Tải bản đầy đủ (.pdf) (38 trang)

Cơ sở thực tiễn xuất khẩu gạo Việt nam thời gian tới theo quan điểm marketing và tìm ra hướng đi mới - 3 potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.57 KB, 38 trang )

- Cung cấp các dữ liệu tiếp cận thông tin về giá cả, sản xuất lương thực, thị trường
quốc tế và thị trường tiếp thị.
Trong thời đại ngày nay, việc trao đổi thông tin giữa các nguồn cung và thị trường
là một yếu tố không thể thiếu trong việc Marketing sản phẩm. Chiến lược thông
tin ở Việt Nam cho xuất khẩu gạo vẫn cịn những bất cập. Các doanh nghiệp
khơng thường xun có được những thơng tin và dự báo trong việc xác định các
thị trường đầu ra, khối lượng gạo có thể xuất khẩu, các chính sách khuyến khích
khả năng cạnh tranh của gạo cũng như nhu cầu khách hàng.
Khâu nghiên cứu thị trường xuất khẩu gạo vẫn chưa được đầu tư đúng mức. Các
nguồn tài liệu về thị trường gao thế giới phục vụ cho kinh doanh xuất khẩu cũng
như phục vụ công tác quản lý xuất khẩu, cơng tác nghiên cứu nhìn chung cịn q
ít ỏi, chưa đáp ứng nhu cầu thực tế trong khi hoạt động xuất khẩu địi hỏi những
thơng tin sâu rộng về thị trường để theo dõi kịp thời và hệ thống các diễn biến
cung cầu, giá cả. Do nghiên cứu thị trường bị hạn chế nên các doanh nghiệp xuất
khẩu gạo của Việt Nam không xử lý được kịp thời những diễn biến của thị trường,
bỏ lỡ rất nhiều cơ hội thuận lợi cho xuất khẩu gạo, gây thiệt hại tới bản thân doanh
nghiệp nói riêng và cho Nhà nước nói chung. Cụ thể là năm 1994, nhu cầu nhập
khẩu gạo của Nhật Bản đột ngột tăng tới 2 triệu tấn. Các nhà kinh doanh của ta đã
hy vọng có thể xuất khẩu sang thị trường này song do thiếu những thông tin cụ thể
về cách thức nhập khẩu, tiến trình nhập sẽ tập trung vào thời gian nào, cấp loại gạo
nào... nên không xử lý được linh động, hiệu quả trước tình hình biến động cung
cầu, lỡ một hợp đồng lớn mà đáng lẽ chúng ta có thể giành được. Năm 1997, do


ảnh hưởng của hiện tượng El Nino, cầu về gạo trên thị trường thế giới tăng mạnh.
Các nhà xuất khẩu Việt Nam do thiếu thông tin cập nhật đã đề nghị giá gạo thấp
hơn giá thị trường và đã bán hết dự trữ gạo trước khi giá gạo trên thị trường thế
giới đạt mức giá trần cao nhất. Đầu năm 1998, giá gạo trên thế giới tiếp tục nhích
lên, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo đã ồ ạt ký hợp đồng. Chỉ trong quý I, số
lượng gạo trong hợp đồng xuất khẩu đã ký lên tới 3 triệu tấn. Sang đến quý II, giá
gạo xuất khẩu tiếp tục tăng mạnh, giá lúa đồng bằng sông Cửu Long cũng tăng.


Những doanh nghiệp đã ký hợp đồng số lượng lớn bị thua lỗ do khơng dự đốn
được thị trường. Để giải quyết, Chính phủ đã hai lần chỉ đạo tạm ngưng ký hợp
đồng mới vào tháng tư và tháng tám nhằm rà sốt lại các hợp đồng cũ. Nhiều
doanh nghiệp phải tìm cách trì hỗn những hợp đồng đã ký, chịu mất uy tín với
bạn hàng. Thiệt hại về giá gạo xuất khẩu 4 tháng đầu năm vào khoảng hàng chục
triệu USD, chưa kể đến việc tổ chức thu mua ồ ạt, thậm chí cả tranh mua, đẩy giá
gạo cả nước lên quá cao làm cho các doanh nghiệp xuất khẩu bị thua lỗ lớn. Đến
giai đoạn cuối 1998, đầu năm 1999, giá gạo xuất khẩu ở mức cao thì số lượng hợp
đồng đã ký lại ở mức thấp do các doanh nghiệp vẫn khơng dự đốn được thị
trường, xu hướng cung cầu và giá cả trong tương lai. Sự thiếu thông tin về gạo trên
thế giới luôn làm cho các doanh nghiệp Việt Nam chịu nhiều thiệt thòi khi thực
hiện đàm phán, ký kết hợp đồng dẫn đến hiệu quả kém trong hoạt động xuất khẩu.
Trong lĩnh vực sản xuất, những thông tin liên quan đến công nghệ và thị trường
cũng đóng một vai trị thiết yếu. Người nơng dân ở Việt Nam chủ yếu có được
những thơng tin qua các mối quan hệ thân quen và trao đổi với những nông dân


khác. Vào tháng 11 năm 1999, Trung tâm thông tin của Bộ Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn đã xuất bản nguyệt san “Tin lương thực”. Tuy nhiên, phần lớn
những tin tức về thị trường trong và ngoài nước đều lấy từ Trung tâm thông tin
của Bộ Thương mại, không đủ đáp ứng nhu cầu cập nhật về giá cả thị trường của
người sản xuất. Các Hiệp hội lương thực và các tổng cơng ty đang có hướng mở ra
các nhóm nghiên cứu tình hình thị trường trong nước và quốc tế nhưng các hoạt
động này vẫn còn nhiều yếu kém. Cùng một báo cáo ngành mà có tới 3, 4 số liệu
khác nhau trong khi nguồn cán bộ của cả hai bộ trên đều rất yếu, chưa dám sử
dụng những chuyên gia đã được đào tạo chính quy về ngành kinh doanh cho nông
nghiệp nên không làm tốt chức năng dự báo thị trường.
Về phía các nhà xuất khẩu, tuy thơng tin là thực sự cần thiết nhưng ít chủ động
đầu tư thời gian và vốn cho nghiên cứu thị trường. Bên cạnh đó, thơng tin phản hồi
từ các khách hàng thường không nhiều và các chiến dịch quảng cáo cho sản phẩm

gạo gần như khơng có. Chính phủ Việt Nam còn thiếu những biện pháp để truyền
bá, giới thiệu những lợi thế của gạo Việt Nam tới các khách hàng quốc tế, tạo một
lỗ hổng lớn trong các kênh thông tin từ người sản xuất tới người tiêu dùng. Hơn
nữa, các nguồn tài liệu về thị trường gạo thế giới phục vụ cho công tác xuất khẩu
và nghiên cứu quá ít ỏi, chưa đấp ứng được yêu cầu thực tế. Hiện nay, mạng
Internet đã trở nên rất phổ biến Việt Nam. Đây là một phương tiện thông tin có
tính tồn cầu hố, có khả năng truy cập một khối lượng thông tin khổng lồ song
các doanh nghiệp vẫn hạn chế sử dụng do chi phí thuê bao và các nguyên nhân chủ


quan khác. Điều đó tạo cho các doanh nghiệp thói quen bị động trước các biến cố
xảy ra trên thị trường, dễ gây những hậu quả lớn và khó tránh khỏi.
2.3. Đánh giá hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam theo mơ hình SWOT
Qua những phân tích về tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam trong những năm
qua theo quan điểm Marketing-mix tập trung vào 4 vấn đề: chính sách sản phẩm,
chính sách giá cả, chính sách phân phối và chính sách xúc tiến và hỗ trợ kinh
doanh, chúng ta đã có một cái nhìn chi tiết về xuất khẩu gạo trong bối cảnh nền
kinh tế đất nước đang chuyển mình sang giai đoạn mới. Phải khẳng định rằng gạo
đã trở thành một mặt hàng chiến lược không thể thiếu trong chính sách phát triển
của Việt Nam. Với các phân tích trên, chúng ta cịn rút ra những nhận định và
đánh giá để từ đó hình thành những chiến lược cụ thể theo Marketing-mix cho
xuất khẩu gạo của Việt Nam trong những năm tới.
Theo quan điểm Marketing, cơ sở hình thành chiến lược gồm bốn điểm:
- S (streengths) - điểm mạnh: ở đây hiểu là mặt mạnh mà chúng ta có được trong
quản lý vĩ mơ đối với sản phẩm gạo và vị trí, khả năng cạnh tranh của xuất khẩu
gạo Việt Nam trên trường quốc tế.
- W (weeknesses) - điểm yếu: những khó khăn của Nhà nước trong cơ chế điều tiết
gạo.
- O (oppotinites) - cơ hội: những yếu tố thuận lợi trong bối cảnh khu vực và quốc
tế mà chúng ta cần tranh thủ để tăng cường sản xuất, chế biến, xuất khẩu gạo.



- T (threats) - thách thức: những nguy cơ từ bên ngồi có thể ảnh hưởng xấu đến
tình hình chung và xu hướng xuất khẩu của Việt Nam, cần được phát hiện, điều
chỉnh một cách kịp thời cho phù hợp và tránh những hậu quả xảy ra.
Cả bốn yếu tố trên tạo thành mơ hình SWOT - là cơ sở hình thành chiến lược
trong Marketing-mix mà các nhà hoạch định vẫn thường sử dụng để tạo kế hoạch
cho chương trình hành động trong thời gian tới. Nghiên cứu mơ hình này đối với
sản phẩm gạo ở tầm vĩ mơ địi hỏi có một cách nhìn tổng qt, sắc bén để từ đó rút
ra những nhận định đúng đắn và có hiệu quả cao.
2.3.1. S - Điểm mạnh
2.3.1.1. Cơ chế chính sách
Thành công trong xuất khẩu gạo của Việt Nam do nhiều yếu tố tác động trong đó
sự điều chỉnh và đề ra các chính sách của Đảng và Nhà nước ta đóng một vai trị
rất quan trọng. Cơ chế điều hành xuất khẩu gạo được hoàn thiện liên tục qua từng
năm để tạo những điều kiện thuận lợi, đẩy mạnh xuất khẩu gạo với số lượng lớn,
nâng vị trí của Việt Nam là một trong những quốc gia xuất khẩu gạo lớn nhất trên
thế giới. Cụ thể là:
Thứ nhất, từ trước đến nay, hạn ngạch được giao một lần và giao trước khi bước
vào năm tài chính. Tuy nhiên, đến năm 2001, Chính phủ đã quyết định hạn ngạch
xuất khẩu gạo, tạo điều kiện thơng thống cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế tham gia xuất khẩu không bị hạn chế số lượng bởi hạn ngạch.


Thứ hai, khi ban hành cơ chế điều hành xuất khẩu gạo thường đi cùng với cơ chế
nhập khẩu phân bón, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc theo dõi, giám sát tình
hình xuất nhập chung của hai mặt hàng này.
Thứ ba, trước đây, Nhà nước điều tiết lượng gạo xuất khẩu: tiến độ xuất khẩu
thông qua hạn ngạch, đầu mối xuất khẩu gạo và biện pháp hành chính tạm dừng
xuất khẩu. Số lượng đầu mối xuất khẩu được mở rộng thận trọng. Cụ thể là năm

1996 chỉ có 15 doanh nghiệp được phép tham gia xuất khẩu gạo, năm 1997 con số
này là 16 và đến năm 2000 lên tới 47 đầu mối. Tuy nhiên, Nhà nước phân bố số
lượng gạo xuất khẩu hàng năm theo hướng giảm dần sự độc quyền của các doanh
nghiệp đầu mối, hạn chế tình trạng tranh mua, tranh bán. Năm 2001, bãi bỏ đầu
mối và hạn ngạch sẽ tạo một bước tiến mới, thuận tiện hơn cho xuất khẩu gạo của
các doanh nghiệp ngoài đầu mối trước kia.
Ngoài các doanh nghiệp đầu mối, Nhà nước cho phép các công ty của Trung ương,
các tổng cơng ty, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động trong lĩnh
vực sản xuất, chế biến gạo xuất khẩu với hạn ngạch quy định. Các doanh nghiệp
ngoài đầu mối của tất cả các thành phần kinh tế, có đăng ký mã số doanh nghiệp
kinh doanh xuất nhập khẩu nếu tìm được thị trường tiêu thụ mới (ngồi các nước
như Philippin, Inđơnêxia, Malaixia và Irăc, Iran), ký được hợp đồng với các điều
kiện thương mại có lợi, giá cả cao hơn hoặc bằng giá cả hướng dẫn trong từng thời
kỳ, thì gửi văn bản kèm theo hợp đồng về bộ Thương mại để được xem xét cho
xuất khẩu.


Chính phủ đã trực tiếp tham gia hoạt động xuất khẩu gạo thông qua việc ký kết các
hiệp định, nghị định thư trao đổi hàng hố với chính phủ các nước khác hoặc hợp
đồng bán gạo ổn định cho các tổ chức phi chính phủ nước ngồi rồi giao lại cho
các doanh nghiệp nhà nước thực hiện. Bên cạnh đó, Chính phủ cịn khuyến khích
các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu gạo sản xuất ở các tỉnh miền Bắc và miền
Trung tạo thế cân bằng với khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
Cơ chế điều hành xuất khẩu gạo với nội dung như trên đã đóng góp tích cực vào
hoạt động xuất khẩu gạo. Với cơ chế trên chúng ta có thể yên tâm rằng lượng gạo
xuất khẩu sẽ tăng ổn định và vững chắc đồng thời đảm bảo mục tiêu về an ninh
lương thực quốc gia, tăng cường tính bền vững trong phát triển sản xuất lương
thực. Với cơ chế này sẽ tạo khả năng mở rộng và tăng cường các hoạt động xuất
khẩu gạo của các doanh nghiệp ngoài đầu mối, hiện chiếm 20% lượng gạo xuất
khẩu ra thị trường nước ngoài.

2.3.1.2. Lợi thế của Việt Nam trong sản xuất và xuất khẩu gạo.
Ngoài những lợi thế về chi phí sản xuất, chủng loại gạo, giá thành... như đã đề cập
ở phần trước, gạo xuất khẩu Việt Nam cịn có những ưu điểm sau:
* Truyền thống sản xuất lúa gạo
Từ ngàn đời nay, cây lúa vẫn là cây lương thực chính của nhân dân Việt Nam. Lúa
mang đến cho chúng ta cuộc sống ấm no và đã tạo nên một nếp nghĩ trong mỗi
người khi hay quy tất cả các giá trị các vật dụng khác ra thóc gạo. Truyền thống
sản xuất lúa là một thế mạnh, giúp chúng ta có được kinh nghiệm gieo cấy, chăm
sóc, tạo điều kiện cho cây lúa phát triển đảm bảo được năng xuất tối đa. Lịch sử


sản xuất lúa Việt Nam đã trải qua hơn 4000 năm, nên chúng ta có thể tích tụ được
các phương pháp sản xuất có hiệu quả, khai thác triệt để các lợi thế khác của đất
nước ứng dụng vào phát triển cây lúa.
* Điều kiện tự nhiên thuận lợi.
ở Việt Nam, sản xuất lúa đã, đang và sẽ là ngành sản xuất quan trọng bậc nhất.
Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào có thể dựa trên những điều kiện thuận lợi về
tự nhiên để phát triển cây lúa nước, hợp với đất đai và đặc tính về sinh thái, khí
hậu.
Tài ngun đất đai và khí hậu đóng vai trị quan trọng trong việc cung cấp năng
lượng và các yếu tố khác cho cây lúa. Diện tích đất trồng lúa của Việt Nam rộng,
phì nhiêu cao, chi phối sâu sắc khả năng thâm canh và giá thành sản phẩm. Bên
cạnh đó, hệ sinh thái của ta do kết hợp các yếu tố khí hậu như nhiệt độ, độ ẩm,
lượng mưa... nên có thể tạo lợi thế thâm canh, tăng vụ cho cây lúa ở cả hai vùng
đồng bằng sông Hồng và sơng Cửu Long.
Nghề trồng lúa Việt Nam cịn có một ưu thế nữa về nguồn nước- yếu tố không thể
thiếu đối với sự phát triển của cây lúa. Ngoài nguồn nước sẵn có, chúng ta đã xây
dựng một hệ thống thuỷ lợi đảm bảo và đã mang lại những thành quả bước đầu
cho việc năng suất lúa.
* Vị trí địa lý và hệ thống cảng khẩu.

Phải nói rằng, Việt Nam có một vị trí địa lý hết sức thuận lợi cho buôn bán và giao
lưu quốc tế, nằm ở cửa ngõ của các con đường nối liền các nước. Hệ thống đường
sắt, đường biển thuận lợi là những thế mạnh nổi bật của chúng ta trong việc đẩy


mạnh xuất khẩu gạo. Việt Nam có hơn 3000 km bờ biển với các cảng thuận lợi,
nằm gần sát đường hàng hải quốc tế và có thể hành trình theo tất cả các tuyến đi
Đông Bắc á, Đông Nam á - Thái Bình Dương, Trung Cận Đơng, châu Âu, châu
Phi, châu Mỹ... là những thị trường chính của gạo xuất khẩu nước ta. Các cảng
biển này giúp cho việc vận chuyển gạo tiện lợi, thơng dụng với mức cước phí rẻ
hơn nhiều so với các phương thức khác, tạo cho Việt Nam một thế mạnh lớn trong
xuất khẩu.
2.3.1.3. Hệ số chi phí nguồn lực nội địa ( DRC) của gạo xuất khẩu
Trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, mặt hàng gạo của Việt Nam
đang vấp phải sự cạnh tranh quyết liệt của các nước xuất khẩu khác. Nói đến cạnh
tranh là phải nói đến vấn đề chất lượng, mẫu mã, vệ sinh, giá cả... Trong những
vấn đề này, điều dễ được người nhập khẩu quan tâm nhất là giá cả. Trên thị trường
người mua thường so sánh giá cả mặt hàng cùng loại để đi đến quyết định mua hay
không. Như vậy, giá cả là nội dung đầu tiên mà các doanh nghiệp phải quan tâm.
Một mặt hàng được coi là có khả năng cạnh tranh nếu như giá trong nước không
lớn hơn trong nền kinh tế cạnh tranh. Cụ thể là mặt hàng gạo có khả năng cạnh
tranh khi giá gạo tiêu thụ khơng lớn hơn giá của gạo cùng loại trên thị trường thế
giới.
Lợi thế cạnh tranh của gạo có thể đo bằng hệ số chi phí nguồn lực nội địa (DRC),
là tỷ lệ giữa các chi phí nguồn lực trong nước và các yếu tố đầu vào trung gian bất
khả thương (tính bằng giá mờ) cho việc sản xuất trong một sản phẩm nhất định so
với ngoại tệ ròng thu được do sản xuất lúa gạo trong nước.


Qua phân tích tình hình xuất khẩu gạo trong thời gian gần đây, ta có được sơ đồ

nói lên sự biến động hệ số chi phí nguồn lực nội địa (DRC) của gạo như sau:
Năm 1995 1996 1997 1998 1999
DRC 0,500 0,474 0,500 0,400 0,500
Trong tất cả các năm phân tích, DRC đều nhỏ hơn 1 và tương đối ổn định chứng tỏ
nền kinh tế nước ta đã tiết kiệm được ngoại tệ thông qua sản xuất gạo ở trên cả hai
mặt trận: xuất khẩu và tiêu thụ trong nước. Điều đó cũng nói lên chi phí cơ hội của
các tài nguyên trong nước và các yếu tố sản xuất khác được sử dụng để tạo ra mặt
hàng gạo nhỏ hơn so với ngoại tệ thu được. Hệ số chi phí nguồn lực nội địa khơng
phát huy tối đa hiệu quả vì tính cạnh tranh của gạo Việt Nam vẫn khơng cao so với
các quốc gia xuất khẩu gạo khác.
Nói chung, Việt Nam có khá nhiều lợi thế cơ bản trong sản xuất và xuất khẩu lúa
gạo. Tuy nhiên, để biến những điểm mạnh này thành sức cạnh tranh của gạo Việt
Nam trên thị trường thế giới cần rất nhiều sự cố gắng, nỗ lực của tất cả các thành
phần kinh tế tham gia kinh doanh xuất khẩu gạo ở nước ta.
2.3.2. W - Điểm yếu
2.3.2.1. Cơ chế, chính sách
Cơ chế hiện hành dù đã được chỉnh sửa và có nhiều tiến bộ nhiều năm qua song
nhìn chung vẫn tồn tại những hạn chế, phần nào làm giảm khả năng xuất khẩu gạo
Việt Nam được biểu hiện cụ thể trên các mặt sau:
* Thứ nhất: việc duy trì đầu mối xuất khẩu trước năm 2001 nhiều khi làm lỡ mất
thời cơ xuất khẩu, nhất là khi tham gia đấu thầu các hợp đồng mua gạo của các đối


tác nước ngồi. Chỉ những đầu mối mà Chính phủ chỉ định mới được tham gia đấu
thầu cung cấp gạo. Điều kiện đó khơng tạo xu hướng cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp, dễ dẫn đến các tiêu cực trong công tác quản lý. Năm 1998-1999, nhiều đầu
mối do Chính phủ chỉ định tham gia đấu thầu đã thất bại, gây tổn thất đáng kể cho
tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam.
Việc Chính phủ Việt Nam xác định đầu mối và phân bổ hạn ngạch chỉ dựa vào tỷ
lệ và khối lượng gạo xuất khẩu năm trước của các đơn vị mà không phân biệt

lượng xuất khẩu uỷ thác so với lượng xuất khẩu thực sự của các đơn vị đó là bao
nhiêu, nên vẫn cịn hiện tượng một số đầu mối bán quota và xuất khẩu uỷ thác để
được hưởng một tỷ lệ xuất khẩu nhất định trên giá trị kim ngạch xuất khẩu gạo,
phát sinh nhiều tiêu cực trong việc mua bán quota. Hơn nữa, các doanh nghiệp rơi
vào thế bị động trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu gạo khi Chính
phủ phân bổ hạn ngạch trọn gói cả năm nên sẽ khơng dự đốn được tương đối
chính xác sản lượng gạo xuất khẩu. Hậu quả là những lúc giá gạo trên thị trường
thế giới tăng mạnh thì lượng xuất của ta khơng tăng hoặc tăng không đáng kể,
ngược lại khi giá giảm thì chúng ta lại tăng lượng xuất. Tuy nhiên đến năm 2001,
khi Chính phủ bỏ hạn hạn ngạch và đầu mối xuất khẩu gạo lại gây tâm lý lo lắng
cho các doanh nghiệp do băn khoăn không biết cơ chế điều hành mới có thuận lợi
hay lại ngăn trở, gây khó khăn dưới hình thức khác.
* Thứ hai, cơ chế được quy định chỉ có hiệu lực trong thời hạn một năm, do đó
doanh nghiệp ln ở trong thế bị động, thiếu ổn định, không muốn đầu tư dài hạn.


* Thứ ba, cơ chế quy định địi hỏi Chính phủ phải theo dõi sít sao hoạt động của
các doanh nghiệp, làm mất khả năng chủ động của các doanh nghiệp trong việc
giải quyết các vấn đề, vụ việc trong kinh doanh, dễ lỡ thời cơ ký kết các hợp đồng
có lợi nhuận lớn. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng phải ra quyết định với quy mô nhỏ
làm mất thời gian và công sức của nhân viên các cấp.
Từ năm 2001, Chính phủ thực hiện bỏ đầu mối và hạn ngạch xuất khẩu gạo. Để
thực hiện điều này, các cơ quan chức năng gồm Bộ Thương mại, Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn... phải xây dựng một cơ chế mới về điều hành xuất khẩu
gạo trình Chính phủ. Cơ chế điều hành phải giải quyết được mục tiêu: nông dân có
lợi, doanh nghiệp xuất khẩu có hiệu quả, bình ổn giá lương thực và giữ an ninh
lương thực quốc gia.
Khi bỏ đầu mối xuất khẩu, nhiều doanh nghiệp trước kia không xuất khẩu gạo sẽ
tham gia vào hoạt động này. Hơn nữa, gạo luôn là mặt hàng chủ lực của Việt Nam,
khi số doanh nghiệp tăng lên sẽ tạo tình trạng tranh mua, bán, làm giảm hiệu quả

xuất khẩu gạo nhưng cũng sẽ tăng sức cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, tránh
tình trạng độc quyền xuất khẩu của các đầu mối như tình trạng trước đây.
2.3.2.2. Quản lý giá cả
Tuy đã áp dụng cơ chế và chính sách mới và có nhiều chấn chỉnh để thích ứng với
tình hình hiện tại của nền kinh tế. Song trên thực tế, hệ thống tổ chức của ta vẫn
còn nhiều hạn chế trong công tác quản lý giá cả. Giá mua lúa gạo nội địa do Ban
vật giá Chính phủ hướng dẫn bằng cách căn cứ vào giá thành sản xuất để quy định
giá sàn và giá trần sao cho đảm bảo được quyền lợi của nơng dân, cịn giá xuất


khẩu gạo do Bộ Thương mại căn cứ vào diễn biến, tình hình thị trường thế giới để
đưa ra khung giá tối thiểu cho từng mặt hàng và khống chế hợp đồng xuất khẩu
gạo của các doanh nghiệp đã đạt được mức giá tối thiểu này trở nên thì mới được
cấp giấy phép xuất khẩu. Do sự không thống nhất với nhau trong quy định vế giá
như trên thường dẫn đến việc giá gạo của Việt Nam khơng thích ứng được với giá
trên thị trường quốc tế làm phát sinh giá cả nội địa cao hơn mặt bằng giá gạo quốc
tế. Hơn thế, khung giá quy định của các cơ quan Chính phủ thường cứng nhắc,
thiếu độ nhạy bén với biến động trên thị trường, gây khó khăn khơng ít cho hoạt
động kinh doanh của các doanh nghiệp. Bộ Thương mại ban hành giá chậm thay
đổi nên các doanh nghiệp khơng thể ký hợp đồng vì khơng được cấp giấy phép khi
giá thị trường thấp hơn khung giá quy định. Ngược lại, khi giá thị trường cao hơn
khung giá quy định dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp tự ý hạ thấp miễn là vẫn
đảm bảo cao hơn giá Nhà nước nhằm bán được cho nhà nhập khẩu số lượng lớn
gạo làm giảm hiệu quả xuất khẩu chung. Chính từ sự yếu kém của các doanh
nghiệp và khâu quản lý giá dẫn đến việc khách hàng nước ngoài lợi dụng, ép giá
nhằm có lợi tối đa cho họ. Khi trên thị trường thế giới giá có xu hướng giảm thì họ
tìm cách trì hỗn việc nhận hàng, cam kết thanh toán, gây tâm lý lo lắng cho các
nhà xuất khẩu nước ta, sau đó mới đề nghị đàm phán lại điều khoản giá cả của hợp
đồng và mới đồng ý đi nhận hàng. Ngược lại, khi xu hướng giá trên thị trường thế
giới tăng lên thì họ ép ta phải ký kết hợp đồng và giao hàng ngay nhằm đạt được

lợi nhuận cao nhất, gây thiệt hại cho các nhà xuất khẩu gạo Việt Nam.
2.3.2.3. Hệ thống cơ sở hạ tầng của các cảng khẩu


Gần như phần lớn số lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam giao tại cảng Sài Gòn thành phố Hồ Chí Minh (70%), có xuất xứ từ đồng bằng sơng Cửu Long. Tuy
nhiên cơ sở hạ tầng phục vụ các khâu chuyên chở, kho tàng bảo quản, thiết bị bốc
xếp còn nhiều yếu kém và đang trở thành đáng quan tâm. Hơn nữa, cảng Sài Gịn
ln bị tắc nghẽn, và số lượng gạo xuất khẩu được xuất cảng lại chịu trách nhiệm
về phí vận chuyển gạo rất cao trên mức đề xuất. Quốc lộ 1A đoạn thành phố Hồ
Chí Minh đến Cần Thơ tuy đã được hoàn thành về cơ bản việc nâng cấp nhưng
chưa đủ rộng để cho phép hàng đoàn xe tải nặng đi lại thường xuyên. Cảng Cần
Thơ ở giữa khu vực đồng bằng sông Cửu Long - khu vực dư thừa gạo chính của
cả nước - đang nhanh chóng mở rộng các hoạt động nhưng vẫn bị hạn chế nghiêm
trọng bởi thiếu đầu tư để nâng cấp giao thơng đường thuỷ. Cảng này có năng lực
bốc xếp theo thiết kế là một triệu tấn/năm. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, trong
3 năm trở lại đây, công suất bốc xếp hàng năm của Cảng chỉ khoảng 40.000
tấn/năm. Cảng chưa đủ điều kiện để đón và phục vụ tàu viễn dương có trọng tải
trên 10.000 tấn, mặc dù cảng chỉ cách cửa biển 20km.
Cơ sở hạ tầng yếu kém không phải là cản trở duy nhất. Giá vận chuyển cao ở Việt
Nam gắn liền với sự chậm trễ trong quá trình chất và vận chuyển hàng chậm dọc
theo các kênh nối giữa cảng Sài Gịn với phía Nam biển Trung Quốc phần nào giải
thích sự giảm giá hơn nữa của gạo Việt Nam trên thị trường quốc tế. Mặc dù
những chi phí này do các nhà nhập khẩu gạo trả vì hầu hết xuất khẩu gạo nước ta
tính theo giá FOB nhưng chi phí này được tính vào giá bán của gạo xuất khẩu.


Điều này giải thích thực tế rằng giá FOB của gạo Việt Nam thấp từ 13-15% so với
các đối thủ cạnh tranh khác như Thái Lan.
2.3.2.4. Về phía các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu lúa gạo
Các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu lúa gạo Việt Nam cũng tồn tại nhiều điểm

yếu thể hiện trên các mặt sau:
* Thứ nhất, bộ máy quản lý của phần lớn các doanh nghiệp chưa đồng bộ, chưa có
sự thống nhất với nhau về cách làm việc. Cơng tác quản lý cịn nhiều yếu kém,
thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa các phòng ban, đặc biệt trong các doanh nghiệp
Nhà nước còn hiện tượng chỉ làm cho đủ số giờ mà không đảm bảo hiệu quả công
việc. Đội ngũ cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu ở một số nơi cịn yếu kém về
trình độ, năng lực, bề dày kinh nghiệm nên hiệu quả khơng cao. Nhiều doanh
nghiệp có thói quen ỷ lại, khơng tích cực tìm kiếm bạn hàng, nguồn hàng mà coi
Chính phủ là một tác nhân quan trọng đến hiệu quả kinh doanh của họ nên nỗ lực
để có càng nhiều ưu tiên, giấy phép, hạn ngạch trợ cấp và bảo hộ xuất khẩu.
* Thứ hai, các doanh nghiệp trong cả hai lĩnh vực tư nhân và Nhà nước đều bị hạn
chế nghiêm trọng trong việc tiếp cận nguồn vốn cần thiết để tiến hành các hoạt
động mua bán, tích trữ tài chính và cấp vốn đầu tư cho sản xuất. Theo tính tốn,
u cầu về vốn ở thời điểm cao nhất bằng khoảng 5 lần mức vốn nhận được của
các doanh nghiệp Nhà nước và 10 lần so với các doanh nghiệp tư nhân. Mặc dù
trong các năm vừa qua, các thiết bị vận chuyển và chế biến đã được đầu tư một
cách đáng kể nhưng không đáp ứng hết nhu cầu. Do đó, cần phải nâng cao vốn
phát hành hiện tại và bổ sung vốn đầu tư vào cơ sở vật chất (máy móc, nhà máy và


các phương tiện vận chuyển) cũng như nguồn vốn nhân lực có qua đào tạo, tiếp thị
quản lý chất lượng và tài chính vì với lượng vốn hạn hẹp, các doanh nghiệp khơng
thể cấp tín dụng thương mại cho khách hàng cũng như khơng có khả năng mua dự
trữ nên không thể chủ động kỳ hạn bán ra theo hướng thị trường có lợi, bỏ lỡ
nhiều cơ hội, ảnh hưởng đến khả năng thực hiện hợp đồng của các doanh nghiệp.
Sự tồn tại nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp cũng khơng có nghĩa là Chính phủ
phải bao cấp các doanh nghiệp toàn bộ nguồn vốn đầu tư mà tạo điều kiện để tiếp
thị tín dụng, cung cấp mơi trường cho công việc này và cho phép các thành viên
trong các doanh nghiệp đóng góp đầu tư của họ về dự trữ, chế biến và vận chuyển
lúa gạo.

Tất cả những điểm yếu trên đã và đang làm giảm thế mạnh trong thương mại quốc
tế và khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam trước những biến động gay gắt trên
thị trường thế giới.
2.3.3. O - Cơ hội và T - Thách thức
Trong những năm vừa qua, Việt Nam đã thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế
và bước đầu đã hoà nhập được với nền kinh tế thế giới. Sau một loạt những sự
kiện quan trọng trong hợp tác phát triển như bình thường hố quan hệ với Mỹ, gia
nhập ASEAN, ký kết hiệp định thương mại Việt- Mỹ… và sắp tới sẽ gia nhập Tổ
chức kinh tế châu á - Thái Bình Dương (APEC), Tổ chức thương mại thế giới
(WTO), chúng ta sẽ có những cơ hội để phát triển thị trường, đưa sản phẩm của ta
sánh ngang với các nước khác về chất lượng và đẩy mạnh nền kinh tế... Vì quy mơ
nhỏ, đề tài chỉ xin đề cập đến cơ hội của gạo xuất khẩu Việt Nam khi Hiệp định


Việt - Mỹ đi vào thực thi và khi chúng ta chính thức tham gia vào khu vực tự do
thương mại ASEAN (AFTA) vào năm 2003.
2.3.3.1.

Hiệp định Việt - Mỹ

Khi thực hiện Hiệp định Thương mại, Mỹ sẽ áp dụng thuế suất phù hợp với quy
định của WTO (ước tính thuế nhập khẩu trung bình của hàng hố Việt Nam vào
Mỹ sẽ giảm từ 40% xuống còn 4%), loại bỏ các hàng rào phi thuế quan, các hạn
chế định lượng và mở đường cho gạo Việt Nam thâm nhập và cạnh tranh bình
đẳng trên thị trường Mỹ. Hiệp định Thương mại Việt Mỹ không những thúc đẩy
tăng trưởng xuất khẩu Việt Nam vào một trong những thị trường lớn nhất thế giới,
mà còn tạo thêm động lực cho tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
Thị trường Mỹ là một trong những thị trường tiêu thụ nông sản nhiều nhất trên thế
giới, có tính đa dạng và tiềm năng rất lớn. Nhập khẩu nông nghiệp của Mỹ hàng
năm lên tới 38 tỷ USD. Tuy nhiên, so với các thị trường có mức thu nhập và tiêu

dùng bình quân đầu người tương đương như Mỹ và Nhật Bản thì xuất khẩu gạo
của Việt Nam vào thị trường Mỹ còn chiếm tỷ lệ khiêm tốn. Vì thuế nhập khẩu
trung bình đối với các mặt hàng gạo của các thị trường này cao hơn rất nhiều so
với Mỹ, nên khi Hiệp định Thương mại được thi hành thì xuất khẩu gạo Việt Nam
sang thị trường Mỹ sẽ có cơ hội tăng đáng kể. Giá trị xuất khẩu gạo trên đầu người
của Việt Nam vẫn còn thấp so với Thái Lan và khả năng sản xuất vẫn cịn mạnh,
do đó tiềm năng xuất khẩu gạo của Việt Nam vào thị trường Mỹ còn rất lớn.
* Cơ hội


Tác động của hiệp định Thương mại Việt - Mỹ đến xuất khẩu gạo của Việt Nam
có thể thơng qua các hướng sau:
- Thứ nhất, việc giảm hàng rào thuế quan và tiến tới loại bỏ các hàng rào phi thuế
quan của cả Mỹ và Việt Nam sẽ tạo điều kiện cho gạo tiếp cận thị trường dễ dàng
hơn và do đó sẽ thúc đẩy thương mại hai chiều.
- Thứ hai, khả năng tiếp cận thị trường Mỹ dễ dàng hơn, cùng với những điều
kiện ưu đãi về đầu tư vào sản xuất gạo sẽ làm tăng đầu tư của Mỹ và các nước
khác vào ngành này của Việt Nam để xuất khẩu sang thị trường Mỹ.
- Thứ ba, Hiệp định Thương mại sẽ tạo điều kiện cho xuất khẩu gạo Việt Nam
phát triển hơn nữa theo chiến lược mới: tăng khả năng cạnh tranh của gạo Việt
Nam, hình thành nền sản xuất hành hoá mạnh, giúp cho gạo Việt Nam thay đổi cơ
cấu theo hướng phát huy lợi thế so sánh trong thương mại quốc tế (trước hết là đối
với Mỹ), tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế trong và ngoài nước tham gia
rộng rãi hơn vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng như xuất khẩu gạo.
* Thách thức
Bên cạnh những lợi ích tạo ra, việc thực thi Hiệp định Việt - Mỹ cũng đem lại
những thách thức lớn đối với Việt Nam. Các doanh nghiệp xuất khẩu gạo trước
đây được hưởng lợi từ sự bảo hộ của một nền kinh tế đóng thì nay sẽ gặp nhiều
khó khăn. Những thách thức mà các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt gồm có:
- Thứ nhất, Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ sẽ mở cửa cho gạo của Mỹ vào thị

trường Việt Nam. Đây không phải là lo lắng hàng đầu vì khả năng tiêu dùng gạo
Mỹ sẽ không nhiều, do giá cao và chỉ phù hợp với một bộ phận nhỏ dân cư cu trú


tại các đô thị lớn. Tuy nhiên, số lượng các doanh nghiệp Mỹ và các nước khác đầu
tư vào thị trường Việt Nam sẽ tăng lên nhằm xuất khẩu gạo sang thị trường Mỹ
hay khai thác thị trường nội địa, do đó sẽ gây áp lực tới các doanh nghiệp sản xuất
lúa gạo trong nước. Nhà nước ta đ• cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư xuất
khẩu gạo nên các doanh nghiệp của Mỹ cũng có thể tham gia. Nếu khơng có
những chuẩn bị cần thiết thì các doanh nghiệp trong nước đặc biệt là các doanh
nghiệp quốc doanh sẽ gặp phải nhiều khó khăn trong cạnh tranh.
- Thứ hai, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo sẽ phải đối mặt với sự canh tranh của
các đối thủ trên thị trường Mỹ. Chúng ta đã biết rằng Mỹ là một nước xuất khẩu
gạo lớn trên thế giới nên khi gạo Việt Nam thâm nhập vào Mỹ sẽ vấp phải những
rào cản về số lượng và chất lượng gạo của Mỹ. Hơn thế nữa, mặc dù các doanh
nghiệp Việt Nam sẽ tiếp cận dễ dàng hơn với thị trường Mỹ so với trước đây
nhưng lại có sự cạnh tranh gay gắt từ các nước xuất khẩu gạo truyền thống như
Thái Lan, nước đã có chỗ đứng trên thị trường Mỹ từ lâu hoặc Trung Quốc, quốc
gia đã ký Hiệp định với Mỹ năm 1999 và vừa gia nhập WTO cũng sẽ là thách thức
đối với các doanh nghiệp Việt Nam.
- Thứ ba, muốn xuất khẩu gạo Việt Nam sang Mỹ, các doanh nghiệp phải tìm hiểu
những quy định về thương mại và hải quan vốn rất phức tạp của Mỹ. Luật pháp
Mỹ quy định tất cả mọi vấn đề có liên quan đến việc nhập khẩu hàng hố từ nước
ngồi vào đều thuộc thẩm quyền của Chính phủ liên bang. Bộ Thương mại, văn
phòng đại diện thương mại, uỷ ban thương mại quốc tế và cụ thể nhất là Hải quan
Mỹ là những cơ quan có trách nhiệm đối với vấn đề này. Ngoài các thủ tục hải


quan cịn có các quy định thương mại liên quan đến luật như chống độc quyền,
chống bán phá giá trách nhiệm sản phẩm, thương mại thống nhất...

2.3.3.2.

Tham gia khu vực tự do thương mại ASEAN (AFTA)

Tham gia khu vực tự do thương mại ASEAN là bước khởi động đầu tiên, có ý
nghĩa đối với quyết định đối với q trình hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu
của nền kinh tế Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng.
Theo lộ trình gia nhập AFTA thì từ nay đến năm 2006, Việt Nam phải từng bước
cắt giảm thuế xuống đối với các mặt hàng. Khi đó sự bảo hộ thuế quan và phi thuế
quan đối với hàng hố sản xuất trong nước sẽ khơng cịn tác dụng, câu hỏi đặt ra là
liệu gạo Việt Nam có thể cạnh tranh với gạo các nước khác tại thị trường trong
nước lẫn thị trường ASEAN được không?
Đối với sản xuất và xuất khẩu gạo, ảnh hưởng lớn nhất trong bối cảnh quốc tế hiện
nay sẽ là quá trình tự do hố thương mại trong khn khổ AFTA của Việt Nam và
tác động của cắt giảm thuế quan, phi thuế quan tới khả năng cạnh tranh của ngành
gạo xuất khẩu. Sự tăng trưởng sản xuất và xuất khẩu gạo Việt Nam trong những
năm qua cho thấy thế mạnh và tiềm năng có thể tham gia vào thị trường thế giới
và khu vực các nước ASEAN, kể cả các trong các điều kiện thương mại quốc tế có
sự tự do hố. Vì gạo là một mặt hàng thiết yếu đối với nhu cầu tiêu dùng, đặc biệt
là các nước trong khu vực, các đối thủ cạnh tranh trong xuất khẩu gạo của Việt
Nam không nhiều, chủ yếu là Thái Lan và một số nước xuất khẩu tiềm năng có tác
động tích cực đến ngành sản xuất lúa gạo và ngành công nghiệp xay xát của nước
ta.


Khi Việt Nam thực hiện AFTA, thuế nhập khẩu hàng hoá vào nước ta sẽ giảm
xuống đáng kể (5%). Trong trường hợp thương mại hố hồn tồn, gạo Thái Lan
nhập khẩu vào Việt Nam có thuế xuất bằng 0%. Tuy vậy, gạo Thái Lan cũng
khơng có khả năng chiếm lĩnh phần lớn thị trường của Việt Nam do:
* Thứ nhất, gạo Thái Lan là mặt hàng có chất lượng cao nên giá cao. Khi xâm

nhập vào Việt Nam, gạo Thái Lan chỉ có thể tiêu thụ ở những khu vực có mức
sống và thu nhập của người dân cao như ở các đô thị, khách sạn, nhà hàng... Hiện
nay trong các siêu thị Việt Nam đã có bán nhiều gạo Thái Lan song doanh số
không cao do người dân thành thị vẫn chưa tiêu dùng loại gạo mới này. ở các khu
vực nơng thơn, nơi có mức thu nhập thấp, giá gạo cao không phù hợp với khả
năng và nhu cầu của người dân. Khu vực này chiếm tới 80% dân số của cả nước
nên khả năng gạo Thái Lan chiếm lĩnh thị trường là gần như khó có thể xảy ra.
Nhìn chung, kể cả khi vào AFTA, Việt Nam vẫn có lợi thế so sánh về sản xuất gạo
hơn so với Thái Lan.
* Thứ hai, như đã đề cập, những năm gần đây, sản lượng lương thực đặc biệt là lúa
gạo của Việt Nam tăng dù bị ảnh hưởng của thiên tai, đặc biệt là bão lũ ở hai vùng
đồng bằng sản xuất lúa chính. Khi vào thị trường Việt Nam, gạo Thái Lan chỉ có
thể phát huy lợi thế một cách tối đa trong trường hợp cung gạo Việt Nam không
đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước. Tuy nhiên, khả năng thiếu lương thực
trong những năm tới là khơng thể xảy ra, vì sản xuất lúa được đảm bảo, diễn ra
trên địa bàn khá rộng, nếu có mất mùa cũng chỉ là cục bộ, khơng ảnh hưởng lớn


đến thu hoạch của cả nước. Bên cạnh đó, tính bền vững trong sản xuất lúa rất cao
khi chúng ta đã đảm bảo được an toàn lương thực một cách vững chắc.
* Thứ ba, tác động trong ngân sách. Trong những năm tới khi tham gia vào AFTA,
chúng ta sẽ nhập khẩu gạo chất lượng từ Thái Lan để phục vụ nhu cầu gạo của các
tầng lớp dân cư có mức sống cao. Vì khối lượng nhập loại gạo này sẽ khơng nhiều
do đặc tính tiêu dùng của người dân Việt Nam nên việc cắt giảm thuế sẽ không
ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách. Hiện nay, chúng ta đang tiến hành đặt lịch
trình giảm thuế khẩn trương đã chuẩn bị cho các bước thực hiện AFTA.
Qua các nguyên nhân trên, có thể khẳng định lịch trình cắt giảm thuế quan nhập
khẩu đối với mặt hàng gạo Việt Nam có sức cạnh tranh trên thị trường khu vực
ASEAN. Quá trình thực hiện AFTA sẽ giúp Việt Nam hạn chế được sự bảo hộ gạo
ở các nước nhập khẩu gạo Việt Nam như Inđơnêxia, Philippin, Malaixia. Việt

Nam có thể cạnh tranh với Thái Lan trên thị trường này do yếu tố giá thấp hơn và
chất lượng gạo đang dần được cải tiến. Mặt khác, chúng ta đang áp dụng một cơ
chế khuyến khích bảo hộ xuất khẩu, hạ thuế suất xuống 0% khi giá quốc tế giảm
để các doanh nghiệp duy trì xuất khẩu, lúc bình thường để 1% và khi giá gạo trên
thị trường thế giới tăng mạnh thì thuế suất được điều chỉnh lên 3% để vừa tăng thu
ngân sách quốc gia và hạn chế việc xuất khẩu quá mức có thể làm ảnh hưởng xấu
đến tình hình cân đối lúa gạo trong nước. Việc giảm miễn thuế cũng được áp dụng
cho từng nhóm hàng, như đầu năm 1996 thuế suất xuất khẩu gạo là 3%, đến giữa
năm do gạo cấp thấp chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu nguồn hàng và có nguy cơ bị ứ


đọng nhiều nên Chính phủ đã miễn hồn tồn thuế suất với loại gạo 25% tấm trở
lên trong khi vẫn giữ mức thuế suất 1% đối với loại gạo 5-20% tấm.
Những nhận định trên cho thấy, việc dỡ bỏ hàng rào thuế quan là cơ hội tốt cho
sản xuất lúa gạo Việt Nam tăng thêm sức cạnh tranh trên thị trường. Chính vì vậy,
ta có thể khẳng định việc Việt Nam thực hiện AFTA nói chung và tham gia các tổ
chức kinh tế quốc tế như APEC, WTO trong thời gian tới là những cơ hội lớn đối
với việc phát triển và đẩy mạnh xuất khẩu gạo Việt Nam. Chúng ta phải tận dụng
những thuận lợi khách quan từ bên ngoài, phát huy tối đa nội lực quốc gia để tạo
đà cho ngành sản xuất và xuất khẩu gạo ngày càng có những kết quả to lớn hơn
nữa.
Chương 3. Chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu gạo.
3.1. Định hướng và mục tiêu của sản xuất và xuất khẩu gạo.
3.1.1. Mục tiêu và định hướng sản xuất lúa gạo.
3.1.1.1. Mục tiêu
Sản xuất lương thực nói chung và sản xuất lúa gạo nói riêng luôn là ngành quan
trọng bậc nhất của nông nghiệp nhằm thực hiện ba mục tiêu cơ bản mà Đảng và
Chính phủ đã vạch ra:
* Thứ nhất: Bảo đảm vững chắc và an toàn lương thực quốc gia, tăng thêm khối
lượng dự trữ, thoả mãn nhu cầu lương thực cho tiêu dùng trong bất cứ tình huống

nào.
* Thứ hai: Bảo đảm đủ nguyên liệu cho công nghiệp chế biến.
* Thứ ba: Tăng khối lượng xuất khẩu với hiệu quả cao.


Ba mục tiêu trên khẳng định sự cần thiết của ngành sản xuất lúa gạo là phải bảo
đảm an ninh lương thực, vấn đề có tính quan trọng hàng đầu đối với sự tồn tại và
phát triển của mỗi quốc gia, đặc biệt với một nước nông nghiệp như Việt Nam.
Nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu cũng là mục tiêu hướng tới,
nhất là trong bối cảnh hiện nay khi chúng ta có thể khẳng định rằng đã và đang
thực hiện tốt vấn đề an toàn lương thực trên phạm vi toàn quốc.
Phát triển ngành sản xuất lúa gạo thường liên quan tới nhiều thành phần khác như
nghiên cứu, triển khai, các yếu tố sản xuất (hệ sinh thái, luật pháp, nhân cơng, vị
trí địa lý, các yếu tố đầu vào và tài chính) và các yếu tố để thương mại hóa sản
phẩm (thị trường tiêu thụ, hệ thống kho chứa, các phương tiện vận chuyển...).
Những thay đổi lớn của Việt Nam trong những năm gần đây đã có tác động trực
tiếp tới sản xuất lúa của cả hai vùng đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long
được thể hiện trên 3 khía cạnh sau:
* Một là q trình tự do hố kinh tế đang tiến triển và ngày càng sâu sắc của nền
kinh tế Việt Nam. Hiện nay gần như khơng cịn những kiểm sốt chặt chẽ của Nhà
nước vì giá gạo sản xuất và các yếu tố đầu vào. Trên thị trường gạo, việc cân hàng
và chuyển gạo từ vùng thừa gạo sang các khu vực thiếu hụt cũng không gặp nhiều
vướng mắc đáng kể. Năm 2001, Chính phủ bỏ đầu mối xuất khẩu và hạn ngạch
càng thể hiện việc giảm nhẹ những kiểm soát gắt gao quá trình tự do thương mại,
tạo thế chủ động cho các nhà xuất khẩu.
* Hai là, sức tăng trưởng nhanh của nền kinh tế Việt Nam. Sản phẩm quốc nội và
các chỉ tiêu khác về phát triển không ngừng tăng trong những năm qua. Mức tăng


trưởng bao gồm cả sản xuất nơng nghiệp (trung bình 5,8%/năm kể từ những năm

đầu thập kỷ 90), nhanh hơn khu vực công công nghiệp và dịch vụ.
* Ba là, việc sử dụng đất trồng và nhân công bị hạn chế do những vấn đề về nhân
khẩu học. Việc tăng dân số không ngừng dẫn tới phải giảm đáng kể diện tích đất
trồng do mở rộng làng xã, xây dựng cơ sở hạ tầng và đơ thị hố.
3.1.1.2. Định hướng
Xuất phát từ thực trạng và mục tiêu trên, chúng ta cần lưu ý phát triển sản xuất lúa
gạo theo một số định hướng sau đây:
* Thứ nhất: tăng cường thâm canh tăng năng suất lúa gạo, kết hợp khai hoang,
tăng vụ ở những nơi có điều kiện trong đó tập trung vào định hướng có tính chiến
lược lâu dài là thâm canh tăng năng suất lúa. Đây là một định hướng đề cập trong
tất cả các đại hội Đảng thời gian gần đây vì nó xun suốt q trình phát triển nền
kinh tế gắn với nông nghiệp của nước ta và sẽ là kế hoạch phát triển cho tương lai.
Định hướng này cho phép chúng ta bảo đảm mục tiêu lớn nhất là an ninh lương
thực quốc gia, tăng sản lượng gạo đồng thời có thể chuyển các loại lúa canh tác
trong thời vụ hiệu quả nhằm đem lại năng suất cao nhất.
* Thứ hai: đa dạng hoá trong sản xuất lúa gạo bao gồm chủng loại gạo, phẩm chất
các giống lúa gạo và người sản xuất lúa gạo cho xuất khẩu. Theo định hướng này
thì đa dạng hố phải căn cứ vào nhu cầu của thị trường trên cơ sở nhu cầu và biến
động của thị trường quốc tế để sản xuất. Cụ thể là chủng loại gạo bao gồm gạo
thường, gạo đặc sản phẩm cấp các loại gạo được cung cấp phong phú với cùng


×