Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

cây lanh và quy trình chế biến lanh thành sợi của người mông ở thôn cát cát, xã san xả hồ, huyện sa pa, tỉnh lào cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.42 KB, 30 trang )

DẪN LUẬN
Nằm cách Thị trấn Sa Pa 1,5 km theo hướng Tây Nam trên trục đường
Sa Pa – Sín Chải, Cát Cát là 1 trong 4 thôn của xã San Xả Hồ. Phía Đông
giáp thôn Ý Lình Hồ 1, phía Tây giáp trục đường Sa Pa – Sín Chải, phía
Nam giáp thôn Sín Chải và dãy núi Hoàng Liên Sơn, phía Bắc giáp Thị trấn
Sa Pa. Tổng diện tích tự nhiên toàn thôn ≈ 1,447 ha. Dân số tính đến ngày
18/12/2008 là 545 người. Trong đó, người Mông có 511 người, chiếm
93,76%
1
. Đây là một bản văn hoá du lịch dân tộc Mông hấp dẫn du khách
trong và ngoài nước.
Người Mông nơi đây cho đến nay vẫn còn duy trì được nghề dệt từ
nguồn nguyên liệu bằng vỏ cây. Cây ấy gọi theo tiếng Mông là Chaoz
mangx mà chúng ta vẫn gọi là Cây lanh. Đây là một vấn đề lý thú không chỉ
đối với du khách tham quan thôn Cát Cát mà còn là một vấn đề được nhiều
nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm.
Vì vậy, chuyên đề Cây lanh và quy trình chế biến lanh thành sợi của
người Mông ở thôn Cát Cát, xã San Xả Hồ, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai sẽ
tập trung đề cập đến cây lanh với tư cách là một trong những loại cây đã
từng gắn bó với lịch sử văn minh nhân loại. Nhưng quan trọng nhất là sự gắn
bó của nó với đồng bào Mông ở thôn Cát Cát, xã San Xả Hồ, huyện Sa Pa,
tỉnh Lào Cai. Chuyên đề nằm trong đề tài Bảo tồn nghề dệt truyền thống,
thuộc dự án Bảo tồn thôn truyền thống dân tộc Mông ở thôn Cát Cát, xã San
Xả Hồ, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai. Chuyên đề được thực hiện bằng các
phương pháp dân tộc học truyền thống, lấy tư liệu điền dã tại thực địa làm
nguồn tài liệu nghiên cứu chủ yếu.
1
. Ban chỉ đạo Tổng Điều tra dân số và nhà ở Trung ương. Bảng kê số nhà, số hộ, số người Do UBND xã San Xả
Hồ thực hiện tháng 12 năm 2008.
1
1. TÊN GỌI, ĐẶC ĐIỂM, NGUỒN GỐC XUẤT XỨ CỦA CÂY


LANH
1.1. Tên gọi
Nguồn nguyên liệu chính trong nghề dệt của người Mông ở Cát Cát là
loại cây được các nhà thực vật học Việt Nam gọi là cây “gai dầu”. Tên gọi
này được dùng để phân biệt với cây gai thông thường mọc phổ biến ở vùng
đồng bằng và một số nơi ở miền núi phía Bắc nước ta. Nhưng trong quá trình
giao lưu văn hoá giữa người Việt và người Mông lại xuất hiện từ “lanh” để
chỉ loại cây này.
Trên thực tế, cây lanh có tên khoa học là Brevimulticaulis hoặc
Lunumusitatissimum, thuộc loại cây công nghiệp ôn đới ngắn ngày, họ lanh
(linaceae). Đây là loại cây không có ở Việt Nam mà chỉ được trồng chủ yếu
ở các nước có khí hậu ôn đới. Còn cây gai dầu có tên khoa học là Cananbis
Sativa L.Subsp, Sativa là loại cây thuộc họ gai dầu (Cannbaceae). Cả hai loại
cây này đều là loại cây thảo dùng để lấy sợi và lấy dầu với những đặc điểm
khá giống nhau nhưng chúng khác nhau ở đặc điểm cơ bản về chiều cao.
Trong khi cây gai dầu có chiều cao từ 1 – 3 m thì cây lanh chỉ cao từ 0,75 –
1,2 m. Ngoài ra, sợi lấy từ vỏ cây gai dầu chắc và bền hơn so với sợi lấy từ
vỏ cây lanh rất nhiều.
Tuy nhiên, do từ “lanh” lâu nay đã ăn sâu vào tiềm thức không chỉ của
người Mông mà còn của các dân tộc khác ở đất nước ta khi nhắc tới hay nghĩ
tới loài cây này nên trong chuyên đề này, chúng tôi vẫn sử dụng thuật ngữ
“lanh” để chỉ đối tượng nghiên cứu.
1.2. Đặc điểm
Cây lanh hay còn gọi là cây lanh mèo (từ đây gọi chung là cây lanh) là
loại cây thảo, cao 1 – 3 m, có thân vuông, suốt dọc thân có rãnh, bề mặt thân
cây phủ lông mềm, sù sì, lá có cuống, thường mọc so le, có phiến chia đến
tận gốc thành 5 – 7 lá chét hẹp hình ngọn giáo, đầu nhọn, hai cạnh lá có răng
cưa. Hoa đơn tính khác gốc. Hoa được xếp thành hình xim kép ở nách và
ngọn, các hoa cái xếp thành hình xim hay xim có nách những lá bắc dạng lá.
Hạt không có nội nhũ, chứa nhiều tinh dầu.

Nghiên cứu các đặc điểm và thành phần của cây lanh, các ngành khoa
học ứng dụng trên thế giới đã cho thấy cây lanh có rất nhiều tác dụng có thể
áp dụng vào thực tiễn đời sống của con người hiện đại. Cụ thể như sau:
+ Thân cây và hạt của cây lanh có thể chế ra chất bào mòn, chất dẫn lưu.
Hạt cây lanh còn có thể dùng làm thức ăn, làm bánh, thức ăn gia súc, bột
2
năng lượng giàu dinh dưỡng. Ngoài ra, hạt cây lanh còn có thể dùng để ép
lấy dầu. Thân cây lanh có thể tước vỏ lấy sợi, còn lõi cây ép lấy bã để làm
giấy (giấy in, bìa cứng, giấy bồi, giấy lọc, bìa caston, bao bì…). Bã cây lanh
cũng có thể sử dụng để làm nguyên liệu cho ngành sản xuất vật liệu xây
dựng (tấm sơ ép, nguyên liệu cách ly thay thế sợi thuỷ tinh, các khối kết gắn
thay thế xi măng, bê tông, vữa và hồ…). Sợi cây lanh ngoài việc làm nguyên
liệu cho ngành dệt dân dụng (đồ trang trí bằng vải, khăn, vải thô, túi, sợi
bông, bảo hộ lao động, tất, giầy, vải cao cấp…), ngành dệt kỹ thuật (dây bện,
dây thừng, lưới, túi vải bạt, vải làm cánh buồm…) thì cũng có thể dùng để
làm giấy, làm nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng. Ngoài ra, sợi lanh còn
có thể dùng để sản xuất các sản phẩm công nghiệp khác như sợi hỗn hợp,
dây phanh.v.v…
+ Lá cây lanh có thể được dùng để làm thức ăn cho động vật, làm phân
bón và làm chất tạo dinh dưỡng cho ngành nông nghiệp trồng nấm.
+ Dầu ép từ hạt lanh có thể dùng để làm thức ăn như dầu sa lát, bơ, thức
ăn bổ xung; các sản phẩm kỹ thuật như sơn dầu, dung môi, mỡ bôi trơn răng
cưa xích chuyển động, mực in, chất đánh bóng, chất mài nhẵn (matit), lớp
phủ ngoài, nhiên liệu, chất đốt; làm nguyên liệu thành phần cho ngành sản
xuất các sản phẩm vệ sinh cá nhân như xà phòng, dầu gội đầu, sữa tắm, mĩ
phẩm…
Ở Việt Nam, Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á ngoài việc đầu tư phát
triển Hợp tác xã thôn nghề lanh truyền thống ở Lùng Tám (Hà Giang) để tiêu
thụ tại chỗ (chủ yếu là hàng lưu niệm phục vụ du lịch), xuất khẩu sang thị
trường Austraylia và một số thị trường Âu - Mỹ thì cũng đang nghiên cứu thí

nghiệm về cây lanh và những tác dụng của nó. Hiện nay, Trung tâm đã trồng
thí điểm lanh ngay tại Đồng bằng Bắc Bộ để lấy sợi dệt xuất khẩu, cũng như
đang thí điểm lấy lõi cây lanh làm giấy và ép hạt lanh lấy dầu. Tuy nhiên,
những nghiên cứu này vẫn giới hạn trong phạm vi rất nhỏ nên chưa mang lại
lợi ích thực sự cho vùng đồng bào dân tộc Mông. Vì vậy, việc khai thác các
giá trị của cây lanh (ngoài việc lấy sợi) cần được chú trọng và đầu tư vào các
dự án trọng điểm mang tính ứng dụng cao.
1.3. Nguồn gốc, xuất xứ và những đóng góp của cây lanh trong nền
văn minh nhân loại:
Một kết quả nghiên cứu khoa học gần đây đã cho thấy, người Trung
Quốc cổ đại đã sử dụng sợi cây lanh làm dây buộc và lưới đánh cá từ rất sớm
(khoảng 4.500 TCN). Sự phát hiện của người Trung Quốc cổ đại trong việc
sử dụng cây lanh làm giấy cuộn đã thật sự mang đến sự phát triển của công
nghiệp giấy đầu tiên trên thế giới. Nghệ thuật làm giấy của Trung Quốc đã
3
phát triển tới tận Ba Tư và thế giới Ả Rập vào thế kỷ XVIII. Những tác
phẩm viết của Khổng Tử và Lão Tử cũng được viết trên giấy lanh.
Bên cạnh đó, người Trung Quốc cổ đại cũng đã trồng lanh để dệt vải và
dùng hạt của nó để làm thức ăn và ép lấy dầu. Cây lanh và các sản phẩm của
nó phát triển rộng rãi ở Trung Quốc vào thế kỷ III TCN. Hạt của nó được
đưa tới Triều Tiên (Choson), ngang qua biển Nhật Bản (Yamamoto) để tới
hòn đảo phía nam của Nhật Bản - đảo Kyushu. Các học giả người Nhật từ đó
ngoài việc sử dụng cây lanh lấy sợi dệt đã chú ý học cách làm giấy và làm
thuốc từ cây lanh của người Trung Quốc. Sau đó, theo các con đường thông
thương buôn bán, loại cây này đã phát triển ở Địa Trung Hải và dần trở
thành loại hàng hoá có giá trị của các dân tộc nói ngôn ngữ Slavơ, Xắc xông,
Noóc măng Điều này được minh chứng bằng di tích hoá thạch của dây
lanh và sợi dệt được tìm thấy ở gần Stuttart (Đức) được xác định niên đại từ
năm 400 TCN bằng phương pháp đo Cacbon CO
4

. Cây lanh sau đó được tiếp
tục trồng ở trung tâm châu Âu. Từ thế kỷ XVI, nghệ thuật làm giấy bằng cây
lanh đã xuất hiện tại châu Âu. Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, chất liệu
lanh đã thống trị trong các loại sợi ở châu Âu và châu Á. Dây buộc, cánh
buồm làm từ lanh là các mặt hàng chính trong các tầu buôn của các nước
châu Âu, Bắc Mỹ, Pháp, Hà Lan, Tây Ba Nha, Anh, Đức và Nga - những
nước khai thác lanh đầu tiên và một số thuộc địa của các nước này. Trong
đó, Nga là nước xuất khẩu lanh nhiều nhất thế giới hồi đó, chủ yếu là xuất
cho các công ty của Mỹ, Canada sản xuất dây lanh và vải lanh.
Ở châu Á, cây lanh phát triển từ Trung Quốc ra khắp các phần lãnh thổ
thuộc khu vực Đông Á mà điển hình ở Nhật Bản. Do dần thích nghi được
với điều kiện khí hậu ở nơi đây nên đến thế kỷ III SCN nó đã trở thành loại
cây trồng lấy sợi dệt vải bền chắc có tính ổn định của người Nhật cũng như
là dùng để làm lưới, làm dây buộc, làm giấy. Nhưng trong tín ngưỡng của
người Nhật, cây lanh vẫn chiếm vị trí độc tôn. Chẳng hạn, trong tín ngưỡng
Shinto – tôn giáo bản địa của người Nhật thờ Thần đạo, cây lanh tượng trưng
cho sự tinh khiết, trong sạch và sự phì nhiêu, màu mỡ (khả năng sinh sản).
Tại ngôi đền cổ tại Taimdo gần Osaka cũng thờ thần Cây lanh (giống như
đền Đồng Cổ của người Việt tại phố Thuỵ Khuê, quận Tây Hồ thờ thần
Trống đồng vậy). Trong các ngôi đền thờ Thần đạo và thờ Phật, những hiện
vật mang tính biểu trưng hiện nay là dây chuông, gậy trừ tà, màn che và áo
choàng của thầy tu được làm bằng sợi cây lanh. Các nhà Thiền học (zen) và
các Võ sĩ đạo (samurai) thường nhấn mạnh nguồn cảm hứng từ cây lanh
trong thơ Haiku - một thể loại thơ cổ của người Nhật, trong võ thuật và các
loại hình nghệ thuật biểu diễn khác.
4
Do thông thương buôn bán giữa Nhật Bản, Trung Quốc và Triều Tiên
ngày càng phát triển trong các thế kỷ tiếp theo nên các học giả người Nhật
thường đến Trung Quốc để nghiên cứu về khoa học, thuốc và nông nghiệp.
Họ học cách chế biến từ cây lanh để làm thuốc chữa các loại bệnh như táo

bón, hen suyễn, các vấn đề về da cũng như tăng cường thể lực… Những giá
trị cao của cây lanh đã tạo ra những sản phẩm có thể đem bán đã mang lại
sức mạnh về kinh tế và quyền lực cho những người đi săn thời phong kiến
Nhật Bản và giữ những người nông dân nhỏ bé bận rộn với công việc chuyên
môn hoá tạo ra sản phẩm. Lá cây lanh đã trở thành một mô típ phổ biến
trong nghệ thuật trang trí trên nền vải của người Nhật và thậm chí vẫn còn
xuất hiện trong chăn màn, các bộ Kimono và các bức màn che. Lanh và một
phần tơ tằm đã từng là loại sợi dùng để may mặc chính ở Nhật Bản đến tận
thế kỷ XVII, trước khi có sự xuất hiện của bông - một loại cây mới có năng
xuất cao hơn và giá thành thấp hơn. Từ khi bông xuất hiện đã nhanh chóng
được dùng phổ biến trong những tầng lớp làm việc trồng trọt ở nông thôn.
Lanh trở thành loại cây được bảo lưu cho những loại trang phục đặc biệt và
cho tầng lớp cao trong xã hội Nhật Bản thời kỳ đó. Mặc dù bị thu hẹp vai trò
trong việc làm ra vải nhưng cây lanh vẫn tiếp tục giữ vị trí độc tôn trong số
những nguyên liệu thô ở Nhật Bản trong suốt thế kỷ XIX. Những người
nông dân Nhật Bản đã dùng sợi lanh cùng với các loại cây khác làm nói đội
và ván để chở các vật nặng đi qua những vùng khó đi trên núi. Và cũng như
châu Âu thời điểm này, quân đội Nhật Hoàng đã dùng dây lanh để làm dây
neo và cánh buồm cho các tàu chiến của lực lượng hải quân
2
.
1.4. Cây lanh trong đời sống của người Mông ở Cát Cát
Cho đến nay, vẫn chưa có bằng chứng cụ thể nào để chúng ta có thể xác
định được thời điểm cây lanh đến với văn hoá Mông. Chỉ biết rằng, loại cây
này đã được người Trung Quốc cổ đại phát hiện và sử dụng đầu tiên trên Thế
giới. Người Mông gọi nó là mangx còn người Trung Quốc thì gọi nó là má (
). Theo Tân Hoa Đại Từ điển thì “má là một loài cây thực vật, thuộc loài cây
thảo, gồm có nhiều chủng loại, vỏ của cây này có thể dùng để dệt vải”
3
. Đây

là một giả thuyết quan trọng khiến chúng ta có thể nghĩ rằng người Mông
(Miêu tộc) đã tiếp nhận yếu tố lanh và văn hoá lanh từ Hán tộc rồi dần đồng
hoá nó trong quá trình phát triển của tộc người.
Đến thế kỷ thứ XVIII – XIX, vải lanh thêu của người Mông (gọi là
Miêu bố, Miêu cầm) đã được coi là loại vải tốt nhất để triều đình Mãn Thanh
2
. Hemp horizon. The comeback of the World’s Most Promising Plant. John W.Roulac & Hemptech. Chelsea
Green, White River Junction, Vermont. 1997
3
. Trình Mạnh Huy. Tân Hoa Đại Từ điển. Công ty Xuất bản và Phát hành thương vụ in sách quốc tế hữu hạn. Bắc
Kinh, 5/2004, tr.823
5
làm quà biếu, tặng các công sứ phương Tây trong các cuộc ngoại giao chính
trị quan trọng của quốc gia.
Hiện nay, cây lanh, sợi lanh, vải lanh, áo, quần/váy lanh… đã thực sự
trở thành một trong những biểu tượng đặc trưng nhất của người Mông nói
chung, người Mông ở Cát Cát nói riêng. Cây lanh không chỉ là thứ vật liệu
cơ bản dùng dể dệt vải may mặc mà đã trở thành một yếu tố xuyên suốt vào
hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội, đi vào thế giới tâm linh, tình cảm.
Nó trở thành biểu tượng của sự gắn kết lứa đôi, biểu tượng cho sự bền chắc
của đời người và là sợi dây dẫn hồn người chết trở về với thế giới của tổ
tiên…
2. MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN, XÃ HỘI TÁC ĐỘNG TỚI CÂY LANH
CỦA NGƯỜI MÔNG Ở CÁT CÁT
Hệ sinh thái của mỗi vùng được quyết định bởi các yếu tố tự nhiên và xã
hội. Cây lanh của người Mông ở Cát Cát cũng không nằm ngoài quy luật đó.
Để tìm hiểu nguyên nhân về sự tồn tại và phát triển của cây lanh ở Cát Cát,
chúng ta cần xem xét đến đặc điểm môi trường tự nhiên và xã hội nơi đây.
2.1. Môi trường tự nhiên
Xem xét môi trường tự nhiên nhằm tìm hiểu những yếu tố cơ bản của

thiên nhiên tác động trực tiếp đến điều kiện sinh trưởng của cây lanh, chúng
ta cần tìm hiểu về đặc điểm địa hình, thổ nhưỡng, khí hậu và thuỷ văn của
địa bàn này.
- Về địa hình, quá trình tạo núi trong Tân kiến tạo với sự phân bậc địa
hình đã tạo nên tính chất núi cao cho thôn Cát Cát. Bề mặt địa hình của thôn
là dạng bề mặt đỉnh san bằng – bóc mòn không hoàn toàn với đặc điểm là bề
mặt nằm ngang và hơi nghiêng được phân bố rộng khắp địa vực cư trú của
quần thể dân cư trong thôn, trên các đường chia nước phụ và các đồi thoải
lượn sóng hoặc phân bậc. Thành tạo bề mặt bao gồm eluvi và đá khối tảng
lẫn dăm sạn, trơ sỏi đá, vỏ phong hoá vụn bở litoma và sapolit, có chỗ còn
bảo tồn tầng phong hoá khá tốt. Tuổi tương đối của bề mặt này là Paleogen
thượng – Mioxen (P
3
-N
1
).
Xen kẽ với dạng địa hình trên là dạng địa hình dòng chảy thường xuyên
được hình thành từ giai đoạn Holocen (Q
IV
) - hiện đại, nhưng do nằm trong
vùng nâng mạnh trong suốt thời kỳ Đệ tứ nên không tìm thấy di tích của các
bậc thềm sông. Đặc điểm của dạng địa hình này là bãi bồi nhỏ hẹp do hầu
hết là đáy thung lũng xâm thực sâu và mạnh mẽ làm trơ đá gốc có trắc diện
6
ngang hình chữ V, trắc diện dọc chưa đạt tới trạng thái cân bằng tạo ra
những thác ghềnh đặc trưng, mà tiêu biểu ở đây là thác Cát Cát.
- Về địa chất, đất đai trong địa phận thôn Cát Cát chủ yếu thuộc nhóm
đất mùn đỏ vàng núi trung bình. Bề mặt xuất hiện tầng thảm mục bán phân
huỷ (tầng A
0

). Tầng mặt đất có mầu xám đen của mùn, càng xuống sâu, phẫu
diện càng chuyển sang vàng đỏ, độ ẩm cao, hàm lượng mùn cao, phản ứng
chất chua do axit mùn, nghèo cation kiềm, khả năng trao đổi thấp. Do phát
triển trên các nhóm đá mẹ khác nhau nên đã hình thành nên một số loại đất
mang những đặc trưng riêng biệt như sau:
+ Đất mùn xám vàng trên đá macma axit (HFa): hình thành trên đá
granit có độ đá lẫn cao, thành phần cơ giới cát pha thịt nhẹ, phân tầng rõ rệt,
có phản ứng chua đến rất chua. Dung tích hấp thụ thấp. Hàm lượng chất tổng
số và dễ tiêu ở tầng mặt đều ở mức nghèo đến trung bình, xu hướng giảm
dần theo chiều sâu phẫu diện.
+ Đất mùn vàng đỏ trên đá biến chất (HFj): hình thành trên các đá
amphybolit và philit. Đất có phản ứng chua đến rất chua, hàm lượng các chất
tổng số và dễ tiêu phần lớn đều đạt ở mức trung bình, khả năng hấp thụ thay
đổi theo thành phần cơ giới và hàm lượng hữu cơ trong đất.
Đất đai trong thôn trải qua quá trình khai thác đã làm hình thành thêm
loại đất đỏ vàng biến đổi do trồng lúa (Fl). Loại đất này có sự phân hoá rõ rệt
theo tầng. Tầng đất mặt do ngập nước định kỳ và cầy bừa thường xuyên nên
mất cấu trúc, cơ giới thường thô nhẹ, nhiều phẫu diện hình thành tầng cát
thạch anh, thoát nước mạnh, khả năng giữ nước và phân kém. Độ phì của
loại đất này rất thấp, đất thường có phản ứng chua đến rất chua, dung tích
hấp thụ thấp, hàm lượng các chất tổng số trung bình. Tầng đất sâu thường từ
40 – 50 cm hầu hết còn giữ nguyên đặc tính của đất feralit vàng đỏ trên đá
macma axit, kiến trúc dạng viên hạt hay cục nhỏ; phản ứng chua, dung tích
hấp thu thấp, nghèo mùn và các chất tổng số, hàm lượng các chất dễ tiêu
trung bình.
- Khí hậu ở thôn Cát Cát mang đặc trưng chung của khí hậu khu vực
Hoàng Liên Sơn với đặc điểm là hầu như quanh năm ẩm ướt. Vào mùa đông,
frôn cực đới thường bị chặn lại trên sườn đông dãy Hoàng Liên Sơn, gây
mưa dai dẳng nhiều ngày làm cho ở đây hầu như mất hẳn thời kỳ khô hanh
nửa đầu mùa đông. Độ ẩm tương đối trung bình năm > 85%, tháng ít mưa

nhất cũng đạt > 20 – 30 mm. Mưa phùn cuối mùa đông phổ biến vì thung
lũng ở đây mở rộng về phía Đông Nam tạo điều kiện cho gió nồm từ biển
xâm nhập vào.
7
Nhiệt độ trung bình năm khoảng 22 – 23
0
C. Tổng tích ôn khoảng 7.500
– 8.000
0
C. Tháng 1 lạnh nhất trong năm có nhiệt độ trung bình ≈ 11 – 12
0
C,
có năm xuống 6 – 7
0
C. Tháng 7 có nhiệt độ cao nhất trong năm, đạt 19 –
20
0
C. Số giờ có nắng khoảng 1.450 – 1.600 giờ/năm. Thời kỳ có số giờ nắng
lớn là mùa hè, tháng có giá trị max là tháng 5 (160 – 190 giờ/tháng). Các
tháng cuối mùa đông có trị số trung bình thấp nhất (75 – 95 giờ/tháng). Ở
đây, thời kỳ ít nắng nhất trùng với thời kỳ mưa nhiều nhất (tháng 6 – 7),
trung bình 75 – 95 giờ/tháng.
Lượng mưa khoảng 2.000 – 2.500 mm/năm với số ngày mưa khoảng
100 – 150 ngày/năm. Sự thay đổi độ cao và hướng phơi địa hình làm nơi đây
trở thành một trung tâm mưa lớn trên những sườn đón gió (tuyến Tả Van –
Cát Cát – Ô Quý Hồ - Sa Pa). Số ngày mưa khoảng 180 – 200 ngày/năm
(trung bình 20 – 25 ngày/tháng). Mùa mưa dài 7 tháng (tháng 4 – 10). Tháng
7 – 8 có lượng mưa lớn nhất lên tới 400 – 500 mm/tháng. Nửa đầu mùa đông
là thời kỳ ít mưa nhất trong năm, thường là vào tháng 12 và tháng 1. Thời kỳ
này trung bình có 10 – 12 ngày mưa/tháng. Lượng mưa ở các tháng khô nhất

cũng đạt tới 60 – 70 mm/tháng.
Lượng bốc hơi đạt 650 – 700 m, cao nhất vào tháng 5 (110 – 130 mm).
Thấp nhất vào tháng 12 và tháng 1 (30 – 40 mm/tháng). Độ ẩm cao >80%
duy trì quanh năm. Độ ẩm trung bình năm đạt >90%. Từ tháng 7 đến tháng
2, độ ẩm không khí rất cao và đồng đều, trung bình khoảng 85 – 90%. Chính
vì vậy mà ở đây cũng không có thời kỳ khô rõ rệt vào đầu mùa đông mà chỉ
duy nhất có một tháng tương đối khô vào tháng 3 hoặc tháng 4, khoảng 81 –
82%. Tuy nhiên, những trường hợp khô cực đoan thường gặp trong những
đợt gió mùa Đông Bắc mạnh vào tháng 12 – 1 với trị số khoảng 10 – 15%.
* Các đặc điểm địa hình và khí hậu đặc thù nơi đây còn thường xuyên
tạo ra các hiện tượng thời tiết đặc biệt:
Dông: trung bình khoảng 55 – 60 ngày dông/năm. Mùa đông trùng với
mùa gió mùa Đông Bắc, bắt đầu từ tháng 3 đến tháng 10. Tháng 7 và tháng 8
thường có nhiều dông nhất, khoảng 9 – 10 ngày/tháng.
Mưa đá: mưa đá thường kèm theo dông, trung bình khoảng 2 – 3 trận
mưa đá/năm.
Mưa phùn: do nằm ở khu vực phía Đông Hoàng Liên Sơn vào mùa đông
luôn có một frônt tĩnh, gây mưa dai dẳng tạo cho khu vực này là một trong
các nơi có nhiều mưa phùn nhất nước ta. Mưa phùn tập trung chủ yếu vào
mùa đông, từ tháng 12 đến tháng 3. Tháng 1 – 2 có số ngày mưa phùn lớn
nhất, trung bình khoảng 8 – 9 ngày/tháng ở vùng thấp, 13 – 14 ngày/tháng.
8
Sương mù: trung bình khoảng 115 – 120 ngày có sương mù/năm. Hiện
tượng sương mù hay gặp vào mùa đông. Tháng 12 – 1 số ngày có sương mù
lớn nhất, trung bình 3 – 4 ngày/tháng. Mùa hè, trung bình mỗi tháng cũng có
2 – 4 ngày có sương mù. Sương mù đặc biệt cao trong thung lũng kín khuất
gió làm cho khu vực này trở nên ẩm ướt với hệ số thuỷ nhiệt trên 2,3.
Sương muối: ít xuất hiện ở đây so với nhiều vùng núi khác. Tuy nhiên,
số ngày có sương muối trung bình trong năm cũng lên tới 7 – 8 ngày. Tháng
12 và tháng 1 có khoảng 2 – 4 ngày/tháng.

- Chế độ thuỷ văn ở Cát Cát mang đặc thù miền núi Tây Bắc rõ nét, các
khe suối có dạng hình chữ V, hai bên là sườn tích tụ khá dốc. Độ cao bình
quân lưu vực (Ho), độ dốc bình quân lưu vực (Io) và mật độ lưới dòng chảy
(D) của các con suối ở đây lớn hơn nhiều, trong khi hệ số uốn khúc (K
uk
) lại
nhỏ hơn, hệ số hình dạng (K
hd
) có giá trị tương đương so với trị số bình quân
toàn quốc.
Khí hậu nhiệu đới - gió mùa ẩm, mưa lớn, địa hình phân cắt mạnh tạo
cho mật độ lưới dòng chảy khá dày (0,7 – 1 km/km
2
), có dạng cành cây và
vuông góc, hệ sông suối nhỏ và chủ yếu xâm thực sâu.
* Các yếu tố thiên nhiên (môi trường tự nhiên) nêu trên đã có tác động
trực tiếp đến chu kỳ phát triển của cây lanh cũng như việc chế biến lanh
thành sợi. Thích nghi với môi trường tự nhiên, chế ngự được những tiêu cực
của khí hậu, thời tiết… người Mông nơi đây đã có những ứng xử rất “khoa
học” trong việc canh tác cây lanh ở môi trường này. Đó là việc lựa chọn đất
trồng lanh được thực hiện ở những khoảnh đất tương đối bằng phẳng và
được che chắn bởi những hệ tầng phân bậc tạo thành các bức “tường” ngăn
chặn các luồng gió lạnh và khô từ phía Đông Bắc tràn về. Đó là đất đai
không quá tốt khiến cho cây lanh không bị phát triển ở dạng “phì” làm cho
thân cây mập quá mức cần thiết, vỏ lanh dầy – không thể sử dụng để chế
biến ra sợi dệt. Đó là việc sắp xếp chu kỳ mùa vụ sao cho mỗi một công
đoạn trồng và thu hoạch lanh, chế biến lanh thành sợi được diễn ra vào
những lúc khí hậu thuận lợi nhất.v.v…
2.2. Môi trường xã hội
Trong điều kiện kinh tế tự cấp tự túc, nghề trồng lanh dệt vải từ lâu đã

góp phần tích cực vào hoạt động kinh tế của người Mông ở Cát Cát. Sự phân
công lao động trong xã hội người Mông quy định phụ nữ là chủ thể sáng tạo
trang phục cho mình và các thành viên trong gia đình. Vẻ đẹp và chất lượng
của các bộ trang phục họ làm ra phản ánh sâu sắc kỹ năng lao động của mỗi
9
người, là bằng chứng để đánh giá khả năng lao động và đức tính cần cù, xác
định phẩm chất của người phụ nữ Mông.
Trong nền kinh tế chủ yếu là tự cấp tự túc nên việc làm lanh để có quần
áo mặc và các đồ dùng sinh hoạt khác đã trở thành biểu tượng cho người phụ
nữ đảm đang, tháo vát, khéo léo, là tiêu chuẩn để đánh giá người phụ nữ:
Lớn lên anh theo mẹ cha đi cày nương
Theo anh vào rừng săn thú
Lớn lên em theo mẹ tập thêu
Theo chị nhuộm chàm in hoa trên váy mới
(Xem phiên âm trong phụ lục 1.1)
Để răn dạy người con gái phải biết làm lanh cũng như người con trai
phải biết làm nương, tục ngữ Mông có câu:
Con gái không biết làm lanh lấy được chồng vẫn rách
Con trai không biết làm nương lấy được vợ vẫn đói
(Xem phiên âm trong phụ lục 1.2)
Để xác định phẩm chất của người phụ nữ, người Mông có câu:
Muốn biết người tốt xem gác bếp
Muốn hay người đẹp xem quần áo
(Xem phiên âm trong phụ lục 1.3)
Hay:
Gái đẹp không biết làm lanh cũng xấu
Gái xinh không biết cầm kim là hư
(Xem phiên âm trong phụ lục 1.4)
Hoặc:
Gái đẹp không biết làm lanh cũng xấu

Trai khoẻ không biết làm nương cũng hèn
(Xem phiên âm trong phụ lục 1.5)
Nếu người phụ nữ vụng đường làm lanh thì sẽ trở nên vô cùng xấu xa.
Đây là lợi chê vợ của một ông chồng trong dân ca giao duyên của người
Mông ở Cát Cát:
Vợ ta không mặc mà cũng không làm
10
Nó lấy cuộn lanh quẳng bừa lên hòm
Cuộn lanh của nó nhom nhem, lăn lóc
(Xem phiên âm trong phụ lục 1.6)
Vì vậy, người con gái Mông ngay từ nhỏ đã phải học làm lanh, thêu
lanh. Công việc đó gắn bó với họ từng ngày. Khi hát giao duyên, áo lanh,
khăn lanh, dây lưng lanh… trở thành cái cớ để giãi bày tình cảm và là biểu
tượng của tình yêu đắm say:
Em có gì tặng ta để ghi nhớ tình em
Em hãy tặng ta chiếc dây lưng làm vật ghi nhớ
Chiếc dây lưng lanh thêu hoa hình con ốc
Sợi to, sợi nhỏ đều do bàn tay em xe
(Xem phiên âm trong phụ lục 1.7)
Khi hát giao duyên, trai gái nói nhiều về việc làm lanh và công việc đó
trở thành tiêu chuẩn kén vợ của các chàng trai, tiêu chuẩn đẹp người, đẹp nết
của các cô gái:
Trước cửa nhà em có cây lanh mọc
Ong mới tìm về đậu
(Xem phiên âm trong phụ lục 1.8)
Hay:
Em khéo quay xa
Ngón tay quay tít như vòng tròn miệng chén
Sợi lanh cũng do em xe
Đôi ta kết đường tình duyên

(Xem phiên âm trong phụ lục 1.9)
Hoặc:
Tay em biết cầm kim khâu áo
Anh yêu em
Em yêu anh
Em không có lòng thì thôi!
Có lòng thì về, ta ở với nhau một đêm
Tay em biết se sợi chỉ đen
11
Em không có lòng thì thôi
Có lòng thì về, ta ở với nhau một ngày

Guồng xa xe chỉ lanh
Xe được sợi chỉ xoắn
Dù mình biết biến, ta biết hoá
Thì cũng như mặt trời ghẹo măt trăng trên đỉnh núi cao
Guồng xa xe chỉ tơ
Xe được sợi chỉ bện
Dù mình biết hoá, ta biết biến
Thì cũng như mặt trời trêu mặt trăng tít tận chân trời

Thôi mình đừng ngần ngại
Hãy cùng ta sánh đôi về nhà làm mặc
Xuân tới, tiếng dế réo rắt trong chảng cỏ xanh
Thôi mình đừng chần chừ
Hãy theo ta sánh đôi về nhà làm ăn
(Xem phiên âm trong phụ lục 1.10)
Khi tình yêu đã sâu đậm, vải lanh lại trở thành biểu tượng của tình yêu
chung thuỷ, đợi chờ qua hình tượng chiếc áo:
Chàng có lòng em xin tặng chiếc áo, áo này áo em may

Không thấy em chàng mặc chiếc áo
Như thấy dáng em đứng trước người yêu
(Xem phiên âm trong phụ lục 1.11)
Với những người phụ nữ phải chịu nỗi đau bị ép duyên, người con gái
Mông cũng mượn hình ảnh lanh để so sánh:
Em phải lấy chồng không xứng đôi
Như hạt lanh nương tra vào đám ruộng hạt lanh mới mục
(Xem phiên âm trong phụ lục 1.12)
12
Với những cặp vợ chồng xứng lứa vừa đôi, hạnh phúc, niềm vui của mỗi
gia đình được phản ánh ngay trong bức tranh sinh hoạt:
Cuối nhà là nơi em ngồi thêu váy
Đầu nhà là nơi anh thổi sáo, múa khèn
Em thêu váy mới không có sáp, anh ra chợ kiếm
Em in hoa mới không biết đường, anh cầm que vạch giúp
(Xem phiên âm trong phụ lục 1.13)
+ Trong tín ngưỡng và lễ hội dân gian: cây lanh là biểu tượng của vật
trung gian nối giữa trời và đất, nối giữa thế giới con người bình thường và
thế giới thần linh, là sợi dây dẫn đường cho người Mông về với thế giới tổ
tiên.
Trong bài hát chỉ đường cho người chết về với tổ tiên (Kruôz cê) kể
rằng:
Bà Trày làm cho giống lanh sống lại
Bà Mông làm cho giống lanh tốt tươi…
Cây to đem về, dệt thành vuông, chống tàu lau, lá cỏ
Mà làm lụng nuôi con, nuôi cháu
Cây nhỏ đem về dệt thành thước đón rượu, đón cưới
Cây thẳng đem về dệt thành tấm chống đất đen, đất vàng của nhà trời
(Xem phiên âm trong phụ lục 1.14)
Trong tang lễ của người Mông, khi mổ xúc vật hiến tế người chết, người

ta phải nối sợi dây lanh từ ngón tay người chết vào con vật đó thì linh hồn
người chết mới nhận được. Đồ khâm niệm, khăn lau mặt cho người chết phải
là loại vải được dệt từ sợi lanh thì mới đưa được người chết trở về với thế
giới tổ tiên.
Để khuyên người chết cách nói sao cho tổ tiên nhận ra con cháu, lời chỉ
đường trong bài Kruôz cê cũng khuyên người chết phải nói với tổ tiên rằng
mình là người Mông bằng cách chỉ ra chất liệu của trang phục là sợi lanh, sợi
đay:

Ma cụ tổ ông, ma cụ tổ bà sẽ hỏi mình rằng do chú ruột chú gì gì đưa mình
về
Mình nên đáp là mình không biết, không hiểu, chú ruột chú gì gì
13
Có đôi mắt to bằng cái chén, đôi tai to bằng cái quạt đưa mình về, mình
không biết
Ma tổ tiên ma cụ tổ nói vậy thì thả chó săn đi bắt, thả chó dữ đi đuổi
Mình nên nói với ma tổ tiên rằng
Mình về mình đi giầy lanh, nó về nó không đi giầy lanh
Nó chỉ đi một bước trong cõi âm bước lật ngay sang cõi dương
Mình về mình đi giầy đay, nó về nó không đi giầy đay
Nó đi chỉ một bước đi trong cõi chết bước lật sang cõi sống ngay
Nó về cũng đã lâu mà nó đi cũng đã sớm rồi
Vết chân giẫm xuống nước đã trong, giẫm lên đất lá cây đã rụng phủ hết rồi
Lúc này nó đã về với gia đình người thân lâu rồi
Thả chó dữ đi đuổi cũng chẳng kịp, thả chó săn đi bắt cũng chẳng được nữa

(Xem phiên âm trong phụ lục 1.15)
Ngoài ra, trong tang lễ của người Mông ở Cát Cát, tần số xuất hiện yếu
tố sợi lanh còn khá đậm đặc. Cụ thể là:
Khi cử hành tang lễ, cáng của người chết treo gần ngang bàn thờ tổ tiên.

Cáng tượng trưng cho con ngựa trời, phải dùng dây lanh buộc thi hài vào
cáng. Người nào không có con trai thì chỉ dùng sợi lanh. Người nào có con
trai thì con dâu phải dệt vải lanh trắng dài 4 – 5 sải (1 sải ≈ 1,5 m) làm dây
buộc cáng nối với xà nhà. Dây lanh hoặc vải lanh buộc vào cáng tượng trưng
cho dây dắt ngựa và là sợi dây dẫn đường người chết về với tổ tiên. Ngoài ra,
do địa hình vùng cao chi phối, khi khiêng cáng người chết ra nghĩa địa, nếu
không buộc chặt thi hài vào cáng thì thi hài có thể bị rơi ra khỏi cáng. Điều
đó đồng nghĩa với việc rơi ra khỏi ngựa, hay còn gọi là ngã ngựa - một điều
được kiêng tới mức cấm kỵ.
Trong toàn bộ diễn trình tang lễ cũng như các nghi lễ diễn ra sau đó: lễ
đón về (tok siz), lễ ma khô (đăngz khuôx), lễ ma lợn (buô đăngx)… Khi trao
gà, lợn, trâu cho người chết, người ta đều phải lấy một đoạn dây lanh buộc
nối từ cổ con vật vào cổ tay người chết.
Trước kia, các gia đình người Mông đều thờ vuông vải lanh ở trước cửa,
ở bàn thờ tổ tiên; mảnh vải này có thể là màu đỏ, màu trắng hay một màu
nào khác tuỳ thuộc vào quan niệm của mỗi dòng họ. Người ta tin rằng, làm
như vậy thì tổ tiên mới thường đi về thăm nom giúp đỡ gia đình, mọi người
14
được mạnh khoẻ, làm ăn phát đạt. Mặt khác, làm như vậy còn chống được
ma dữ về quấy nhiễu gia đình.
Với một người muốn trở thành thầy cúng, người này phải đi mời một
thầy cúng đang hành nghề đến lập cho mình một bàn thờ riêng (gọi là thàng
nênhz) để mời thầy tổ sư nhập điện. Nhưng thầy tổ sư muốn nhập điện thì
nhất thiết phải đi qua cầu dẫn đường – gồm 3 cây tre dài nhỏ như cần câu.
Một cây buộc ở vị trí giáp giữa mái nhà và vách trước. Ba ngọn tre đều phải
còn lá và hướng về phía bếp lò. Ba sợi dây lanh vắt qua 3 ngọn cây tre, nối
chúng với bàn thờ của thầy saman. Ba sợi dây này tượng trưng cho đường đi
của tổ sư saman và hồn của thầy saman. Sau này, khi thầy cúng đi hành nghề
cũng phải bắc cầu như vậy. Qua 3 sợi lanh và 3 cây tre này, thầy cúng có khả
năng “đi” từ “thế giới bên này” sang “thế giới bên kia”.

Trong lễ hội Gầu Tào (tiếng Quan Hoả là Sải Sán – có nghĩa là Đạp
Núi), trên ngọn cây nêu – nơi trung tâm bãi hội, người ta treo mảnh vải lanh
rộng 40 cm, dài khoảng 7 – 12 cm. Đó là một biểu tượng với nhiều tầng ý
nghĩa. Trước hết, đó là dấu hiệu mời ma nhà (tổ tiên) về dự hội cùng vui với
con cháu. Trường hợp này, mảnh vải lanh thường nhuộm màu đỏ. Có thể đây
là biểu tượng của mặt trời, phản ánh tục thờ thần mặt trời của cư dân nông
nghiệp xưa kia. Có ý kiến cho rằng, tuỳ theo từng dòng họ đăng cai mà
người ta sẽ treo mảnh vải lanh có sắc màu tương ứng. Cũng có ý kiến cho
rằng, khi mảnh vải lanh treo trên ngọn cây nêu có màu đen thì đó là biểu
tượng để tập hợp lực lượng. Chuyện xưa kể rằng: Trong một trận chiến với
người Hán, người Mông bị thua trận, bị mất đất, bị chém giết rất nhiều. Thủ
lĩnh người Mông đã treo cờ bằng vải lanh đen để tập hợp lực lượng, cố kết
cộng đồng và đoàn kết dân tộc. Vì vậy, trong những lễ hội Gầu Tào có treo
mảnh vải lanh màu đen trên ngọn cây nêu, người ta thường hát mở đầu khúc
ca Đrux tangl, tức là hết đất trời rồi. Có lẽ đây là lớp văn hoá muộn gắn với
lịch sử di cư của đồng bào. Như vậy, xuất phát từ tín ngưỡng, biểu tượng vải
lanh đã đi vào lịch sử đấu tranh của dân tộc Mông với các thế lực chèn ép,
xâm lược.
+ Trong y học cổ truyền: cây lanh được người Mông ở Cát Cát sử dụng
làm thuốc chữa bệnh. Khi bị các bệnh đau đầu, họ thường lấy lá lanh (blôngx
mangx) và lá cây ngải cứu (sur) gói vào một miếng lá chuối (blôngx txir
tsơưz) ủ dưới tro nóng rồi đem trườm lên chỗ đau. Trẻ em mắc các chứng
bệnh ho gà (guz), lên sởi (gtôz), người ta có thể chữa bằng cách dùng hạt cây
lanh đem rang vàng để sắc làm nước uống. Vải lanh có độ bền cao, mặc mùa
hè thì ấm mà mùa đông thì mát. Khi mặc ít bị cảm cúm và ốm đau.
15
Tri thức dân gian về thuốc chữa bệnh của người Mông đã được y học
kiểm chứng và xác nhận. Theo cuốn Từ điển cây thuốc Việt Nam của Võ
Văn Chi, cây lanh là loại cây có vị ngọt, tính bình, có tác dụng nhuận tràng,
thông tiện, dùng trị huyết hư, tân khuy trường táo tiện bí, dùng tốt cho chứng

táo bón kéo dài ở người già, phụ nữ bị đái rắt sau khi sinh nở hay khi có thai
mà thai bị tổn thương sinh ra chứng đau bụng, chữa chứng phong độc, xương
tuỷ đau nhức…
* Như vậy, trải qua một quá trình phát triển lâu dài, cây lanh cho đến
nay đã trở thành một biểu tượng văn hoá của người Mông ở Cát Cát và mang
tính xã hội cao. Ngoài giá trị vật chất phù hợp với môi trường cảnh quan và
điều kiện sống, nó còn là vật phản ánh sâu sắc những giá trị văn hoá, xã hội
truyền thống mang những đặc trưng văn hoá tộc người. Nó thể hiện tư tưởng,
tình cảm, quan niệm thẩm mỹ, niềm tin tôn giáo và đạo đức của cộng đồng.
Đồng thời, nó cũng phần nào cho chúng ta thấy quan niệm của người Mông
nơi đây về thế giới quan, tư duy, quan niệm và ước vọng về cuộc sống. Môi
trường xã hội ấy, những niềm tin tôn giáo ấy, những quan niệm về thẩm mĩ,
đạo đức ấy… đã góp phần bảo tồn và phát triển cây lanh và “văn hoá lanh”
trong dòng chảy văn hoá qua nhiều thế hệ người Mông nơi đây.
3. TRỒNG LANH VÀ CHẾ BIẾN LANH THÀNH SỢI
3.1. Kỹ thuật trồng lanh
3.1.1. Chọn đất trồng lanh
Nương theo cách gọi của người Mông ở Cát Cát là Têz. Theo quan niệm
của đồng bào: nương là một khoảnh đất được phát - đốt, dọn cỏ cây tự nhiên
rồi trồng lên đó một loại cây phục vụ cuộc sống của con người thì được gọi
là nương (Giải thích của ông Vàng A Sử, sinh năm 1963, trú tại Đội I, thôn
Cát Cát). Điều đó có nghĩa là chỉ cần phát được một khóm nhỏ chưa phải là
một khoảnh rừng, thậm trí chỉ cần tra được một hốc ngô xuống cũng được
gọi là nương.
Nương lanh, tiếng Mông gọi là Têz mangx. Theo kinh nghiệm dân gian
của người Mông ở Cát Cát, muốn cho cây lanh mọc khoẻ, đồng bào thường
chọn những chỗ đất màu mỡ, thích hợp cho việc canh tác (têz viêngx). Đó
thường là những khu đất bằng phẳng, ít đá (blăngs têz), ở những nơi cao ráo
(têz taox phiênx) nên đó thường là những đám nương dưới chân núi hay gần
khu vực chân núi (têz tơư taox), hoặc cũng có thể là nương ở sườn núi hoặc

ven sườn núi (têz tăng taox), ưu tiên cho cây lanh được trồng những mảnh
nương mới phát, mới gieo trồng vụ đầu tiên (têz krao luôx). Trước đây, do
16
cuộc sống du cư nên đồng bào canh tác lanh trên những mảnh nương du canh
(têz phax). Đây là loại nương không được sử dụng thường xuyên, liên tục.
Theo tập quán truyền thống, đồng bào thường gieo trồng trên những mảnh
nương này từ 3 đến 5 vụ. Khi đất quá bạc màu, họ chuyển sang khai phá
mảnh nương mới, nương cũ được bỏ hoá cho cây cỏ tái phát triển, sau 5 – 10
năm đồng bào mới quay lại canh tác và chu kỳ gieo trồng mới lại được tiếp
tục. Đặc điểm nổi bật của nương du canh là kỹ thuật canh tác đơn giản, đất
không được cày sới, đồng bào thường dùng gậy chọc lỗ tra hạt hoặc gieo vãi;
năng xuất cây trồng thấp, không ổn định.Nay, cuộc sống đã ổn định, tình
trạng du cư không còn, đồng bào chuyển sang canh tác lanh trên những
mảnh nương định canh (têz lâuz). Đó là loại đất canh tác cố định. Đất trồng
đó được họ sử dụng liên tục từ năm này qua năm khác, đời này qua đời khác.
Gắn liền với loại hình nương này là kỹ thuật canh tác dùng cày, sử dụng
phân bón, thâm canh, luân canh, xen canh; năng xuất khá hơn và ổn định
hơn.
Lanh là loại cây ưa ánh sáng nên mảnh đất trồng lanh phải được phát
quang làm cho xung quanh thoáng đãng, không có cây to che bóng. Để lợi
dụng những yếu tố thuận lợi và tránh những yếu tố tiêu cực của tự nhiên,
người Mông ở Cát Cát đã căn cứ vào điều kiện địa hình thành các dạng đồi
thoải lượn sóng hoặc phân bậc của địa hình mà lựa chọn địa điểm trồng lanh
ở sát cạnh những sườn dốc chắn gió hướng Đông Bắc. Những mảnh đất ấy
thường là tương đối bằng phẳng và không có đá nhô đầu, ít lẫn đá phong
hoá.
Để đảm bảo đủ sợi dệt, tuỳ gia đình nhiều hay ít người mà nương lanh
lớn hay nhỏ. Thông thường, trước đây mỗi người phụ nữ thạo việc làm lanh
thường gieo trồng 1,5 ống hạt giống ≈ 1,5 kg hạt giống/vụ ≈ 11 m
2

, sau khi
thu hoạch, nếu thuận lợi có thể dệt khoảng 10 bộ quần áo. Có những gia đình
đông người có khi gieo tới 15 ống hạt giống/năm. Ngày nay, số gia đình hạt
nhân với lượng nhân khẩu trung bình 5 – 6 người/hộ đã trở lên phổ biến, vải
mặc đã được thay thế một phần bằng vải mua ở chợ nên diện tích nương lanh
tính theo hộ giảm đáng kể, thậm chí nhiều gia đình đã không còn trồng lanh
(Xem phần thống kê diện tích nương lanh của từng hộ gia đình thôn Cát Cát
trong Phụ lục 2).
3.1.2. Kỹ thuật trồng và chăm sóc lanh
- Thời vụ trồng lanh:
Để tránh mưa nhiều, gió rét và các hiện tượng thời tiết đặc biệt sảy ra
theo chu kỳ đều đặn hàng năm ở đây như dông, mưa đá, mưa phùn, sương
mù và sương muối… gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng sợi
17
lanh, người Mông ở Cát Cát thường trồng lanh từ giữa tháng 2 đến tháng 3
âm lịch, tuỳ theo thời tiết hàng năm, sau khi gieo ngô xong.
- Lựa chọn và bảo quản hạt giống:
Hạt lanh giống phải chắc và mẩy. Để lấy hạt làm giống, người Mông
thường để lại các cây lanh cao to mọc xung quanh các đám nương lanh, hay
xung quanh các đám nương ngô, hoặc trồng riêng ở những nơi sườn đồi có
độ dốc cao nhưng phải gieo thật thưa để cho cây phát triển to nhiều nhánh
mới cho nhiều hạt… Những cây lanh ấy do không bị chen lấn, đất nhiều chất
dinh dưỡng nuôi cây, quả, nên thường to lớn lại có nhiều cành, nhánh, không
dùng để tước sợi mà chỉ để lấy quả, hạt làm giống. Lượng hạt giống cho một
nương lanh rộng khoảng 100 m
2
là 5 ống, tương đương 5 kg.
Khoảng tháng 9, tháng 10 âm lịch, sau khi thu hoạch ngô 1 tháng là thời
điểm người Mông ở Cát Cát thu lấy hạt lanh giống. Người ta chặt bỏ những
cành có hạt, đập lấy hạt lanh ngay tại nương, đem về cho vào bao tải treo

trên gác bếp hoặc bất cứ chỗ nào khô ráo cũng được, vì hạt lanh có nhiều dầu
nên không sợ bị mọt. Thân cây lanh được phơi khô đốt lấy tro, hoà cùng một
số chất khác có thể làm thuốc súng, hoặc để lại nương làm phân xanh, hoặc
cũng có thể đem làm giấy. Để giữ cho hạt giống được tốt, người Mông
thường giữ riêng, không để hạt giống tiếp xúc lẫn với bất cứ thứ gì. Xưa nay,
hạt lanh giống chỉ để dùng cho vụ sau, tức là chỉ bảo quản trong vòng một
năm là phải sử dụng hết, không để tới vụ thứ hai nếu không khả năng nảy
mầm của hạt sẽ kém và chất lượng cây trồng cũng không cao.
- Kỹ thuật trồng và chăm sóc lanh:
Do đặc điểm bề mặt địa chất ở Cát Cát là đất mùn lẫn dăm sạn, trơ sỏi
đá và vỏ phong hoá vụn bở nên để tăng độ phì cho đất, trên những khoảnh
đất trồng lanh, người ta bao giờ cũng phải làm đất rất kỹ. Đất trồng lanh sau
khi đã được cày sới, phơi ải và bừa qua, người ta dùng cuốc đập đất cho tơi
nhỏ và nhặt sạch cỏ. Công việc này được tiến hành trong 1 – 2 ngày đối với
nương cũ (têz fêu) và 3 – 4 ngày đối với nương mới (têz krao luôx). Sau đó,
người ta đánh luống để gieo trồng. Trước khi gieo hạt, người Mông ở Cát
Cát thường không chọn ngày tốt như khi làm nương ngô, nương lúa. Tuy
nhiên, một số người cẩn thận thì vẫn chọn ngày để mong cho cây mau lớn và
khoẻ mạnh, chống chịu được những điều kiện khắc nghiệt của thời tiết. Theo
đó, ngày được chọn để trồng lanh thường vào ngày con rồng (blungz jăngz),
ngày con mèo (blungz mir) bởi theo quan niệm của họ thì đó là những ngày
tốt, trồng vào những ngày này cây sẽ lớn khoẻ, lớn nhanh, cho nhiều sợi.
18
Trước khi gieo hạt, người ta phải ủ phân một tuần, sau đó mới dùng
phân này để bón lót cho lanh.
Khi gieo hạt, người đàn ông cầm cuốc đi trước cuốc một lần nữa cho đất
tơi xốp và tạo thành luống, người phụ nữ đi sau đeo gùi rải phân đã ủ đều
khắp luống. Sau đó, họ lại rải một lớp đất mỏng lên trên rồi mới gieo hạt.
Gieo hạt xong, người ta dùng cuốc cào một lớp đất dầy khoảng 0,5 – 1 cm
phủ lên trên hạt giống để giữ độ ẩm đủ cho hạt nảy mầm.

Hạt lanh thường nảy mầm trong điều kiện thời tiết thuận lợi chỉ sau ba
ngày những lá mầm đầu tiên đã nhô khỏi mặt đất. Vì thế, người Mông ở Cát
Cát có câu thành ngữ mang tính chất là một sự đúc kết kinh nghiệm thường
được những người già dùng để răn dạy lớp trẻ như sau:
Ba ngày không mọc không phải cây lanh,
Ba ngày không thối không phải con gấu
(Pêz hnungz tsi tuôx tsi zaos mangx
Pêz hnungz tsi lưx tsi zaos đêis)
Kỹ thuật gieo lanh của người Mông ở Cát Cát là kỹ thuật gieo vãi hạt.
Khi gieo, người ta vãy hạt lanh khá dày, như thế các cây lanh mọc xen khít
vào nhau, không có cành nhánh, nên vỏ lanh khi thu hoạch sẽ không có mấu,
chạc, thuận lợi cho việc se sợi, dệt vải. Tuy nhiên, nếu gieo dầy quá cây lanh
sẽ còi, sợi mỏng, còn nếu gieo thưa quá cây lanh sẽ mọc nhiều cành phụ
không dùng để làm sợi được, nên thông thường mỗi gốc lanh cách nhau một
chiều khoảng 1,4 – 1,6 cm và chiều kia khoảng từ 1,5 – 1,8 cm để cây thoáng
và dễ hấp thu ánh sáng mặt trời.
Sau khi gieo hạt xong, người gieo hạt đứng ở một góc nương lanh, mặt
hướng vào nương lanh và nói:
Mangx ơ! Tuôx ơ!
Muôz mangx lêil ruôz luôx sơưr tsênhl tuôx
Muôz mangx lêil ruôz angr sơưr tsênhl langr
Hluz lux cak pêz lếi traor lul tsêr
Tạm dịch là:
Lanh ơi! Sợi ơi!
Lấy lanh gieo xuống đất cho thành sợi
Lấy lanh gieo xuống đất cho dây
19
Mọc nhanh ba ngày lên nhé
Từ khi bắt đầu gieo hạt cho đến lúc thu hoạch, người ta gần như không
làm cỏ, bón phân, tưới nước cho lanh lần nào. Chỉ trừ những trường hợp cây

lanh quá còi cọc họ mới dùng nước giải trộn với tro để tưới, hoặc những khi
quá khô hạn người ta mới gánh nước lên tưới cho lanh. Mỗi nương lanh gần
nhà đều được rào cẩn thận để tránh không cho gia súc, gia cầm phá hoại. Với
những mảnh nương lanh xa nhà thì người ta chỉ cần rào chặn những lối đi lại
của gia súc là được. Đến khoảng tháng 5, tháng 6 âm lịch là thời điểm cây
lanh đang trong thời kỳ phát triển tốt nhất, chất lượng lanh khoẻ nhất; và đây
cũng chính là thời điểm thu hoạch lanh.
Chất lượng vải lanh phụ thuộc nhiều vào chất lượng sợi; đồng thời tính
đồng bộ của sợi lanh cũng là một trong những yếu tố quan trọng làm nên
chất lượng vải. Tính đồng bộ đó được thể hiện ở chiều cao cũng như độ mập
của thân cây và độ dầy của vỏ cây. Vì vậy, người ta thường phân loại lanh
ngay từ khâu thu hoạch Theo kinh nghiệm dân gian, các cây lanh to (cao trên
dưới 2m; chu vi gốc khoảng 4,4 – 5 cm) được gọi là lax mangx (tức lanh bố)
được bó riêng. Sợi của loại lanh này được dùng để bện dây buộc hoặc dệt vỏ
bao đựng. Các cây lanh nhỏ (cao 1,3 – 1,6 m; chu vi gốc khoảng 3 – 3,5 cm)
được gọi là nhôk mangx (tức lanh con) dùng để dệt may trang phục và các
sản phẩm may mặc khác. Lanh nhỏ sau đó lại được phân chia thành các loại
có độ dài ngắn bằng nhau để các sợi lanh có chiều dài tương đối bằng nhau
rồi mới bó lại, mỗi bó khoảng 100 cây trở lên.
Sau khi đã róc bỏ hết lá, người ta phơi nắng 3 – 4 ngày theo cách ngày
phơi, tối cất. Sau đó, cây lanh lại được phơi sương 2 đêm theo cách ngày cất,
đêm phơi và cuối cùng phơi thêm 1 ngày nắng nữa; lúc này lanh có thể tước
lấy sợi.
3.1.3. Kỹ thuật và các công đoạn chế biến lanh thành sợi
Trong toàn bộ quy trình dệt thì việc làm sợi là mất thời gian nhất và tốn
khá nhiều công sức. Việc phân công lao động trong quá trình tạo nguyên liệu
cho nghề dệt của người Mông ở Cát Cát diễn ra theo giới tính và lứa tuổi.
Thông thường, người đàn ông tham gia làm đất, gieo trồng và thu hoạch
lanh, còn tất cả quá trình tạo sợi đều do những người phụ nữ trong gia đình
đảm nhiệm.

- Tước vỏ lanh:
Sau khi thân cây lanh đã được phơi nắng, phơi sương đủ độ, lanh được
tước lấy vỏ - tiếng Mông gọi là lêiv mangx. Công việc này phải làm xong
trước khi có các đợt gió mùa đông bắc tràn về nếu không lanh sẽ bị khô sợi,
20
giảm độ bền, sợi nát, khó nối. Công thức tước vỏ lanh áp dụng cho cả lanh
bố và lanh nhỏ được thực hiện như sau:
Vị trí tước vỏ đầu tiên được thực hiện bắt đầu từ giữa thân về phía ngọn.
Sau đó, sợi lại tiếp tục được tước từ giữa thân cây về phía gốc. Theo công
thức đó, người phụ nữ Mông dùng hai đầu ngón tay trỏ và ngón tay cái của
cả hai bàn tay vê và lắc nhẹ đoạn giữa thân cây cho dập rồi luồn móng tay
cái của một bàn tay bất kỳ (với những người mới làm thì người ta thường
dùng bên bàn tay thuận) luồn vào giữa lớp vỏ và thân cây để tách sợi. Và vẫn
với móng tay ấy, người ta sẽ tước đều theo dọc thân lanh vỏ sau khi tước ra
phải to đều, không bị rách, không bị sơ, chạy đều suốt từ đầu đến cuối là
được. Thông thường, với một cây lanh, người ta có thể tước được 4 sợi, mỗi
sợi sau đó lại được tước làm 2 – 3 phần cho kết quả cuối cùng là 8 – 12
sợi/cây. Chiều dài của sợi lanh phụ thuộc vào chiều cao của thân cây lanh
cho sợi. Thời gian tước sợi của mỗi gia đình thường vào khoảng 20 ngày.
- Giã sợi (ntuôs tôx):
Vỏ lanh sau khi tước được gọi là ntuôs được bó thành từng bó đều nhau
cho vào cối giã khoảng nửa giờ cho mềm sẽ dễ nối hơn và không để lại mối
nối. Công đoạn giã sợi thường phải thực hiện từ 4 – 5 ngày.
- Nối sợi:
Nối sợi - tiếng Mông gọi là sơư ntuôs. Đây là công đoạn chiếm nhiều
thời gian nhất được tiến hành sau đó. Những sợi lanh sau khi đã tước tương
đối đều nhau được nối với nhau một cách rất đặc biệt: Người ta tách đôi một
sợi lanh ở vị trí cách đầu sợi khoảng 10 cm rồi luồn một sợi khác vào giữa,
xoắn lại, sai đó lại tách đôi sợi này và luồn sợi thứ nhất vào. Bằng cách này,
sợi lanh vẫn đều, nuột, không rõ mối nối. Người phụ nữ thường bó sợi lanh

thành từng chùm nhỏ, quấn quanh bụng, sau đó rút lấy từng sợi, từng sợi…
nối lại với nhau, nối được đến đâu người nối lại cuốn vào bàn tay đến đấy
(thường cuốn vào tay chiêu); hoặc người ta cũng có thể cuốn sợi lanh vào
một vòng mây gắn vào một que tre nhỏ. Khi nối sợi, người ta phải tuân thủ
nguyên tắc nối đầu ngọn với đầu ngọn, nối đầu gốc với đầu gốc và các đoạn
nối phải to đều, sợi nào bé thì bổ sung thêm sợi, sợi nào to quá thì phải tước
bớt đi để khi lên vải các thớ sợi mới đều, vải dệt mới phẳng, mịn. Người phụ
nữ Mông thường tranh thủ chắp, nối sợi lanh vào bất kỳ lúc nào đôi tay họ
rảnh. Với một cuộn lanh thô bên thắt lưng, trên đường đi nương, đi chợ…
thậm chí ngay cả khi tiếp khách bên bếp lửa, họ cũng luôn tay chắp nối sợi.
- Xe sợi (yuôz ntuôs):
21
Sau khi xe và nối sợi bằng tay, sợi được đưa lên guồng (yuôz) xe tiếp
một lần nữa. Để khỏi bị đứt, các cuộn sợi này được nhúng vào nước từ 15
đến 20 phút trước khi xe cho mềm, tăng độ dẻo dai.
Cấu tạo guồng xe sợi của người Mông ở Cát Cát cho phép mỗi lần xe
sợi, người ta sẽ đưa đồng thời được sợi từ 4 cuộn sợi vào 4 con suốt chỉ. Khi
xe sợi, người ta đặt 4 cuộn sợi nằm dàn hàng ngang trên một miếng gỗ phẳng
(hoặc cũng có thể đặt vào thùng hay chậu), cách trục đỡ 1,2 m. Sợi được đưa
lên vắt ngang một thanh tre cao cách mặt đất 1,5 m. Từ đây, sợi được dẫn
thẳng đến suốt cuốn sợi. Người ta sẽ dùng tay cuộn mồi một đoạn khoảng 50
– 60 cm vào con suốt (đầu mỗi cuộn sợi cuốn vào 1 con suốt). Mỗi con suốt
được cắm vào một lỗ cắm suốt trên giá đỡ trục. Xong những việc đó là hoàn
thành công đoạn mắc sợi và người ta có thể tiến hành xe sợi.
Người xe sợi ngồi trên một chiếc ghế cao khoảng 50 cm (độ cao này có
thể thay đổi tương ứng với chiều cao của trục đỡ bánh xe và trục đỡ cần
đạp). Hai chân người xe sợi để trên cần đạp - một chân đặt ở phía trong, một
chân đặt ở phía ngoài trục đỡ cần. Hai tay người xe sợi cầm hai đoạn thân
cây tre nhỏ hoặc gỗ tròn (đường kính khoảng 2,5 – 3 cm). Đoạn cây bên tay
trái dài khoảng 20 – 25 cm được luồn xuống dưới tuyến đi của sợi. 4 sợi

chạy qua đoạn cây này được luồn qua 4 kẽ ngón tay của người xe sợi có tác
dụng như một sự phân luồng). Đoạn cây bên tay phải dài ≈ 1,2 m đặt ở trên
và luôn được dìm xuống hay thả lỏng cho các đường sợi dâng lên nhịp nhàng
theo từng vòng quay có tác dụng làm cho sợi khi cuốn vào suốt được phân
chia đều đặn ở các vị trí trong - giữa – ngoài của con suốt. Nói cách khác, cả
hai đoạn cây này đều có tác dụng can thiệp vào tuyến đi của sợi (lái sợi)
trong lúc vận hành sao cho 4 dòng sợi không bị vướng vào nhau làm rối sợi
và để sợi đánh vào suốt được đều theo ý muốn của người xe sợi.
Khi vận hành, hai chân người xe sợi đạp vào cần đạp với nhịp đạp thay
đổi đều đặn giữa hai chân, lúc nhấn mạnh đoạn phía trong, lúc nhấn mạnh
đoạn phía ngoài sẽ làm cho bánh xe chuyển động theo vòng tròn kéo theo sự
chuyển động của suối chỉ. Hai tay người xe sợi luôn luôn can thiệp vào
đường chuyển động của sợi và đôi mắt phải luôn luôn theo dõi sự can thiệp
ấy.
Sau khi được xe, sợi đã chuyển từ dạng dẹt và mỏng của vỏ cây sang
dạng tròn và xoắn bện của sợi. Công đoạn xe sợi được tiến hành trong
khoảng 5 ngày.
- Thu sợi (Cayr dayr):
22
Sợi sau khi được xe đã đạt được độ mềm mượt, dẻo dai, tròn, xoắn bện
và bền chắc cần thiết nhưng lúc này sợi mới chỉ được cuốn vào từng suốt
nhỏ. Muốn thực hiện được các công đoạn tiếp sau, người ta phải thu sợi
thành những bó lớn bằng guồng thu sợi (khâuz lis).
Để thu sợi, người ta cho các con suốt sợi được vào một vật chứa (rổ đan,
thùng gỗ, gùi…) đặt ở một góc nhà. Mỗi “mẻ” thu sợi, người ta mắc lên
guồng 10 - 12 con sợi (tương ứng với 10 con suốt sợi). Đầu của các con sợi
này được buộc gắn với 1 thanh chốt chặn bất kỳ. Sau đó, người ta lần sợi
mắc vòng quanh guồng 1 vòng làm mồi rồi mới bắt đầu tiến hành khởi động
vòng guồng từ trái qua phải hoặc từ phải qua trái tuỳ theo ý muốn của người
thu sợi.

Khi guồng quay đã hoạt động trơn tru, người thu sợi ngồi ở một góc nhà
bất kỳ (trừ góc nhà có đặt vật chứa các con suốt sợi và dùng tay tác động vào
các đầu thanh cuộn từ trái qua phải hoặc từ phải qua trái theo vòng khởi
động tạo ra một lực đẩy vào thanh cuộn. Lực đẩy này sẽ được truyền đến
trục làm cho trục quay. Để tránh không cho rối sợi, người ta không bao giờ
quay nhanh quá và đặc biệt là phải quay đều tay. Mỗi khi sợi bị rối, người ta
phải dừng guồng rồi ra gỡ trước khi tiếp tục cho trục quay. Mỗi khi các con
suốt hết sợi, người ta lại phải ra nối tiếp sợi từ các con suốt khác vào các đầu
chỉ từ các con suốt vừa hết. Vì vậy, để đỡ mệt mỏi khi thực hiện công đoạn
này, người ta thường làm việc theo “ekip” 2 người: một người chuyên quay
guồng và một người chuyên gỡ và nối sợi. Khi mỏi, hai người này có thể đổi
vị trí thao tác cho nhau.
Công đoạn thu sợi được tiến hành trong vòng 7 ngày.
- Luộc - ủ - giặt sợi:
Công đoạn này có tác dụng làm trắng sợi. Để luộc và ủ sợi, người ta cần
phải có tro bếp, tốt nhất là tro lấy từ gỗ thuộc loài “tống quá sủ” (Alnus
nepalensis) - một loài cây có sức sống tương đối cao mọc gần như thuần loài
hoặc xen kẽ với các loài cây thuộc họ Re (Litsea spp., Lindera spp.), Dẻ
(Castanopsis spp., Fagus spp), Mộc lan (Magnilia spp.), Hồ đào (Plantacarya
spp)… trên nhiều khoảnh đất canh tác bỏ hoang trong vùng sau giai đoạn
trảng cỏ và savan (thường là các loại cây thân thảo 1 năm), nhanh chóng
khép tán, thường vào khoảng 6 – 8 năm đã hình thành rừng non khép tán với
chiều cao trung bình là 5 m.
Những bó sợi sau khi được tước, xe và thu thành từng bó sợi lớn sẽ
được ngâm với nước tro bếp rồi luộc chín cho bong hết vỏ xanh. Mỗi mẻ
luộc, người ta sẽ thực hiện từ 4 – 5 cuộn sợi, thời gian luộc cho mỗi mẻ
23
khoảng 30 – 60 phút thì vớt ra. Thông thường các gia đình người Mông chỉ
cần luộc một đêm là hết số sợi. Chỉ gia đình nào đông con gái, sợi nhiều mới
cần thêm một ngày hôm sau.

Sau mỗi lần luộc sợi, người ta sẽ ủ sợi bằng cách rắc một lớp tro nguội
lên tro bếp còn nóng ở đáy chảo (lượt rắc dày khoảng 1 – 2 cm). Sau đó,
người ta dùng một mảnh vải lanh hoặc một chiếc váy lanh cũ trải lên trên,
đặt các cuộn sợi này vào đó, dùng một tấm vải khác phủ lên sợi, rồi rải thêm
một lớp tro nữa lên trên (với độ dày tương đương với lớp tro ở đáy chảo) để
ủ sợi trong 5 ngày. Sau đó mới mang giặt cho sạch và cho lên guồng thu sợi
phơi khô. Tiếp theo, sợi còn được luộc và ủ tro thêm 3 lần nữa, những lần
sau chỉ cần ủ trong một ngày một đêm. Riêng lần luộc sau cùng, người ta còn
cho thêm một ít sáp ong cho sợi trắng, mịn và dai chắc. Thứ sợi lanh đã được
làm xoăn, trắng và sạch như thế người Mông gọi là “Xur”.
- Lăn sợi:
Để làm cho sợi mềm, bóng, các đầu nối sợi mỏng ra và phẳng, không lộ
ra các mối nối, người ta còn dùng một dụng cụ để lăn sợi. Đó là một khúc gỗ
tròn làm trục lăn, một phiến đá đẽo phẳng nhẵn hoặc một tấm ván gỗ, chiều
dài khoảng 1 m, chiều rộng khoảng 0,3 m. Người ta đặt sợi lên khúc gỗ tròn,
lấy phiến đá hoặc tấm ván đặt lên trục gỗ rồi đứng trên phiến đá, vịn hai tay
vào tường, chân đẩy lúc sang trái, lúc sang phải làm cho trục gỗ chuyển động
lăn đi lăn lại miết xuống sợi lanh.
- Tháo sợi:
Sau khi lăn xong, sợi được đưa lên giồng thu sợi để tháo cho dễ. Cách
tháo sợi rất đơn giản, người ta đặt đầu sợi vào đáy gùi rồi xoay guồng thu
sợi, tay dỡ sợi thả dần xuống gùi. Khi tháo sợi, không cho trẻ em tới gần vì
nếu chúng nghịch sẽ làm rối sợi.
- Xếp sợi:
+ Xếp sợi dọc:
Sau khi tháo sợi xong là đến công đoạn xếp sợi dọc thành các con chỉ
dệt. Mỗi con chỉ gồm có 10 hoặc 12 sợi. Người ta đổ 10 hoặc 12 ống sợi từ
gùi ra, luồn sợi qua các lỗ đục trên một thanh tre ngang đóng vào cọc tre.
Xếp sợi đòi hỏi phải có 2 người: Một người dùng tay túm các sợi lanh thành
con sợi lần lượt đi từ đầu này đến đầu kia để ghim con sợi vào các cọc gỗ

đóng trên sàn, một người trông coi cho sợi không bị rối. Đặc biệt, người
Mông còn có một cách làm hết sức sáng tạo là rắc cát khô lên trên đống sợi
để khi kéo sợi không bị rối.
24
4. NHỮNG BIẾN ĐỔI VÀ GIẢI PHÁP NHẰM BẢO TỒN VÀ PHÁT
HUY NGUỒN NGUYÊN LIỆU DỆT MAY TRUYỀN THỐNG CỦA
NGƯỜI MÔNG Ở CÁT CÁT
4.1. Những biến đổi
Thực tế tình hình ăn vận trang phục của người Mông ở Cát Cát hiện nay
cho thấy tuyệt đại bộ phận đồng bào vẫn bảo lưu hầu như nguyên vẹn trang
phục truyền thống của mình. Tuy những năm gần đây, có một số biến đổi về
trang phục nhưng điều đó không làm trang phục Mông mất đi tính truyền
thống mà trái lại ngày càng đẹp và tiện dụng hơn, thích hợp với quy luật vận
động của cuộc sống mới. Xét riêng về nguyên vật liệu, có thể thấy sự thay
đổi so với trước đây như sau:
Theo truyền thống, người Mông dệt vải bằng sợi lanh. Họ quan niệm lúc
chết phải mặc trang phục vải lanh, bởi lẽ “chỉ có mặt vải lanh mới không lạc
tổ tiên. Mặc vải lanh thì ma tổ tiên mới nhận được mặt con cháu”. Vải lanh,
sợi lanh với người Mông đã trở thành tín hiệu để nhận biết cội nguồn, kể cả
lúc còn sống và khi đã chết và là sợi dây liên hệ giữa thế giới người sống và
thế giới người chết; sợi dây liên hệ giữa những người bình thường và thế
giới thần linh; sợi dây liên lạc giữa thầy cúng và các thế lực siêu nhiên.v.v…
Cây lanh vì vậy mà đã trở thành một trong những biểu tượng quan trọng
trong đời sống người Mông ở Cát Cát xưa và nay.
Tuy nhiên, nhiều bộ phận của trang phục của không chỉ nam giới mà cả
nữ giới đã được thay thế bằng các loại vải có bán sẵn trên thị trường. Từ chất
liệu chủ yếu là sợi tự nhiên như cotton, phin, len, dạ… cho đến các loại chất
liệu sử dụng nhiều nguyên liệu hoá học như siu, lanh, xa tanh… được đồng
bào mua về để may trang phục hoặc kết hợp với vải lanh để tạo ra trang
phục. Sự xuất hiện của các nguyên liệu mới có thể nhận thấy ở bất kỳ bộ

phận nào trên trang phục của người Mông. Vải lanh ngày nay chỉ được dùng
theo đúng phong tục ở các dịp đại sự như dùng cho cô dâu, chú rể trong ngày
cưới hoặc dành để mặc lúc chết.
Tổng diện tích nương lanh của thôn Cát Cát hiện nay so với 20 năm
trước đây hầu như không có sự thay đổi đáng kể. Tuy nhiên, đó là xét trên
quy mô thôn; còn nếu xét theo quy mô hộ thì sự thay đổi là quá rõ. Trong
quá trình điều tra tại cơ sở, chúng tôi không thu thập được số liệu về dân số
thôn Cát Cát 20 trước đây, nhưng theo điều tra hồi cố từ một số người cao
tuổi thì thôn Cát Cát cách đây 20 năm chỉ có chưa đầy 30 hộ với khoảng hơn
100 nhân khẩu (ít hơn 5 lần so với hiện nay). Mặc dù vậy, diện tích nương
25

×