Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

to chuc he thong thu mua ca phe viet nam ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.76 KB, 26 trang )

Chuyên đề: QTKD
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Kinh doanh cà phê ngày nay đã chiếm một vị trí rất quan trọng trên phạm
vi toàn thế giới. Đối với Việt nam, cà phê là mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ
lực chỉ đứng sau gạo. Hàng năm xuất khẩu cà phê đem về cho nền kinh tế một
lượng ngoại tệ không nhỏ, đồng thời giải quyết hàng trăm nghìn công ăn việc
làm cho người lao động trong nước.
Từ nhiều năm qua xuất khẩu cà phê Việt Nam liên tục gia tăng, cơ cấu
sản phẩm xuất khẩu đã có sự thay đổi tích cực, chất lượng và sức cạnh tranh sản
phẩm đã được nâng lên trên các thị trường lớn như EU, Hoa Kỳ. Tuy nhiên, quy
mô, thị phần xuất khẩu còn nhỏ, về chất lượng không đồng đề nên kém cạnh
tranh so với các đối thủ, chủ yếu là xuất khẩu cà phê nhân, tỷ lệ cà phê thương
phẩm còn thấp.
Việt Nam là nước xuất khẩu cà phê lớn thứ hai trên thế giới về sản lượng cà phê
nhân (sau Braxin). Đây là một trong năm mặt hàng nông nghiệp xuất khẩu có giá
trị lớn hơn 1 tỷ USD của Việt Nam
Mặc dù cà phê xuất khẩu của Việt Nam có khối lượng lớn, trong đó chủ
yếu là cà phê Robusta nhưng chất lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam chưa
đồng đều, đặc biệt số lượng cà phê xuất khẩu bị thải loại và bị trả lại còn chiếm
tỷ lệ cao (hơn 60%) trong tổng số cà phê xuất khẩu bị thải loại của thế giới. Một
trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng cà phê nhân xuất khẩu như
kỹ thuật trồng trọt và thu hái chưa tốt, tình trạng thu hái đồng loạt cả quả xanh,
quả non còn khá phổ biến; cơ sở vật chất phục vụ sơ chế bảo quản cà phê còn
thiếu thốn; cơ chế giá thu mua cà phê tươi chưa khuyến khích người sản xuất
quan tâm đến chất lượng, nhất là khâu thu hoạch, phơi sấy, phân loại. Mặt khác
hầu hết việc tổ chức thu mua cà phê của Việt Nam hiện nay dựa trên sự thỏa
thuận giữa bên mua, bên bán thông qua nhiều khâu trung gian nên việc tổ chức
kho bãi bảo quản và phân loại chất lượng theo tỷ lệ hạt đen, hạt vỡ là cách phân
loại đơn giản và lạc hậu mà hầu hết các nước xuất khẩu cà phê trên thế giới
không còn áp dụng. Đây là lý do các nhà nhập khẩu đánh tụt cấp chất lượng của


các lô hàng và làm giảm uy tín chất lượng chung của cà phê Việt Nam. Vì những
lí do trên nên việc nghiên cứu đề tài “ Tổ chức hệ thống thu mua và bảo quản
Trang - 1 -
Chuyên đề: QTKD
nhằm góp phần nâng cao chất lượng cà phê Việt Nam” là vấn đề cần thiết hiện
nay nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh và nâng cao thương hiệu cà phê của Việt
Nam trong và ngoài nước.
2. Mục tiêu nghiên cứu.
2.1. Mục tiêu chung.
Mục tiêu của đề tài là phân tích thực trạng hệ thống thu mua và bảo
quản cà phê của Việt Nam, qua đó tìm ra giải pháp góp phần phát triển và
nâng cao hiệu quả của hệ thống thu mua từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh
của cà phê Việt Nam
2.2. Mục tiêu cụ thể.
 Phân tích thực trạng của hệ thống thu mua của ngành cà phê Việt Nam.
 Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc tổ chức thu mua cà phê
 Đề xuất giải pháp để nâng cao hiệu quả của hệ thống thu mua cà phê
Việt Nam.
3. Phạm vi nghiên cứu.
3.1. Phạm vi không gian.
Đề tài được thực hiện tại Tây Nguyên và một số thành phố lớn tập trung
nhiều doanh nghiệp đầu ngành cà phê Việt Nam.
3.2. Phạm vi thời gian.
Do hạn chế về thời gian nên đề tài sử dụng số liệu có liên quan từ năm
2008 - 2011.
3.3. Đối tượng nghiên cứu: hệ thống thu mua và bảo quản của các doanh
nghiệp sản xuất và xuất khẩu cà phê Việt Nam.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu.
4.1. Phương pháp luận (khung lí thuyết nghiên cứu)
- Nguồn gốc cây cà phê

- Đặc điểm sinh học của cây cà phê
- Đặc điểm chung về hương vị của cà phê
-Tác dụng chung của cà phê
Những loại cà phê được sản xuất tại Việt Nam
- Cà phê Arabica
- Cà phê Robusta
Trang - 2 -
Chuyên đề: QTKD
- Khái niệm thu mua.
- Khái niệm hệ thống thu mua
- Một số khái niệm liên quan đến cung ứng và một số mô hình dự trữ
4.2. Phương pháp nghiên cứu.
4.2.1. Phương pháp thu thập số liệu.
Chuyên đề sử dụng phương pháp thu thập số liệu thứ cấp: Thông qua
sách, tạp chí, báo cáo khoa học và nguồn thông tin từ Internet có liên quan
đến đối tượng nghiên cứu.
4.2.2. Phương pháp phân tích số liệu.
 Để thực hiện mục tiêu 1 đề tài sử dụng phương pháp thống kê mô tả
 Để thực hiện mục tiêu 2 đề tài sử dụng phương pháp so sánh để phân tích
các nhân tố ảnh hưởng đến hệ thống thu mua của ngành cà phê Việt Nam.
 Để thực hiện mục tiêu 3 đề tài sử dụng kết quả phân tích của mục tiêu 1 và
2 kết hợp với phương pháp suy luận để đề xuất các giải pháp.

Trang - 3 -
Chuyên đề: QTKD
CHƯƠNG 1: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG HỆ THỐNG THU MUA
VÀ BẢO QUẢN CÀ PHÊ CỦA VIỆT NAM TỪ NĂM 2008 ĐẾN
NĂM 2010
1.1. SẢN LƯỢNG CÀ PHÊ THEO LOẠI TỪ NĂM 2008 ĐẾN NĂM 2010:
Việt Nam có 3 giống cà phê chủ yếu, nhưng do thói quen và điều kiện sản

xuất nên thực tế nước ta chỉ trồng 2 loại, bao gồm loại Arabica và loại
Robusta.Trong bối cảnh nhu cầu tiêu dùng cà phê trên thế giới ngày một tăng
cao, mà lượng cung không đủ để đáp ứng, kể cả các nước hàng đầu như Brazil.
Ngành cà phê Việt Nam đang có lợi thế hướng đến việc chi phối thị trường cà
phê trên thế giới. Lợi thế chính của chúng ta là có sản lượng cà phê robusta (cà
phê vối) lớn nhất với giá thành sản xuất thấp. Theo nhận định của tổ chức cà phê
thế giới ICO, Việt Nam hiện là quốc gia có diện tích và sản lượng cà phê
Robusta lớn nhất thế giới, với hơn 530.000 ha và sản lượng hàng năm từ 750.000
đến 800.000 tấn, tạo ra lợi thế cạnh tranh so với các sản phẩm cùng loại của các
nước xuất khẩu khác. Cùng với việc áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật
trong chế biến sản phẩm, cà phê robusta ngày càng được ưa thích trên thế giới vì
góp phần giảm giá thành các sản phẩm cà phê hòa tan. Tất cả những hiện thực đó
tạo một điều kiện hết sức thuận lợi cho cà phê Việt Nam có cơ hội được du nhập
sang thị trường khác.
Bảng 1: Sản lượng của từng loại cà phê Việt Nam qua các năm
Đơn vị tính: Triệu bao
Loại
Năm
Năm
Năm
So sánh 2009/2008 So sánh 2010/2009
số lượng Tỷ lệ số lượng Tỷ lệ
1. Rubusta 17,46 16,09 18,00 - 1,37 - 7,84% 1,91 11,87%
2. Arabica 0,54 0,50 0,40 - 0,04 - 7,4% - 0,1 - 20%
Tổng 18 19,59 18,40
Nguồn: Tổng hợp số liệu của Vicofa
Trang - 4 -
Chuyên đề: QTKD
Đồ thị: Sản lượng cà phê Việt Nam theo loại từ năm 2008 đến năm 2010
Sản lượng cà phê qua các năm không ổn định, như một chu kỳ luôn tăng

giảm thất thường bởi nhiều nguyên nhân. Tuy nhiên, vẫn giữ được vị thế cao so
với các nước khác. Những năm gần đây, sản lượng tuy có giảm nhưng không
đáng kể. Nhưng sự tăng giảm thất thường đó sẽ ảnh hưởng không tốt đến kinh tế
người trồng cà phê, hơn nữa là nền kinh tế Việt Nam trong việc xuất khẩu sang
thị trường quốc tế, rất khó để có thể ký kết những hợp đồng dài hạn với các nước
khác ( do không đảm bảo nguồn cung ).
Nhìn vào biểu đồ ta thấy sản lượng Cà phê loại Robusta vẫn cao hơn loại
Arabica, cụ thể năm 2008 sản lượng Rubusta là 17.46 triệu bao chiếm 97% ,
trong khi loại Arabica chỉ có 0.54 triệu bao chiếm 3% tổng sản lượng năm 2008.
Đến năm 2009 sản lượng cà phê loại Rubusta là 16.09 triệu bao và Arabica là
0.50 triệu bao. Đến năm 2010 sản lượng cà phê Rubusta là 18.00 triệu bao trong
khi sản lượng của Arabica là 0.40 triệu bao.
Sự chênh lệch sản lượng các loại cà phê như sau: chênh lệch sản lượng cà phê
loại Rubusta của năm 2009 giảm so với năm 2008 là (1.37 triệu bao) với tỷ lệ là
(7.84%) và loại Arabica cũng giảm ( 0.04 triệu bao) với tỷ lệ là (7.4%). có thể
Trang - 5 -
Chuyên đề: QTKD
thấy sự chênh lệch sản lượng cà phê như thế này là do nguyên nhân chủ yếu là
mưa quá nhiều trong giai đoạn cây ra hoa và thời gian thu hoạch tại các tỉnh Đắc
Lắc và Lâm Đồng – hai địa phương trồng cà phê lớn nhất nước. Bên cạnh đó,
mưa bất thường ở thời điểm cuối giai đoạn ra hoa cũng là nguyên nhân khiến trái
cà phê chín ở những thời điểm khác nhau, làm giảm sản lượng, đặc biệt là loại
Robusta. Đến năm 2010 sản lượng cà phê loại Rubusta tăng từ 16.09 triệu bao
lên 18 triệu bao vào năm 2010 chênh lệch 1.91 triệu bao tăng 11.87% , còn sản
lượng cà phê Acabica lại giảm đi, sản lượng chỉ còn 0.40 triệu bao đã giảm 0.1
triệu bao giảm (20%) so với năm 2009.
1.2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THU HOẠCH CÀ PHÊ Ở VIỆT NAM
1.2.1. Nạn hái cà phê xanh ảnh hưởng đến chất lượng cà phê việt nam.
Việt Nam là nước xuất khẩu cà phê lớn thứ hai trên thế giới về sản lượng
cà phê nhân (sau Braxin). Mặc dù cà phê xuất khẩu của Việt Nam có khối lượng

lớn, trong đó chủ yếu là cà phê Robusta nhưng chất lượng cà phê xuất khẩu của
Việt Nam chưa đồng đều, đặc biệt số lượng cà phê xuất khẩu bị thải loại và bị trả
lại còn chiếm tỷ lệ cao (hơn 60%) trong tổng số cà phê xuất khẩu bị thải loại của
thế giới. Một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng cà phê nhân
xuất khẩu như kỹ thuật trồng trọt và thu hái chưa tốt, tình trạng thu hái đồng loạt
cả quả xanh, quả non còn khá phổ biến. Thực tế, nông dân thu hái vườn lượng
quả xanh chiếm đến 60% - 70% sản lượng thu hoạch. Trong đó khi theo quy
trình kỹ thuật thì việc thu hoạch phải được tiến hành 3 lần, mỗi lần cách nhau từ
10 – 15 ngày tùy theo lượng quả chín trên cây. Tình trạng thu hoạch như trên sẽ
làm ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng cà phê xuất khẩu Việt Nam vụ tới. Cũng
theo tính toán của Bộ NN-PTNT, ngành cà phê Việt Nam thiệt hại trên 100 triệu
USD/vụ do tăng thêm chi phí gia công, trong khi đó giá bán trên thị trường thế
giới lại thấp hơn sản phẩm cùng loại của các nước xuất khẩu hàng đầu thế giới.
Tuy nhiên, cà phê Robusta của Việt Nam thường được bán với giá thấp hơn
nhiều so với các nước do chất lượng thấp. Tính đến cuối năm 2007, giá cà phê
Robusta FOB loại 2 của ta là 1.675 USD/tấn, trong khi giá tại thị trường Luân-
đôn là 1.955 USD/tấn, giá chỉ thị của Tổ chức cà phê quốc tế (ICO) 2.045,9
USD/tấn Niên vụ 2006, lượng cà phê Việt Nam bị thải loại chiếm tới 89% tổng
lượng cà phê bị thải loại trên thị trường thế giới, tương đương 1,65 triệu bao.
Trang - 6 -
Chuyên đề: QTKD
Nguyên nhân của tình trạng trên là do người sản xuất, các doanh nghiệp
xuất khẩu cà phê đã không tuân thủ các điều kiện về thu hái, chế biến và bảo
quản sản phẩm; chưa tích cực áp dụng những quy định trong tiêu chuẩn cà phê
TCVN 4193 - 2005. Mặc dù tiêu chuẩn này đã ban hành từ năm 2005, nhưng đến
nay mới chỉ có 10% doanh nghiệp áp dụng, tương đương 1 - 1,5% lượng cà phê
xuất khẩu hàng năm.
Nhiều doanh nghiệp cho rằng, nếu áp dụng tiêu chuẩn TCVN 4193 - 2005,
sản lượng cà phê xuất khẩu sẽ giảm do việc thải loại cà phê chất lượng kém sẽ
nhiều hơn (chiếm khoảng 25 - 30% tổng sản lượng cà phê). Trong khi đó, hệ

thống rang xay trong nước chỉ tiêu thụ được 10%, sẽ khiến việc sản xuất và tiêu
thụ cà phê chậm lại.
Tình trạng thu hái cà phê xanh làm giảm sản lượng, chất lượng cà phê sau
thu hoạch. Nhưng rồi năm nào cũng vậy, tình trạng thu hái cà phê xanh non vẫn
lặp lại như cũ, riêng năm nay có chiều hướng gia tăng mạnh do giá cà phê đầu vụ
tăng cao, khan hiếm nhân công, trộm cướp lộng hành… Điều này xuất phát từ
thực tế là hơn 80% diện tích cà phê của Đắc Lắc và cả Tây Nguyên phân tán nhỏ
lẻ trong các hộ gia đình, rất khó khăn cho việc tổ chức bảo vệ, thu hoạch mỗi khi
vào vụ.
Trong số này chỉ có 34% số hộ có quy mô diện tích từ 0,5 – 1ha, 35% số
hộ có dưới 0,5ha nên việc đầu tư sản xuất, nâng cao chất lượng cà phê lại càng
khó thực hiện. Chỉ có các DN với lực lượng bảo vệ chuyên trách, nhân công dồi
dào mới có thể chờ cà phê chín rộ rồi mới thu hoạch. Trên thế giới, các cường
quốc cà phê tuy không có DN kiểu như ta, song phần lớn diện tích cà phê nằm
trong các đồn điền, trang trại lớn của tư nhân nên họ cũng dễ dàng áp dụng các
tiêu chuẩn về chất lượng. . Với tâm lí chung của người dân là biết rằng thu hái cà
phê xanh sẽ làm giảm chất lượng quả, nhưng không hái quả xanh lẫn quả chín thì
mất nhiều nhân công và thời gian để thu hái, còn bị bọn trộm nó tuốt sạch cả
cành.
Thu hái cà phê xanh không chỉ làm giảm năng suất mùa vụ, chất lượng
sản phẩm, hiệu quả kinh tế mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến sức cạnh tranh của
cà phê Việt Nam trên thị trường quốc tế. Việt Nam hiện vẫn là nước đứng thứ nhì
trên thế giới về xuất khẩu cà phê với sản lượng chiếm khoảng 40% số càphê xuất
Trang - 7 -
Chuyên đề: QTKD
khẩu của cả thế giới. Theo ước tính, việc thu hái xanh làm giảm đến 50% giá trị
xuất khẩu”.
Việc hái cà phê xanh thì sẽ làm giảm chất lượng quả vì hương sẽ không
thơm, vị sẽ nhạt, nhân không đẹp, không mẩy bóng mà teo tóp và làm giảm từ 10
– 15% sản lượng, khi xuất khẩu sẽ bị khách hàng chê, bị trừ lùi cao (1 tấn từ 100

– 120USD). Hàng năm, cà phê kém chất lượng của Việt Nam bị thải loại trên thị
trường chiếm tới gần 80% số lượng bị thải loại của cả thế giới. Cho nên tính ra
mỗi năm ngành cà phê Việt Nam bị thiệt hại tới hàng trăm triệu USD.
1.2.2. Các hình thức thu hoạch cà phê chủ yếu
1.2.2.1. Thu hoạch bằng phương pháp tuốt cành:
Đa số nông dân trồng cà phê ở Việt Nam thu hoạch cà phê chủ yếu là thuê
công nhân trực tiếp tuốt trái cà phê trên cành. Phương pháp này được áp dụng
khoảng 40% , với phương pháp trực tiếp tuốt cành như vậy sẽ gây khó khăn đến
bảo đảm chất lượng cà phê với tỷ lệ hư hại khoảng 35% - 40%. Hằng năm, nông
dân thực hiện phương pháp này thường ít chi phí nhưng gây ảnh hưởng đến chất
lượng xuất khẩu không đáp ứng tiêu chuẩn TCVN 4193 – 2005, tỷ lệ các hạt cà
phê xanh non và chín trộn lẫn và khó khăn trong việc chế biến đây cũng là
nguyên nhân chứng minh cho thực tế là nước ta là nước xuất khẩu cà phê thứ hai
thế giới nhưng tỷ lệ cà phê bị loại thải khá cao khoảng 35% - 45%. Đây cũng là
một vấn đề mà các nhà doanh nghiệp nên có chính sách đối với phương pháp thu
hái cà phê có chất lượng hơn.
1.2.2.2. Thu hoạch bằng phương pháp hái từng quả:
Thu hoạch cà phê bằng phương pháp thu hái tùng quả trên cành là phương
pháp thủ công mà nông dân áp dụng từ xưa đến nay, người nông dân có thể tìm
những trái chín mà thu hoạch, phương pháp này cũng không làm ảnh hưởng xấu
đến chất lượng cà phê xuất khẩu, với phương pháp thu hoạch này nông dân có
thể tự làm và thuê thêm công nhân với chi phí rẻ hơn, mặc khác, phương pháp
này cũng có nhược điểm đáng quan tâm là thu hoạch rất chậm không đáp ứng
nhanh nhu cầu sản lượng của các doanh nghiệp và thương lái thu mua.

1.2.2.3. Thu hoạch bằng phương pháp hái bằng máy:
Trang - 8 -
Chuyên đề: QTKD
Hiện nay, phương pháp thu hái bằng máy ít được áp dụng ở trong việc thu
hoạch cà phê ở Việt Nam, phương pháp thu hái này mới được áp dụng vào năm

2009 được nông dân áp dụng khoảng 32% . Hình thức thu hái này có ưu điểm là
thu hái nhanh đáp ứng nhu cầu sản lượng của các doanh nghiệp và thương lái thu
mua, không cần thuê mướn nhiều công nhân ít tốn chi phí, nhưng khoảng 32% -
45% sản lượng cà phê thu hoạch bằng máy là quả còn xanh non gây đến ảnh
hưởng chất lượng cà phê của Việt Nam trong việc xuất khẩu.
1.3. THỰC TRẠNG HỆ THỐNG THU MUA CÀ PHÊ Ở VIỆT NAM
Các đại lí thu mua cà phê ở Việt Nam chủ yếu được hình thành từ hộ kinh
doanh cá thể, công ty tư nhân nhỏ lẻ, các hoạt động thu mua chủ yếu là trực tiếp
gom mua của nông dân rồi bán lại cho các doanh nghiệp thu mua để xuất khẩu,
hệ thống thu mua không mang tính liên kết, hệ thống đại lý thu mua cà phê hình
thành một cách tự phát. Các đại lí, doanh nghiệp thu mua cà phê nhỏ lẻ ở Việt
Nam phụ thuộc vào vay vốn tài chính ngân hàng, hệ quả là khi giá cả thị trường
biến động mạnh dẫn đến đổ vỡ theo dây chuyền từ đại lý tới các nhà xuất khẩu.
Nhiều đại lí, doanh nghiệp thu mua cà phê ở Việt Nam đã vỡ nợ và phá sản.
Hiện trạng hệ thống thu mua cà phê của các đại lí và doanh nghiệp Việt
Nam còn mang tính nhỏ lẻ, manh mún không thống nhất phương thức thu mua
làm ảnh hưởng đến nguyên liệu cà phê xuất khẩu. 20 doanh nghiệp nội địa xuất
khẩu cà phê lớn nhất cà nước hiện chỉ nắm giữ trên 50% tổng sản lượng cà phê
xuất khẩu. những năm trước đây các doanh nghiệp trong nước chiếm giữ hơn
80% tổng sản lượng cà phê xuất khẩu, nhưng niên vụ cà phê vừa qua chỉ còn
chiếm khoảng 50% . Hỗ trợ cho các doanh nghiệp nước ngoài mua được cà phê
trực tiếp trong nông dân là hệ thống các đại lí. Hiện số đại lí thu mua cà phê của
doanh nghiệp nước ngoài chiếm 50% tổng đại lí thu mua cà phê cả nước, tăng
35% so với năm trước. Với lợi thế vay ngoại tệ với lãi suất thấp bằng 1/3 lãi suất
các doanh nghiệp trong nước vay đồng tiền, các doanh nghiệp nước ngoài càng
có lợi thế trong việc mở rộng hệ thống thu mua cà phê ở Việt Nam, đồng thời
dồn doanh nghiệp nội địa chịu cảnh đắng trên sân nhà, do thiếu kho bãi, thiếu
vốn lại phải chịu mức lãi vay từ 20 – 22% so với 3 – 4% của doanh nghiệp nước
ngoài (DNNN), doanh nghiệp Việt không thể cạnh tranh lại các DNNN trong
việc mua hàng của nông dân khi vào vụ.doanh nghiệp trong nước không thể cạnh

Trang - 9 -
Chuyên đề: QTKD
tranh được do thiếu vốn, lãi suất ngân hàng cao. Mỗi lần giá cà phê tăng cao thì
ngay sau đó kéo theo hàng loạt các đại lý, doanh nghiệp thu mua cafe vỡ nợ.
Các kênh thu mua cà phê ở Việt Nam khá đa dạng bao gồm các cơ sở tư nhân,
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư ngước ngoài
(nông dân – các cấp đại lý – công ty thu mua – công ty xuất khẩu); trong đó các
cơ sở tư nhân, doanh nghiệp quốc doanh đóng vai trò đại lý thu gom cà phê nhân
trên địa bàn để bán lại cho các công ty xuất khẩu, một số công ty lại bán cho các
doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp ra nước ngoài.
Con số thống kê của Công ty cafecotrol cho thấy, niên vụ cà phê 2010-2011
Việt Nam xuất khẩu 1.250.000 tấn cà phê, trong đó, 20 doanh nghiệp cà phê xuất
khẩu cà phê lớn nhất của Việt Nam là 700.000 tấn, chiếm 56% tổng lượng cà phê
xuất khẩu, trong khi, những năm trước tỷ lệ này vào khoảng 80%. sở dĩ có sự
giảm sút như vậy là do doanh nghiệp cà phê nước ngoài đã tìm cách mua trực
tiếp từ người trồng cà phê nên doanh nghiệp trong nước không thể cạnh tranh
được.
Nhiều công ty xuất khẩu cà phê trong nước cho biết với hoàn cảnh vốn
thiếu, lãi suất cao các doanh nghiệp nước ngoài chỉ phải trả lãi suất ngân hàng
là 3,5%/năm, trong khi các doanh nghiệp trong nước phải mất trên 20%/năm (cao
gấp 6 lần); chính vì vậy mà doanh nghiệp nước ngoài mạnh vốn hơn doanh
nghiệp trong nước.
Cụ thể, khi bước vào vụ thu hoạch cà phê, các doanh nghiệp nước ngoài với
nguồn vốn mạnh, lãi suất thấp đã gom hàng ồ ạt và khá nhanh chóng hoàn thành
chỉ tiêu. Trong khi đó, theo các nhà doanh nghiệp trong nước, thì thời điểm thu
hoạch rộ cà phê ở Tây Nguyên cũng là thời điểm mà các ngân hàng thắt chặt
trong việc cho vay tín dụng và lãi suất lại tăng cao; dẫn đến các doanh nghiệp
trong nước không đủ tiền thu mua nguyên liệu đáp ứng xuất khẩu.
1.3.1 Công tác tổ chức hệ thống thu mua cà phê.
1.3.1.1. Xây dựng bộ máy thu mua và hoạch định chiến lược thu mua cà

phê của các doanh nghiệp Việt Nam.
Dựa vào đặc điểm của thị trường cung cấp cà phê và của chủng loại cà
phê, cá doanh nghiệp phải có những cán bộ thu mua chuyên trách để quen với thị
trường, nắm rõ đặc điểm của mặt hàng. Các doanh nghiệp cũng đã tổ chức bộ
Trang - 10 -
Chuyên đề: QTKD
máy thu mua theo kiểu chuyên doanh.Nhờ vậy không chỉ phát huy tác dụng tích
cực ở khâu thu mua tạo nguồn mà còn gắn liền hoạt động mua bán với nhau để
tránh tình trạng tồn đọng hàng hoá, gây ứ đọng vốn hoặc xuống cấp về phẩm chất
mặt hàng. Các nhà chuyên doanh xuất khẩu cà phê nhân trực tiếp cử cán bộ đi
khai thác nguồn hàng trong phạm vi thị trường cung cấp.
Cùng với sự kết hợp của phòng kế hoạch thị trường và các phòng xuất
nhập khẩu đề ra các chiến lược thu mua cụ thể của mình, sao cho có thể đảm bảo
hoàn thành chỉ tiêu khoán của các doanh nghiệp và tăng lợi nhuận cũng như kinh
doanh của mình. Nhìn chung, đa số chiến lược kinh doanh mặt hàng của các
doanh nghiệp thu mua và xuất khẩu cà phê phải xét đến những chỉ tiêu sau:
* Chỉ tiêu về thị trường:
+ Nghiên cứu dự đoán nhu cầu trên thị trường để xác định chiến lược thu
mua tạo nguồn cụ thể.
+ Phải xác định rõ: bán hàng được thì mới mua hàng
+ Phải nắm chắc nhu cầu tiềm năng và giá cả mặt hàng cà phê trên thị
trường trong và ngoài nước.
+ Nghiên cứu, nắm chắc nguồn hàng cà phê, khả năng sản xuất và địa bàn
sản xuất cuả mặt hàng này.
+ Phải tập trung vốn ngay từ đầu mùa vụ để thu mua cà phê ở cả nước.
+ Tìm thị trường thương nhân tiêu thụ lớn, đáp ứng cho việc cung cấp
hàng.
+ Lo đủ các thủ tục cần thiết cho công việc giao hàng từng tháng, từng
quý, từng mùa vụ.
* Chỉ tiêu về sản phẩm.

+ Tiêu chuẩn hoá về chất lượng, phù hợp với yêu cầu của khách hàng
nhập khẩu, có sự hướng dẫn về kỹ thuật đối với các cơ sở sản xuất, cung ứng.
+ Chú ý đến mẫu mã, bao bì đóng gói hàng, đáp ứng yêu cầu đẹp về hình
thức, đảm bảo về yêu cầu bảo quản hàng hóa, bao bì phải phù hợp với các tính
chất hoá học, sinh học của mặt hàng cà phê…
* Chỉ tiêu về giá cả:
+ Thiết lập mối quan hệ vững chắc với nông dân trồng cà phê và các
thương lái nhằm ổn định nguồn hàng và giá cả.
Trang - 11 -
Chuyên đề: QTKD
+ Chú trọng đến các khâu tổ chức thu mua sao cho phù hợp để giảm chi
phí thu mua tạo nguồn hàng.
+ Tổ chức các kênh thu mua phù hợp để tối thiểu hoá chi phí vận chuyển.
1.3.1.2. Tổ chức thực hiện công tác thu mua cà phê chủ yếu của các
doanh nghiệp thu mua ở Việt Nam.
Công tác thu mua nguồn cà phê xuất khẩu thường được các doanh nghiệp
thu mua của Việt Nam được thực hiện theo trình tự các bước sau:
Bước 1: Xác định nhu cầu:
Đây là vấn đề trung tâm, nó quyết định đến sự thành công hay thất bại
trong kinh doanh. Chỉ có nắm chắc nhu cầu mới có thể thực hiện tốt công tác thu
mua cà phê xuất khẩu. Căn cứ của việc xác định nhu cầu là dựa trên các hợp
đồng ngoại thương, dựa trên các đơn đặt hàng của khách hàng nước ngoài để xác
định xem doanh nghiệp có đáp ứng được các yêu cầu đó không, từ đó tìm ra các
cơ sở nguồn hàng phù hợp.
Bước 2: Xây dựng đơn hàng.
Dựa trên cơ sở đã xác định nhu cầu, các doanh nghiệp tiến hành tập hợp
đơn hàng bao gồm các điều kiện về số lượng, chất lượng, giá cả,… biến đơn
hàng ngoại thương thành các đơn hàng của doanh nghiệp. Thông thường tổng
của giá thu mua cộng với các chi phí xuất khẩu phải thấp hơn giá bán từ 2 – 5%
giá trị đơn hàng.

Bước 3: Lựa chọn khu vực thị trường và nhà cung ứng.
Sau khi xây dựng các đơn hàng thu mua, các doanh nghiệp tiến hành xem
xét trong cả nước xem tại thời điểm đó thì khu vực thị trường nào là có khả năng
đảm bảo một cách tốt nhất các điều kiện đề ra để từ đó lựa chọn khu vực thị
trường cho có ích.
Còn về nhà cung ứng thì doanh nghiệp thu mua dựa trên cơ sở điều kiện
của các đơn hàng, khả năng, độ tin cậy của nhà cung ứng đó theo các yếu tố để
lựa chọn sau đây:
- Quy cách, phẩm chất (tạp chất, độ ẩm…)
- Số lượng.
- Giá cả
- Thời gian giao hàng.
Trang - 12 -
Chuyên đề: QTKD
- Bao bì, ký mã hiệu (loại bao bì, màu sắc, trọng lượng bao bì bao nhiêu,
kỹ mã hiệu như thế nào…)
Từ các nội dung trên các doanh nghiệp tìm hiểu khả năng đáp ứng của các
đơn vị cung ứng, trên cơ sở so sánh giữa các đơn vị với nhau để lựa chọn ra
những nhà cung ứng tốt nhất.
Bước 4: Tổ chức ký kết hợp đồng mua bán.
Sau khi đã lựa chọn nhà cung ứng, bước tiếp theo là ký kết hợp đồng trên
cơ sở các đơn hàng của doanh nghiệp và giấy chào hàng của nhà cung ứng.
Bước 5: Tổ chức tiếp nhận, vận chuyển, bảo quản.
Các nhân viên thu mua phải xuống cơ sở kiểm tra chất lượng hàng hoá
đồng thời họ cũng phải có hướng dẫn về kỹ thuật cho các cơ sở để đảm bảo
nguồn hàng đạt đúng các quy cách đề ra trong hợp đồng. Sau đó tiếp nhận hàng
hoá tại các điểm giao hàng cụ thể.
Bước 6: Thanh lý hợp đồng
Các doanh nghiệp chỉ có nhiệm vụ thanh toán với nhà cung ứng khi đã
nhận đủ hàng hoá theo các điều kiện giao kèo. Khi các hợp đồng thu mua được

tính toán về tài chính xong, thì hợp đồng được thanh lý. Trong quá trình thanh lý,
nếu có vướng mắc gì thì hai bên cùng phải xem xét để cùng đi đến thoả thuận,
thống nhất xem trách nhiệm thuộc về bên nào. Nếu khúc mắc không được giải
quyết thì phải kiến nghị đưa ra trọng tài kinh tế cấp có thẩm quyền để xem xét,
giải quyết.
1.3.2. Các hình thức thu mua cà phê chủ yếu ở Việt Nam.
1.3.2.1. Phương thức mua trực tiếp
Đây là hình thức thu mua cà phê chủ yếu của các thương lái ở Việt Nam,
nó chiếm khoảng 80% giá trị hàng hoá thu mua.Thông thường, những thương lái
dựa trên yêu cầu của các đơn hàng từ phía khách hàng để đưa ra các điều kiện
phù hợp cho hợp đồng thu mua về chất lượng, số lượng, giá cả, phương thức
thanh toán, thời gian giao hàng… Khi cả hai bên doanh nghiệp và đơn vị sản xuất
cung ứng đã thoả thuận xong thì tiến hành ký kết hợp đồng. Hợp đồng chính là
cơ sở ràng buộc trách nhiệm giữa các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng.
Thông thường doanh nghiệp sẽ trả tiền cho người bán sau khi nhận được hàng
hoá theo các điều khoản ghi trong hợp đồng. Trong những trường hợp ký kết các
Trang - 13 -
Chuyên đề: QTKD
hợp đồng lớn với những nhà cung cấp đáng tin cậy đã có quan hệ truyền thống
với thương lái thì thương lái cho ứng trước một tỷ lệ nhỏ theo giá trị hợp đồng.
Do sự chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị
trường đã làm thay đổi cơ bản các phương thức thu mua. Với người bán hàng
tâm lý chung là muốn thu tiền nhanh, gọn, nên trong thời gian vừa qua để đạt
hiệu quả kinh doanh cao, các thương lái đã tăng cường lượng tiền mặt phục vụ
thu mua hàng theo phương thức này bằng nhiều hình thức huy động vốn.
Hình thức thu mua này nhanh gọn, phù hợp với yêu cầu của hai bên . Mua
theo phương thức này có lợi nhuận tối đa vì doanh nghiệp so sánh được giá mua
và giá bán, cũng như giữa các giá mua với nhau. Các chi phí về lưu thông hàng
hoá được tính toán một cách chặt chẽ, chính xác. Mặt khác thu mua theo kiểu này
không mua qua trung gian, làm cho doanh nghiệp chủ động được giá mua và giá

bán nên có thể đạt được lợi nhuận cao. Quá trình mua bán nhanh gọn đó đã làm
tăng vòng quay của vốn, tăng hiệu quả kinh doanh. Bên cạnh những ưu điểm trên
thì hình thức thu mua này có những hạn chế nhất định như tính rủi ro cao, nhiều
khi doanh nghiệp bị thua lỗ do những biến động bất thường trong thị trường, do
giá cả mà các doanh nghiệp không kiểm soát được. Mặt khác thu mua theo hình
thức này, chất lượng hàng hoá không đều và không cao. Ngoài ra, sau quá trình
mua bán, giữa doanh nghiệp và người bán không còn sự ràng buộc gì với nhau,
do đó những lô hàng thu mua tiếp theo, khả năng mua của doanh nghiệp giảm do
sự cạnh tranh mạnh mẽ của những người mua khác.
Thực tế, hình thức thu mua này không cạnh tranh nổi với các doanh
nghiệp nước ngoài thu mua trực tiếp từ người dân. Với sự khó khăn mà các
thương lái và doanh nghiệp thu mua trong nước gặp phải là thiếu vốn.
1.3.2.2. Phương pháp thu mua bằng hợp đồng thời vụ
Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu chủ yếu thực hiện phương pháp thu
mua là hợp đồng thời vụ, trong đó 20 doanh nghiệp cà phê xuất khẩu cà phê lớn
nhất của Việt Nam đạt 56% tổng lượng cà phê, so với năm trước đây là 80%.
Hình thức thu mua này nhằm mục đích đảm bảo sản lượng xuất khẩu và ổn định
tấm lí nông dân khi bước vào sản xuất cà phê. Mặt khác để cạnh tranh với 50%
doanh nghiệp nước ngoài thu mua cà phê trong nước. Tuy nhiên để thực hiện thu
Trang - 14 -
Chuyên đề: QTKD
mua bằng hình thức này, các doanh nghiệp xuất khẩu này phải đẩy mạnh việc
vay vốn tín dụng ngân hàng .
1.3.2.3. Phương pháp thu mua tạm trữ.
Thực tế, các công ty, doanh nghiệp xuất khẩu cà phê lớn ở nước ta thường
thực hiện công tác thu mua gián tiếp thông qua khâu trung gian là đại lí thương
lái hay là các doanh nghiệp thu mua cà phê mà không không phải là hình thức
mua trực tiếp từ người nông dân. Với hình thức mua tạm trữ cà phê để đảm bảo
đủ đáp ứng cho việc xuất khẩu khoảng 30% sản lượng nguyên liệu đủ xuất khẩu.
Để thu mua tạm trữ các doanh nghiệp thu mua này phải vay vốn tín dung ngân

hàng để đáp ứng nhu cầu sản lượng nguyên liệu.
Tuy nhiên, phương pháp thu mua này ít được các doanh nghiệp nhỏ áp
dụng với số liệu thống kê là chỉ có khoảng 13 doanh nghiệp có thể thực hiện
được phương pháp thu mua tạm trữ, vì các doanh nghiệp nước ngoài trực tiếp
mua cà phê của nông dân dẫn đến hiện tượng ép giá đẩy giá cà phê lên cao. thực
tế các doanh nghiệp chỉ thu mua được khoảng 25% - 30% một vụ vì phần lớn các
doanh nghiệp thu mua trong nước khó khăn trong việc vốn vay. Với phương
pháp này sẽ đảm bảo được nguồn nguyên liệu để xuất khẩu.
1.4. NHỮNG KHÓ KHĂN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP THU MUA
1.4.1. Tính bền vững trong việc thu mua của ngành cà phê Việt Nam
chưa
cao
Thật thế, thị trường quy gom cà phê Việt Nam phụ thuộc chặt chẽ
vào thị trường quốc tế. Khi thị trường cà phê quốc tế sôi động làm cho hoạt
động thu mua, quy gom nhộn nhịp, việc tiêu
thụ


phê ở các hộ sản xuất
thuận lợi. Khi thị trường quốc tế thu hẹp, cà phê tụt giá, thị trường thu mua
nội địa sẽ chao đảo, ách tắc, việc tiêu thụ của các hộ sản xuất gặp nhiều khó
khăn. Giá bán ra không bù đắp đủ chi phí sản xuất, lượng hàng tồn nhiều gây
nên ứ đọng vốn.
Khi thị trường cà phê thế giới giảm mạnh đã gây ra những ảnh hưởng
lớn đến việc thu mua cà phê trong nước. Theo báo cáo của Tổng công ty cà
phê Việt Nam, trong 9 tháng đầu năm 2010, toàn Tổng công ty đã xuất khẩu
được lượng cà phê bằng 125.4% so cùng kỳ năm 2008, nhưng kim ngạch xuất
khẩu chỉ bằng 96.7
%,


chủ yếu do giá xuất khẩu cà phê (FOB) giảm mạnh và
Trang - 15 -
Chuyên đề: QTKD
liên tục từ đầu
năm
2010, tính ra giá xuất khẩu bình quân năm 2010 chỉ bằng
51.6% so với mức giá bình quân cùng kỳ năm 2009
1.4.2. Thiếu tính đồng bộ giữa các khâu
Ngành cà phê Việt Nam vẫn chưa gắn sản xuất với chế biến, thu mua,
xuất khẩu.
Thực

trạng
hiện tại là người sản xuất chỉ biết sản xuất còn các
khâu sơ chế, chế biến, thu gom, xuất khẩu hoàn toàn do các doanh nghiệp,
tư thương lo liệu. Tình hình trên đã dẫn đến hậu quả là sản lượng cà phê dư
thừa, ứ đọng lớn, chất lượng và giá cả giảm. Một số năm nhà nước phải bù lỗ
lãi suất ngân hàng để mua cà phê tạm trữ xuất khẩu. Người trồng cà phê luôn
trong cảnh thiếu thông tin và thông tin không được cập nhật làm họ không
nắm được giá cả diễn biến trong năm để có phương hướng điều chỉnh mức
cầu thích hợp với diễn biến của thị trường cho mùa vụ tới. Thiếu thông tin
người nông dân không còn kiểm soát được việc bán sản phẩm, khi nào thì nên
bán, bán với giá bao nhiêu, vì vậy thường xuyên bị các doanh nghiệp thu mua
của nước ngoài ép giá. Người trồng cà phê cho biết họ không nhận được sự
giúp đỡ nào khi bán sản phẩm cho những công ty chế biến hoặc xuất khẩu cà
phê. Hơn nữa, việc sản xuất phân tán tạo ra những khó khăn lớn trong việc
tập trung nguồn hàng và giao hàng đúng hạn theo hợp đồng đã kí kết. Với
trên 150 đơn vị xuất khẩu và gần chục công ty nước ngoài đặt cơ quan đại
diện tại Việt Nam để kinh doanh, dẫn đến tình trạng lộn xộn trong kinh
doanh, tranh mua, tranh bán, làm giảm giá cà phê xuất khẩu và mất uy tín đối

với khách hàng. Việc chưa hình thành tập đoàn xuất khẩu cà phê Việt Nam
cho đến nay là nhược điểm về tổ chức và quản lý, cần phải được xem xét. Ở
Brazil, ủy ban các nhà xuất khẩu cà phê Brazil ( Cecafe ) đã được thành lập từ
lâu, đang chỉ đạo có hiệu qủa mọi hoạt động xuất khẩu cà phê nước này,
đồng thời có ảnh hưởng rất lớn đến thị trường cà phê thế giới.
1.4.3. Thiếu vốn
Xét cho cùng, nguyên nhân sâu xa của sự yếu kém trong công tác thu mua
,sự bất cập trong
sản

xuất
và chế biến cũng là do nguồn kinh phí, nguồn vốn
đầu tư. Thật thế, người trồng cà phê ở Việt Nam đa phần là các hộ nông dân
nghèo và vốn họ đầu tư chủ yếu là vốn vay ngân hàng, phải trả lãi suất. Do đó
việc đầu tư cho sản xuất có phần hạn chế, ảnh hưởng đến sản lượng và chất
Trang - 16 -
Chuyên đề: QTKD
lượng cà phê. Cho dù có nhiều doanh nghiệp lớn tham gia vào kinh doanh cà
phê thì khả năng tài chính vẫn chưa đủ
mạnh

để
có thể trang bị máy móc thiết
bị hiện đại phục vụ cho sản xuất và cạnh tranh với doanh nghiệp thu mua của
nước ngoài. Thế nên, vốn đầu tư luôn là vấn đề đáng quan tâm, có ảnh hưởng
rất lớn. Việc tìm giải pháp hỗ trợ vốn là rất quan trọng cho ngành cà phê ở
các tỉnh nói riêng và toàn quốc nói chung.
1.4.4. Doanh nghiệp nước ngoài cạnh tranh thu mua với các doanh nghiệp
trong nước
Theo lộ trình cam kết WTO, từ năm 2011, Việt Nam sẽ phải mở cửa cho

các doanh nghiệp (DN) nước ngoài tham gia vào mạng lưới xuất khẩu một số
nông sản như gạo, cà phê. Hiện cà phê đang vào mùa vụ thu mua, cũng là năm
đầu tiên có sự tham gia của các DN ngoại. Tuy nhiên, Hiệp hội Cà phê, ca cao
Việt Nam (Vicofa) vừa có văn bản gửi sở, ngành các tỉnh trồng cà phê về việc
xem xét, xử lý các DN nước ngoài đang ráo riết tổ chức mạng lưới thu mua cà
phê trái với quy định. Nếu để tình trạng này kéo dài thì các DN nội sẽ vô cùng
khó khăn. Các doanh nghiệp (DN) thu mua cà phê trong nước đang có nguy cơ
phá sản do sự cạnh tranh khốc liệt của các DN nước ngoài. Nhiều người lo ngại
nếu DN ngoài nước “thâu tóm” phần lớn thị trường thì tình trạng “ép” giá đối với
người trồng cà phê có thể sẽ xảy ra. Do vậy, liên kết lại để nắm thị trường đang
được xem là bài toán hữu hiệu cần phải làm.
Giá cà phê lên cao, các DN 100% vốn nước ngoài đã thành lập nhiều cơ sở thu
mua cà phê ngay tại các địa phương thuộc tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông, ước tính họ
đã mua khoảng 60% lượng cà phê xuất khẩu của cả nước. Nhiều ý kiến còn lo
ngại rằng, một khi đã thao túng được thị trường, các DN nước ngoài sẽ thoả sức
ép giá nông dân và gây khó khăn cho việc điều tiết thị trường nội địa. DN trong
nước bị thua ngay trên “sân nhà” bởi chúng ta đang thiếu và yếu: vừa thiếu vốn
lại vừa thiếu liên kết. Nếu thiếu vốn thì ở mức nào đó còn chấp nhận được nhưng
thiếu sự liên kết, thậm chí làm “yếu” lẫn nhau là điều đáng phải bàn. Cụ thể, hiện
nay, hình thức trừ lùi để có cơ sở vay tiền trong hợp đồng mua bán mỗi khi nợ
ngân hàng đến thời điểm đáo hạn được các doanh nghiệp thường áp dụng. Khoản
trừ lùi vô tình trở thành “vũ khí” để các DN xuất khẩu trong nước cạnh tranh và
hạ giá bán của nhau. Thực tế nhiều năm qua cho thấy, do cách làm ăn độc lập
Trang - 17 -
Chuyên đề: QTKD
nên các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê ít “ngồi lại với nhau” để tạo được mặt
bằng giá ổn định mà thường vẫn mạnh ai nấy làm. Trong khi đó, việc liên kết
giữa doanh nghiệp với người trồng cà phê lại cực kỳ hạn chế, chỉ có một ít doanh
nghiệp lớn đầu tư phát triển vùng nguyên liệu. Các nhà nhập khẩu nước ngoài do
nắm được sản lượng cà phê của các DN trong nước, hơn thế họ lại biết DN trong

nước cần bán được hàng để có vốn xoay vòng. Do vậy, việc ép giá trở thành câu
chuyện hàng năm, không tránh khỏi
Theo một nguồn tin, hiện có khoảng 10 DN lớn nước ngoài đang lập các
đại lý thu mua trực tiếp của nông dân ở các địa bàn cà phê trọng điểm như Đắk
Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng, Gia Lai. Trong giai đoạn này họ đang tổ chức thu
mua khoảng 60% lượng cà phê của nước ta và đem về kho dự trữ. Điều này đã
gây khó khăn lớn cho các DN cà phê trong nước bởi hiện tại nhiều DN mới chỉ
thu mua, xuất khẩu được khoảng 30 đến 35% kế hoạch niên vụ 2010-2011.
Trang - 18 -
Chuyên đề: QTKD
CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HỆ
THỐNG THU MUA VÀ BẢO QUẢN CỦA CÀ PHÊ VIỆT NAM
2.1. Lợi thế khách quan.
Việt Nam có thế mạnh về trồng cây cà phê do điều kiện đất đai và khí
hậu thuận lợi.
Đất

đỏ
bazan, rất thích hợp với cây cà phê, được phân rộng
khắp lãnh thổ, tập trung nhiều ở hai vùng Tây Nguyên và Đông Nam Bộ
với diện tích hàng triệu ha. Khí hậu nhiệt đới gió mùa , lượng mưa phân bố
đều các tháng trong năm , nhất là các tháng cà phê sinh trưởng. Cây cà phê
cần hai yếu tố cơ
bản


đất và nước thì cả hai yếu tố ấy đều có ở
Việt Nam.

a. Về nguyên liệu.

Về nguyên liệu, nhờ có điều kiện tự nhiên, khí hậu thuận lợi và đất đai
màu mỡ, phì nhiêu nên đã tạo điều kiện cho các giống cà phê phát triển tốt.
Cả nước hiện có khoảng hơn 530 ngàn ha cà phê phân bố trên nhiều địa bàn
từ bắc chí nam. Cây trồng được chăm sóc tốt, đảm bảo chất lượng cho sản
xuất. Vì vậy mà nguồn nguyên liệu rất dồi dào, luôn đảm bảo cung cấp đủ
sản lượng cho sản xuất, xuất khẩu và dự trữ.
b. Về lao động.
Đây được coi như là một nghề truyền thống, người dân cao nguyên xem
việc trồng cà phê như là ngành nông nghiệp chính. Họ đã gắn bó từ lâu đời và
ngày càng có nhiều kinh nghiệm trong việc trồng và phát triển cây cà phê. Từng
công đoạn trồng, chăm sóc, thu hoạch, chế biến và bảo quản đều cần có sự thành
thạo kèm với sự tỉ mỉ. Nếu không có sự yêu thích, gắn bó, và kinh nghiệm lâu
năm thì khó có thể thành công được.
Nhờ tạo được công ăn việc làm và mang lại nguồn thu nhập ổn định
thường xuyên nên ngành cà phê đã thu hút hàng triệu lao động. Trong đó
chiếm một lượng lớn là dân cư các vùng nông thôn, trung du và miền núi có
điều kiện tự nhiên thuận lợi như các tỉnh miền núi phía bắc, Tây Nguyên,
Gia Lai, Đăk Lăk… và tỉnh Thanh Hoá là một ví dụ điển hình. Đến năm
2007, diện tích cà phê của tỉnh trồng được là 403.996 ha với 3213 hộ gia đình
tham gia ở 46 xã cung cấp 6000 lao động. Riêng xã Thanh Xuân, huyện Như
Xuân, 100% là đồng bào dân tộc thiểu số thì có tới 270 hộ dân lao động
trong ngành. Từ đây có thể thấy rằng nguồn lao động trong ngành cà phê Việt
Trang - 19 -
Chuyên đề: QTKD
Nam rất phong phú và dồi dào.
2.2. Nhân tố chủ quan.
2.2.1. Về phía doanh nghiệp thu mua
Với môi trường chính trị ổn định được cả thế giới công nhận, đã tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp nước ngoài yên tâm khi làm ăn với Việt Nam. Với
chính sách hỗ trợ về tài chính của các ngân hàng giúp các doanh nghiệp thu mua

trong nước cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Đường lối đổi mới của
Đảng và Nhà nước đã tạo môi trường thuận lợi để phát triển sản xuất và xuất
khẩu cà phê. Các năm sau chính phủ liên tiếp chỉ đạo và
yêu

cầu
Bộ Nông
nghiệp và phát triển nông thôn chủ trì và phối hợp với Bộ Tài chính, Ban vật
giá chính phủ, Bộ Thương mại xây dựng quỹ hỗ trợ hay quỹ bảo hiểm cho
ngành cà phê. Chính phủ chủ trương “ngân sách Nhà nước sẽ hỗ trợ ban đầu
một lần khi thành lập qũy” ( Văn bản số 589/KTTH ngày 3/2/1999 của chính
phủ ). Ngoài ra còn huy động ngân sách Nhà nước để giúp đỡ nông dân qua
khỏi những giai đoạn khó khăn như mua cà phê tạm trữ để nâng cao giá cho
nông dân, miễn thuế nông nghiệp cho đất trồng cà phê, hoãn nợ và tiếp tục
cho nông dân vay tiền chăm sóc vườn cây Bên cạnh đó, những sửa đổi các
chính sách hành chính cho nhanh và đơn giản thuận tiện, cùng với các chính
sách mở cửa thu hút đầu tư, kêu gọi đầu tư cũng góp phần phát triển ngành.
Đây chính là những thế
mạnh, lợi thế của cà phê Việt Nam trên con đường cạnh
tranh quốc tế.
2.2.2. Về phía người bán và nông dân trồng cà phê
Đối với nông dân trồng cà phê, họ mong muốn bán được giá cao nhất, mà
không cần biết cà phê của mình sẽ vào tay nhà xuất khẩu nào, doanh nghiệp
trong nước hay doanh nghiệp nước ngoài đến Việt Nam làm ăn. Với tâm lý với
nguyện vọng của nông dân họ không phân biệt được đâu là công ty nước ngoài
đâu là công ty trong nước. Họ chỉ mong là ai mua cao hơn cho dù là cao hơn rất
ít, nghĩa là có sự chênh lệch thì đương nhiên tâm lý người nông dân là muốn bán
cho người có giá cao hơn.
Trang - 20 -
Chuyên đề: QTKD

Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG HỆ THỐNG THU MUA CÀ PHÊ VIỆT NAM
3.1. Hỗ trợ nguồn vay vốn đầu tư cho các doanh nghiệp thu mua cà
phê trong nước
.
Với những thực tế đã được dẫn chứng ở trên, có thể khẳng định lại rằng
vốn đầu tư có tầm quan trọng to lớn đến mọi mặt hoạt động của ngành cà phê
Việt Nam và công tác thu mua cũng như chất lượng sản phẩm. Do
đó,

tìm

tạo nguồn vốn luôn là vấn đề được đặt lên hàng đầu. Đối với Nhà nước, bên
cạnh các hình thức trực tiếp, thì cần có sự hỗ trợ gián tiếp cho nông nghiệp.
Đối với các doanh nghiệp, cần tăng cường huy động vốn và vay ngân
hàng, nhanh chóng cổ phần hoá các doanh nghiệp cà phê để huy động vốn
nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư. Giải pháp này cần ưu tiên bán cổ phiếu
cho người lao động trực tiếp tham gia sản xuất, chế biến cà phê.
Về phía ngân hàng cần nghiên cứu cho các doanh nghiệp vay vốn với
lãi suất ưu đãi để các doanh nghiệp ổn định được công tác thu mua và
cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài. Ngoài ra, ngân hàng cũng quan
tâm giải quyết cho nông dân vay để mở rộng sản xuất. Thành lập hệ thống tín
dụng nông thôn để hỗ trợ vốn kịp thời cho nông dân bằng cách thành lập các
ngân hàng thương mại cổ phần, xây dựng các chi nhánh ngân hàng nông
nghiệp tại các vùng cà phê trọng điểm. Thêm nữa , nên giảm bớt thủ tục hành
chính rườm rà, gây lãng phí thời gian và tiền bạc trong việc giải quyết vay hay
hỗ trợ vốn.
3.2. Cần tập trung vào hình thức thu mua tạm trữ để đáp ứng nguồn
nguyên liệu xuất khẩu
Các doanh nghiệp cần mua tạm trữ càphê ngay từ đầu vụ để có lợi cho cả

người sản xuất và nhà kinh doanh. Để làm được điều này các doanh nghiệp cần
chủ động về năng lực tài chính, chủ động mua hàng vào để dự trữ, tránh tình
trạng phục thuộc quá nhiều vào ngân hàng và sự hỗ trợ của Nhà nước. Tuy
nhiên, sự phối kết hợp giữa ngân hàng và doanh nghiệp chặt chẽ cũng sẽ góp
phần quan trọng giúp doanh nghiệp có thêm tiềm lực tài chính để chủ động
nguồn hàng. Từ kinh nghiệm thực tế cho thấy, nếu đổi mới kinh doanh bằng
cách thống nhất từ trên xuống dưới, các doanh nghiệp kinh doanh phải thực hiện
Trang - 21 -
Chuyên đề: QTKD
an toàn nhất, chủ động mua hàng, bán hàng và lấy mục tiêu cao nhất là bảo toàn
vốn và lợi nhuận, không chạy theo số lượng.
3.3. Tăng cường liên kết giữa các doanh nghiệp
Các doanh nghiệp càphê trong nước thường "một mình một chợ" trong
thu mua sản phẩm nên không có sự chủ động trước diễn biến tình hình. Theo lộ
trình cam kết khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), từ năm 2011,
Việt Nam phải mở cửa cho doanh nghiệp nước ngoài tham gia xuất khẩu một số
nông sản như gạo, càphê… Chính vì lẽ đó, đã đến lúc các doanh nghiệp Việt
Nam không thể chủ quan, lơ là được nữa. Để tự cứu mình, việc liên kết các
doanh nghiệp xuất khẩu cà phê trong nước cần phải tăng cường liên kết với nhau
xây dựng vùng nguyên liệu, đầu tư công nghệ chế biến để nâng cao chất lượng
sản phẩm xuất khẩu, từ đó gia tăng vị thế, uy tín cho càphê Việt Nam và cho bản
thân các doanh nghiệp. Không những thế việc liên kết chặt chẽ còn giúp các
doanh nghiệp nắm bắt thông tin và thống nhất hơn trong việc thu mua và xuất
khẩu cà phê.
3.4. Đề ra chính sách nghiêm ngặt đối với các hoạt động thu mua trái phép
của các doanh nghiệp thu mua nước ngoài
Việc tổ chức mạng lưới thu gom cà phê trực tiếp của các doanh nghiệp
nước ngoài hiện nay là trái quy định. Việt Nam chỉ khuyến khích các doanh
nghiệp nước ngoài đầu tư sâu vào việc chế biến, kỹ thuật phát triển cà phê, thực
tế doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã được cấp phép thực hiện quyền

xuất khẩu các mặt hàng phù hợp với danh mục hàng hóa; được trực tiếp mua
hàng hoá của thương nhân có đăng ký kinh doanh mua bán hoặc có quyền phân
phối hàng hoá đó để xuất khẩu…nếu các doanh nghiệp này thu mua cà phê trái
phép thì cần phải đề ra luật pháp xử phạt nghiêm khắc.
Trang - 22 -
Chuyên đề: QTKD
PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Ngành sản xuất cà phê của Việt Nam có lịch sử phát triển khá lâu đời.
Hơn nữa, Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển cà phê. Cà phê Việt
Nam đã có mặt trên thị trường thế giới, và đã khẳng định được vị trí của mình
trên toàn cầu. Tuy nhiên, kênh thu mua và bảo quản của ta lại không chặt chẽ,
các doanh nghiệp nước ngoài lợi dụng kẽ hở tổ chức mạng lưới thu mua trực tiếp
từ người dân với giá cao hơn dẫn đến nhưng lại bị ràng buộc bởi sự không đảm
bảo về sản lượng. Điều đó thì thật đáng tiếc và không công bằng cho nền kinh tế
Việt Nam.
Toàn thể các cơ quan chức năng cũng như các doanh nghiệp, người trồng
cà phê phải cùng chung tay xây dựng tốt quá trình từ khâu trồng trọt cho đến thu
hoạch cà phê, mỗi một khâu trong quá trình đó cần phải chia sẻ lợi ích với nhau,
vì một mục tiêu chung là phát triển cà phê trên thị trường thế giới. Cà phê đã,
đang và sẽ là mặt hàng được ưa chuông trên thị trường thế giới nếu chúng ta có
một định hướng phát triển tốt cho mặt hàng này
2. Kiến Nghị.
- Về phía Ngân hàng và Nhà nước:
Ngân hàng cần nghiên cứu cho các doanh
nghiệp vay vốn với lãi suất hợp lý để các doanh nghiệp ổn định được hoạt động
thu mua của các doanh nghiệp trong nước. Ngoài ra, ngân hàng cần quan tâm
giải quyết cho nông dân vay để mở rộng sản xuất. Thành lập hệ thống tín dụng
nông thôn để hỗ trợ vốn kịp thời cho nông dân bằng cách thành lập các ngân
hàng thương mại cổ phần, xây dựng các chi nhánh ngân hàng nông nghiệp tại các

vùng cà phê trọng điểm. Nhà nước cũng nên giao một phần các nguồn vốn trong
đó có vốn xây dựng cơ bản, vốn định canh, định cư và xóa đói giảm nghèo cho
các doanh nghiệp kinh doanh cà phê (một lực lượng tích cực tham gia vào các
chương trình kinh tế xã hội tại các vùng sản xuất cà phê), và tạo điều kiện cho
ngành cà phê được sử dụng một phần nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức
(ODA) để xây dựng cơ sở hạ tầng, bên cạnh đó cần khuyến khích nhiều hơn nữa
các doanh nghiệp, kể cả nước ngoài, đầu tư vào ngành chế biến cà phê tạo ra
nhiều sản phẩm, giảm tỷ trọng sản phẩm thô và sơ chế, tăng dần tỷ trọng các sản
Trang - 23 -
Chuyên đề: QTKD
phẩm chế biến có hàm lượng công nghệ và chất xám cao. Hoàn thiện hệ thống tổ
chức các doanh nghiệp cà phê có tác động quan trọng đến phát triển ngành, các
doanh nghiệp sẽ thiết lập hệ thống marketing chuyên nghiên cứu về thị trường
sản phẩm, giá cả và có kế hoạch quảng cáo khuyến mãi cho phù hợp. Còn lại các
doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ đóng vai trò như các vệ tinh chuyên tổ chức thu
mua, chế biến và cung ứng hàng xuất khẩu. Để đạt được điều này các doanh
nghiệp xuất khẩu và các doanh nghiệp làm nhiệm vụ cung ứng hàng xuất khẩu
phải gắn bó với nhau chặt chẽ, có kế hoạch phân chia lợi nhuận cụ thể. Các
doanh nghiệp lớn có trách nhiệm đầu tư, hỗ trợ về vốn, cơ sở hạ tầng, những giải
pháp cải tiến chất lượng, mẫu mã sản phẩm cho người sản xuất và các doanh
nghiệp làm nhiệm vụ cung ứng, ngược lại các doanh nghiệp vừa và nhỏ có trách
nhiệm cung ứng hàng bảo đảm đúng chất lượng, mẫu mã theo yêu cầu xuất khẩu
và đúng thời gian, địa điểm, có như vậy thì việc sản xuất, chế biến, xuất khẩu cà
phê mới hoạt động có hiệu quả, việc xâm nhập thị trường thế giới của cà phê Việt
Nam chắc chắn sẽ có những biến đổi mạnh mẽ.
Đầu tư công nghệ chế biến hiện đại cho ngành cà phê là điều hết sức cần thiết.
Để tạo đà cho các doanh nghiệp cà phê phát triển và ứng phó kịp thời với những
thay đổi về chất lượng, giá cả. cần tập trung máy móc thiết bị để chế biến cà phê
thô ngay từ khi mới thu hoạch, nhằm đảm bảo chất lượng ổn định, đồng đều.
Đồng thời phải có dự án lựa chọn thiết bị hiện đại, đồng bộ và có hiệu quả cao

kết hợp việc nghiên cứu áp dụng các thiết bị chế biến nhỏ, gọn ở khu vực cà phê
tư nhân. Khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh cà phê tập trung đầu tư
trang thiết bị để chuyển từ xuất khẩu thô sang xuất khẩu cà phê chế biến.
Đồng thời cần tập trung đầu tư vào xây dựng nhà máy chế biến cà phê hoà tan
tại các vùng sản xuất cà phê lớn, cà phê hoà tan có giá trị xuất khẩu cao, giá cả
ổn định, bảo quản lâu dài.
- Về phí doanh nghiệp thu mua và phân phối: Để cải thiện hệ thống thu mua
phân phối cà phê, các doanh nghiệp cà phê cần tập trung cải tiến cách thức tổ
chức thu mua cho phù hợp với từng vùng, từng loại cà phê, trước khi thu hoạch
nên có những đầu tư cho nông dân một cách hợp lý, khi thu hoạch cần tập trung
cao độ về vốn thu mua cà phê để thanh toán ngay cho nông dân. Bên cạnh đó
cũng cần xây dựng một hệ thống kho tàng phục vụ cho công tác chế biến bảo
Trang - 24 -
Chuyên đề: QTKD
quản cà phê ngay từ đầu nhằm giữ cho chất lượng cà phê ngày càng cao, đảm
bảo đủ chân hàng phục vụ tốt cho xuất khẩu. Bên cạnh việc tổ chức lại sản xuất,
ngành nên nghiên cứu hình thành một trung tâm giao dịch cà phê tại Buôn Ma
Thuột để đưa thị trường cà phê vào hoạt động có tổ chức.
Ngoài các biện pháp tổ chức thu mua, trong cơ chế thị trường giá cà phê được
thiết lập dưới tác động của quy luật cung cầu và vận động theo quy luật tự điều
chỉnh. Sự vận động này tác động đến việc mở rộng hoặc thu hẹp diện tích, đầu
tư, thâm canh cà phê. Trong sản xuất kinh doanh, đặc biệt là xuất nhập khẩu, việc
xây dựng chính sách giá để bảo đảm mang lại hiệu quả cao nhất, bán được nhiều
sản phẩm nhất tạo điều kiện mở rộng thị trường trong và ngoài nước là một vấn
đề mang tính chất chiến lược. Đối với việc định giá sản phẩm xuất khẩu, cà phê
Việt Nam đang tìm lại chỗ đứng trên thị trường do có rất ít thị trường truyền
thống, vì mục tiêu thâm nhập thị trường nên giá xác định phải sát với thị trường
không nên quá chú ý đến việc bù đắp lại chi phí mà để mất lợi thế cạnh tranh
trong thị trường mới. Do lợi thế về năng suất cà phê của Việt Nam cao, chi phí
nhân công thấp do đó khả năng bù đắp chi phí lớn, khi định giá cần phải linh hoạt

cho phù hợp với từng loại thị trường đảm bảo có lãi và thâm nhập được vào thị
trường mục tiêu. Mặt khác cà phê Việt Nam hầu hết được chế biến bằng phương
pháp khô khoảng 80%, 20% còn lại được chế biến bằng phương pháp ướt, trong
khi đó hầu hết các nước khác đều áp dụng phương pháp ướt (chế biến từ quả cà
phê tươi). Do áp dụng phương pháp chế biến cổ điển, giá cà phê Việt Nam thấp
hơn so với các nước khác từ 10% - 15%. Để đảm bảo cho người sản xuất, xuất
khẩu không bị ảnh hưởng quá nhiều về biến động giá cả, ngành cần thành lập
Quỹ hỗ trợ ngành cà phê.
Trang - 25 -

×