Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Chứng minh mức độ hoàn chỉnh của quan hệ sản xuất phong kiến dựa trên quan hệ sản xuất về tư liệu sản xuất thời Lê sơ (thế kỷ XV

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.83 KB, 14 trang )

Vấn đề:
Chứng minh mức độ hoàn chỉnh của quan hệ sản xuất phong
kiến dựa trên quan hệ sản xuất về tư liệu sản xuất thời Lê sơ
(thế kỷ XV)?
I. Mở đầu
Để chứng minh được ở thời Lê sơ, quan hệ sản xuất phong kiến dựa
trên quan hệ sản xuất về tư liệu sản xuất đã đạt được mức độ hoàn chỉnh, cần
phải phân tích và làm rõ được những vấn đề như: nhà vua nắm quyền sở hữu
tối cao về ruộng đất, nhà vua phải thiết lập được mối quan hệ thống trị cũng
như mối quan hệ với toàn bộ thần dân trong nước của mình, và ban hành luật
pháp để pháp lý hóa toàn bộ ruộng đất,…
Chỉ thể làm rõ được những vấn để trên ta mới thấy rõ được sự phát triển
đỉnh cao của thời Lê sơ đã dựa trên những cơ sở nào để phát triển và sẽ thấy
được mối liên hệ hữu cơ giữa những chính sách mà nhà nước trung ương đã đề
ra sẽ đem lại những ảnh hưởng cũng như những hệ quả cho các triều đại sau.
II. Nội dung
1.Quyền sở hữu ruộng đất tối cao thuộc về tay nhà vua
Sau khi lên ngôi vua, Lê Thánh Tông đã tiếp tục nối bước theo các vị
vua trước, ra sức củng cố chính quyền cũng như cải cách lại đất nước sau hơn
40 năm kể từ khi Lê Thái Tổ đánh bại quân Minh xâm lược.
Để đảm bảo cho quyền lực của mình, nhà vua đã ban hành những chính
sách cai trị tối cao và những nguyên tắc luật pháp nghiêm minh. Trước hết, Lê
Thánh Tông đã ra sức xây dựng lại bộ máy chính quyền nhằm đảm bảo quyền
lực tối thượng cho nhà vua. Nhà vua cho xây dựng hệ thống pháp luật (luật
Hồng Đức), cải cách nền giáo dục, ngoài ra nhà vua còn là người nắm quyền
vô hạn về quân đội. Trong những chính sách đó, vua Lê Thánh Tông còn chú
ý đến chính sách kinh tế - ruộng đất, vì đây là cơ sở để nuôi sống bộ máy
thống trị thời phong kiến.
Ngay từ khi giành được độc lập, Lê Lợi lên ngôi vua cũng đã đặt ra
nhiều chính sách ruộng đất nhằm mục đích tập trung sự quản lý của nhà nước
cùng với các nguyên do khác:


Thứ nhất, đề hạn chế sự phân tán, cát cứ của các thế lực giai cấp địa
chủ, quý tộc. Nhà nước dần dần xóa bỏ những cơ sở điền trang, thái ấp đã tồn
tại từ thời Lý – Trần, mà thay vào đó là chế độ lộc điền và quân điền
Với chính sách lộc điền: Nhà nước phong cấp cho những bậc khai quốc
công thần hay cho những tướng lĩnh có công lao lớn đối với triều đình. Nhưng
với chính sách này, không những nhà vua nắm được quyền tối thượng về ruộng
đất mà còn hạn chế được sự phân tán ruộng đất. Lộc điền là nhà vua chỉ phong
cấp cho người thân quốc thích và bộ phận quan lại cấp cao theo quy định thứ,
1
bậc, cấp hàm từ trên xuống. Lộc điền được ban cấp bao gồm nhiều loại ruộng
đất: thế nghiệp điền, thế nghiệp thổ, bãi dâu, tư điền, bãi dâu, tế điền,… Nhưng
với chế độ ban cấp này, thì người được ban cấp chỉ có thể có toàn quyền sở hữu
vĩnh viễn và truyền cho con cháu đời sau loại ruộng tư điền. Còn các loại ruộng
khác thì người được ban cấp chỉ được sử dụng tạm thời và phải trả lại cho nhà
nước sau khi người đó qua đời. Do đó, phần đất hưởng vĩnh viễn theo thực tế
rất ít so với phần đất được sử dụng tạm thời. Điều đó cho thấy, mặc dù nhà vua
đề ra những chính sách rất hậu cho bộ phận quan lại nhưng cuối cùng quyền sở
hữu lơn về ruộng đất vẫn nằm trong tay nhà vua.
Còn với chính sách quân điền: Nhà vua tiến hành chia ruộng xuống cho
mỗi thành viên trong làng xã theo phép quân điền “bình quân ruộng đất”, do
đó làng xã bấy giờ chỉ có quyền giúp nhà vua quản lý ruộng đất chứ không
còn được quyền tự trị nữa, vì theo pháp luật nhà nước ban hành có những quy
định các quyền về ruộng đất: quyền sở hữu, quyền thừa kế, quyền tranh chấp.
Nếu như ai làm trái thì sẽ bị phạt nặng. Do đó, mọi người đều phải tuân thủ
nghiêm túc luật lệ nhà nước.
Bên cạnh đó, nhà vua còn xiết chặt thân phận người nông dân vào ruộng
đất công làng xã bằng việc tăng cường thuế khóa - là cơ sở cho sự tồn tại của
nhà nước phong kiến, bằng những qui định “hễ người nào có ruộng đất mà
không dốc lòng cày cấy thì quan tư cai quản phải bắt trình trị tội”. Nhà vua còn
cho lập sổ hộ, sổ điền để nhằm thống kê số lượng ruộng đất và số lượng hộ gia

đình ở mỗi làng xã để biết được tình hình ruộng đất và mức sản xuất.
Ngoài ra, với chế độ thuế khóa, lao dịch được thiết lập trên mối quan hệ
vua – làng xã, thì mối quan hệ giữa chính quyền trung ương ngày càng chặt
chẽ hơn. Nhà vua xây dựng bộ máy hành chính ràng buộc lẫn nhau, không
chồng chéo nhưng vẫn thống nhất từ chính quyền trung ương cho tới địa
phương mà nhà vua có thể kiểm soát được.
Như vậy, nhà nước trung ương, tiêu biểu là nhà vua đã vươn lên thành
người chủ trực tiếp nắm trọn quyền sở hữu tối cao về ruộng đất đến công làng xã.
2. Sự ràng buộc giữa nhà nước và quan lại trên cơ sở chế độ lộc điền
Song song với quá trình xây dựng bộ máy chính quyền, nhà vua còn ra
sức cải cách bộ máy quản lý hành chính, hệ thống quan lại để nhằm thâu tóm
quyền hành thống trị tối cao cho mình. Lê Thánh Tông đã đơn giản hóa một
số cơ quan giúp việc cho nhà vua và một số chức quan quan trọng như: tể
tướng, tổng chỉ huy quân đội
Bên cạnh đó, Lê Thánh Tông còn thực hiện những chính sách khác
nhằm cai quản và kiểm soát chặt những cận thần quan lại giúp việc cho nhà
nước bằng chính sách ban cấp ruộng đất, đó là nhà nước thiết lập mối quan hệ
giữa vua – quan lại trên cơ sở chế độ lộc điền.
Năm 1471, vua Lê Thánh Tông tiến hành cải tổ bộ máy quan liêu cho
hoàn chỉnh.
2
Năm 1477, nhà vua ban hành chính sách lộc điền, quy định về chế độ
quyền lợi cho các tầng lớp quan liêu, quý tộc.
Với cuộc cải cách này thì đa số quan lại trong triều đều được hưởng
tiền bổng lộc hàng năm theo quy định cấp bậc từ trên xuống. Riêng những
quan lại cao cấp từ quan tòng tứ phẩm trở lên cho đến những người thân
thuộc của nhà vua thì được ban cấp ruộng lộc điền, và nếu ruộng lộc điền ban
cấp không trọn vẹn thì nhà vua còn cho phép lấy cả đất công làng xã thêm
vào, nhưng không lấy đất công làng xã ở nơi cư ngụ của người được cấp, mà
phải lấy ở đất công của làng xã khác để tránh tình trạng tập trung ruộng đất

của địa chủ, quan lại “các viên quan từ tứ phẩm trở lên, người nào đã được
cấp ruộng ở xứ khác rồi thì không cấp cho ruộng khẩu phần ở bản xã nữa,
người nào chưa được cấp thì lấy ruộng khẩu phần ở bản xã , chiếu theo lệ cấp
cho”.
Chế độ lộc điền ban cấp ruộng đất cho quan lại, hoàng tộc theo những
quy tắc nhất định rõ ràng. Người được cấp là những quan lại cao cấp từ thân
vương cho đến tòng tứ phẩm, những người thân thuộc và nữ quan thân cận
trong triều. Do đó lộc điền chỉ dành riêng cho giai cấp thống trị mà thôi.
Nhưng để ràng buộc giữa nhà nước với quan lại được chặt chẽ vào bộ
máy thống trị mà bọn quan lại này không thể làm loạn hay phân tán, cát cứ
chống lại triều đình. Nhà vua tiến hành ban cấp ruộng đất, nhưng cũng quy
định 2 loại ruộng đất được quyền sử dụng, đó là; loại ruộng ban cấp vĩnh viễn
trở thành tư điền, (còn gọi là đất thế nghiệp, ruộng thế nghiệp), nhưng phần
ban cấp này chỉ ít so với phần lớn là loại ruộng được ban cấp tạm thời, tức
người được cấp chỉ có quyền chiếm giữ và sử dụng chứ không có quyền bán
đi hay chiếm hữu sử dụng lâu dài, vì sau khi người được cấp chết đi 3 năm thì
phải trả đất ấy lại cho nhà nước.
Ví như theo thể lệ ban cấp ruộng đất (năm 1479) cho một thân vương
và một quan lại đại thần có cấp hàm là chánh nhất phẩm như sau:
Chức
tước
Thế
nghiệp
điền
Thế
nghiệp
thổ

điền
Bãi

dâu
Đầm
(ban
bằng
tiền)
Tế
điền
Thân
vuơng
600
mẫu
40
mẫu
1000
mẫu
150
mẫu
80
quan
300
mẫu
Chánh
nhất
phẩm
18
mẫu
100
mẫu
30
mẫu

70
mẫu
Nhìn vào thể lệ chia ruộng đất như trên, rõ ràng là ruộng đất chiếm hữu
thì ít hơn rất nhiều so với ruộng đất được quyền sở hữu. Do đó, người đứng
3
đầu nhà nước là vua vẫn là người nắm trọn quyền sở hữu ruộng đất tối cao, và
nhà vua có thể kiểm soát được diện tích đất đai rộng lớn trong cả nước cũng
như giám sát được quan lại của mình, xiết chặt mối quan hệ vua – quần thần.
Thực chất của chế độ lộc điền chính là nhà nước chiếm đoạt ruộng đất
của nông dân đã giành lại được trong chiến tranh chống giặc Minh, mà đem
cấp cho tầng lớp thống trị mới và đặt ách bóc lột mới lên người nông dân.
Theo thể lệ quy định năm 1477, nếu như một thân vương được cấp cả thảy
ruộng đất là 2090 mẫu, nhưng trong đó thân vương chỉ sở hữu được 640 mẫu là
đất vĩnh viễn, còn lại là ruộng đất tạm thời, thuộc quyền quản lí của nhà vua.
Hơn nữa, với chế độ ban cấp ruộng lộc điềnn, nhà nước ngăn cản và
xóa bỏ được từng bước những điền trang, thái ấp, cũng như xóa bỏ chế độ
thực phong, thực ấp đã tồn tại từ thời Trần. Cấp lộc điền là nhà vua chỉ câsp
ruộng đất cho quan lại chứ không bao gồm nông dân trên mảnh đất ấy, người
được cấp chỉ có quyền hưởng dụng bằng cách thu tô để lấy lộc mà hưởng, còn
nông dân cày ruộng vẫn là thần dân của nhà vua. Vì vậy, điền trang biệt lập
của quan lại sẽ không được hình thành. Chế độ phong kiến có sự phân tán ở
thời Lý – Trần nay đã chuyển sang giai đoạn tập quyền hoàn toàn, chế độ thực
phong, thái ấp cũng nhường chỗ cho chế độ lộc điền.
Có thể nói, lộc điền là sản phẩm tiêu biểu cho thời kỳ đỉnh cao của nhà
nước phong kiến trung ương tập quyền ở nước ta, thời Lê sơ.
3.Sự phá vỡ tính tự trị của công làng xã bởi sự can thiệp của chính quyền
trung ương trên cơ sở chính sách quân điền
Tính tự trị của làng xã trước thời kỳ phong kiến phát triển cao độ có
phần thoáng hơn. Trong các làng xã đa phần những công việc nội bộ cũng do
các làng xã giải quyết (phân xử các vụ tranh chấp, chia ruộng đất công…),

nhà nước không thể với tay xuống được làng xã, bởi thế nói “phép vua thua lệ
làng” là như vậy.
Ở thời kỳ Văn Lang – Âu Lạc đã hình thành chế độ ruộng đất chiếm
hữu của các tù trưởng bộ lạc và người thủ lĩnh đứng đầu lãnh đạo. Nhưng mối
quan hệ còn rất lỏng lẽo, sơ sài. Vì thời kỳ đó, công xã nông thôn chỉ biết nộp
cống hay lao dịch cho những người đứng đầu ở bộ phận quản lý các làng xã
như các Lạc tướng, Lạc hầu. Sau đó, các Lạc tướng, Lạc hầu mới chuyển
cống phẩm và lao dịch lên nhà vua, hay người nắm quyền lực tối cao.
Mặc dù ở địa phương ruộng đất đã nằm trong tay những người có
quyền lực cao, nhưng thực chất họ không quan tâm đến mà thường giao lại
cho các tù trưởng, hay thủ lĩnh địa phương cai quản và sau khi đến mùa vụ
hay kỳ hạn thì tù trưởng nộp về trên.
Kết quả thặng dư tạo ra sản phẩm chính là sự hợp sức của một tập thể
công làng xã, tất cả những thành viên công xã phải ra sức cày cấy để nộp cống.
Có thể nói mối quan hệ giữa trung ương và địa phương thời kỳ này thì làng xã
4
được quyền tự trị rất cao, nhưng phải có trách nhiệm thần phục nhà vua, và triều
đình chỉ biết đến tập thể công xã chứ không biết đến thành viên công xã.
Với phương thức “khoán đất”, thông qua tù trưởng để nô dịch nông dân
đã tồn tại và kéo dài đến thời kỳ đầu của chế độ phong kiến như một tập quán
phổ biến, nhưng chế độ phong kiến dần dân xác lập và hình thành thì với sự
can thiệp của nhà nước trung ương, làng xã mới được tổ chức có quy mô và
ngày càng chặt chẽ hơn.
Đến thời Lê sơ thì việc kliểm soát đã xuống tận các làng xã và mỗi
thành viên công xã, để thực hiện việc kiểm soát chặt chẽ và có tổ chức hơn
tình hình đất đai và cư dân ở địa phương. Nhà vua ban hành chính sách pháp
luật với quy định rõ ràng, đã phá vỡ đi hệ thống luật tục của làng xã trước kia,
pháp luật nhà nước từng bước len lỏi, ảnh hưởng xuống tận địa phương.
Triều đình đặt các chức xã quan ở tận đơn vị cơ sở. Bên cạnh đó, chính
quyền nhà vua với tay xuống làng xã thông qua chính sách quân điền (chính

sách bình quân ruộng đất). với chính sách này đã tích cực trong việc giúp
triều đình quản lý đất đai và dân số của địa phương được chặt chẽ và chính
xác hơn. Đồng thời với quá trình ấy cũng đã để lại một hệ quả to lớn, làng xã
đã dần dân mất đi tính tự trị của mình, công việc nội bộ của làng xã cũng do
triều đình giải quyết thông qua hệ thống quan lại, cơ sở quản lý làng xã bằng
luật tục hầu như bị giảm đi mà thay vào đó là pháp luật nhà nước. Làng xã
thực sự đã chịu sự chi phối của triều đình duới thời Lê sơ.
Thông qua chính sách quân điền, thì nhà nước cũng đã kiểm soát được
làng xã dựa trên những nhân tố chủ yếu sau: Từ năm 1477, vua Lê Thánh
Tông chính thức ban hành chính sách quân điền với thể lệ rõ ràng:
“Các xã công điền cứ 6 năm một kỳ, các quan phủ, châu, huyện phải
thân hành kiểm xét lại việc đo đạc, tùy theo số ruộng nhiều ít, tố xấu chia làm
3 hạng: nhất, nhị, tam rồi thống kê các hạng quan viên kể cả người có tang,
dưỡng bệnh, ở nhàn đến vợ con những người bị lưu, đồ trong xã là bao nhiêu
người, tính ra mỗi hạng người được bao nhiêu, ruộng nhiều thì chia theo mẫu,
ruộng ít thì chia theo sào, thước, tấc, theo hạng chia đều, trưng tô theo lệ”.
Như vậy, tất cả mọi người từ nông dân tự do, người bị tội đồ, lưu cho
đến quan tam phẩm đều được hưởng ruộng khẩu phần ở làng xã, và binh lính
là những người được ưu đãi nhất trong phép quân điền.
Với việc 6 năm chia lại ruộng đất theo phép quân điền, không những
nhà nước đã trực tiếp thống kê được dân số mà còn thường xuyên kiểm tra lại
diện tích ruộng đất ở mỗi làng xã qua đo đạc để chia lại.
Ngoài ra, nhà nước còn quy định, dân làng nào thì cày ruộng của làng
ấy và trên nguyên tắc ruộng đất công làng xã thì người nông dân không được
đem ra mua bán, trao đổi hay chuyển nhượng, mọi hành vi sai trái, không theo
pháp luật đều bị nghiêm trị nặng. Như thế, chẳng khác nào triều đình đã buộc
chặt thân phận người nông dân vào mảnh ruộng mà họ cày cấy, nhưng không
5

×