Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Ảnh hưởng của tưới nước đến đất đai doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.21 KB, 9 trang )

Ảnh hưởng của tưới nước đến đất đai
Tưới nước có thể làm thay đổi phương hướng của
quá trình biến đổi đất đai.
Ảnh hưởng của tưới đối với đất biểu hiện trên nhiều
mặt: làm thay đổi lý tính, làm
thay đổi các quá trình hoá học, sinh vật học trong đất,
quá trình phá huỷ hoặc tích
lũy chất hửu cơ
Sự thay đổi lý tính biểu hiện trước hết ở chổ làm thay
đổi kích thước cấp hạt
đất. Theo B.O.Ghienco tưới nước làm giảm các cấp
hạt có kích thước 3 -1 mm và
làm tăng cấp hạt có kích thước bé ở lớp đất 0 - 20 cm.
Do vậy mà dung trọng đất
tăng lên, độ rỗng và tính thấm nước của đất giảm
xuống, nhất là ở tầng đất mặt.
Với các loại cây trồng khác nhau, dưới ảnh hưởng
của tưới nước, các cấp hạt
đất thay đổi khác nhau.
Tưới nước với độ ẩm đất 50 - 60 % độ ẩm tối đa thì
sức liên kết, sức dính hút
của hạt đất nằm trong giới hạn thích hợp nhất cho
việc làm đất bằng cơ giới. Tưới
nước có thể dẫn đến hình thành một lớp đất chặt ở
tầng đất sâu do quá trình rửa trôi
keo đất theo trọng lực. Sự rửa trôi này kéo theo các
hợp chất cacbonat Ca, Mg, SiO2
và chúng tích tụ lại ở độ sâu nhất định tuỳ theo tính
chất của đất:
- Đất nặng lớp đất chặt hình thành ở độ sâu 0,45 đến
1,2 m


- Đất nhẹ lớp đất chặt hình thành ở độ sâu 1,2 đến 3,0
m
Khi tưới nước có phù sa thì lý tính của đất còn bị
thay đổi bởi các cấp hạt sét
được dẫn vào ruộng. Những cấp hạt sét đường kính
nhỏ hơn 0,005 mm, nhất là
những cấp hạt sét đường kính nhỏ hơn 0,001 mm có
tác dụng làm tăng khả năng giữ
nước, sức dính hút, sức liên kết của đất cát. Ngược
lại, những cấp hạt có kích thước
lớn hơn lại có tác dụng làm tăng độ tơi xốp và thoáng
khí của đất sét. Vì vậy, cần
thấy rõ được vai trò của nước tưới đối với tính chất
đất khác nhau để có thể sử dụng
nước phù hợp với các quá trình biến đổi lý học có lợi
cho điều kiện dinh dưỡng của
cây trồng và độ phì của đất. Xác định đúng đắn chế
độ tưới nước trong những điều
kiện địa chất thuỷ văn, khí hậu thời tiết và đất đai
khác nhau là cơ sở của việc đảm
bảo những yêu cầu trên.
Tưới nước còn ảnh hưởng đến chế độ nhiệt của đất.
Do nhiệt dung của nước
lớn nên tưới nước có thể điều hoà nhiệt độ đất. Về
mùa nóng, đất có độ ẩm thích
hợp, nhiệt độ đất thấp hơn ở đất không được tưới và
ngược lại về mùa rét nhiệt độ
đất cao hơn.
Tưới nước cũng dẫn đến những thay đổi về mặt hoá
tính của đất. Trước hết,

nước là môi trường để tiến hành các phản ứng hoá
học xảy ra trong đất. Nước có thể
hoà tan các chất dinh dưỡng tích luỹ trong đất để
cung cấp cho cây trồng. Nước làm
giảm nồng độ dung dịch đất tạo điều kiện cho cây
trồng hút thức ăn thuận lợi. Nước
tưới còn mang vào đất nhiều chất hòa tan, chất lơ
lửng có ích cho cây trồng, nhất là
nước tưới có phù sa. Vì vậy, tưới nước có thể làm
tăng được chất dinh dưỡng cho
đất. Nhưng tưới nước không đúng có thể dẫn đến
những biến đổi có hại cho
độ phì của đất đai và cây trồng.
Khi lượng nước tưới quá nhiều, nước sẽ rửa trôi các
chất dinh dưỡng xuống
tầng sâu, có thể làm mức nước ngầm dâng cao tới lớp
đất có bộ rễ cây hoạt động,
đất trở nên thiếu thoáng khí và phát triển theo con
đường lầy hoá, tái mặn. Tưới quá
nhiều nước, quá trình phản nitrat hoá mạnh, nhất là
khi tưới tràn. Dẫn đến hiện
tượng mất đạm khi tưới nước.
Lượng nước thừa chảy xuống tầng đất sâu kéo theo
đạm NO3 là nguyên nhân
của sự mất đạm ở lớp đất mặt. Nhưng không phải các
chất dinh dưỡng đều bị rửa
trôi theo dòng chảy. Kali trong đất ở dạng dung dịch
hoặc bón vào đất dưới dạng
muối rất nhanh chóng chuyển sang dạng kali tổng số.
Lân di động cũng nhanh

chóng bị đất hấp phụ. Vì vậy, khi tưới nước chúng
rửa trôi không đáng kể.
Tưới nước còn ảnh hưởng đến hoat động sinh học ở
trong đất. Nói chung, độ
ẩm đất thích hợp cho các loại vi sinh vật hoạt động
gần với giới hạn độ ẩm cần thiết
cho cây trồng. Ở độ ẩm cây héo thì hoạt động của vi
sinh vật bị đình trệ.
Độ ẩm 80 – 95 % của sức chứa ẩm tối đa đồng ruộng
là giới hạn thích hợp
nhất cho nấm và xạ khuẩn hoạt động.
Vi khuẩn phân giải Cellulose cũng hoạt động mạnh ở
giới hạn độ ẩm 85 – 90 %
độ chứa ẩm tối đa.
Vi khuẩn nitrat hoá hoạt động mạnh ở giới hạn độ ẩm
trên 60% và bị đình trệ
khi đất có độ chứa ẩm tối đa.
Tưới nước còn ảnh hưởng đến sự hoạt động của vi
khuẩn nốt sần. Trong vùng
khô hạn nốt sần của rễ cây họ đậu gần như không
hình thành được. Nhưng tưới đủ
nước thì quá trình này tiến hành bình thường và sự
dinh dưỡng đạm của cây trồng
được tăng cường hơn.
Nếu lúc tưới đất bảo hoà nước thì vi sinh vật yếm khí
hoạt động mạnh, hoạt
động của vi sinh vật háo khí bị kìm hãm. Khoảng
cách giữa 2 lần tưới càng dài thì
sự khác nhau giữa phương hướng hoạt động của vi
sinh vật trong đất trước và sau

tưới càng lớn.
Sự phân giải chất hữu cơ trong đất gắn chặt với hoạt
động của vi sinh vật. Đất
thiếu nước hoạt động của vi sinh vật háo khí mạnh
mẽ thuận lợi cho quá trình phá
huỷ các chất hữu cơ, nhất là mùn. Quá trình phá huỷ
các chất hữu cơ mâu thuẩn với
sự cần thiết nâng cao độ phì của đất. Việc nâng cao
năng suất cây trồng nông
nghiệp đòi hỏi phải tăng lượng chất hữu cơ trong đất.
Tưới nước hợp lý có tác dụng
điều hoà được hoạt động sinh học trong đất, quá trình
tích luỹ chất hữu cơ sẽ trội
hơn quá trình phá huỷ chúng. Và đất sẽ giàu chất hữu
cơ cần thiết cho sự dinh
dưỡng của cây trồng. Do vậy, sự thay đổi các hoạt
động sinh học trong đất liên quan
chặt chẽ với các yếu tố của chế độ tưới như lượng
nước tưới, số lần tưới, độ sâu lớp
đất tưới và phương pháp tưới

×