhưng đó là con đường đi hợp với quy lụât khách quan của sự phát triển lịch sử,
hợp với trào lưu tiến hoá của thế giới nhân loại mà thời đại mới đã mởi ra từ
thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười. Trong thời đại ngày nay, độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội là quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam.
Hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và
cách làm phù hợp.

Thực tiễn đã chỉ rõ phải đổi mới toàn diện: từ nhận thức tư tưởng đến hoạt
động thực tiễn; từ kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, từ đối nội đến đối ngoại,
nghĩa là đổi mới tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong chính trị, đổi mới
và chỉnh đốn Đảng, gắn liền với đổi mới quản lý của Nhà nước, đồng thời phải
đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của từng bộ phận cấu thành
hệ thống chính trị, của mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội. Phải đổi mới
đồng bộ tất cả các mặt của đời sống xã hội, nhưng không có nghĩa là làm đồng
loạt, dàn đều, mà phải có trọng tâm, trọng điểm, có những bước đi thích hợp.
12
25 năm đổi mới vừa qua, giờ đây nhìn lại, cả những thành tựu và những
hạn chế, khiếm khuyết, ta càng thấy rõ giá trị và ý nghĩa của những đột phá
trong đổi mới kinh tế, từ những thử nghiệm ban đầu về khoán, về những điều
chỉnh cơ chế quản lý đến việc chuyển sang cơ chế thị trường và định hình
đường lối phát triển mạnh mẽ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Tập trung mọi nỗ lực vào đổi mới kinh tế để đạt được tốc độ và nhịp độ
tăng trưởng kinh tế cao, nhờ đó mới có thể chăm lo lợi ích cho người lao động,
cải thiện điều kiện sống và mức sống của dân cư, tạo ra động lực phát triển xã
hội. Với đổi mới kinh tế, gắn liền chính sách kinh tế với chính sách xã hội, kết
hợp tăng trưởng kinh tế với từng bước thực hiện công bằng xã hội, Đảng và Nhà
nước không chỉ chú trọng giải quyết các vấn đề thiết yếu trước mắt của cuộc
sống dân cư, thực hiện công bằng trong phân phối lợi ích mà còn hướng tới điều
căn bản, sâu xa hơn là công bằng về cơ hội phát triển cho tất cả mọi người dân.
Thành công của đổi mới kinh tế đã góp phần trực tiếp vào việc củng cố sự
vững mạnh của chế độ chính trị, đồng thời đổi mới chính trị đúng đắn, thận trọng,
có bước đi hợp lý lại thúc đẩy kinh tế phát triển và làm lành mạnh hoá xã hội.
Hai mươi năm đổi mới vừa qua, nhìn một cách tổng thể, Đảng và nhân
dân ta đã đạt được thành tựu căn bản về: chính trị ổn định, kinh tế tăng trưởng,
dân tộc đoàn kết và xã hội đồng thuận. Đó là bài học kinh nghiệm quý báu từ
việc đổi mới toàn diện, có biện pháp đúng và bước đi thích hợp.
Ba là, đổi mới quản lý phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân,

phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, luôn
luôn nhạy bén với cái mới.
Từ nhân dân, từ lợi ích, nhu cầu và tiềm năng sáng tạo của nhân dân,
Đảng đã biết khơi nguồn và phát huy, phát triển động lực ngày càng mạnh mẽ
cho quá trình đổi mới liên tục vận động và thành công. Lịch sử ghi lại rất rõ ràng
rằng, chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc
hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Dựa vào nhân dân, qua thực tiến phong
phú của đời sống và kinh nghiệm quý báu của nhân dân, Đảng đã chăm chú
phân tích, tổng kết thực tiễn một cách khoa học và nâng lên thành lý luận, đề ra
quyết sách đổi mới như một quyết sách chiến lược của phát triển; vận dụng tư
duy lý luận để tiến hành tổng kết thực tiễn, nâng những cải tiến, sáng kiến của
nhân dân, của các địa phương lên thành chủ trương, đường lối, chính sách
chung, rồi chỉ đạo thực hiện, tổ chức thành các phong trào cách mạng của quần
chúng để quần chúng phát huy tài năng sáng tạo của mình trong mọi lĩnh vực
hoạt động. Đó chính là chìa khoá của thành công.
Bốn là, phải phát huy cao độ nội dung, đồng thời khai thác có hiệu quả
ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới.
Phát hiện, xây dựng và phát huy sức mạnh tổng hợp là một trong những
đóng góp lý luận và thực tiễn quý giá của Đảng và nhân dân ta đối với phong
trào cách mạng giải phóng dân tộc của thế kỷ 20. Bài học kinh nghiệm mang tính
quy luật ấy đã được tiếp nối bằng quan điểm, đường lối đổi mới đúng đắn của
Đảng: Phát huy nội lực, xem đó là nhân tố quyết định đối với sự phát triển bền
vững; đồng thời khai thác ngoại lực, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát
triển đất nước nhanh và bền vững. Tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để phát
huy nội lực mạnh hơn, dựa trên các nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng
13
cùng có lợi; giữ vững độc lập dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ và
phát triển nền văn hoá dân tộc. Kết hợp nội lực với ngoại lực, phát huy sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại – đó là cách thức để Đảng ta và nhân dân

ta có thể đón kịp, tận dụng thời cơ, vận hội của phát triển và vượt qua mọi thách
thức, nguy cơ đặt ra trên con đường phát triển trong đổi mới, trong chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Năm là, phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng,
không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.
Đảng Cộng sản cầm quyền lãnh đạo xã hội và nhà nước để thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân lao động. Đó là sự thật lịch sử, là trọng trách của
Đảng đối với nhân dân và dân tộc, được các tầng lớp nhân dân hết lòng ủng hộ.
Công cuộc đổi mới 25 năm qua đạt được nhiều thành tựu: chính tri, xã hội ổn
địngân hàng kinh tế tăng trưởng cao, liên tục; quan hệ quốc tế rộng mở; đời
sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Nhân tố quyết định đem lại thành công này
chính là sự lãnh đạo của Đảng thông qua đường lối đúng quy lụât, thuận lòng
dân và hợp với xu thế thế giới; thông qua bản lĩnh chính trị vững vàng của Đảng
và khối đại đoàn kết thống nhất chặt chẽ tron Đảng, thông qua mối liên hệ mật
thiết giữa Đảng với quần chúng.
Dân chủ được thể hiện và thực hiện chủ yếu và trực tiếp nhất qua Nhà
nước, bằng Nhà nước. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là yêu cầu bức thiết của dân chủ
hoá xã hội, của đổi mới để phát triển ở nước ta, nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay. Để đảm bảo dân chủ, Nhà nước phải thể
chế hoá và tổ chức thực hiện có hiệu quả quyền công dân, quyền con người; kết
hợp thực hiện các phương thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, chú trọng
phát huy năng lực tự quản cộng đồng của dân cư ở cơ sở; lấy dân chủ trong nội
bộ Đảng làm tấm gương và tiền đề thúc đẩy mạnh mẽ dân chủ trong xã hội.
Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc
tập hợp các tầng lớp nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới. Trong điều kiện một đảng
cầm quyền, cần tích cực đa dạng hoá và nâng cao hiệu quả hoạt động phản biện
của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, nhằm đóng góp được ngày

càng nhiều trí tuệ cho Đảng trong việc hoạch định và lãnh đạo thực hiện đường
lối chính sách. Cần tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát của Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể nhân dân đối với hoạt động của các tổ chức đảng, đối với tư
cách, đạo đức, tác phong của cán bộ, đảng viên, của đội ngũ công chức nhà
nước trong hệ thống chính quyền các cấp.
Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa và nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính
trị, cùng hướng tới mục tiêu phát triển dân chủ, phát huy quyền làm chủ thực
chất của nhân dân. Mấu chốt của vấn đề là ở chỗ, Đảng, chính quyền, đoàn thể
phải tạo ra được sức mạnh thực tế phòng, chống và đẩy lùi quan liêu, tham
nhũng, làm cho thể chế vững mạnh, chế độ bền vững, đủ sức bảo vệ quyền lợi
chính đáng của nhân dân, không ngừng chăm lo phát triển sức dân, bồi dưỡng
sức dân đi liền với tiết kiệm sức dân như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần
nhấn mạnh./.
14
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Những căn cứ và lý luận thực tiễn nào để chúng ta khẳng định: Độc lập
dân tộc gắn liền với CNXH là sự lựa chọn hợp quy luật, hợp lòng dân?
2. Phân tích những đặc trưng cơ bản của xã hội XHCN mà nhân ta xây
dựng theo tinh thần nghị quyết Đại hội XI của Đảng?
3. Một sô bài học lớn được Đảng ta rút ra qua 25 năm đổi mới có ý nghĩa
như thế nào đối với nhận thức chính trị và cương vị công tác hiện nay của đồng
chí?
15

×