Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Chứng minh vị trí chi phối của Phương thức sản xuất - 2 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.62 KB, 20 trang )


nghiệp mình. Về tài chính Doanh nghiệp được Nhà nước giao vốn, tự chủ sử dụng
vốn và sử dụng quỹ khấu hao để đầu tư, đổi mới tài sản… Về tổ chức bộ máy và
nhân lực: Doanh Nghiệp có quyền tự chủ động tổ chức bộ máy quản lý và tổ chức
kinh doanh cho phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ Nhà nước giao, được đào tạo và sử
dụng lao động theo quy định của pháp luật trên cơ sở hợp đồng ký kết với người lao
động và thoả ước lao động tập thể, thực hiện trợ cấp cho người lao động khi thôi
việc, mất việt… Về quản lý Nhà nước đối với DNNN: từng bước xoá bỏ chế độ chủ
quan của cơ quan hành chính Nhà nước cấp trên trực tiếp can thiệp quá sâu vào các
hoạt dộng của DNNN, chỉ quản lý trên các mặt có tính tổng quan, chiến lược, tạo
môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động và kiểm tra việc chấp hành
pháp luật. Về thực hiện chức năng chủ sở hữu, Nhà nước đối với DNNN: có một
bước đổi mới lớn dựa trên cơ sở phân công, phân cấp giữa chính phủ và các cấp
quản lý với đại diện chủ sở hữu ở Doanh nghiệp.
Quá trình đổi mới cơ chế, chính sách đã hình thành được khung pháp lý
tương đối rõ ràng và cơ bản để DNNN sang kinh doanh theo cơ chế thị trường, xác
lập dân quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp, các doanh nghiệp đã được sử dụng hiệu qủ hơn tiền vốn và tài sản, nâng cao
chất lượng sản phẩm, sức cạnh tranh và ổn định việc làm cho người lao động.
Kết quả hoạt động của các DNNN sau các chính sách đổi mới đó được thể hiện
qua những con số sau: thời kỳ 1991 – 1995, tốc độ tăng trưởng của các DNNN bình
quân theo GDP là 11,7% bằng 1,5 lần tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế và
bằng 2 lần tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế ngoài quốc doanh. Từ 1990 đến nay
do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế khu vực và thế giới cùng những thiên tai

liên tiếp xảy ra thì tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế giảm dần, DNNN cũng nằm
trong tình trạng đó, tỷ trọng tổng sản phẩm của DNNN trong GDP tăng 33,3% năm
1991 lên 40,07% năm 1996 và 41,23% năm 1998. Tỷ lệ nộp vốn ngân sách trên vốn
nhà nước năm 1993 là 6,8% và năm 1999 là 12,31%. Năm 1999 các doanh nghiệp
làm 40,2% GDP trên 50% giá trị xuất nhập khẩu, đóng góp 39,25% ngân sách Nhà
nước. Từ 1995 đến nay, hằng năm DNNN đóng góp từ 26 – 28% nguồn thu thuế nội


địa.
Từ thập niên 90 trở lại đây, Nhà nước đã sắp xếp, tổ chức, củng cố và phát triển
các DNNN, các tổng công ty Nhà nước: Chính phủ đã liên tục chỉ đạo và thực hiện
sắp xếp lớn các DNNN đó là đợt 2 (1990 – 1993), đợt 2 (1994 – 1997), đợt 3 (1998
– 1999), qua mỗi đợt sắp xếp đó là các DNNN đã có sự đổi mới về quy mô, về cơ
cấu tổ chức quản lý bằng cách sát nhập, giải thể phá sản các doanh nghiệp yếu kém,
làm ăn thua lỗ kéo dài, chuyển doanh nghiệp nhà nước thành các công ty cổ phần
hoặc giao, bán, khoán, cho thuê DNNN có quy mô nhỏ. Kết quả sau 3 đợt sắp xếp
đổi mới đó là hiệu quả hoạt động của các DNNN tăng lên, mặc dù số DN giảm
xuống rất nhiều từ 12000 doanh nghiệp (năm 1990) xuống còn 5280 doanh nghiệp
(năm 2000).
Hiện nay có 17 tổng công ty 91 và 77 tổng công ty 90 đang hoạt động, các tổng
công ty này được tập trung xây dựng hầu hết trong tất cả các lĩnh vực kinh tế của
đất nước. Các tổng công ty nhà nước có 1605 DN thành viên, chiếm 28,4% tổng số
doanh nghiệp nhà nước, 65% vốn nhà nước và 61% lao động. Năm 2000, các tổng
công ty đã cung cấp cho nền kinh tế quốc dân 98% sản lượng điện, 97% sản lượng

than, 54% sản lượng xi măng, 52% sản lượng thép, các ngân hàng thương mại giữ
70% thị phần vốn vay.
Một bộ phận DNNN đã được cổ phần hoá mà Nhà nước không cần nắm giữ
100% vốn và DNNN đầu tư một phần vốn để thành lập mới công ty cổ phần. Tính
đến năm 2001, cả nước đã cổ phần hoá được 529 DN và 102 bộ phận DN bằng 11%
tổng số doanh nghiệp hiện có so với tổng số vốn Nhà nước khi đánh giá lại khi cổ
phần hoá các doanh nghiệp là 2714 tỷ đồng bằng 1,97% tổng số vốn Nhà nước
trong các DNNN. Sau một thời gian hoạt động, phần vốn nhà nước ở các công ty cổ
phần đã tăng được giá trị tuyệt đối, theo báo cáo của 202 DN đã cổ phần hoá được
trên 1 năm, phần vốn Nhà nước không những được bảo toàn mà còn tăng thêm
65.420 tỷ đồng bằng nguồn lợi nhuận để lại; doanh thu tăng 1,4 lần, lợi nhuận tăng
gấp 2 lần, nộp ngân sách tăng 1,2 lần, thu nhập của người lao động tăng 22%, số
lượng công nhân viên tăng 5,1% và không có doanh nghiệp cổ phần nào lâm vào

tình trạng phá sản. Những kết quả đạt được đó đã chứng tỏ rằng chính sách cổ phần
hoá các DNNN là một chính sách đúng đắn và đã phát huy được những tính tích cực
của DNNN, tạo cơ hội cho DNNN thực sự hoạt động trong cơ chế thị trường, cạnh
tranh bình đẳng với mọi DN khác.
Thực hiện chính sách giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê những DNNN quy
mô nhỏ, thua lỗ kéo dài – Đó là những doanh nghiệp nhỏ có vốn dưới 1 tỷ đồng,
kinh doanh thua lỗ kéo dài mà không cần thiết duy trì sở hữu Nhà nước, cần áp
dụng các hình thức xử lý thích hợp như: sát nhập, đấu thầu công khai, cho thuê,
khoán kinh doanh hoặc bán, giao cho tập thể cán bộ, công nhân với điều kiện đảm
bảo công ăn việc làm cho người lao động và thực hiện luật pháp của nhà nước. Theo

nghị quyết hội nghị TW lần thứ tư (Khoá VIII) đã nêu trên, đến thực hiện, tình hình
sản xuất kinh doanh của các DN này khá lên rõ rệt: so với trước khi chuyển đổi vốn
kinh doanh tăng 67,3% , doanh thu tăng 42,5%, nộp ngân sách nhà nước tăng 44,5%
lao động tăng 12,8%, thu nhập bình quân đầu người bằng 38,7%, một số còn tích
luỹ thêm và đã mở rộng được sản xuất. Đó là thành quả rất đáng mừng đối với sự
phát triển của kinh tế nhà nước.
Như vậy trong suốt quá trình đổi mới từ 1986 đến nay, nhờ những chính sách
đổi mới, sắp xếp tổ chức lại các DNNN của chính phủ mà các DNNN đã có những
chuyển biến tích cực: việc tách quyền sở hữu đã tác động tích cực đến quyền tự chủ
của các doanh nghiệp và do đó hoạt động có hiệu quả hơn trước, trình độ công nghệ
và quản lý có nhiều tiến bộ, vốn được bảo toàn và tăng thêm, bước đầu đa dạng các
nguồn vốn để phát triển, vốn tích luỹ tự bổ sung tăng lên 27,8% tổng vốn sản xuất
kinh doanh, sức cạnh tranh của DNNN đang từng bước được nâng lên, giúp KTNN
thực hiện được vai trò chủ đạo của nền kinh tế quốc dân, chi phối được các ngành
lĩnh vực then chốt, là lực lượng nòng cốt trong tăng trưởng kinh tế, trong xuất khẩu
và đóng góp cho ngân sách Nhà nước, bảo đảm cân đối vốn và góp phần quan trọng
trong ổn định kinh tế vĩ mô, là lực lượng rất quan trọng trong việc bảo đảm các sản
phẩm chủ yếu của nền kinh tế.
1.2 Kết quả bước đầu phát huy vai trò chủ đạo của KTNN từ những bước

đổi mới:
Thứ nhất, hệ thống kinh tế Nhà nước các thể chế thống nhất đang làm đòn bẩy
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với tốc độ khá.

Thứ hai, trong những năm lại đây, hoà chung vào xu thế toàn cầu hoá nền kinh
tế thế giới, kinh tế hợp tác, liên doanh với nước ngoài rất được phát triển mà chủ
yếu là với thành phần KTNN. Điều đó khẳng định là thành phần kinh tế đi đầu trong
việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, mở đường cho các thành phần kinh tế
khác cùng phát triển theo xu hướng chung của nền kinh tế hội nhập với khu vực và
thế giới.
Thứ ba, KTNN phát triển ổn định là một nhân tố cơ bản, quan trọng giúp Nhà
nước giải quyết được một số vấn đề kinh tế vĩ mô và vấn đề xã hội như giảm thất
nghiệp, bảo hiểm cho người lao động, trợ cấp mất việc hay thôi việc, góp phần xóa
đói giảm nghèo, cân bằng kinh tế, phát triển văn hoá, giáo dục…
Thứ tư, KTNN đang tạo ra lực lượng vật chất tối thiểu cần thiết để Nhà nước
thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô, ổn định xã hội, hạn chế khuyết tật
của kinh tế thị trường.
Thứ năm, KTNN phát triển, vừa tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển của các
thành phần kinh tế khác, vừa là tấm gương để các thành phần kinh tế khác đi theo
trong việc quản lý, tuân thủ pháp luật, bảo vệ môi trường… Nhờ đó tạo nên sự phát
triển đồng bộ, ổn định cho nền kinh tế quốc dân.
Thứ sáu, KTNN đã góp phần tạo nên con người mới XHCN với những phẩm
chất, trình độ cần có để xây dựng chế độ xã hội mới. Điều đó được thể hiện qua đội
ngũ cán bộ lao động trong các DNNN đang ngày càng có trình độ cao, phẩm chất
tốt, năng lực quản lý tiến bộ… từ đó tạo điều kiện phát huy vai trò giai cấp công
nhân trong xây dựng xã hội mới – XHCN.


1.3 Nguyên nhân những thành quả đạt được:
Thứ nhất, xuất phát điểm đầu tiên cho sự đổi mới nền kinh tế nước ta đó là nhờ

chủ trương đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Chủ trương xây dựng một
nền
Kinh tế mở của Đảng đã rất phù hợp với thực tế tình hình đất nước ta do đó đã
mở ra một thời kỳ kinh tế mới năng động, sáng tạo, nhanh chóng đưa đến hiệu quả
phát triển của nền kinh tế, - xã hội đất nước, xuyên suốt thời kỳ đổi mới (1986 đến
nay), giã các văn kiện đại hội lần thứ VI đến đại hội lần thứ IX luôn đặt KTNN lên
nắm vai trò chủ đạo: “Làm đòn bẩy thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giải quyết vấn
đề xã hội, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển, làm lực lượng
vật chất để nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô, tạo nền tảng
cho chế độ XHCN” (Văn kiện đại hội Đảng lần thứ VIII)
Thư hai, nhà nước XHCN VN đang từng bước hoàn thiện dần hệ thống các
công cụ quản lý vĩ mô, của mình đối với thành phần KTNN đặc biệt là đối với các
DNNN.Bằng các văn bản pháp quy các chính sách kinh tế mà nhà nước đã thể chế
hoá các quan điểm, chủ trương của Đảng về vai trò chủ đạo của KTNN, DNNN;
một loạt các văn bản được thực thi như quyết định về hạch toán kinh doanh trong
DNNN, quy chế quản lý tài chính đối với DNNN. Luật DNNN, luật thương mại, chỉ
thị về đẩy mạnh và sắp xếp, đổi mới các DNNN, nghị quyết về giao, bán, khoán, đó
là những công cụ điều tiết, quản lý kinh tế của nhà nước, thể hiện sự chỉ đạo hết sức
kiên trì của chính phủ các cấp, các ngành.
Thứ ba, sự cố gắng phấn đấu của các DNNN, của đội ngũ cán bộ, quản lý và
người lao động trong cơ chế mới mà Đảng đề ra đòi hỏi các DNNN cũng như các

cán bộ quản lý người lao động, phải có một sự thay đoỏi nhất định, đáp ứng được
những đòi hỏi của cơ chế kinh tế mới. Càng ngày ta nhận thấy tính năng động, sáng
tạo, tinh thần trách nhiệm của nhiều cán bộ, công nhân viên ở các DNNN được
nâng cao. Các DNNN đã có những việt làm nhằm đưa hoạt động của sản xuất của
mình hiệu quả hơn như đổi mới công nghệ, đào tạo đội ngũ cán bộ….
Thứ bốn: Hợp tác đa phương, đa hình thức, hướng về xuất khẩu, của các DNNN
được phát triển cả về quy mô và hiệu quả, nhờ đó mà tranh thủ sự đầu tư, giúp đỡ
của quốc tế, của các DN nước ngoài, không chỉ cho thành phần KTNN mà còn cho

các thành phần kinh tế khác về thị trường, về đổi mới công nghệ, về phương pháp
sản xuất, kinh doanh…. nhờ đó mà KTNN thực hiện được vai trò mở đường, đãn
dắt các thành phần kinh tế, phát triển theo đúng định hướng XHCN của Đảng.
2. Những tồn tại yếu kém trong quá trình đổi mới và thực hiện vai trò chủ đạo
của KTNN:
2.1. Những hạn chế yếu kém của KTNN trong thời kỳ đổi mới:
Bên cạnh những thành quả đã đạt được của KTNN (DNNN) mà ta đã ghi nhận
ở trên (trang 21) thì KTNN còn những hạn chế, yếu kém, mà đã được hội nghị TW
Đảng khoá IX đánh giá: “Những mặt hạn chế, yếu kém, có mặt rất nghiêm trọng
của DNNN và DNNN đang đứng trước thách thức gay gắt của yêu cầu đổi mới,
phát triển và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.”
Nhận định trên được thể hiện qua các mặt sau:
*Thứ nhất hiệu quả sản xuất kinh doanh, sức cạnh tranh của DNNN còn thấp
tốc độ phát triển chưa cao, không ít DNNN vẫn còn ỷ lại vào sự bảo hộ bao cấp của
nhà nước. Năm 1998, theo đánh giá chung, số DN thực sự kinh doanh có hiệu quả,

chiếm khoảng 20%, số chưa có hiệu quả, khi lỗ khi lãi là 40%, số DN không có hiệu
quả, lỗ liên tục đóng góp 39,2% tổng thu ngân sách nhà nước, nhưng trong đó phần
thuế thu nhập DN chỉ có 13,4%.
Năm 2000, đồng vốn nhà nước của DNNN là ra 0.095 đồng lợi nhuận trước
thuế, trong một đồng vốn chủ sở hữu của các công ty cổ phần được chuyển đổi từ
DNNN là ra 0,019 đồng.
Khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế và trong nước của sản phẩm do các
DN là ra còn thấp do mức giá quá cao so với các mặt hàng cùng loại nhập khẩu như
đường thô cao hơn đến 70-80%
Tốc độ phát triển sản xuất của DNNN chưa cao, còn thấp hơn các DN thuộc các
thành phần kinh tế khác,, bình quân 10 năm từ 1991-2000 của DNNN là 11%, của
DN ngoài quốc doanh là 14%
Không ít các DNNN xây dựng và thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh
không gắn với định hướng phát triển chung của toàn ngành, không phù hợp với mục

tiêu, nhiệm vụ được giao và chưa xuất phát từ nhu cầu thị trường, nhiều DNNN đưa
ra các dự án không có khả năng thực thi, hiệu quả đầu tư thấp, lãng phí tiền vốn,
phát sinh tiêu cực, tham nhũng, để lại những hậu quả, khó khắc phục, Việc bảo toàn
và phát triển vốn nhiều DN thực hiện chưa tốt, tình trạng ăn vào vốn, mòn vốn, mất
vốn vẫn còn rất nhiều, Không ít doanh nghiệp chưa thực hiện tốt quy chế dân chủ
tại DNNN, nhất là công khai tài chính, việc chi tiêu tuỳ tiện, lãng phí.
Thứ hai: DNNN quy mô vẫn còn nhỏ, cơ cấu còn nhiều bất hợp lý, dàn trải,
chồng chéo, về ngành và tổ chức quản lý.

Đến tháng 5-2001, cả nước có 5.655 doanh nghiệp với tổng số vốn nhà nước
khoảng 126.030 tỷ đồng (không tính giá trị quyền sử dụng đất), bình quân mỗi DN
22 tỷ đồng. Số DNNN có vốn dưới 5 tỷ đồng chiếm tới 59,8%, trong đó số DN có
số vốn từ 1 tỷ đồng trở xuống chiếm 18,2% (tại 14 tỉnh, loại DN này chiếm hơn
90%, chủ yếu trong các lĩnh vực dịch vụ, thương mại, du lịch); số DN có vốn từ 5
đến 10 tỷ đồng chỉ chiếm 15,2% ; số DN có vốn trên 10 tỷ đồng chỉ chiếm 25%.
Vốn lưu động của các DN nhà nước vào khoảng 27 ngàn tỷ đồng, chỉ bằng trên
21% tổng số vốn nhà nước, bình quân, một doanh nghiệp gần 4,8 tỷ, nhưng phần
lớn các DN không có hoặc rất ít vốn lưu động nên chủ yếu phải đi vay để sản xuất
kinh doanh. Nhiều DNNN cùng loại hoạt động trong tình trạng chồng chéo về
ngành nghề kinh doanh, cấp quản lý và trên cùng một địa bàn.
Thứ ba: Công nợ của DNNN ngày càng tăng, đầu tư đổi mới công nghệ chậm,
trình độ công nghệ lạc hậu; lao động thiếu việc làm va dôi dư còn lớn; trình độ quản
lý phần lớn còn yếu kém.
Công nợ của DNNN hiện nay là quá lớn. Nợ quá hạn, nợ khó đòi ngày càng
tăng. Năm 2000, trong số 15,1% nợ quá hạn của các ngân hàng thương mại nhà
nước thì DNNN chiếm 74,8% đã làm ảnh hưởng rất xấu đến hoạt động của tập thể
ngân hàng. Tình trạng tài chính không lành mạnh một phần do lịch sử để lại, phần
lớn là mới phát sinh, nhưng còn lúng túng, chưa có phương án khả thi để xử lý dứt
điểm, làm cho hoạch toán kinh tế bị méo mó, không minh bạch và DNNN luôn
trong tình trạng bị động, ứng phó với các khoản nợ khó đòi.


Nguyên nhân dẫn đến yếu kém, hạn chế của DNNN: Nghị quyết TW VI khẳng
định: “Những hạn chế, yếu kém của DN có nguyên nhân khách quan, nhưng chủ yếu
là do những nguyên nhân chủ quan.”
-Chưa có sự thống nhất cao trong nhận thức về vị trí, vai trò của KTNN và
DNNN về những yêu cầu và giải pháp sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt
động của DNNN.
-Nhiều vấn đề chưa rõ và còn có những ý kiến khác nhau chưa được tổng kết
thực tiễn để kết luận.
-Quản lý nhà nước đối với DNNN còn yếu kém vướng mắc.
-Cải cách hành chính chậm, cơ chế, chính sách còn nhiều bất cập, chưa đồng
bộ, còn nhiều điểm chưa phù hợp với KTTTĐHXHCN, chưa tạo được động lực
mạnh mẽ thúc đẩy cán bộ và người lao động trong DN nâng cao năng suất lao động
và hiệu quả kinh doanh.
Thứ bốn: Về hoạt động sản xuất kinh doanh kém năng động, sáng tạo, mặt hàng
đưa ra cạnh tranh trên thị trường rất đơn điệu, chất lượng thấp.
Các DNNN thường sản xuất các mặt hàng rất đơn diệu và thường chạy theo
những mẫu mã đã có sẵn của các nước khác. Tuy khối lượng sản xuất ra nhiều
nhưng tiêu thụ kém do châts lượng thấp nhưng giá thành lại không hợp lý, mẫu mã
ít thay đổi.
Thứ năm : Các DNNN liên doanh với đầu tư nước ngoài thường bị thua thiệt
vốn .
Tuy hoạt động hợp tác, liên doanh với nước ngoài có mặt rất tích cực là thu hút
được vốn đầu tư vf đổi mới được công nghệ, nhưng thực tế hoạt động của DNNN

không những không đạt được tích cực ấy mà thậm chí bị thua thiệt, mất vốn, vì các
chủ đầu tư nâng giá đầu voà của thiết bị và vật tưcó khi 1,5 đến 2 lần, làm cho giá
thành sản phẩm tăng cao
Mục tiêu phát triển sản xuất kinh doanh không thực hiện được, vốn của nhà
nước bị lỗ, tỷ trọng giảm. Thực chất ở đây các chủ đầu tư đã lợi dụng danh nghĩa

vào đầu tư để vào thu lợi nhuận từ phía Việt nam. Đó là hậu quả của việc thiếu cơ
chế quản lý kiểm tra, kiểm soát, nhất là về mặt hoạch toán, tài chính.
Thứ 6: Trình độ, phẩm chất của cán bộ quản lý DNNN còn rất nhiều yếu kém.
Đây là hậu quả, dư âm của cơ chế kinh tế cũ để lại, các cán bộ quản lý DN ngày
trước đã quen với chế độ bao cấp, của nhà nước - dù hoạt động không hiệu quả vẫn
được hưởng lương - thiếu năng động, nhanh nhạy trước các tình huống phát minh
kinh tế trong cơ chế mới, mặc dù vậy nhưng vẫn bảo thủ, không chịu tìm hiểu, học
hỏi nâng cao trình độ để thích ứng và quản lý DN đi đúng hướng, mà ngược lại một
số trở lên sa sút về phẩm chât đạo đức, vi phạm pháp luật, trong khi đó, việc thay
đổi, bố trí lại số cán bộ này rất khó khăn, chậm chạp, chưa có cơ chế phù hợp cho
việc tuyển chọn những người có năng lực vào quản lý điều hành DNNN.
2.2. Nguyên nhân của những hạn chế yếu kém trên:
Nghị quyết TW III đã khẳng định: “Những hạn chế, yếu kém của doanh nghiệp
nhà nước có nguyên nhân khách quan, nhưng chủ yếu do những nguyên nhân chủ
quan.”
*Thứ nhất: Chưa có sự thống nhất cao, trong nhận thức về vai trò, vị trí của
kinh tế nhà nước và DNNN, về yêu cầu và giải pháp sắp xếp đổi mới, đổi mới, phát
triển và nâng cao hiệu quả DNNN.

Rất nhiều ý kiến hoài nghi, thiếu tin tưởng vào sự vào sự cần thiết cũng như vai
trò chủ đạo của KTNN và DNNN, dẫn đến sự bất dồng trong quan điểm, nhận thức
và vai trò của KTNN trong nền kinh tế. Theo họ, DNNN không thể hoạt động có
hiệu quả, không có khả năng cạnh tranh bằng DN tư nhân và do vậy không nhất
thiết phải duy trì, vì những lý do:
Theo họ, vấn đề quan trọng không phải là DNNN hay DN tư nhân, và là sản
xuất có hiệu quả hay không, vì quy cho đến cùng thì sẽ hữu thi là phương tiện, tăng
trưởng kinh tế mới là mục tiêu.
Hai là: Chỉ chủ tư nhân – là chủ sở hữu tài sản một cách chính đáng mới quan
tâm chăm lo cho DN của mình, quản lý chi phí hợp lý, tiết kiệm đồng thời có khả
năng nhanh nhạy, linh hoạt trong cơ chế thị trường.

Ba là: DNNN có chủ sở hữu là nhà nước nên có một bộ phận không nhỏ cán bộ
quản lý lấy tài sản tài sản ra sử dụng lãng phí, mặt khác, DNNN bị chi phối bởi
nhiều cơ quan quản lý nên hạn chế nhiều khả năng kinh doanh dẫn đến hiệu quả
kinh doanh thấp, sức cạnh tranh kém.
Trong việc hoạch định các chính sách, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
DNNN cũng gặp những trở ngại, bởi sự bất đồng về các giải pháp, về yêu cầu và vị
trí của KTNN hay DNNN trong nên kinh tế, điều đó dẫn đến chia ra những chính
sách thiếu tính khả thi.
* Thứ 2: Chất lượng đội ngũ quản lý có nhiều sai sót hạn chế về phẩm chất
cũng như khả năng quản lý. Công tác tổ chức quản lý và khuyến khích sản xuất
chưa hợp lý.

-Một bộ phận không nhỏ cán bộ công nhân nhân viên bị thoái hoá, biến chất đã
vi phạm chính sách, pháp luật gây thất thoát tài sản, tiền vốn và làm tổn hại cho nhà
nước và tập thể rất nhiều.
-Một bộ phận không nhỏ các cán bộ quản lý từ khối kinh tế cũ bảo thủ ỷ lại,
thiếu năng động nhưng vẫn giữ các chức vụ quản lý, lãnh đạo quan trọng trong DN.
Số cán bộ quản lý thiếu trách nhiệm, thiếu kiến thức về kinh doanh, quản lý chưa
được đào tạo, bồi dưỡng lại dẫn đến những sai sót gây hậu quả không nhỏ cho nền
kinh tế như: thua thiệt trong liên doanh với những chủ đầu tư nước ngoài, kinh
doanh kém hiệu quả, lãng phí tài sản nhà nước.
-Số lượng công nhân viên chức trong các DNNN tuy lớn nhưng trình độ học
vấn văn hoá, kỹ thuật còn thấp, công nhân thiếu tay nghề do đó không đáp ứng được
yêu cầu chất lượng sản phẩm, trong khi giá thành cao, sức cạnh tranh yếu và phục
vụ nhu cầu công cộng không tốt.
-Các DNNN còn chậm đổi mới công nghệ, còn nhiều bất cập trong việc tổ chức
sản xuất, bố trí xây dựng dây chuyền sắp xếp cán bộ, công nhân viên chưa đúng
chức năng, Trong khi đó bộ máy quản lý DN còn nặng nề, cồng kềnh số lượng lao
động còn dư thừa chưa được giải quyết nên năng suất thấp.
-Việc quản lý, sử dụng tài sản và tiền vốn hiện có trong các DN còn thiếu chặt

chẽ, chính xác, hiệu quả sử dụng vốn thấp dẫn đến tình trạng thiếu vốn tăng lên.
Tình trạng tiền lương, khen thưởng phân phối cho người lao động chưa công bằng,
chưa đúng với năng lực làm việc của mỗi người, do đó chưa khuyến khích phát
triển tài năng và nâng cao năng suất lao động.

-Công tác kiểm tra, kiểm soát của cơ quan quản lý Nhà nước đối với các hoạt
động của các DN và thủ trưởng của các đơn vị sản xuất còn bị buông lỏng.
* Thứ ba: Quản lý của nhà nước đối với KTNN vòn nhiều thiết sót.
-Một là: Chưa có chiến lược quy hoạch dài hạn đầy đủ về phát triển các ngành
kinh tế, kinh doanh, đặc biệt là quy hoạch phát triển DNNN trên các vùng kinh tế,
khu kinh tế trọng điểm trong các ngành kinh tế, dịch vụ then chốt mũi nhọn. Do vậy
mà hệ thống DNNN chưa có cơ cấu hợp lý, chưa có chiến lược kinh doanh và phát
triển DN một cách đầy đủ và đúng. Đó là nguyên nhân dẫn đến việc tổ chức sản
xuất, kinh doanh chưa có hiệu quả. Hoặc do cơ quan quản lý không đầu tư đúng
hướng dẫn đến sản phẩm làm ra không tiêu thụ được đưa DN đến làm ăn thua lỗ,
phá sản.
-Hai là: Chính sách đổi mới công nghệ, phương pháp, phương tiện trong sản
xuất – kinh doanh và quản lý chậm được thực hiện. Trong những năm đổi mới, công
nghệ thiết bị, phương tien trong sản xuất kinh doanh và quản lý tuy có hiện đại hơn
trước nhưng lại nhập từ các nước khác nhau dẫn đến thiếu đồng bộ, khi muốn thay
thế đòi hỏi chi phí rất lơn do đó mà công nghệ rất chậm được cải tiến. Mặt khác, do
thiếu trình độ mà một số DNNN khi đã có kinh phí để đổi mới công nghệ thì lại
mua về “rác thải công nghiệp” là những máy móc lạc hậu của các nước tiên tiến về
mình, làm cho công nghệ nước ta vốn đã lạc hậy thì nay vẫn cứ lạc hậu.
-Ba là: một số chính sách vốn để phát triển doanh nghiệp và kinh doanh chưa
hợp lý và đồng bộ khi chuyển sang cơ chế mới, DN cần phải lo cho cả ba loại vốn:
vốn cho đầu vào, vốn cho sản xuất, vốn cho tiêu thụ, khác với trước đây nhà nước

chỉ lo vốn mỗi khâu đầu vào, do đó nhà nước không cung cấp đủ vốn cho DN sản
xuất – kinh doanh, dẫn đến hoạt động sản xuất bị trì trệ.

-Bốn là: Hệ thống pháp luật cơ chế ban hành và thực hiện chưa cơ bản. Luật
pháp nước ta còn rất nhiều bất cập , thương mang tính tình thế, thay đổi liên
tục.Diều đó gây trở ngại cho các nhà hoạt động kinh tế trong việc hoạch định kế
hoạch sản xuất lâu dài cho DN. Hiệu quả thực thi pháp luật còn rất chậm, chưa
nghiêm túc. Một điều bất ổn đó là các chính sách còn chồng chéo, thiếu thống nhất
giữa các cấp làm cho các DN khó nắm bắt để thực hiện. Môi trường pháp luật như
vậy cũng ảnh hưởng rất lớn đến khả năng hợp tác với các nước trên thế giới.
-Năm là: Quy định về trách nhiệm hoạt dông cụ thể của từng đại diện chủ sở
hữu chưa được thực hiện đầy đủ.
* Thứ 4: Do nguyên nhân lịch sử
Nhiều DNNN phải gánh chịu hậu quả do quá trình lịch sử hình thành và phát
triển: cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc hậu, giá trị sử dụng của số tài sản, thiết bị thấp,
nhưng tính giá trị để bảo toàn vốn và khấu hao vốn. Cơ chế bao cấp để lại một đội
ngũ lao động quá lớn trình dộ thấp, sức khoẻ yếu, không đáp ứng được yêu cầu của
sản xuất hiện nay.
Mặc dù chủ sở hữu DNNN là nhà nước song phải thông qua nhiều đại diện chủ
sở hữu gián tiếp - trách nhiệm bị phân tán một cách không đồng bộ dẫn đến rất
phức tạp khi cần quyết định một vấn đề kinh tế cần thiết.
DNNN còn vai trò rất lớn là thực hiện những nhiệm vụ xã hội công cộng làm cơ
sở xây dựng nền tảng cho chế độ xã hội mới. Vì lẽ đó mà ngoài hoạt động
kinhdoanh, DNNN còn hoạt động trong các lĩnh vực công ích, điều đó có tác động

đến tốc độ tăng trưởng của KTNN sẽ chậm hơn so với các thành phần kinh tế khác
chỉ hoạt động vì mục đích lợi nhuận.
Những tồn tại yếu kém:
+ Xét chung tất cả các thành phần của KTNN thì bộ phận nào cũng có hạn chế:
-Quản lý còn chưa chặt chẽ và thiếu rõ ràng về tài chính, ngân sách.
-Làm ăn còn kém hiệu quả do tính chất là KTNN được nhà nước bao cấp một
số mặt, do đó còn thiếu năng động trong cạnh tranh trên thị trường, rất ít DN làm ăn
có hiệu quả và thực sự đứng vững độc lập để cạnh tranh với các DN thuộc các thành

phần kinh tế khác nếu không có sự bảo trợ của nhà nước.

III. Một số giải pháp và kiến nghị nhằm thực hiện vai trò chủ đạo của KTNN
trong nền kinh tế quốc dân.
1. Một số giải pháp:
Một là: Thực hiện chính sách đầu tư thích đáng cho các bộ phận KTNN nhằm
vừa đảm boả hoạt động của chúng vừa tạo tính tự lực, năng động của chúng trong
kinh tế thị trường. Hiện nay, do những trợ cấp về tài chính của nhà nước đối vớicác
DN vòn thiếu tính thực tế, có khi DN làm ăn đã có lãi vẫn được trợ cấp mà trong
khi DN cần vốn hơn thì lại được trợ cấp quá ít. Điều đó đòi hỏi việc quản lý của
chính phủ về tài chính, về thực trạng hoạt động của các DN sẽ rõ hơn để có chính
sách đầu tư thích đáng, vừa tạo động lực vừa khuyến khích các DN hoạt động có
hiệu quả hơn.
Hai là: Đổi mới, sắp xếp lại cơ cấu lại những bộ phận còn nhiều yếu kém, nhất
là các DNNN. Cần tổ chức lại một cách có quy mô, hoạt động có hiệu quả và thực

hiện được vai trò chủ đạo, chính yếu trong nền kinh tế, quốc dân. Muốn thực hiện
được giải pháp này đòi hỏi các nhà hoạch định phải có chính sách đúng đắng, có
khả năng thực thi và phù hợp với tình hình thực tế của các doanh nghiệp. Muốn
nắm được tình hình hoạt động quy mô của các doanh nghiệp, đòi hỏi nhà nước phải
có một hệ thống chi tiêu, hoặc theo tiêu chuẩn trong nước hoặc theo tiêu chuẩn của
khu vực và quốc tế, để từ đó phân các DN vào những mức độ cụ thể, từ đó có giải
pháp đổi mới, sắp xếp phù hợp hơn.
Ba là: đẩy mạnh công tác cổ phần hoá các DNNN. Qua thực tế tiến hành cổ
phần hoá một số lượng các DNNN từ trước đến nay, ta thấy rằng đó là một giải
pháp mang nhiều ưu điểm và có khả năng cao nhất trong việc đây nhanh hiệu quả
hoạt động, sản xuất kinh doanh của các DN: hầu hết các DN sau khi cổ phần hoá thì
doanh thu, thu nhập của người lao động, vốn, nộp thế đều tăng hơn so với trước.
Mặt khác, thực chất của cổ phần hoá là nhằm huy động và sử dụng rộng rãi vốn dầu
tư xã hộ, do đó mà khả năng mở rộng sản xuất, kinh doanh được nâng lên. Muốn

thực hiện được cổ phần hoá thì cần phải thựchiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất: Thực tiễn đã chứng tỏ rằng cổ phần hoá là giải pháp tích cực, song
trên thực tế, sau khi chính sách này được thực hiện một thời gian thì bị chững lại.
Nguyên nhân vì sao? Đòi hỏi cần phải làm rõ để khắc phục. Ta cần phải hiểu rõ cổ
phần hoá là như thế nào. Ở nước ta, đó là quá trình đa dạng hoá sở hữu có bản chất
khác hẳn các nước, là hình thức xã hội hoá một bộ phận DNNN để nhiều người
cùng sở hữu DN theo tỷ lệ cổ phần nhằm huy động vốn, nâng coa hiệu quả quản lý
và phát huy tính năng động, sáng tạo của người lao động. Tiếc rằng, hiện nay một
số quan điểm cho rằng cổ phần hoá là hình thức tư nhân hoá và làm mất vai trò của

KTNN. Do đó ta cần phải làm rõ vấn đề cổ phần hoá để mọi người cùng có nhận
thức thống nhất thì có như vậy chính sách này mới được thực thi một cách đồng bộ
và có hiệu quả cao.
Thứ hai: Việc cổ phần hoá hiện nay gặp trở ngại lớn trong việc xác định giá trị
DN do chưa rõ ràng về giá trị tài khoản của DN và của nhà nước. Để giải quyết vấn
đề này thì trước hết phải có sự thống nhất giữa nhà nước và DN trong việc xác định
giá trị, trước mắt không đưa giá trị quyền sở hữu sử dụng đất vào việc giá trị DN,
mà thực hiện thí điểm rút kinh nghiệm, đồng thời chấp nhận phương án hiệu chỉnh
để có giá trị cho thuê đất hợp lý trên cùng một địa bàn đối với các thành phần kinh
tế. Để việc đánh giá tài sản của DN được khách quan, chuẩn xác hơn hệ thống cơ
quan định giá cũng cần có sự thay đổi, hình thành những công ty trung gian để dựa
trên các quan hệ cung – cầu của thị trường theo nguyênn tắc “thuận mua - vừa bán”.
Thứ ba, để làm rõ và nâng cao tính trách nhiệm trong quá trình cải cách DNNN,
cần khẩn trương có sự phân cấp các đại diện chủ sở hữu. Trong quá trình thực hiện
phân cấp các nguyên nhân chậm trễ, chần chừ tiến hành cổ phần hoá sẽ được làm rõ
và xác định được trách nhiệm cho từng cá nhân, từng đơn vị.
Thứ tư: Nhằm đảm bảo lợi ích cho người lao đọng trong quá trình cải cáchDN
hay cổ phần hoá DNNN nên có biện pháp hữu hiệu boả vệ cổ phần của người lao
động lâu dài, để họ thực sự là người chủ đích thực DN họ đang cống hiến lao động.
* Bốn là phải sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cơ chế chính xác của nhà nước nhằm

tạo hành lang pháp lý cho các DN được hoạt dộng hiệu quả hơn:

+Phân biệt quyền với sở hữu và quyền kinh doanh của nhà nước nhằm tạo ra
môi trường và quyền tự chủ đề DNNN cạnh tranh trên thị trường một cách bình
đẳng, tự chịu trách nhiệm sản xuất của minh.
+Có cơ chế kiểm tra, kiểm soát, thanh tra của nhà nước đối với DNNN nhất là
về vấn đề tài chính, ngân sách, trình độ quản lý của cán bộ.
+Nhà nước phải ổn định các chính sách kinh tế vĩ mô, đề ra những chiến lược
kinh tế lâu dài, ổn định để tạo lòng tin cho các DNNN hoạt động có hiệu quả hơn.
+Không phân biệt quá sâu sắc giữa DNNN và DNTN tạo ra khoảng cách giữa
các DN, mà phải tạo môi trường pháp lý bình đẳng để các DN cạnh tranh một cách
có hiệu quả nhất.
1. Một số kiến nghị:
-Để dánh giá hiệu quả hoạt động của các DNNN, cần có hệ thống chỉ tiêu đánh
giá từ đó có chính sách khen thưởng hợp lý kích thích, tạo động lực để các DN hoạt
động tốt hơn
Tăng cường việc phân tích tài chính trong các DNNN bởi một vấn đề nổi bật
hiện nay là tài chính không rõ ràng - mọi khoản trợ cấp, chi phí đều phải được báo
cáo, quyết toán rõ ràng. Cần phải có ban thanh tra, kiểm tra tài chính của các DN –
đòi hỏi đó phải là những cán bộ có phẩm chất đạo đức tốt.
Trong quá trình đổi mới DNNN, trong nâng cao quy trình công nghệ hiện đại
nhưng vẫn phải đảm bảo tạo công ăn việc làm cho số lao động bị dôi dư.




Kết luận:
Để đảm bảo xây dựng đất nước theo đúng đường lối mà Đảng và nhà nước ta đã
chọn là xây dựng đất nước tiến lên CNXH, xây dựng một nền kinh tế thị trường
theo một định hướng XHCN, cần tăng cường hơn nữa việc đổi mới, cải tạo cơ cấu

trong KTNN trong nền kinh tế quốc dân. Có như vậy mới đảm bảo đưa toàn bộ nền
kinh tế đất nước phát triển đúng đính hướng đã chọn.
Tài liệu tham khảo
1. “Doanh nghiệp nhà nước trong thời kỳ CNH-HĐH” – T.S. Phan Đăng Tuất
(chủ biên).`
2. Tạp chí CS từ 1997 đến nay.
3. Tạp chí nghiên cứu kinh tế.
4. Tạp chí nghiên cứu lý luận.
5. Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin.
6. V.I.Lenin toàn tập - tập 39, tập 43
7. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX
8. Một số tạp chí kinh tế, tài chính, lý luận khác…
Mục lục
I - Một số vấn đề lý luận về KTNN
II- Thực trạng KTNN và việc thực hiện vai trò chủ đạo của KTNN trong nền
kinh tế thị trường.
III- Một số giải pháp và kiến nghị nhằm thực hiện vai trò chủ đạo của KTNN
trong nền kinh tế quốc dân.

×