Tải bản đầy đủ (.pdf) (35 trang)

Cơ sở thực tiễn xuất khẩu gạo Việt nam thời gian tới theo quan điểm marketing và tìm ra hướng đi mới - 4 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.71 KB, 35 trang )

vận tải hàng hải bằng cách liên doanh với các hãng bảo hiểm danh tiếng quốc tế
tạo tâm lý yên tâm, tín nhiệm với khách hàng, phát triển khả năng vận tải hàng hải.
Mục tiêu của Chính phủ đến năm 2010 là xây dựng một đội tàu quốc gia đủ sức
chở 99% khối lượng hàng nội địa, 40% khối lượng hàng nhập khẩu và tham gia
chở thuê cho nước ngoài. Với những thế mạnh trên, nhà xuất khẩu gạo của Việt
Nam có thể chào hàng theo giá CIF và thu được lợi nhuận từ những dịch vụ bảo
hiểm, hàng hải đồng thời tạo điều kiện phát triển ngành nghề, giải quyết công ăn
việc làm cho nhân công trong ngành trên.
3.2.1.4. Các giải pháp về thị trường
Thứ nhất: nghiên cứu và xây dựng thị trường.
Thị trường là yếu tố quyết định đầu ra của sản phẩm. Nghiên cứu thị trường là
nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam. Công tác nghiên cứu thị
trường cần được tổ chức tập trung, khách quan và khoa học. Vì vậy, chúng ta có
thể hiểu biết về các đặc tính, thói quen tiêu dùng, thị hiếu của các khu vực thị
trường cũng như nắm bắt thông tin về các biến động trên thị trường, đồng thời cho
phép đánh giá tiềm năng và quy mô thị trường. Từ đó thực hiện xâm nhập và thích
ứng với thị trường, tạo thế cạnh tranh để mở rộng thị phần của mình.
Để nghiên cứu thị trường gạo - mặt hàng có thị hiếu tiêu dùng đa dạng-Nhà nước
cần hình thành các trung tâm chuyên trách cho ngành gạo để khai thác, cung cấp
thông tin về giá cả thị trường, tình hình hoạt động của các thành viên trong và
ngoài nước, phổ biến kịp thời các chính sách mới của Nhà nước cho các nhà xuất
khẩu. Hệ thống thông tin phải thật chính xác, cập nhật để có những phản ứng linh
hoạt trước những biến động của thị trường.
Xây dựng thị trường xuất khẩu gạo là một đòi hỏi mang tính cấp thiết và chiến
lược. Nhà nước cần tạo lập và đặt mối quan hệ thương mại với các nước có nhu
cầu lớn về xuất khẩu gạo, tranh thủ khai thác các mối quan hệ để ký các hiệp định
xuất khẩu gạo hoặc các bản thoả thuận phối hợp, hợp tác với các nước để tạo điều
kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động đồng thời có thể hỗ trợ cho các
doanh nghiệp tìm kiếm thị trường bên ngoài. Trong quá trình xuất khẩu gạo, cần
tranh thủ gây dựng uy tín thương mại quốc tế đối với các bạn hàng, từng bước tạo
thói quen ưa chuộng, tiêu dùng gạo Việt Nam, từ đó đẩy mạnh xuất khẩu chiếm


lĩnh thị trường.
Thứ hai: các thị trường mục tiêu.
Việc lựa chọn các thị trường mục tiêu cho xuất khẩu gạo trong những năm tới là
vấn đề khá nan giải. Điều quan trọng đối với Việt Nam hiện nay là sắp xếp các
phân đoạn thị trường xuất khẩu gạo theo thứ tự ưu tiên và hiệu quả kinh tế, đầu tư
vốn cho sản xuất, chế biến, xây dựng cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp, tạo tiền đề
cho xuất khẩu gạo trong tương lai.
Những năm sắp tới, chúng ta tập trung xuất khẩu gạo vào những thị trường tiêu
biểu sau:
* Một, thị trường gạo phẩm cấp thấp. Đây là thị trường tập trung những nước
nghèo tiêu thụ gạo chất lượng thấp (tấm 25-35%) như ấn Độ, Philippin, các quốc
gia châu Phi
+ Thị trường ổn định gạo bao gồm các nước ASEAN như Philippin, Malayxia
Đây là một thị trường quan trọng cần hướng tới. Về cơ bản giữa nước ta và các
nước ASEAN, cơ cấu hàng xuất khẩu tương tự như nhau. Tuy nhiên ta cần khai
thác những ưu thế và giá nhân công rẻ so với nhiều nước trong khu vực địa lý, và
trong tương lai nằm trên hệ thống đường bộ và đường sắt xuyên á và chế độ ưu đãi
thuế quan trọng nội bộ các nước ASEAN để tăng mức xuất khẩu hàng hoá và dịch
vụ vào thị trường này đặc biệt là các mặt hàng nông sản như gạo. Mặc dù chúng ta
gặp sự cạnh tranh gay gắt với Thái Lan về gạo nhưng chúng ta có chỗ đứng tại các
nước Inđônêxia, Singapo, Philippin Chúng ta đã có hướng đi đúng khi liên
doanh với các nước trồng lúa cao sản để cung cấp ổn định cho thị trường thế giới
với hiệu quả cao. Chúng ta nhận định rằng trong thời kỳ đến năm 2010 thì
ASEAN vẫn là thị trường tiêu thụ gạo chủ yếu của Việt Nam.
+ Thị trường không ổn định là những thị trường nhập gạo của Việt Nam với số
lượng không đồng đều như Trung Quốc và các nước Châu Phi. Với số dân 1,3 tỉ
người và vị thế địa lý thuận lợi, Trung Quốc hứa hẹn là nước nhập khẩu gạo lớn
của Việt Nam. Tuy nhiên xuất khẩu gạo sang nước này gặp nhiều khó khăn do sự
đồng nhất về mùa vụ. Những năm nhu cầu nhập khẩu gạo của Trung Quốc lớn do
mất mùa thì chúng ta không đáp ứng đủ với nguyên nhân các tỉnh miền Bắc gặp

thiên tai. Năm 1995, khi Trung Quốc cần nhập nhiều lương thực nhất, nhưng
chính phủ ta có lệnh cấm xuất khẩu bằng đường tiểu ngạch qua biên giới vì khó
khăn về lúa gạo ở miền Bắc. Ngược lại, năm 1997, khi chúng ta thừa gạo cần cho
tiêu thụ, Chính phủ ta đã cho phép địa phương được giao dịch để bán cho Trung
Quốc nhưng không thực hiện được. Điều đó chứng tỏ tính chất bấp bênh trong
quan hệ thương mại với Trung Quốc là thị trường lớn nhưng không ổn định. Chính
vì vậy, trong những năm tới chúng ta cần có những điều chỉnh thích hợp để điều
hoà thị trường đầy tiềm năng này.
Tương tự như Trung Quốc, thị trường các quốc gia châu Phi rất có triển vọng đối
với gạo xuất khẩu của Việt Nam nhưng cũng gặp nhiều khó khăn. Khu vực này
luôn có những bất ổn định về chính trị, khó có khả năng thanh toán nên lượng gạo
nhập từ Việt Nam dù nhiều nhưng không ổn định. Tuy nhiên khu vực vẫn là bạn
hàng rất lớn của Việt Nam và chúng ta phải tập trung khai thác trong những năm
tới.
* Hai, thị trường gạo phẩm chất cao bao gồm các nước nhập khẩu gạo chất lượng
cao của Việt Nam bao gồm:
- Thị trường EU: hiện nay kim ngạch xuất khẩu mặt hàng gạo của Việt Nam vào
thị trường này chưa lớn do có sự cạnh tranh gay gắt của gạo Thái Lan. Tuy nhiên
trong tương lai, khi chúng ta nâng cao được chất lượng gạo thì đây là một thị
trường rất có tiềm năng. Các chuẩn mực kinh doanh của EU đòi hỏi các doanh
nghiệp Việt Nam phải thật sự năng động, đảm bảo chất lượng gạo và giữ chữ tín
trong giao dịch, buôn bán, từng bước xuất khẩu trực tiếp gạo Việt Nam vào khu
vực này.
- Thị trường Mỹ: là nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới nhưng Mỹ cũng có nhu
cầu nhập khẩu. Năm 2001, Hiệp định Thương mại song phương Việt - Mỹ được
ký kết, các doanh nghiệp Việt Nam có thể hưởng quy chế tối huệ quốc của Mỹ nên
gạo của ta có thể tiếp cận và xâm nhập vào thị trường này dễ dàng hơn. Trong
tương lai, chúng ta cần mở rộng quan hệ để có mức xuất khẩu gạo ổn định vào thị
trường Mỹ nói riêng cũng như các nước châu Mỹ nói chung.
- Thị trường Nhật Bản: Nhật Bản là nước tiêu thụ gạo đòi hỏi chất lượng cao. Do

vậy, các doanh nghiệp của ta cần nắm bắt xu thế này để đầu tư trang thiết bị nâng
cao chất lượng sản phẩm mới có thể có chỗ đứng trên thị trường, nhất là khi Nhật
Bản giảm mức bảo hộ đối với mặt hàng gạo theo quy định của WTO.
- Thị trường Trung Đông: đây là khu vực gồm những nước giàu có trên thế giới,
có nhu cầu cũng như khả năng thanh toán, giao dịch thương mại quốc tế Do
chưa hiểu biết nhiều về bạn hàng và thị trường ở khu vực này nên kim ngạch buôn
bán giữa Việt Nam và các nước này không đáng kể. Bước đầu gạo Việt Nam đã có
chỗ đứng và được ưa dùng tại Iran, Irac Trong tương lai, khu vực này sẽ mở ra
nhiều cơ hội cho các nhà xuất khẩu gạo của Việt Nam.
Nhìn chung, gạo chất lượng thấp của Việt Nam chiếm tỷ lệ khá cao với thị trường
châu á và châu Phi rộng lớn nên cần khai thác mức độ tối đa. Bên cạnh đó, Việt
Nam tiếp tục thực hiện chính sách thúc đẩy đầu tư vào sản xuất nâng cao chất
lượng gạo, kết hợp với các chính sách Marketing thị trường của Chính phủ để đưa
mặt hàng cao cấp xâm nhập thị trường các nước tiêu thụ loại hàng này với giá cao.
Do vậy, chúng ta phải biết kết hợp giữa việc giữ vững các thị phần đã xuất khẩu,
chuyển dần sang sản xuất và xuất khẩu gạo cao cấp và đặc sản để đi vào thị trường
cao cấp, thu được giá trị xuất khẩu cao hơn.
Như vậy, thị trường xuất khẩu gạo còn rộng mở, khả năng tham gia vào thị trường
gạo của Việt Nam ngày càng tăng. Trong những năm tới, chúng ta cần thực hiện
hoạt động xuất khẩu gạo sao cho có thể đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất trong
nền kinh tế quốc dân.
3.2.2. Chiến lược Marketing-mix
Vai trò của xuất khẩu trong đó có xuất khẩu gạo đã được Đảng và Nhà nước ta
khẳng định trong văn kiện đại hội Đảng IX. Đó là mục tiêu quan trọng, tạo điều
kiện cho đất nước ta thực hiện CNH-HĐH và nhanh chóng hội nhập vào nền kinh
tế thế giới. Để nâng cao vị thế của gạo Việt Nam, đáp ứng những đòi hỏi ngày
càng khắt khe của thị trường quốc tế, chúng ta cần có một chiến lược cụ thể nhằm
đẩy mạnh, xúc tiến xuất khẩu gạo, tăng kim ngạch là tiền đề quan trọng đáp ứng
nhu cầu về vốn trong hoạt động đối ngoại.
Đề ra các giải pháp theo quan điểm Marketing-mix hình thành hệ thống các biện

pháp đẩy mạnh xuất khẩu gạo là cần thiết để chiếm lĩnh thị trường thế giới bao
gồm chính sách sản phẩm, chính sách giá, chính sách phân phối và chính sách xúc
tiến và hỗ trợ kinh doanh. Mục đích của các chính sách này là tạo điều kiện cho
xuất khẩu có thể cạnh tranh và có vị trí cao trên thị trường nước ngoài với chi phí
thấp nhất. Các đề xuất nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo mang tính chiến lược dưới
đây sẽ liên quan đến hầu hết các vấn đề sản xuất, chế biến, dự trữ lưu thông lúa
gạo trong những năm sắp tới.
3.2.2.1. Chính sách sản phẩm
Sản phẩm sản xuất ra phải đảm bảo thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Đối với sản
phẩm xuất khẩu, khách hàng nước ngoài có những đặc tính về văn hoá khác biệt
nên yêu cầu càng khắt khe hơn. Chính sách sản phẩm của gạo xuất khẩu được
trình bày bao gồm các giải pháp trong khâu sản xuất, chất lượng và chủng loại
Tình hình sản xuất gạo của nước ta đã và đang được phát triển theo xu hướng tốt
cần được khai thác toàn diện về chiều rộng và chiều sâu.
* Thứ nhất, về giống lúa, từ ngàn xưa kinh nghiệm của ông cha để lại thì giống lúa
chỉ là yếu tố đứng thứ tư (sau ba nhân tố khác là nước, phân bón, nhân công) nên
không coi trọng vai trò của giống lúa đối với sản xuất.
Ngày nay, giải pháp về giống lúa cần đi trước một bước, kể cả nghiên cứu, triển
khai và việc áp dụng vào thực tiễn nhằm tạo ra những tiền đề cơ bản cho các giải
pháp kỹ thuật khác phát huy có hiệu quả. Khi nghiên cứu cải tiến giống lúa hay
nhập các loại giống mới phục vụ cho xuất khẩu cần chú ý các yêu cầu như năng
suất cao, có khả năng thích nghi với các vùng địa lý, khí hậu của Việt Nam, đạt
hiệu quả cao trong quá trình chế biến và có khả năng thoả mãn nhu cầu của khách
hàng thế giới. Thời gian từ khâu thử nghiệm đến khâu sản xuất đại trà cần được rút
ngắn nhưng đồng thời phải giữ được độ an toàn khi đưa các giống lúa này ra áp
dụng. Cần đầu tư cho khoa học, tập trung nhân giống mới chất lượng cao, giúp
nông dân đẩy mạnh xuất khẩu lúa thơm xuất khẩu cho phù hợp với nhu cầu thị
trường, tăng tỷ trọng giống lúa này lên cơ cấu xuất khẩu gạo trong những năm tới
để đáp ứng thị trường châu Âu, châu Mỹ và các quốc gia châu á như Nhật Bản,
Hồng Kông, Đài Loan, Singapo và số lượng đông đảo Việt kiều sống ở nước

ngoài. Trong thời gian tới nên tập trung các vùng chuyên canh sản xuất các loại
gạo đặc sản như Tám thơm, Nàng Hương, nếp cái hoa vàng với sản lượng lớn
dành cho xuất khẩu. Bên cạnh đó cần khắc phục tình trạng giảm sút về chất lượng
của một số giống gạo đặc sản truyền thống nhằm khôi phục hương thơm vốn có
của chúng.
Diện tích chuyên sản xuất lúa hàng hoá xuất khẩu cũng cần được quy hoạch cụ
thể. Để có vùng chuyên canh lúa xuất khẩu ổn định cần thực hiện theo nguyên tắc:
vùng không phải đánh thuế đất, thóc sản xuất ra phải được tiêu thụ hết với lợi
nhuận ít nhất phải bằng trồng lúa hàng hoá tiêu thụ trong nước. Muốn vậy phải có
sự ràng buộc chặt chẽ, cụ thể về pháp lý và kinh tế giữa cơ quan chức năng với
người dân. Với các cơ quan khoa học và khuyến nông là chất lượng giống và quy
trình thâm canh, với các cơ quan quản lý Nhà nước là giám sát và xử lý các sai
phạm trong quá trình thực hiện. Trên nguyên tắc đó, khâu giống phải do các Viện
và phân viện, các trung tâm khoa học kỹ thuật nông nghiệp các vùng đảm nhận và
họ phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước, trước khâu tuyển chọn, du nhập và phổ
biến các quy trình kỹ thuật thâm canh cho người dân. Để các cơ quan khoa học kỹ
thuật làm tốt các chức năng này cần đầu tư ngân sách cho họ và kết quả của công
tác này phải được xem là tiêu chuẩn quan trọng trong nhiệm vụ chính trị của họ.
Đông thời, Nhà nước cần có các chính sách vừa có tính chất khuyến khích vừa có
tính chất bắt buộc các doanh nghiệp làm chức năng xuất khẩu tham gia vào công
tác nghiên cứu và chuyển giao giống lúa chất lượng cao cho dân. Những đơn vị có
nhiều đóng góp trong công tác này sẽ được khuyến khích, khen thưởng một cách
hợp lý.
* Thứ hai, về phân bón, đây là giải pháp kỹ thuật cần phải được tiến hành đồng bộ
với giải pháp về giống lúa do vai trò của phân bón đối với năng suất lúa và chất
lượng gạo. Chúng ta cần duy trì các loại phân hữu cơ truyền thống bón lúa vì giá
thành rẻ, phù hợp với điều kiện kinh tế của nông dân Việt Nam và không gây ô
nhiễm môi trường. Bên cạnh đó, theo xu thế chung ở các nước nông nghiệp các
trình độ tiên tiến, chúng ta có thể tăng dần tỷ trọng hai loại phân hữu cơ công
nghiệp và vi sinh, giảm dần phân bón hoá học kết hợp với nhập khẩu các loại phân

hoá học tổng hợp. Nhà nước cần tăng cường quản lý một cách chặt chẽ đảm bảo
cung cấp phân bón có chất lượng cho dân sản xuất, bảo vệ lợi ích cho họ cũng như
hiệu quả kinh tế - xã hội của hoạt động sản xuất và xuất khẩu gạo.
* Thứ ba, về vấn đề cải tiến kỹ thuật canh tác lúa.
ở hầu hết các địa phương, công tác khuyến nông đax được chú trọng nhằm hướng
dẫn nông dân các kỹ thuật canh tác tiên tiến, nhưng nhìn chung hiệu quả còn hạn
chế vì lực lượng khuyến nông còn mỏng, mạng lưới nông dân tham gia khuyến
nông còn quá ít. Việc cơ giới hoá sản xuất tiến hành rất khó khăn do quy mô sản
xuất còn nhỏ. Trong những năm tới, Nhà nước cần đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng
phục vụ sản xuất nông nghiệp và phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông
nghiệp và phát triển nông thôn bao gồm: thuỷ lợi, tăng diện tích đất canh tác, cung
cấp điện phục vụ sản xuất nông nghiệp và phát triển giao thông nông thôn.
* Thứ tư, về các khâu sau thu hoạch.
Hiện nay chúng ta vẫn chủ yếu sấy thóc bằng năng lượng mặt trời và có tỷ lệ g•y
nát cao lúc xay xát, không đảm bảo chất lượng. Vì vậy, để khắc phục tình trạng
này, cần nghiên cứu trang bị những thiết bị sấy có quy mô phù hợp và tận dụng
các loại nhiên liệu có sẵn tại địa phương. Công nghệ xay xát và chế biến cần được
trang bị hiện đại hơn, có công suất phù hợp, tăng tỷ lệ gạo thu hồi với chất lượng
cao. Mục tiêu trong những năm tới sẽ là lắp đặt thêm những trung tâm chế biến
gạo nhằm khắc phục những khó khăn trong tái chế theo cách đối phó hiện nay.
Chúng ta nên chú trọng chọn lựa và trang bị máy xay xát nhỏ có công nghệ tốt
tăng tỷ trọng thu hồi, chất lượng gạo tốt phục vụ nhu cầu ngày càng cao của nhân
dân và các cơ sở tái chế để xuất khẩu.
Cải tiến kỹ thuật công nghệ và hệ thống kho dự trữ bảo quản việc cất giữ, hạn chế
những ảnh hưởng của điều kiện thời tiết khí hậu nước ta là những biện pháp để
nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu. Cụ thể, chúng ta cần sắp xếp lại hệ thống kho
chứa, bố trí một cách hợp lý và khắc phục những kho chưa đạt tiêu chuẩn quy
định, đặc biệt là các kho dự trữ xuất khẩu và xây dựng thêm những kho mới, hiện
đại ở một số trọng điểm, tạo điều kiện thuận lợi cho cất trữ, bảo quản lúa gạo. Bên
cạnh đó, chúng ta phải áp dụng các công nghệ bảo quản tiên tiến: bảo quản kín

gạo, sát trắng, gạo lật bằng cách sử dụng màng PVC trong khí CO2 hoặc khí Nitơ
trong các kho dự trữ quốc gia và dự trữ kinh doanh, bảo quản mát thóc gạo ở một
số cụm kho dự trữ quốc gia hiện đại, đòi hỏi vốn đầu tư lớn để có thể cạnh tranh
với các nước xuất khẩu gạo khác, sản xuất và áp dụng một số chế phẩm vi sinh
vật, các chế phẩm từ thực vật có tác dụng diệt côn trùng mà không gây độc hại cho
người và gia súc, không làm nhiễm bẩn môi trường để bảo quản lương thực trong
kho tập trung và phương tiện cất trữ ở gia đình.
Với những đầu tư về sản xuất như trên, trong những năm tới, chất lượng gạo của
Việt Nam sẽ thay đổi, đạt được hiệu quả cao trong sản xuất và xuất khẩu. Đây là
một yếu tố quan trọng có thể quyết định được tương lai của ngành gạo Việt Nam
vì một trong những nhược điểm lớn của chúng ta là chất lượng gạo. Khắc phục
được yếu điểm này sẽ giúp chúng ta tăng được giá bán, thu hút nhiều khách hàng
mua với số lượng lớn, qua đó tăng được kim ngạch xuất khẩu gạo. Các giải pháp
về sản phẩm gạo cần phải thực hiện một cách thống nhất, toàn bộ và đạt được hiệu
quả tối ưu.
3.2.2.2. Chính sách giá
Chính sách giá là chính sách khó đưa ra nhất trong Marketing-mix. Định giá cho
hàng bán nội địa đã khó, định giá cho hàng xuất khẩu đặc biệt cho những hàng
nông sản luôn biến động như gạo lại càng khó hơn. Chính sách giá quyết định tổng
kim ngạch xuất khẩu và lợi nhuận. Ngay cả khi chất lượng gạo tốt, có phương
pháp xúc tiến xuất khẩu đúng và giá bán đúng thị trường song giá không thích hợp
thì những nỗ lực trong các chính sách khác cũng không mang lại nhiều kết quả. Vì
lẽ đó, chính sách giá trong Marketing-mix có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Muốn có chính sách giá gạo xuất khẩu đúng đắn, cần tiến hành nghiên cứu tình
hình thị trường, phân tích chi phí sản xuất và chi phí Marketing. Có nhiều yếu tố
cần phải cân nhắc trước khi đi đến thiết lập giá xuất khẩu trong đó có yếu tố kiểm
soát được và những yếu tố không thể kiểm soát.
* Tình hình chung
Như đã phân tích, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam dù có xu hướng tăng trong thời
gian gần đây nhưng vẫn thấp hơn so với giá gạo cùng loại của các nước khác như

Thái Lan, Mỹ
Nguyên nhân của tình trang trên do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan từ phía
Nhà nước và người sản xuất lúa gạo.
- Về khách quan: thị trường gạo thế giới và khu vực đã xuất hiện xu hướng cung
lớn hơn cầu. Đặc biệt vào cuối năm 2000, đầu năm 2001 xu hướng trên càng trở
nên phổ biến, số lượng lúa gạo sản xuất tăng và nhu cầu tiêu thụ giảm. Sản lượng
nhập khẩu của các nước Inđônêxia, Philippin giảm từ 50% đến 70% so với năm
1999. Còn ở các khu vực khác như Trung Đông, châu Phi thì nhu cầu nhập khẩu
gạo cũng không tăng do mức tiêu dùng gạo có xu hướng giảm dần. Trong lúc đó,
sản lượng sản xuất lúa gạo của các nước có nhiều diện tích lúa như Trung Quốc,
ấn Độ, Pakistan, Bănglađét, Inđônêxia, Thái Lan, Philippin đều có xu hướng tăng
hoặc ổn định. Hai nước Lào và Campuchia không chỉ tự túc đủ lương thực mà
bước đầu có dư thừa để xuất khẩu gạo.
- Về chủ quan: sản xuất gạo tuy có nhiều tiến bộ vượt bực nhưng nhìn chung đến
nay vẫn chưa thoát khỏi tình trạng tự phát, tự cấp, tự túc và phân tán theo quy mô
hộ gia đình. Tập quán sản xuất gạo để tiêu dùng và bán ra thị trường trong nước
khi thừa vẫn còn rất nặng nề trong nhiều hộ nông dân ỏ miền Bắc và miền Trung.
Công tác quy hoạch và định hướng của Nhà nước nhiều khi chỉ dừng lại ở các chủ
trương, chưa được cụ thể hoá bằng các giải pháp kinh tế tài chính, nên chưa có tác
dụng tích cực cho sản xuất lúa gạo. Thông tin kinh tế, thông tin thị trường gạo vừa
thiếu, vừa chậm nên không có tác dụng định hướng cho người nông dân. Vai trò
của Nhà nước về cung cấp thông tin thị trường lúa gạo chưa phát huy tác dụng tích
cực. Vai trò của các doanh nghiệp, các chủ trang trại và các hộ nông dân trong sản
xuất lúa gạo đến nay vẫn còn mờ nhạt. Khuyết điểm phổ biến của người nông dân
là chạy theo năng suất và số lượng, ít quan tâm đến chất lượng vệ sinh môi trường
và giá cả. Do vậy, sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu nước ta vần còn thấp so với
sản phẩm cùng loại của các nước trong khu vực và trên thế giới. Đầu ra cho lúa
gạo vẫn chưa có một chiến lược rõ ràng, lâu dài mà chỉ có tính chắp vá nhất thời
nên chưa ổn định. Việc Chính phủ dùng biện pháp hỗ trợ lãi suất tín dụng để mua
lúa gạo tạm trữ tuy có tác dụng tích cực nhưng việc thực hiện cũng rất khó khăn và

chưa có tính bền vững. Vì vậy, đã đến lúc cần có một chiến lược giá cả phù hợp và
hiệu quả hơn cho gạo xuất khẩu. Việc định giá là cần thiết và được tiến hành lần
lượt theo từng bước.
* Các bước định giá hàng xuất khẩu
- Bước một: xác định mục tiêu cho việc định giá.
Chiến lược định giá hàng xuất khẩu phải phù hợp với mục tiêu tổng thể. Với ba
mục tiêu đã nêu trên của xuất khẩu gạo thì giá cả đưa ra cũng phải theo sát nhằm
đảm bảo sự nhất quán trong các chính sách của Nhà nước ta.
- Bước hai: phân tích tình hình thị trường và hành vi của người nhập khẩu gạo.
Dựa trên thị trường gạo thế giới, chúng ta có thể thiết lập các loại giá phù hợp với
chủng loại và chất lượng gạo xuất khẩu. Bên cạnh đó, cần đánh giá tình hình cạnh
tranh của gạo Việt Nam đối với các nước xuất khẩu khác. Muốn cạnh tranh được
phải dựa vào các biến số Marketing khác để làm cho gạo Việt Nam tốt hơn các
loại gạo cùng loại của đối thủ cạnh tranh như chất lượng, dịch vụ phân phối và xúc
tiến bán hàng.
- Bước ba: tính chi phí.
Chi phí sản xuất gạo là nhân tố cơ bản trong việc định giá, đòi hỏi phải tinh thông
về nghiệp vụ tính toán và bám sát các hoạt động sản xuất và Marketing. Những
nhân tố cơ bản cần phải bám sát là chi phí sản xuất lúa gạo, chi phí xay sát chế
biến, vận chuyển, phân phối Tuy nhiên, vai trò của việc phân tích chi phí không
phải để xác định giá gạo xuất khẩu mà để giúp cho việc thiết lập một khung giá
theo điều kiện thị trường.
- Bước bốn: thiết lập các khung giá mục tiêu.
Để đưa ra một khung giá mục tiêu, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo nên cố gắng
xác định cơ hội thị trường với khả năng giành lợi nhuận bằng cách xem xét lại
những phạm vi giá đã đưa ra và được thị trường chấp nhận, đồng thời xem xét
phần chi phí và trên cơ sở đó đưa ra một giá đúng cho từng loại gạo xuất khẩu.
Giá gạo xuất khẩu cũng liên quan chặt chẽ tới các kênh phân phối được sử dụng,
hình thức bán hàng và các dịch vụ sau bán hàng, khả năng giao hàng nhanh hay
chậm và mức thuế quy định ở từng nước.

- Bước năm: báo giá.
Dựa vào khung giá đã được định ra, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo sẽ làm báo
giá cụ thể gửi cho nhà nhập khẩu theo yêu cầu cụ thể của họ. Trong báo giá này,
nhà xuất khẩu cần cung cấp chi tiết về giá chính xác của gạo và các điều kiện cụ
thể về việc cung cấp gạo.
* Các chính sách giá cụ thể
- Chính sách giá mua.
Giá mua là nền tảng quan trọng cho việc định giá bán. Chính sách giá mua cũng
đồng thời nhằm mục đích nâng cao khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam trên
trường thế giới và thúc đẩy sản xuất. Dựa trên cơ chế giá thị trường, chúng ta cần
nghiên cứu các giải pháp sau:
+ Một, cần giảm thiểu chi phí sản xuất.
Chi phí sản xuất gạo phụ thuộc vào nhiều yếu tố như phân bón, giống, nhân công,
năng suất lúa Hiện nay, chi phí sản xuất lúa gạo Việt Nam nhìn chung thấp hơn
so với các nước chân á, đặc biệt là so với Thái Lan, đối thủ cạnh tranh chính của
chúng ta do điều kiện tự nhiên thuận lợi, mức độ đầu tư phân bón thấp nhưng có
năng suất tương tự như các nước khác, chi phí nhân công rẻ
Chính vì vậy, trong những năm tới chúng ta cần phát huy lợi thế này, tiếp tục giảm
thiểu chi phí sản xuất, yếu tố quyết định giá gạo xuất khẩu ra thị trường thế giới.
+ Hai, chính sách giá mua.
Gạo Việt Nam được sản xuất theo thời vụ trong khi nhu cầu của các nước nhập
khẩu thì thường không đổi trong suốt cả năm. Do đó, giá gạo trong khâu mua
thường xuyên biến động, tăng cao khi khan hiếm và giảm và vụ thu hoạch. Sự
không ổn định đó về giá kéo theo nguy cơ mất lợi nhuận, gây tâm lý lo lắng cho
người nông dân. Chính vì vậy, cần có những biện pháp ổn định giá mua trong đó
có mô hình giá bảo hộ gián tiếp. Với mô hình này, Chính phủ không can thiệp trực
tiếp vào cơ chế thị trường nhưng áp giá sàn để kiểm soát sự biến động của thị
trường gạo. Việc Chính phủ mua gạo tạm trữ là một ví dụ để điều tiết giá. Tuy
nhiên, cần tính toán một cách hợp lý, tránh tình trạng tạm trữ gạo trở thành “con
dao hai lưỡi”, tạm trữ khi giá xuất khẩu tăng cao rồi sau đó lỗ vốn khi bán ra với

giá thấp. Nhà nước nên quản lý lúa gạo và đảm bảo an ninh lương thực thông qua
điều tiết thuế. Khi giá lúa xuống quá thấp hay giá xuất khẩu tăng cao, có thể cần
thiết cho một số doanh nghiệp có năng lực, có đơn đặt hàng được vay ưu đ•i bằng
nguồn quỹ hỗ trợ phát triển, hỗ trợ xuất khẩu trong thời hạn nhất định, không nhất
thiết phải đưa ra giá sàn để căn cứ vào đó mà ngân hàng, ngành thuế tính mức ưu
đ•i, bởi vì giá cả luôn biến động theo thị trường thế giới.
- Chính sách giá xuất khẩu.
ở Việt Nam, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp kéo theo việc giá gạo xuất khẩu
giảm đáng kể so với gạo cùng chất lượng của các nước xuất khẩu khác. Do đó, cần
phải có một chính sách giá chung giữa các nhà xuất khẩu Việt Nam. Năm 1992,
Hiệp hội các doanh nghiệp xuất khẩu gạo ra đời nhưng không đảm nhiệm được vai
trò của mình. Hơn nữa, lúa gạo là một sản phẩm sản xuất theo thời vụ, phụ thuộc
vào các điều kiện tự nhiên trong khi nhu cầu luôn ổn định nên chúng ta cần phải
dự báo những thay đổi của thị trường dựa trên những thông tin chính xác để đưa ra
một mức giá hợp lý cho gạo xuất khẩu.
Giá bán của gạo còn phụ thuộc vào các điều kiện và phương thức thanh toán.
INCOTERM 2000 do Phòng thương mại quốc tế đã định nghĩa một cách chính
xác tới điểm giao hàng và việc phân chia trách nhiệm giữa người bán và người
mua. Các nhà xuất khẩu của Việt Nam do thiếu kinh nghiệm nên thường bán gạo
theo giá FOB để giảm các trách nhiệm liên quan nên đã mất đi nhiều lợi ích đáng
kể. Hiện tại, Việt Nam đang là một nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới nên cần
phải thay đổi cách thức bán hàng và chọn giá phù hợp đồng thời có thể mang lại
lợi nhuận tối đa cho đất nước.
- Nghiên cứu chính sách giá của các nước xuất khẩu khác, đặc biệt là Thái Lan.
Đây là một việc cần làm ngay vừa mang tính chất học hỏi, vừa biết được các biện
pháp áp dụng của đối thủ để có được những đối sách cạnh tranh phù hợp. Nhằm
giữ giá lúa không để sụt xuống quá thấp gây thiệt hại cho nông dân, Chính phủ
Thái Lan những năm qua đã có một số biện pháp cụ thể là:
+ Một, công bố thông tin rộng rãi về lúa gạo trên các phương tiện thông tin đại
chúng và các trung tâm lúa gạo.

+ Hai, thực hiện biện pháp làm giảm cung lúa ra thị trường, cho nông dân cầm cố
(thế chấp) số lúa của mình chưa bán được do giá thị trường trong nước xuống thấp
để vay tiền của Ngân hàng hay của các tổ chức khác. Số lượng thóc nhận thế chấp
khá lớn, có năm lương thực lên tới hai triệu tấn. Việc thế chấp vay tiền giữ lúa lại
được quy định khá cụ thể về các điều kiện. Ví dụ giá lúa để tính giá trị giá thóc thế
chấp bằng 80% mức giá sàn được công bố vụ lúa đó, quy đinh độ ẩm và những
tiêu chuẩn khác về chất lượng, mức vay tiền không quá 90% trị giá lúa cầm cố,
quy định thời gian trả nợ không quá 5 tháng, có kiểm tra, giám sát để ngăn ngừa
người vay tiền bán thóc thế chấp mà không trả nợ, đến hạn trả nợ, nếu giá thị
trường thấp hơn giá lúa lúc vay thì nông dân được trả theo giá lúa thị trường lúc
trả nợ, phần chênh lệch giá do Nhà nước chịu, ngược lại, nếu khi trả nợ giá lúa thị
trường lên cao hơn giá lúc vay thì nông dân chỉ phải trả theo giá lúc vay.
+ Ba, Chính phủ áp dụng những biện pháp làm tăng cầu lúa gạo trên thị trường.
Một số biện pháp thường được áp dụng cho phép phòng ngoại thương thuộc bộ
Thương mại bán gạo “G_TO_G” ngay từ đầu vụ thu hoạch. Ngân hàng cho các
nhà máy xay và các nhà xuất khẩu gạo vay để mua lúa, gạo với lãi suất thấp. Năm
2001, 20 tỉ bạt đã được cấp qua Ngân hàng EXIMBANK để thu mua lúa cho việc
xuất khẩu gạo.
Qua các biện pháp điển hình trên của Thái Lan chúng ta cần rút ra những mặt tích
cực để áp dụng vào hoàn cảnh cụ thể của xuất khẩu gạo Việt Nam nhằm đạt hiệu
quả tối ưu, nâng cao sức cạnh tranh của xuất khẩu gạo nước ta trên thị trường thế
giới.
3.2.2.3. Chính sách phân phối
Chính sách phân phối trong Marketing-mix phụ thuộc vào hai yếu tố: sự yêu thích
sản phẩm hàng và các kênh phân phối mà người sản xuất có thể cung cấp. Để cho
một kênh phân phối hoạt động cần tính đến nhu cầu và thái độ của thị trường mục
tiêu tiềm năng. Chúng ta cần có các biện pháp nâng cao hiệu quả của chính sách
phân phối trong giai đoạn tới. Cụ thể là:
* Tổ chức lại khâu mua.
Việc tổ chức tốt quá trình lưu thông phân phối gạo trên thị trường có ý nghĩa đối

với khâu mua gạo cho xuất khẩu đồng thời đảm bảo cho vấn đề an ninh lương thực
quốc gia.
- Tổ chức lại mạng lưới lưu thông lương thực.
Hiện nay mạng lưới lưu thông lương thực chịu sự chi phối của thị trường của
thành phần tư nhân quá lớn, dẫn đến tình trạng chèn ép giá, cạnh tranh không lành
mạnh, đầu cơ, buôn lậu. Quá trình hình thành giá gạo trên thực tế đã bị bóp méo
do đội ngũ tư nhân mang tính độc quyền tại địa phương. Để giảm bớt sự thua thiệt
về nhiều mặt cho người dân, gần đây Chính phủ có các chính sách trợ giá nông sản
song tác dụng rất hạn chế do quy mô hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước có
giới hạn. Báo cáo của viện Nghiên cứu lúa cho thấy chỉ có khoảng 1,9% lượng lúa
hàng hoá được các doanh nghiệp Nhà nước thu mua trực tiếp từ nông dân. Vì vậy,
nên điều chỉnh quá trình lưu thông lương thực hàng hoá bằng cách yêu cầu các
doanh nghiệp Nhà nước đặt thêm hệ thống kho trung chuyển xuống các địa
phương để tổ chức mua gạo từ các cơ sở xay xát nhỏ chuyển về. Bên cạnh đó, việc
nâng cao năng lực của hệ thống tiêu thụ lúa gạo, đặc biệt là hệ thống các chợ trung
tâm lúa gạo (chợ đầu mối) là cần thiết và thúc bách. Chợ đầu mối khác so với chợ
thông thường ở các làng xã ở chỗ, chợ thông thường chủ yếu làm chức năng liên
kết giữa sản xuất và tiêu thụ, còn ở chợ đầu mối, các doanh nghiệp thương mại
phải xây dựng giá, thông tin, kiểm soát an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường
Những chợ đầu mối đầu tiên được tổ chức một cách có quy mô đã xuất hiện tại
châu Âu vào cuối thế kỷ XIX. Ngày nay, chợ buôn bán đầu mối đã trở thành một
phần không thể thiếu được trong mạng lưới phân phối lúa gạo cho các đô thị lớn.
Tại các quốc gia phát triển, các chợ buôn bán đầu mối đã trở thành các trung tâm
phân phối lúa gạo lớn. ở Thái Lan, các trung tâm lúa gạo là kênh tiêu thụ gạo quan
trọng nhất vì mua tới 60% lúa do nông dân sản xuất ra. Trung tâm lúa gạo là điểm
tập trung của những người bán và mua lúa, vừa tạo nên được một sự cạnh tranh
khiến việc mua bán diễn ra công bằng, khắc phục được tình trạng nông dân bị ép
giá do không có thông tin về thị trường, tránh được gian lận trong cân đong và xác
định chất lượng lúa.
Ngày 6/6/2001, Chính phủ đã có quyết định số 223/QĐ-TTg nhấn mạnh việc hình

thành các chợ trung tâm lúa gạo tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn đang gấp rút chỉ đạo Tổng công ty lương thực Việt
Nam nghiên cứu các điều kiện cần thiết để có thể nhanh chóng triển khai các chợ
đầu mối tiêu thụ gạo tại Cai Lậy (Tiền Giang), Thanh Bình (Đồng Tháp), Tân
Thạnh (Long An). Bộ Thương mại cũng có tờ trình số 263/1/2001/BTM ngày
9/7/2001 trình Chính phủ về việc thành lập các trung tâm giao dịch nông sản
hướng về xuất khẩu tại Việt Nam.
Theo thiết kế, chợ lúa gạo đầu mối Thanh Bình (Đồng Tháp) bởi có ưu thế thu hút
lúa gạo của Đồng Tháp, An Giang và Kiên Giang. Chợ sẽ ưu tiên xây dựng chính
sách vật chất hạ tầng hiện đại theo mô hình của các chợ lúa gạo đầu mối của Thái
Lan và tổ chức thêm nhiều loại dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp. Chợ thứ hai
được mở ở Phú Cường huyện Cai Lậy (Tiền Giang), bao gồm: kho chứa, nhà máy
xay xát, đánh bóng, chế biến. Chợ rất thuận tiện cho giao thông thuỷ bộ. Phú
Cường thường thu hút lúa gạo từ Tiền Giang, Long An, Đồng Tháp về. Tại chợ,
ngoài mua bán lúa gạo, công ty lương thực Tiền Giang sẽ tổ chức thêm các loại
dịch vụ trọn gói cho bà con nông dân như cung ứng và phân bón, máy nông
nghiệp, xăng dầu, phụ tùng xay xát, chế biến, các mặt hàng tiêu dùng, liên kết với
ngân hàng mở tín dụng ngay tại chợ. Chợ thứ ba sẽ được xây dựng ở Thạnh Đông
huyện Tân Thanh (Long An) với diện tích khoảng 3 ha sử dụng, vốn dự đoán là 11
tỉ đồng.
Theo nhận định của các nhà kinh tế, chợ lúa gạo ra đời sẽ làm thay đổi tập quán
mua bán lâu đời của nông dân đồng bằng sông Cửu Long. Tuy đang ở trong giai
đoạn thủ tục nhưng dự án rất mang tính khả quan nên đã có chương trình hỗ trợ
của nhiều doanh nghiệp. Trước mắt, ngân sách Nhà nước sẽ hỗ trợ một phần (20-
30% tổng vốn đầu tư) để xây dựng cơ sở hạ tầng và cho vay vốn ưu đãi với lãi suất
thấp theo luật khuyến khích đầu tư trong nước. Dự kiến cuối năm 2002 các chợ lúa
gạo trung tâm ỏ đồng bằng sông Cửu Long sẽ đi vào hoạt động.
Việc xây dựng các chợ lúa gạo cần được thực hiện trên cơ sở tính toán kỹ lưỡng
nhu cầu giao dịch trên thị trường gồm cả nhu cầu về các dịch vụ xay xát chế biến.
Đặc biệt, không được coi việc hình thành các chợ đầu mối là việc đầu tư cơ sở hạ

tầng để cho các cá nhân hay tổ chức thuê chỗ mà phải coi đó là nơi các tổ chức, cá
nhân đến để giao dịch, như vậy mới tránh được tình trạng độc quyền vị trí. Bên
cạnh đó, việc hình thành các chợ trung tâm lúa gạo này cần phải được thực hiện
dần dần từng bước, vừa giảm chi phí đầu tư, vừa tạo điều kiện để người sản xuất
cũng như các tổ chức kinh doanh lúa gạo có điều kiện tiếp cận, làm quen với các
phương tiện giao dịch hiện đại. Ngoài ra, để các chợ lúa gạo trung tâm này hoạt
động có hiệu quả thì ngoài việc xây dựng cơ sở hạ tầng hiện đại, thuận lợi, thì cần
thiết lập cơ chế quản lý tốt, luật lệ giao dịch rõ ràng, với hiệu lực thi hành đảm
bảo, có thoả thuận mang tính hợp đồng với những tổ chức, cá nhân tham gia vào
chợ, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và nhân viên có trình độ nghiệp vụ và trách
nhiệm cao.
- Tổ chức mua lúa hàng hoá kịp thời cho nông dân và tổ chức dự trữ lương thực.
Trong những năm qua, Chính phủ đã áp dụng một số giải pháp tình thế để tổ chức
mua lúa hàng hoá một cách kịp thời theo từng vùng như lấy quỹ bình ổn giá hỗ trợ
các doanh nghiệp Nhà nước một phần trong lãi suất ngân hàng hoặc có khi quỹ
bình ổn giá trợ lãi suất toàn phần, đồng thời chỉ đạo hệ thống ngân hàng cho các
doanh nghiệp Nhà nước vay dưới hình thức tín chấp để các doanh nghiệp có vốn
mua lúa. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Nhà nước rất ít tham gia mua lúa trực tiếp
của nông dân, mà chủ yếu mua gạo nguyên liệu hoặc thành phẩm của tầng lớp tư
thương trung gian. Như vậy, nông dân luôn gặp bất lợi do giá lúa quá rẻ tuy lúa
hàng hoá được tiêu thụ hết nhưng thu nhập của họ không tăng, bị buộc phải tái sản
xuất lúa. Để giải quyết vấn đề tiêu thụ lúa hàng hoá một cách cơ bản, khi chuẩn bị
bước vào kỳ thu hoạch lúa, Chính phủ có thể phân chia địa bàn cụ thể cho các
doanh nghiệp Nhà nước chuyên kinh doanh lương thực và Cục dự trữ quốc gia
chịu trách nhiệm chính trong việc thu mua lúa hàng hoá. Các đơn vị được phân
công xuống địa bàn mình phụ trách để ký kết hợp đồng nguyên tắc đối với những
người chuyên đi gom mua lúa. Khi có hợp đồng, các nhà cung ứng và các doanh
nghiệp đều lập phương án vay vốn và khi các doanh nghiệp tiêu thụ được gạo thì
phải tiến hành giao dịch thanh toán qua ngân hàng mà mình vay vốn mua lúa, gạo
nguyên liệu. Qua các giải pháp trên, lúa hàng hoá có thể được bảo đảm mua kịp

thời vụ, ổn định giá cả, đảm bảo cho nông dân sản xuất lúa có lãi thoả đáng, nhờ
sự phân công chuyên môn hoá hợp lý giữa các thành phần tham gia.
Về vấn đề tổ chức dự trữ lương thực cần được thực hiện tốt đảm bảo cho yếu tố ổn
định nguồn cung cấp lương thực trong chính sách an toàn lương thực quốc gia.
Trong cơ cấu mặt hàng dự trữ, đối với dự trữ quốc gia tới hạn trung bình khoảng
một năm và dự trữ của nông dân tại nơi sản xuất thì dự trữ bằng lúa sẽ thích hợp
hơn, còn dự trữ của các doanh nghiệp thông thường từ một đến ba tháng nên có
thể dự trữ gạo thành phẩm hoặc bán thành phẩm thì bắt buộc phải đảo kho, đưa lúa
gạo cũ ra tiêu thụ và nhập lúa gạo mới về để duy trì chất lượng sản phẩm luôn luôn
tốt. Trong khi đó, lúa cũ khoảng 6-12 tháng là nguyên liệu thích hợp để chế biến
gạo xuất khẩu có chất lượng tốt nhất, phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của nhiều
nước nhập gạo trên thế giới. Như vậy, nếu Cục dự trữ quốc gia kết hợp việc đảo
kho lương thực dự trữ bảo hiểm để cung ứng lúa gạo cho các doanh nghiệp xuất
khẩu sẽ góp phần rất tốt để ổn định nguồn cung ứng gạo xuất khẩu có chất lượng
cao, tăng đáng kể hiệu quả xuất khẩu gạo nói chung và hiệu quả dự trữ bảo hiểm
lương thực nói riêng.
Trong thời gian tới, Chính phủ cần nâng mức dự trữ gạo lên 2 triệu tấn và thực
hiện ngay trước khi thời vụ Đông-Xuân bắt đầu, một nửa trong số đó là mua hàng
hoá của Chính phủ, một nửa còn lại thực hiện theo cơ chế tạm trữ do các doanh
nghiệp thực hiện như lâu nay. Con số 2 triệu tấn nói trên là căn cứ vào tình hình
thực tế hai năm 2000 và 2001, con số thực tế các năm sau này phải căn cứ vào tình
hình sản xuất, khả năng xuất khẩu và diễn biến chỉ số giá hàng tiêu dùng. Chúng ta
cần đứng trên quan điểm chung để mạnh dạn xử lý, không nên quá dè dặt, bỏ lỡ
những cơ hội tốt xảy ra.
* Tổ chức khâu xuất khẩu.
Nhà nhập khẩu nước ngoài thường tiếp xúc trực tiếp với nhà xuất khẩu gạo hoặc
qua trung gian Việt Nam để nhập khẩu gạo. Thời gian thường kéo dài từ 22 đến 30
ngày. Đôi khi thời gian này tăng lên do những thủ tục về giấy tờ. Ví dụ như một
nhà xuất khẩu được phép xuất 30.000 tấn gạo muốn xuất 10.000 tấn tại cảng Cần
Thơ và 20.000 tấn tại cảng TP Hồ Chí Minh thì phải xuất trình chứng từ ở cả hai

cảng. Khi hàng hoá đã sẵn sàng vẫn phải đợi giấy phép của Bộ Thương mại và mất
rất nhiều thời gian để giải quyết.
Theo kinh nghiệm của những nhà xuất khẩu trước kia, cần có những chuyên gia
giỏi để giải quyết các vấn đề trên. Họ có khả năng làm nhanh chóng các thủ tục
hành chính liên quan đến xuất khẩu gạo. Khâu trung gian có thể giải quyết những
chi tiết quan trọng. Ngay cả các doanh nghiệp xuất khẩu gạo với số lượng lớn
cũng sử dụng các dịch vụ trung gian quốc tế đối với một số thị trường. Những
doanh nghiệp này biết cách hoàn thành những thủ tục phức tạp. Xu hướng hiện
nay của các nhà xuất khẩu là phát triển các kênh trực tiếp. Tuy nhiên, cần có thời
gian để xác lập quan hệ giữa người sản xuất và người tiêu dùng ở dạng kênh này.
Việc phân phối hàng hoá bao gồm vận chuyển và dự trữ hàng hoá trong suốt thời
gian thực hiện kênh phân phối. Hiện nay, chi phí gửi hàng ở Việt Nam khá cao, cơ
sở hạ tầng cầu cảng không tốt là những bất lợi của Việt Nam so với các nước xuất
khẩu khác. Cụ thể là chi phí cảng, chi phí bốc dỡ xếp hàng và các chi phí liên quan
tại cảng Sài Gòn khoảng 40.000 USD/tàu công suất 10.000 tấn (chiếm 1,6% giá
gạo xuất khẩu) trong khi chi phí này ở Bangkok chỉ bằng một nửa. Ngoài chi phí
cảng, tốc độ bốc dỡ rất chậm, so với Băngcốc ta chậm hơn 6 lần (nghĩa là tại Sài
Gòn bốc dỡ được 1.000 tấn/ngày thì Băngcốc là 6.000 tấn/ngày). Chậm trễ do sửa
chữa và bốc xếp hàng thường làm tốn thêm khoảng 6.000 USD/ngày. Những hạn
chế nói trên làm mất cơ hội về giá và đương nhiên người trồng lúa phải chịu dưới
hình thức giá FOB thấp hơn.
Những bất lợi của ta về vận chuyển, bốc dỡ không thể khắc phục trong thời gian
ngắn được, nhưng chúng ta cần nhận thức sâu sắc về điều đó để tìm ra những giải
pháp hợp lý nhất để nâng cao sức cạnh tranh của mặt hàng gạo Việt Nam trên thị
trường thế giới. Hiện tại, các tàu đến cảng Sài Gòn không thể xuất phát sau 3 giờ
chiều và đến trước 9 giờ sáng, gây bất tiện và tốn kém cho các tầu nếu không cập
cảng trong thời gian trên. Chúng ta có thể cho các tàu chạy trong đêm kênh chở
gạo từ cảng này đến bờ biển Trung Quốc, hạn chế phần nào những bất lợi về cơ sở
hạ tầng mà chúng ta chưa khắc phục được.
ở chương 2, chúng ta đã nghiên cứu các kênh phân phối gạo xuất khẩu của Việt

Nam. Trong những năm tới, chúng ta có thể giảm bớt những bất cập của kênh
phân phối hiện tại bằng cách áp dụng mô hình sau:

×