Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

những khiếm khuyết của hệ thống thị trường cạnh tranh pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (294.69 KB, 21 trang )

1
I. TÁC ĐỘNG NGOẠI VI
Khái niệm: tác động ngoại vi là những hành động diễn ra ngoài thị trường mà không thanh toán
bằng tiền, dù tác động của doanh nghiệp gây tác động xấu( hay tăng lợi ích) cho xã hội ,cũng
không phải trả( hay phải nhận) các khoảng thanh toán bằng tiền.
Tác động ngoại vi được chia làm 2 loại
• Tác động ngoại vi tích cực: những việc làm của doanh nghiệp sẽ giúp cải thiện được đời sống
của một bộ phận người dân, hạn chế tính trạng thất ngiệp, phát triển cơ sở hạ tầng, góp phần
thúc đẩy công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước….
• Tác động ngoại vi tiêu cực: bên cạnh nhưng hoạt động tích cực thì những hoạt động của
doanh nghiệp cũng gây ra nhiều cái xấu như ô nhiễm môi trường, nguồn tài nguyên bị khai
thác quá mức…
Theo số liệu những năm gần đây cho thấy như sao:
Trong những năm đầu thực hiện đường lối đổi mới, vì tập trung ưu tiên phát triển kinh tế và cũng
một phần do nhận thức hạn chế nên việc gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường chưa chú trọng
đúng mức. Tình trạng tách rời công tác bảo vệ môi trường với sự phát triển kinh tế - xã hội diễn ra
phổ biến ở nhiều ngành, nhiều cấp, dẫn đến tình trạng gây ô nhiễm môi trường diễn ra phổ biến và
ngày càng nghiêm trọng. Đối tượng gây ô nhiễm môi trường chủ yếu là hoạt động sản xuất của nhà
máy trong các khu công nghiệp, hoạt động làng nghề và sinh hoạt tại các đô thị lớn. Ô nhiễm môi
trường bao gồm 3 loại chính là: ô nhiễm đất, ô nhiễm nước và ô nhiễm không khí. Trong ba loại ô
nhiễm đó thì ô nhiễm không khí tại các đô thị lớn, khu công nghiệp và làng nghề là nghiêm trọng
nhất, mức độ ô nhiễm vượt nhiều lần tiêu chuẩn cho phép.
Theo Báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường, tính đến ngày 20/4/2008 cả nước có 185 khu công
nghiệp được Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập trên địa bàn 56 tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương. Đến hết năm 2008, cả nước có khoảng trên 200 khu công nghiệp. Ngoài ra, còn có hàng
trăm cụm, điểm công nghiệp được Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết
định thành lập. Theo báo cáo giám sát của Uỷ ban khoa học, công nghệ và môi trường của Quốc hội,
tỉ lệ các khu công nghiệp có hệ thống xử lí nước thải tập trung ở một số địa phương rất thấp, có nơi
chỉ đạt 15 - 20%, như Bà Rịa - Vũng Tàu, Vĩnh Phúc. Một số khu công nghiệp có xây dựng hệ thống
xử lí nước thải tập trung nhưng hầu như không vận hành vì để giảm chi phí. Đến nay, mới có 60 khu
công nghiệp đã hoạt động có trạm xử lí nước thải tập trung (chiếm 42% số khu công nghiệp đã vận


hành) và 20 khu công nghiệp đang xây dựng trạm xử lí nước thải. Bình quân mỗi ngày, các khu, cụm,
điểm công nghiệp thải ra khoảng 30.000 tấn chất thải rắn, lỏng, khí và chất thải độc hại khác. Tại Hội
nghị triển khai Đề án bảo vệ môi trường lưu vực hệ thống sông Đồng Nai ngày 26/2/2008, các cơ
quan chuyên môn đều có chung đánh giá: nguồn nước thuộc lưu vực sông Sài Gòn - Đồng Nai hiện
đang bị ô nhiễm nặng, không đạt chất lượng mặt nước dùng làm nguồn cấp nước sinh hoạt. Theo số
liệu khảo sát do Chi cục Bảo vệ môi trường phối hợp với Công ty Cấp nước Sài Gòn thực hiện năm
1
2008 cho thấy, lượng NH3 (amoniac), chất rắn lơ lửng, ô nhiễm hữu cơ (đặc biệt là ô nhiễm dầu và vi
sinh) tăng cao tại hầu hết các rạch, cống và các điểm xả. Có khu vực, hàm lượng nồng độ NH3 trong
nước vượt gấp 30 lần tiêu chuẩn cho phép (như cửa sông Thị Tính); hàm lượng chì trong nước vượt
tiêu chuẩn quy định nhiều lần; chất rắn lơ lửng vượt tiêu chuẩn từ 3 - 9 lần Tác nhân chủ yếu của
tình trạng ô nhiễm này chính là trên 9.000 cơ sở sản xuất công nghiệp nằm phân tán, nằm xen kẽ trong
khu dân cư trên lưu vực sông Đồng Nai. Bình quân mỗi ngày, lưu vực sông phải tiếp nhận khoảng
48.000m3 nước thải từ các cơ sở sản xuất này. Dọc lưu vực sông Đồng Nai, có 56 khu công nghiệp,
khu chế xuất đang hoạt động nhưng chỉ có 21 khu có hệ thống xử lý nước thải tập trung, số còn lại
đều xả trực tiếp vào nguồn nước, gây tác động xấu đến chất lượng nước của các nguồn tiếp nhận Có
nơi, hoạt động của các nhà máy trong khu công nghiệp đã phá vỡ hệ thống thuỷ lợi, tạo ra những cánh
đồng hạn hán, ngập úng và ô nhiễm nguồn nước tưới, gây trở ngại rất lớn cho sản xuất nông nghiệp
của bà con nông dân.
Nhìn chung, hầu hết các khu, cụm, điểm công nghiệp trên cả nước chưa đáp ứng được những tiêu
chuẩn về môi trường theo quy định. Thực trạng đó làm cho môi trường sinh thái ở một số địa phương
bị ô nhiễm nghiêm trọng. Cộng đồng dân cư, nhất là các cộng đồng dân cư lân cận với các khu công
nghiệp, đang phải đối mặt với thảm hoạ về môi trường. Họ phải sống chung với khói bụi, uống nước
từ nguồn ô nhiễm chất thải công nghiệp Từ đó, gây bất bình, dẫn đến những phản ứng, đấu tranh
quyết liệt của người dân đối với những hoạt động gây ô nhiễm môi trường, có khi bùng phát thành các
xung đột xã hội gay gắt.
Cùng với sự ra đời ồ ạt các khu, cụm, điểm công nghiệp, các làng nghề thủ công truyền thống cũng có
sự phục hồi và phát triển mạnh mẽ. Việc phát triển các làng nghề có vai trò quan trọng đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội và giải quyết việc làm ở các địa phương. Tuy nhiên, hậu quả về môi trường do
các hoạt động sản xuất làng nghề đưa lại cũng ngày càng nghiêm trọng. Theo thống kê của Hiệp hội

Làng nghề Việt Nam, hiện nay cả nước có 2.790 làng nghề. Các làng nghề được phân bố rộng khắp cả
nước, trong đó các khu vực tập trung phát triển nhất là Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung bộ, Tây Bắc
bộ, Đồng bằng sông Cửu Long. Riêng ở Đồng bằng sông Hồng có 866 làng nghề, chiếm 42,9% cả
nước. Hình thức các đơn vị sản xuất của làng nghề rất đa dạng, có thể là gia đình, hợp tác xã hoặc
doanh nghiệp. Tuy nhiên, do sản xuất mang tính tự phát, sử dụng công nghệ thủ công lạc hậu, chắp
vá, mặt bằng sản xuất chật chội, việc đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải ít được quan tâm, ý
thức bảo vệ môi trường sinh thái của người dân làng nghề còn kém, bên cạnh đó lại thiếu một cơ chế
quản lý, giám sát của các cơ quan chức năng của Nhà nước, chưa có những chế tài đủ mạnh đối với
những hộ làm nghề thủ công gây ô nhiễm môi trường và cũng chưa kiên quyết loại bỏ những làng
nghề gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, nên tình trạng ô nhiễm môi trường tại các làng nghề ngày
càng trầm trọng và hiện nay đã ở mức “báo động đỏ”. Hoạt động gây ô nhiễm môi trường sinh thái tại
các làng nghề không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống, sinh hoạt và sức khoẻ của những người
dân làng nghề mà còn ảnh hưởng đến cả những người dân sống ở vùng lân cận, gây phản ứng quyết
liệt của bộ phận dân cư này, làm nảy sinh các xung đột xã hội gay gắt.
1
Bên cạnh các khu công nghiệp và các làng nghề gây ô nhiễm môi trường, tại các đô thị lớn, tình trạng
ô nhiễm cũng ở mức báo động. Đó là các ô nhiễm về nước thải, rác thải sinh hoạt, rác thải y tế, không
khí, tiếng ồn Những năm gần đây, dân số ở các đô thị tăng nhanh khiến hệ thống cấp thoát nước
không đáp ứng nổi và xuống cấp nhanh chóng. Nước thải, rác thải sinh hoạt (vô cơ và hữu cơ) ở đô thị
hầu hết đều trực tiếp xả ra môi trường mà không có bất kỳ một biện pháp xử lí nào ngoài việc vận
chuyển đến bãi chôn lấp. Theo thống kê của cơ quan chức năng, mỗi ngày người dân ở các thành phố
lớn thải ra hàng nghìn tấn rác; các cơ sở sản xuất thải ra hàng trăm nghìn mét khối nước thải độc hại;
các phương tiện giao thông thải ra hàng trăm tấn bụi, khí độc. Trong tổng số khoảng 34 tấn rác thải
rắn y tế mỗi ngày, thì Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh chiếm đến 1/3; bầu khí quyển của Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh có mức benzen và sunfua đioxit đáng báo động. Theo một kết quả nghiên cứu
mới công bố năm 2008 của Ngân hàng thế giới (WB), trên 10 tỉnh thành phố Việt Nam, xếp theo thứ
hạng về ô nhiễm đất, nước, không khí, thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội là những địa bàn ô nhiễm
đất nặng nhất. Theo báo cáo của Chương trình môi trường của Liên hợp quốc, Hà Nội và thành phố
Hồ Chí Minh đứng đầu châu á về mức độ ô nhiễm bụi.
Tình trạng ô nhiễm môi trường nêu trên có nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan khác nhau, song

tập trung ở các nguyên nhân chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, những hạn chế, bất cập của cơ chế, chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường và việc tổ
chức thực hiện của các cơ quan chức năng. Theo thống kê của Bộ Tư pháp, hiện nay có khoảng 300
văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường để điều chỉnh hành vi của các cá nhân, tổ chức, các hoạt động
kinh tế, các quy trình kỹ thuật, quy trình sử dụng nguyên liệu trong sản xuất. Tuy nhiên, hệ thống các
văn bản này vẫn còn chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ, thiếu chi tiết, tính ổn định không cao, tình trạng
văn bản mới được ban hành chưa lâu đã phải sửa đổi, bổ sung là khá phổ biến, từ đó làm hạn chế hiệu
quả điều chỉnh hành vi của các cá nhân, tổ chức, các hoạt động kinh tế trong việc bảo vệ môi
trường.
Thứ hai, quyền hạn pháp lí của các tổ chức bảo vệ môi trường, nhất là của lực lượng Cảnh sát môi
trường chưa thực sự đủ mạnh, nên đã hạn chế hiệu quả hoạt động nắm tình hình, phát hiện, đấu tranh,
ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. Các cở sở pháp lí, chế tài xử phạt đối
với các loại hành vi gây ô nhiễm môi trường và các loại tội phạm về môi trường vừa thiếu, vừa chưa
đủ mạnh, dẫn đến hạn chế tác dụng giáo dục, phòng ngừa, răn đe đối với những hành vi xâm hại môi
trường. Rất ít trường hợp gây ô nhiễm môi trường bị xử lí hình sự; còn các biện pháp xử lí khác như
buộc phải di dời ra khỏi khu vực gây ô nhiễm, đóng cửa và đình chỉnh hoạt động của các cơ sở gây ô
nhiễm môi trường cũng không được áp dụng nhiều, hoặc có áp dụng nhưng các cơ quan chức năng
thiếu kiên quyết, doanh nghiệp trây ỳ nên cũng không có hiệu quả.
Thứ ba, các cấp chính quyền chưa nhận thức đầy đủ và quan tâm đúng mức đối với công tác bảo vệ
môi trường, dẫn đến buông lỏng quản lí, thiếu trách nhiệm trong việc kiểm tra, giám sát về môi
trường. Công tác thanh tra, kiểm tra về môi trường của các cơ quan chức năng đối với các cơ sở sản
1
xuất dường như vẫn mang tính hình thức, hiện tượng “phạt để tồn tại” còn phổ biến. Công tác thẩm
định và đánh giá tác động môi trường đối với các dự án đầu tư còn tồn tại nhiều bất cập và chưa được
coi trọng đúng mức, thậm chí chỉ được tiến hành một cách hình thức, qua loa đại khái cho đủ thủ tục,
dẫn đến chất lượng thẩm định và phê duyệt không cao.
Thứ tư, công tác tuyên truyền, giáo dục về bảo vệ môi trường trong xã hội còn hạn chế, dẫn đến chưa
phát huy được ý thức tự giác, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân, cộng đồng trong việc tham gia gìn
giữ và bảo vệ môi trường.
Thứ năm, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác bảo vệ môi

trường còn hạn chế; phương tiện kỹ thuật phục vụ công tác kiểm tra chưa đáp ứng được đòi hỏi của
thực tiễn. Do đó, trong nhiều trường hợp, đoàn kiểm tra không thể phát hiện được những thủ đoạn tinh
vi của doanh nghiệp thải các chất gây ô nhiễm ra môi trường.
Bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình CHN, HĐH hiện nay là yêu cầu cấp thiết đặt ra đối với cả
hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, các tổ chức, doanh nghiệp và của mọi công dân. Nhận thức rõ
tầm quan trọng của vấn đề này, những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương,
chính sách về bảo vệ môi trường, điển hình là Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ
Chính trị (Khoá IX) về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; Chỉ thị số
29-CT/TW ngày 21/01/2009 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ
Chính trị; Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi); các nghị định của Chính phủ hướng dẫn thực hiện Luật
Bảo vệ môi trường Các chỉ thị, nghị quyết, văn bản pháp quy này đi vào cuộc sống đã bước đầu tạo
ra một số chuyển biến tích cực trong hoạt động bảo vệ môi trường, song vẫn còn nhiều mặt chưa đáp
ứng được đòi hỏi của thực tiễn. Để ngăn chặn, khắc phục và xử lí có hiệu quả những hành vi gây ô
nhiễm môi trường, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp chủ yếu sau đây:
Một là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường, trong đó những chế tài xử phạt
(cưỡng chế hành chính và xử lí hình) phải thực sự đủ mạnh để đủ sức răn đe các đối tượng vi phạm.
Bên cạnh đó, cần xây dựng đồng bộ hệ thống quản lí môi trường trong các nhà máy, các khu công
nghiệp theo các tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời tổ chức giám sát chặt chẽ nhằm hướng tới một môi
trường tốt đẹp và thân thiện hơn với con người.
Hai là, tăng cường công tác nắm tình hình, thanh tra, kiểm tra, giám sát về môi trường (thường xuyên,
định kỳ, đột xuất); phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chuyên môn, nhất là giữa lực lượng thanh tra
môi trường với lực lượng cảnh sát môi trường các cấp, nhằm phát hiện, ngăn chặn và xử lí kịp thời,
triệt để những hành vi gây ô nhiễm môi trường của các tổ chức, cá nhân. Đồng thời, nâng cao năng
lực chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác môi trường; trang bị các phương
tiện kỹ thuật hiện đại để phục vụ có hiệu quả hoạt động của các lực lượng này.
Ba là, chú trọng công tác quy hoạch phát triển các khu, cụm, điểm công nghiệp, các làng nghề, các đô
thị, đảm bảo tính khoa học cao, trên cơ sở tính toán kỹ lưỡng, toàn diện các xu thế phát triển, từ đó có
chính sách phù hợp; tránh tình trạng quy hoạch tràn lan, thiếu đồng bộ, chồng chéo như ở nhiều địa
1
phương thời gian vừa qua, gây khó khăn cho công tác quản lí nói chung, quản lí môi trường nói riêng.

Đối với các khu công nghiệp, cần có quy định bắt buộc các công ty đầu tư hạ tầng phải xây dựng hệ
thống thu gom, xử lí nước thải tập trung hoàn chỉnh mới được phép hoạt động, đồng thời thường
xuyên có báo cáo định kỳ về hoạt động xử lí nước thải, rác thải tại đó.
Bốn là, chú trọng và tổ chức thực hiện nghiêm túc việc thẩm định, đánh giá tác động môi trường đối
với các dự án đầu tư, trên cơ sở đó, cơ quan chuyên môn tham mưu chính xác cho cấp có thẩm quyền
xem xét quyết định việc cấp hay không cấp giấy phép đầu tư. Việc quyết định các dự án đầu tư cần
được cân nhắc kỹ lưỡng giữa lợi ích đem lại trước mắt với những ảnh hưởng của nó đến môi trường
về lâu dài. Thực hiện công khai, minh bạch các quy hoạch, các dự án đầu tư và tạo điều kiện để mọi tổ
chức và công dân có thể tham gia phản biện xã hội về tác động môi trường của những quy hoạch và
dự án đó.
Năm là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục về môi trường trong toàn xã hội nhằm tạo sự
chuyển biến và nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật bảo vệ môi trường, trách nhiệm xã hội
của người dân, doanh nghiệp trong việc gìn giữ và bảo vệ môi trường; xây dựng ý thức sinh thái, làm
cho mọi người nhận thức một cách tự giác về vị trí, vai trò, mối quan hệ mật thiết giữa tự nhiên - con
người - xã hội.
II. THIẾU HÀNG HÓA CÔNG CỘNG
Khái niệm: Hàng hóa công cộng là hàng hóa và dịch vụ mang hai tính chất: không cạnh tranh
và không thể loại trừ. Đối lập với hàng hóa công cộng là hàng hóa tư nhân không mang hai tính
chất trên.
Tính chất của hàng hóa cộng cộng
 Không thể loại trừ: tính chất không thể loại trừ cũng được hiểu trên giác độ tiêu dùng, hàng
hóa công cộng một khi đã cung cấp tại một địa phương nhất định thì không thể hoặc rất tốn
kém nếu muốn loại trừ những cá nhân không trả tiền cho việc sử dụng hàng hóa của mình. Ví
dụ: quốc phòng là một hàng hóa công cộng nhưng quân đội không thể chỉ bảo vệ những người
trả tiền còn không bảo vệ những ai không làm việc đó. Đối lập với hàng hóa công cộng, hàng
hóa cá nhân có thể loại trừ một cách dễ dàng, ví dụ: bảo vệ rạp hát sẽ ngăn cản những người
không có vé vào xem.
 Không cạnh tranh: tính chất không cạnh tranh được hiểu trên góc độ tiêu dùng, việc một cá
nhân này đang sử dụng hàng hóa đó không ngăn cản những người khác đồng thời cũng sử
dụng nó. Ví dụ pháo hoa khi bắn lên thì tất cả mọi người đều có thể được hưởng giá trị sử

dụng của nó. Điều này ngược lại hoàn toàn so với hàng hóa cá nhân: chẳng hạn một con gà
nếu ai đó đã mua thì người khác không thể tiêu dùng con gà ấy được nữa. Chính vì tính chất
này mà người ta cũng không mong muốn loại trừ bất kỳ cá nhân nào trong việc tiêu dùng
hàng hóa công cộng.
1
Trong thực tế thì một số hàng hóa công cộng không đáp ứng đầy đủ hai tính chất trên mà
nguyên nhân là cũng giống như cái tên gọi của nó “ hàng hóa công cộng” số người sữ dụng
ngày một nhiều trong khi số lượng hàng hóa này lại không đáp ứng đủ.
Nguyên nhân phát sinh
• Thứ nhất: với tính chất của mình thì hàng hóa công cộng khiến cho mọi người dân
trong xã hội đều cỏ thể sữ dụng được hàng hóa công cộng mặt dù là có trả tiền hay là
không trả tiền , điều này khiến cho họ không còn muốn chi trả cho việc sử dụng hàng
hóa công cộng nữa.
• Thứ hai: kéo theo hệ lụy từ việc người dân không muốn chi trả cho việc sử dụng hàng
hóa công cộng nửa, điều này khiến cho những doanh nghiệp sản xuất ra nó không còn
có động lực để tiếp tục sản xuất ra nó nữa
Biểu hiện
ở nước ta hệ thống đô thị là một trong những nơi dễ thấy tình trạng thiếu hàng hóa công cộng
nhất. trong đó có 2 vấn đề đáng nói nhất ở đây là tình trạng ùn tắc giao thông và nước sách.
Nước ta thì tình hình dân số ngày một tăng trong khi đó thì hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông vẫn
chưa phát triển, mạn lưới giao thông với những con đường nhỏ hẹp và ngắn, chất lượng đường xá thì
không được tốt , lô cốt thì có ở khắp nơi, đó là những tình trạng gây ra ùn tắc giao thông. Bên cạnh hệ
thống giao thông thì hệ thống cấp nước trong đô thị ngày một kém, trong số 689 đô thi thì chỉ có
khoảng 400 đô thị có hện thống nước hoàng chỉnh, tuy nói là hoàng chỉnh nhưng cũng chỉ đáp ứng
được 60% , còn 40% là thất thoát ra bên ngoài, nguyên nhân chủ yếu là do hệ thống ống cấp nước đã
quá củ kỉ, và xuống cấp theo ước tính là khoảng 50% tuyến cống bị hư hỏng, 30% xuống cấp. khiến
cho một lượng nước lớn bị thất thoát ra bên ngoài, gây tình trạng lảng phí trầm trọng.
Một số cách cung cấp hàng hóa công cộng một cách có hiệu quả
Điều kiện Samuelson: muốn xác định mức cung cấp hàng hóa công cộng một cách hiệu quả, cần
xác định đường cung và đường cầu của nó. Mỗi cá nhân có một ngân sách nhất định và có nhu

cầu khác nhau về hàng hóa công cộng (G) và hàng hóa cá nhân (X), nếu giá của hàng hóa công
cộng là t (mức thuế cá nhân phỉ trả) và của hàng hóa cá nhân là p thì đường ngân sách của cá nhân
sẽ có dạng: I = pX + tG. Ở mỗi mức thuế khác nhau, cá nhân sẽ có cầu về hàng hóa công cộng
khác nhau và để tối đa hóa lợi ích, mỗi cá nhân sẽ có tỷ suất thay thế biên giữa hàng hóa công
cộng và hàng hóa cá nhân bằng tỷ số giá giữa chúng (t/p). Đường cầu của mỗi cá nhân về hàng
hóa công cộng cũng chính là tỷ suất thay thế biên nên đường cầu tổng hợp của tất cả các cá nhân
là tổng tỷ suất thay thế biên. Mặt khác đường cung về hàng hóa công cộng phản ánh chi phí biên
mà xã hội phải bỏ ra để sản xuất nó và để tối ưu hóa lợi ích, đường cung này cũng chính là tỷ suất
chuyển đổi biên giữa hàng hóa công cộng và hàng hóa cá nhân. Nhà kinh tế học Paul Samuelson
đã chứng minh rằng, để hàng hóa công cộng được cung cấp một cách hiệu quả thì tổng tỷ suất
1
thay thế biên của các cá nhân phải bằng tỷ suất chuyển đổi biên hay tổng giá trị mà các cá nhân
đánh giá đối với đơn vị hàng hóa công cộng cuối cùng bằng chi phí tăng thêm cho xã hội để sản
xuất nó. Dó chính là điều kiện Samuelson về cung cấp hiệu quả hàng hóa công cộng. Tuy vậy, kể
cả khi đã xác định được mức cung cấp hiệu quả thì việc thực thi chúng lại còn phụ thuộc vào quá
trình lựa chọn công cộng nên không phải lúc nào cũng đạt được mức hiệu quả
Cân bằng Lindahl: theo các điều kiện của hiệu quả Pareto, hàng hóa công cộng sẽ được cung cấp
một cách hiệu quả nếu tổng giá trị mà các cá nhân đánh giá đối với đơn vị hàng hóa công cộng
cuối cùng bằng chi phí tăng thêm đối với xã hội để cung cấp nó. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là hàng
hóa công cộng thuần túy không có thị trường để trao đổi như hàng hóa cá nhân, nơi mà cân bằng
thị trường do cung cầu quyết định, do vậy việc xác định điểm cân bằng hiệu quả gặp khó khăn. Để
giải quyết vấn đề xác định mức cung cấp hàng hóa công cộng thuần túy một cách có hiệu quả, nhà
kinh tế học người Thụy Điển Erik Lindahl đã xây dựng một mô hình mô phỏng mô hình thị
trường cho hàng hóa công cộng gọi là cân bằng Lindahl. Mô hình này xác định nhu cầu của mỗi
cá nhân về một loại hàng hóa công cộng thuần túy tương ứng với mức thuế (chính là giá của hàng
hóa công cộng) ấn định cho cá nhân đó, mức cung cấp hàng hóa công cộng thuần túy có hiệu quả
là mức mà cầu của các cá nhân đều như nhau. Lưu ý rằng mức cầu của mỗi cá nhân tương ứng với
những mức thuế khác nhau nên cân bằng Lindahl khác với cân bằng thị trường hàng hóa cá nhân
khi mà ở đó cân bằng thị trường ở mức giá như nhau đối với mọi cá nhân.
III. SỰ GIA TĂNG QUYỀN LỰC ĐỘC QUYỀN

Khái niệm : Độc quyền là một tình huống trong đó một công ty hoặc một tập đoàn, một nhóm
các công ty chiếm lĩnh gần như toàn bộ thị trường đối với một loại hàng hoá hoặc dịch vụ nào
đó.Khái niệm độc quyền hiểu theo nghĩa hẹp là việc chiếm lĩnh thị trường của một công ty. Thị
trường độc quyền là thị trường không có sự cạnh tranh do đó dẫn đến một hệ quả tất yếu là mức
giá cao hơn và sản phẩm chất lượng thấp hơn.
Nguyên nhân:
- Một là: Sự phát triển của lục lượng sản xuất dưới tác dụng của tiến bộ KHKT, làm xuất hiện
những ngành sản xuất mới. Ngay từ đầu nó đã là những ngành có trình độ tích tụ cao, đó là những
xí nghiệp lớn đòi hỏi những hình thức kinh tế tổ chức mới.
- Hai là: Cạnh tranh tự do. Một mặt buộc các nhà TB phải cải tiến kỹ thuật, tăng qui mô tích lũy.
Mặt khác, đã dẫn đến nhiều doanh nghiệp nhỏ, trình độ kỹ thuật kém, hoặc bị các đối thủ mạnh
thôn tính, hoặc phải liên kết với nhau để đứng vững trong cạnh tranh. Vì vậy xuất hiện một số xí
nghiệp tư bản lớn nắm địa vị thống trị một ngành hay trong một số ngành công nghiệp.
- Ba là: Khủng hoảng kinh tế làm cho nhiều xí nghiệp nhỏ và vừa bị phả sản. Một số sống sót phải
đổi mới kỹ thuật để thoát khỏi khủng hoảng, do đó thúc đẩy quá trình tập trung sản xuất. Tín dụng
TBCN mở rộng trở thành đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy tập trung sản xuất.
- Bốn là: Những xí nghiệp và công ty lớn có tiềm lực kinh tế mạnh mẽ lại tiếp tục cạnh tranh với
1
nhau ngày càng khốc liệt, khó phân thắng bại, vì thế nảy sinh xu hướng thỏa hiệp, từ đó hình
thành các tổ chức độc quyền.
Tác động
Giá cao : khác với thị trường cạnh tranh hoàng hảo nơi mà giá cả được quy định theo quan hệ
cung cầu , trong khi đó thị trường độc quyền lại phụ thuộc vào người bàn , điều này gây ra tình
trạng nhà sản xuất thường sản xuất với một số lượng nhỏ để tăng giá bán.
Trì trệ việc đổi mới: do không có đối thủ cạnh tranh, nên doanh nghiệp không có động lực để cải
tiến kỹ thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm, nân cao năng năng xuất kiềm hảm sự phát triển
của xã hội
Chất lượng hàng hóa không tốt: tại vì đây là sản phẩm độc quyền nơi mà vạn người mua chỉ có
duy nhất một người bán , cho nên sẽ không có mặt hàng thấy thế , vì thế người tiêu dùng phải
dùng sản phẩm đó cho dù nó tốt hay xấu.

Ví dụ về công ty điện lực EVN
“EVN không sai khi quy cho nguyên nhân thiếu điện là do: (1) tốc độ tăng trưởng tiêu thụ điện ở Việt
Nam quá cao (15%/năm); (2) EVN không được phép tăng giá điện, mặc dù tốc độ tăng giá điện thấp
xa so với tốc độ tăng giá cả trong thời gian qua.
Cả hai nguyên nhân này đều là điều thực tế, không cần bàn cãi. Nhưng điều cần nói là hai nguyên
nhân này không phải là tất cả, và bản thân EVN còn có nhiều việc phải làm nhưng đã không làm tốt,
ví dụ như việc cắt giảm chi phí, cắt giảm thất thoát, cắt giảm đầu tư tràn lan trong khi kêu thiếu vốn.
Không đề cập đến vấn đề này, tác giả phê phán chuyện thiếu điện là do lỗi của Chính phủ vì đã không
tạo ra một cơ chế thích hợp để phát triển ngành điện (ý nói là đã để cho EVN được độc quyền kinh
doanh phân phối điện). Theo đó, Chính phủ cần phải tái cơ cấu lại thị trường điện.
Nhưng tác giả lại chốt rằng: “Tuy nhiên, đây (ý nói “tái cơ cấu”) là con đường khó khăn và nhiều
rủi ro. Có lẽ vì vậy mà Chính phủ đang muốn giữ nhịp độ cải cách chậm. Điều này đồng nghĩa với
việc khan hiếm điện”. Thế thì Chính phủ đâu có sai nếu chọn con đường thận trọng, ít rủi ro, là điều
được phép, trước mỗi một quyết định quan trọng liên quan đến cả một nền kinh tế? Vậy ai sai? Câu
trả lời rút ra từ bài viết của tác giả này là: Không có ai!
Một bài viết khác chỉ ra rằng nguyên nhân của tình trạng thiếu điện là sự độc quyền của EVN. Tuy
nhiên, một mặt trực diện phê phán tình trạng nhà nước còn “hết sức nâng đỡ” EVN, để họ duy trì thế
độc quyền như là nguyên nhân chính của tình trạng thiếu điện, mặt khác, bài viết này phân tích: (1) tỷ
trọng lớn của EVN trong tổng công suất phát điện ở Việt Nam hầu như không thay đổi (94-97% trong
thời kỳ 2000-2006), và lấy đây làm bằng chứng cho mức độ độc quyền “tuyệt đối” của EVN; (2) tổng
công suất phát điện ở Việt Nam thiếu hụt đáng kể so với chỉ tiêu kế hoạch, và thêm rằng tuy: “Đã có
các công ty trong nước và nước ngoài tham gia vào xây dựng các nhà máy điện nhưng công suất vẫn
chưa thấm vào đâu so với của EVN”; (3) mức độ lãng phí và tổn thất điện năng lớn”
1
Giải pháp của chính phủ về giải quyết các công ty độc quyền
Các hình thức hợp tác giữa các công ty hoặc của một công ty đơn lẻ nhằm tối đa hóa lợi
nhuận trên thị trường đang diễn ra ngày càng nhiều.Đó cũng là lý do luật cạnh tranh đang được thông
qua ngày càng nhiều trên thế giới với xu hướng ngày càng trừng phạt nặng hơn đối với các hành vi có
hại cho cạnh tranh,làm giảm sự năng động của thị trường và làm méo mó quan hệ cung cầu.Và
1/7/2005 theo tờ trình của Chính phủ ,sự cần thiết tạo công cụ pháp lý hạn chế cạnh tranh không lành

mạnh đảm bảo sự công bằng,bình đẳng trong kinh doanh,Luật Cạnh tranh chính thức có hiệu lực.
Luật cạnh tranh quy định các hành vi gây hạn chế cạnh tranh bị cấm như: Thỏa thuận ấn định giá
,phân chia thị trường lạm dụng vị thế độc quyền,vị trí thống lãnh thị trường(chiếm trên 30% thị phần)
…để áp đạt giá mua,bán bất hợp lý.Tuy nhiên,trên thực tế,năm 2008 đã liên tiếp xảy ra các vụ việc
khá điển hình về các vi phạm như Hiệp hội thép Việt Nam ra nghị quyết ấn định giá bán(yêu cầu các
thành viên bán 13.7-14 triệu đồng/tấn thép),vụ Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam thống nhất mức chi phí
bảo hiểm len 3.95%/năm cho tất cả các đối tượng khách hàng…Theo luật cạnh tranh,những doanh
nghiệp tham gia”liên minh làm giá”này sẽ bị phạt tối đa 10% tổng doanh thu trong năm tài chính
trước năm thực hiện hành vi.Luật gia Vũ Xuân Tiền đã chỉ ra rằng,Luật cạnh tranh đã bao quát hàng
loạt nội dung mới không có sự phân biệt giữa các thành phần kinh tế theo mô hình”con anh,con
tôi,con chúng ta”như đã xảy ra trong không ít Luật và Pháp lệnh ở nước ta;Luật cạnh tranh cũng bao
quát một cách toàn diện những vấn đề liên quan đến cạnh tranh thương trường…Và bên cạnh đó việc
Bộ Công thương trình Chính phủ đề án xóa bỏ độc quyền,xây dựng thị trường cạnh tranh trong lĩnh
vực kinh doanh điện nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước và mong muốn của người tiêu
dùng là một nỗ lực rất đáng hoan nghênh.Vấn đề lớn và phức tạp nên có ý kiến khác nhau là điều
không lạ và có thể giúp cho việc hoàn thiện đề án.Điều quan trọng là vấn đề này không nên đóng
khung việc thảo luận trong các cơ quan,tổ chức có liên quan trực tiếp mà cần phát huy được trí tuệ của
nhiều người,đặc biệt là các trí thức ở trong và ngoài nước.Việc này làm tốt sẽ thúc đẩy những nổ lực
xóa bỏ độc quyền,tạo lập môi trường kinh doanh trên nhiều lĩnh vực khác,đồng thời tạo tiền đề cho
việc xây dựng luật bảo đảm quyền của dân được tiếp cận thông tin và đóng góp ý kiến hoàn thiện thể
chế,đặc biệt là những chủ trương,chính sách có quan hệ mật thiết tới sản xuất và đời sống của dân.
Ngoài ra để giải quyết các vấn đề các công ty độc quyền chính phủ còn thực hiện các biện pháp như
là:
Khuyến khích các công ty phát triển nhờ những chính sách của chính phủ: chính phủ thi hành
các chính sách khuyến khích doanh nghiệp phát triển đồng thời phá bỏ những rào cản để các
doanh nghiệp mới dễ đầu tư cho quá trình phát triển.
Giám sát một cách chặt chẽ: chính phủ có thể đề ra các quy định cưỡng chế doanh nghiệp
phải thực thi trong lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp ấy. Đây là biện pháp phổ biến để kiểm
soát các công ty thuộc sở hữu nhà nước trong một nền kinh tế mới và đang phát triển.
Kiểm soát tài khoản: chính phủ quy định phù hợp với những điều kiện của doanh nghiệp để

doanh nghiệp bán sản phẩm đạt được mức doanh thu hiệu quả. Tuy nhiên biện pháp này có một
1
khó khăn cơ bản là chính phủ rất khó xác định mức giá chung của nền kinh tế và dễ dẫn đến một
sự lạm phát hay giảm phát không tốt cho nền kinh tế.
Mời gọi đầu tư từ nước ngoài làm cho nền kinh tế thị trường trở nên đa dạng hơn, nâng cao
tính cạnh tranh cho những doanh nghiệp trong nước duy trì một nền kinh tế ổn định và phát triển
trong tương lai.
IV. CHÊNH LỆCH THÁI QUÁ VỀ MỨC THU NHẬP TRONG DÂN CƯ
Nguyên nhân phát sinh:
Chênh lệch về sở hữu tư liệu sản xuất: đây là nguồi gốc căn bản nhất dẩn tới sự giàu
nghèo.
 Những người có nhiều tự liệu sản xuất sẻ có nhiều khả năng tạo ra nhiều của cải hơn,
đồng thời họ lại có điều kiện để tập trung và mở rộng kinh doanh khiến cho họ ,ngày
càng giàu thêm.
 Những người ít hoặc không có tư liệu sản xuất , trước hết là thiếu phương tiện để tạo
ra kế mưu sinh , buộc phải bán sức lao động của mình, để nuôi bản thân, chịu sự bóc
lột sức lao động của nhà tư bản khiến cho họ đã nghèo thì ngày càng ngheo hơn
Sử dụng công nghệ : những người trong xã hội với mỗ trình độ được đào tạo khác nhau, có
một môi trường sống khác nhau , những người nắm dữ được các phương tiện sản xuất hiện
đại sẻ sản xuất được nhiều hơn , cho nên sẽ đạt được thu nhập nhiều hơn
Sự chêch lệch về điều kiện sống: những người sống ở những cùng có điều kiện tự nhiên
thuận lợi , thì sẽ có thu nhập cao hơn
Biểu hiện :
Sau hơn 25 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể. Điều này thể hiện
rõ ràng qua mức thu nhập bình quân đầu người liên tục tăng trong phạm vi cả nước. Mức thu nhập
bình quân đầu người của Việt nam tăng lên từ 295 nghìn đồng/người lên đến 995.500đ/người năm
2008; theo đó thu nhập bình quân đầu người của cả nông thôn và thành thị cũng lần lượt tăng lên. Bên
cạnh đó chúng ta đã giảm được tỷ lệ hộ nghèo từ 58,1% năm 1993 xuống 12,3% năm 2009.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu nói trên thì chênh lệch về mức sống giữa nhóm giàu với nhóm
nghèo có xu hướng dãn ra ngày càng sâu sắc. Theo báo cáo của Tổng cục thống kê, chênh lệch giữa

20% nhóm thu nhập cao nhất với 20% nhóm thu nhập thấp nhất đã tăng từ 7,0 lần năm 1995 lên 8,9
lần năm 2009. Ở thành thị và nông thôn, khoảng cách này lần lượt là 8,2 lần lên 8,3 lần và từ 6,5 lần
đến 6,9 lần trong cùng giai đoạn. Trừ Tây Nguyên, mọi khu vực kinh tế khác đều có mức chênh lệch
giàu nghèo gia tăng
1
Mặt khác hệ số GINI của Việt Nam (chỉ số phản ánh sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập) cũng
tăng từ 0,35 năm 1994 lên đến 0,46 năm 2009.
sự phân hóa giàu nghèo giữa các tầng lớp
Từ sự khác biệt về thu nhập dẫn đến sự khác biệt rõ ràng về chất lượng sống giữa nhóm giàu với
nhóm nghèo. Điều mà chúng ta thấy rõ là người giàu thì sẽ có điều kiện để nâng cao chất lượng cuộc
sống tốt hơn nhiều so với người nghèo. Nhất là trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hiện nay với sự
bùng phát của rất nhiều các dịch vụ xã hội. Sự chênh lệch và khác biệt này có thể thấy rất rõ trong kết
quả nghiên cứu của tổng cục thống kê về các khoản chi tiêu giữa nhóm giàu với nhóm nghèo. 20 %
nhóm thu nhập cao nhất có khả năng chi tiêu tốt hơn nhiều so với 20% nhóm thu nhập thấp nhất. Từ
đó dẫn đến sự khác biệt về chất lượng sống giữa nhóm giàu so với nhóm nghèo. Ví dụ, về sức khỏe:
khả năng mắc bệnh tật, ốm đau phải nằm viện điều trị của nhóm nghèo là gấp đôi so với nhóm giàu;
số học sinh được đào tạo nghề hoặc trung cấp cao hơn 11 lần so với nhóm nghèo, học cao đẳng đại
học cao hơn 73 lần và xu hướng của sự khác biệt này sẽ ngày càng sâu sắc. Từ đó dẫn đến sự thiệt
thòi về mọi mặt của nhóm giàu so với nhóm nghèo. Thế nên mới có một câu chuyện hài hước kể rằng:
có 2 người cùng vào quán ăn 1 con gà, nhưng sự thật là chỉ có 1 người ăn và một người đứng nhìn!
Hoặc 3 người thì một người ăn phần ngon nhất của con gà, một người ăn phần xương còn vẫn có một
người không được ăn gì!
Như vậy có thể thấy sự phân hóa giàu nghèo vừa là nguyên nhân của sự phân tầng xã hội và ngược
lại.
Phân hóa giàu nghèo sẽ dẫn đến những tác động sao đây:
1
Thứ nhất, phân hóa giàu nghèo khắc sâu thêm hố sâu ngăn cách giữa nhóm giàu với nhóm nghèo, từ
đó dẫn tới mối liên kết giữa các nhóm xã hội ngày càng lỏng lẻo. Đây là một yếu tố gây ảnh hưởng
đến mục tiêu xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc - yếu tố cơ bản trong việc đảm bảo vấn đề an ninh
chính trị.

Thứ hai, phân hóa giàu nghèo là tiền đề tác động đến tình hình tội phạm, tệ nạn xã hội. Vì vậy, để ổn
định tình hình TTATXH thì một trong những biện pháp mang tính phòng ngừa là ổn định nền kinh tế
vĩ mô, tạo nhiều công ăn việc làm ổn định, đảm bảo cuộc sống cho mọi người dân trong cả nước.
Thứ ba, cùng với tệ nạn tham nhũng, phân hóa giàu nghèo là 2 hiện tượng có tác động trực tiếp đến
bất bình đẳng xã hội. Tạo ra tâm lý bất bình đối với tệ nạn tham nhũng và sự phân hóa giàu nghèo.
Cùng với xu hướng tất yếu của nền kinh tế thị trường là sự thương mại hóa các lĩnh vực y tế, giáo dục
sẽ làm cho người nghèo khó có thể tiếp cận. Vì thế, họ không được hưởng các phúc lợi xã hội mà lẽ ra
họ có quyền được hưởng dẫn tới người dân suy giảm lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước, vào chế độ; tạo ra tâm lý chống đối, làm phát sinh “khiếu kiện” và những “điểm nóng” với
những biến phức tạp về an ninh xã hội.
Thứ tư, phân hóa giàu nghèo vừa là điều kiện làm cho nội bộ cán bộ đảng viên tự diễn biến theo chiều
hướng xấu, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh chính trị nội bộ; dẫn đến tình trạng bộ máy nhà
nước hoạt động kém hiệu lực; các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước bị vô hiệu hóa và bị
xuyên tạc; sự lãnh đạo của Đảng suy yếu.
Thứ năm, phân hóa giàu nghèo có mối quan hệ chặt chẽ với tăng trưởng và phát triển. Nếu giải quyết
tốt vấn đề phân hóa giàu nghèo sẽ tác động tích cực tới mục tiêu phát triển nền kinh tế một cách bền
vững. Tránh được những hệ lụy do quá trình đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng nền kinh tế như môi
trường, tài nguyên bị phá hoại, chuyển đổi mục đích sử dụng tài nguyên không đúng dẫn tới sự lãng
phí trong việc khai thác sử dụng tài nguyên. Như vậy, phân hóa giàu nghèo có mối liên hệ chặt chẽ
với vấn đề an ninh môi trường.
Một số giải pháp để giảm tình trạng phân hóa giàu nghèo ngày càng sâu sắc như
ngày nay
có thể nhận thấy rằng Nhà nước luôn có hai dòng chính sách: chính và phụ. Dòng chính nhằm phục vụ
tăng trưởng theo kinh tế thị trường và dòng thứ hai (các chính sách, chương trình hỗ trợ người nghèo,
yếu thế, thu nhập thấp) được áp dụng với mong muốn bù đắp lại sự bất công, thiếu hụt nảy sinh trong
quá trình phát triển.
Nhà nước cũng có những chính sách dành cho người nghèo, như xây nhà cho người thu nhập
thấp, miễn giảm học phí cho trẻ em nghèo, mua thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo, hỗ trợ bù
giá điện cho hộ nghèo.
Xóa đối giảm nghèo ,hổ trợ người nghèo đặc biệt là các nhóm xã hội, những người có hoàng

cảnh đặc biệt
1
Khuyến khích người dân vương lên làm giàu một cách chính đáng bằng những chính sách hổ
trợ thích hợp, nâng cao tình trạng phát triển của đất nước.
Hoàng thiện môi trường pháp lý và thể chế. Nghiêm khắc chừng trị các hành vi làm giàu một
cách phi pháp và chống tình trạng tham nhũng.
Hoàng thiện các chính sách xã hôi, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp , các hoạt động từ
thiện….làm cho lĩnh vực này như một thứ đểm đỡ, cho các trường hợp bị xa sút đột ngột bởi
các cú sóc thị trường.
Chính sách thể và biện pháp kiểm soát một cách hợp lý, điều chình thu nhập và phân bố ngân
sách cho các mục tiêu xã hội và phát triển con người.
V. CHU KỲ KINH DOANH
Khái niệm: chu kỳ kinh doanh ( hay chu kỳ kinh tế) là các biến động tái diễn nhưng
không phải định kỳ trong công việc kinh doanh chung và trong các hoạt động kinh tế của
1 quốc gia trong những khoảng thời gian nhiều năm. Hay nói cách khách chu kỳ kinh
doanh , là sự biến động GDP thực tế theo trình tự ba pha lần lượt là suy thoái , phục hoài
và hưng thịnh.
Các pha của chu kỳ kinh tế
1
Suy thoái là pha trong đó GDP thực tế giảm đi. Ở Mỹ và Nhật Bản, người ta quy định rằng, khi
tốc độ tăng trưởng GDP thực tế mang giá trị âm suốt hai quý liên tiếp thì mới gọi là suy thoái.
Phục hồi là pha trong đó GDP thực tế tăng trở lại bằng mức ngay trước suy thoái. Điểm ngoặt
giữa hai pha này là đáy của chu kỳ kinh tế.
Khi GDP thực tế tiếp tục tăng và bắt đầu lớn hơn mức ngay trước lúc suy thoái, nền kinh tế đang
ở pha hưng thịnh (hay còn gọi là pha bùng nổ). Kết thúc pha hưng thịnh lại bắt đầu pha suy thoái
mới. Điểm ngoặt từ pha hưng thịnh sang pha suy thoái mới gọi là đỉnh của chu kỳ kinh tế.
Thông thường, người ta chỉ nhận ra hai điểm đáy và đỉnh của chu kỳ kinh tế khi nền kinh tế đã sang
pha tiếp sau điểm ngoặt với dấu hiệu là tốc độ tăng trưởng GDP thực tế đổi chiều giữa mức âm và
mức dương. Trong thực tế, các nhà kinh tế học cố tìm cách nhận biết dấu hiệu của suy thoái vì nó tác
động tiêu cực đến mọi mặt kinh tế, xã hội. Một số đặc điểm thường gặp của suy thoái là:

Tiêu dùng giảm mạnh, hàng tồn kho của các loại hàng hóa lâu bền trong các doanh nghiệp tăng
lên ngoài dự kiến. Việc này dẫn đến nhà sản xuất cắt giảm sản lượng kéo theo đầu tư vào trang
thiết bị, nhà xưởng cũng giảm và kết quả làGDP thực tế giảm sút.
Cầu về lao động giảm, đầu tiên là số ngày làm việc của người lao động giảm xuống tiếp theo là
hiện tượng cắt giảm nhân công và tỷ lệ thất nghiệp tăng cao.
1
Khi sản lượng giảm thì lạm phát sẽ chậm lại do giá đầu vào của sản xuất giảm bởi nguyên
nhân cầu sút kém. Giá cả dịch vụ khó giảm nhưng cũng tăng không nhanh trong giai đoạn kinh
tế suy thoái.
 Lợi nhuận của các doanh nghiệp giảm mạnh và giá chứng khoán thường giảm theo khi
các nhà đầu tư cảm nhận được pha đi xuống của chu kỳ kinh doanh. Cầu về vốn cũng giảm đi làm
cho lãi suất giảm xuống trong thời kỳ suy thoái.
Còn khi nền kinh tế hưng thịnh thì các dấu hiệu trên biến thiên theo chiều ngược lại.
Trước đây, một chu kỳ kinh doanh thường được cho là có bốn pha lần lượt là suy thoái, khủng hoảng,
phục hồi và hưng thịnh. Tuy nhiên, trong nền kinh tế hiện đại, khủng hoảng theo nghĩa kinh tế tiêu
điều, thất nghiệp tràn lan, các nhà máy đóng cửa hàng loạt, v.v… không xảy ra nữa. Vì thế, toàn bộ
giai đoạn GDP giảm đi, tức là giai đoạn nền kinh tế thu hẹp lại, được gọi duy nhất là suy thoái. Ở Việt
Nam cho đến đầu thập niên 1990, trong một số sách về kinh tế các nước tư bản chủ nghĩa, khi nói về
chu kỳ kinh tế thường gọi tên bốn pha này là khủng hoảng, tiêu điều, phục hồi và hưng thịnh. Nay
không còn thấy cách gọi này nữa.
Nguyên nhân phát sinh
Cho đến nay thì vẫn chưa có sự thống nhất chung về nguyên nhân gây ra chu kỳ kinh tế kỳ
giữa của trường phái kinh tế vĩ mô có thể chia thành hai nhóm:
Chu kỳ kinh doanh là do những biến động bên ngoài hệ thống kinh tế gây ra ( chiến
tranh, bầu cử tri, khủng hoảng giá, xăng, phát hiện ra nguồn tài nguyên mới, những
thành tựu khoa học công nghệ )
Chu kỳ kinh doanh là do những biến động cơ chế bên trong của hệ thống kinh tế gây
ra ( theo cách tiếp cận này thì : mọi sự mở rộng đều nuôi dưỡng sự suy thoái và thu
hẹp; mọi sự thu hẹp đều nuôi dưỡng sự hồi sinh và mở rộng – theo một chuổi lập đi
lập lại gần như theo quy luật.

Một số lý thuyết giải thích về chu kỳ kinh doanh tiêu biểu:
1
Chủ nghĩa keynes: cho rằng chu kỳ kinh tế hình thành do thị trường không hoàn hảo, khiến
cho tổng cầu biến động mà thành
Các trường phái theo chủ nghĩa kinh tế tự do mới thì cho rằng sở dĩ có chu kỳ là do sự can thiệp
của chính phủ hoặc do những cú sốc cung ngoài dự tính
Lý thuyết tiền tệ: cho rằng chu kỳ kinh tế là do sự mở rộng hay thắt chặt của chính sách tiền
tệ và tín dụng. Đại diện tiêu biểu của lý thuyết này là nhà kinh tế học đoạt giải Nobel kinh tế
năm 1976, người đứng đầu trường phái Chicago Milton Friedman. Lý thuyết này tỏ ra phù
hợp với cuộc suy thoái của kinh tế Hoa Kỳ 1981-1982 khi Cục Dự trữ Liên bang tăng lãi suất
danh nghĩa tới 18% để chống lạm phát.
1
Mô hình gia tốc - số nhân: do Paul Samuelson đưa ra, mô hình này cho rằng các biến
động ngoại sinh được lan truyền theo cơ chế số nhân kết hợp với sự gia tốc trong đầu tư tạo ra
những dao động có tính chu kỳ của GDP.
Lý thuyết chính trị: đại diện là các nhà kinh tế học William Nordhaus, Michał Kalecki, Lý
thuyết này quy cho các chính trị gia là nguyên nhân gây ra chu kỳ kinh tế vì họ hướng
các chính sách tài khóa và tiền tệ để có thể thắng cử.
Lý thuyết chu kỳ kinh doanh cân bằng: với những đại diện như Robert Lucas, Jr., Robert
Barro, Thomas Sargent phát biểu rằng những nhận thức sai lầm về sự vận động của giá cả,
tiền lương đã khiến cho cung về lao động quá nhiều hoặc quá ít dẫn đến các chu kỳ của sản
lượng và việc làm. Một trong những phiên bản của lý thuyết này là tỷ lệ thất nghiệpcao trong
suy thoái là do mức lương thực tế của công nhân cao hơn mức cân bằng của thị trường lao
động.
Lý thuyết chu kỳ kinh doanh thực tế: lập luận rằng những biến động tích cực hay tiêu cực
về năng suất lao động trong một khu vực có thể lan tỏa trong nền kinh tế và gây ra những dao
động có tính chu kỳ. Những người ủng hộ lý thuyết này là nhà kinh tế học đoạt giải
Nobel năm 2004 Edward Prescott, Charles Prosser,
Tuy vậy, cho dù mỗi lý thuyết trên đây đều có tính hiện thực, không có lý thuyết nào tỏ
ra đúng đắn ở mọi lúc, mọi nơi.

Chu kỳ kinh tế là những biến động không mang tính quy luật. Không có hai chu kỳ kinh tế nào
hoàn toàn giống nhau và cũng chưa có công thức hay phương pháp nào dự báo chính xác thời gian,
thời điểm của các chu kỳ kinh tế. Chính vì vậy chu kỳ kinh tế, đặc biệt là pha suy thoái sẽ khiến cho
cả khu vực công cộng lẫn khu vực tư nhân gặp nhiều khó khăn, Khi có suy thoái, sản lượng giảm sút,
tỷ lệ thất nghiệp tăng cao, các thị trường từ hàng hóa dịch vụ cho đến thị trường vốn thu hẹp dẫn đến
những hậu quả tiêu cực về kinh tế, xã hội.
Tiêu dùng giảm mạnh, hàng tồn kho của các loại hàng hóa lâu bền trong các doanh nghiệp tăng
lên ngoài dự kiến. Việc này dẫn đến nhà sản xuất cắt giảm sản lượng kéo theo đầu tư vào trang
thiết bị, nhà xưởng cũng giảm và kết quả là GDP thực tế giảm sút.
Cầu về lao động giảm, đầu tiên là số ngày làm việc của người lao động giảm xuống tiếp theo là
hiện tượng cắt giảm nhân công và tỷ lệ thất nghiệp tăng cao.
Khi sản lượng giảm thì lạm phát sẽ chậm lại do giá đầu vào của sản xuất giảm bởi nguyên nhân
cầu sút kém. Giá cả dịch vụ khó giảm nhưng cũng tăng không nhanh trong giai đoạn kinh tế suy
thoái.
1
Lợi nhuận của các doanh nghiệp giảm mạnh và giá chứng khoán thường giảm theo khi các nhà
đầu tư cảm nhận được pha đi xuống của chu kỳ kinh doanh. Cầu về vốn cũng giảm đi làm cho lãi
suất giảm xuống trong thời kỳ suy thoái.
Giải pháp về chu kỳ kinh doanh
Từ kinh nghiệm một số nước trong việc vượt qua khủng hoảng chu kỳ chúng ta có thể rút ra
một số bài học cho công tác hoạch định chính sách vĩ mô như sau:
Thứ nhất, giai đoạn vượt qua suy thoái mang tính chu kỳ luôn là cơ hội tốt để những nước đang
chuyển đổi như Việt Nam đẩy mạnh cải cách và chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chỗ chủ yếu dựa
vào tăng vốn đầu tư, xuất khẩu tài nguyên chuyển sang tăng trưởng nhờ vào năng lực cạnh tranh, phát
huy lợi thế so sánh
Thứ hai, đối với một nền kinh tế có độ mở cao như nước ta thì các cú sốc từ bên ngoài sẽ nhanh chóng
tác động tới nền kinh tế trong nước và đẩy chu kỳ kinh tế đi vào giai đoạn suy thoái.
Cuối tháng 9, đầu tháng 10-2008, khi cuộc khủng hoảng tài chính - tín dụng tại Mỹ đang ở giai đoạn
khó khăn nhất và đã lan ra nhiều nước trên thế giới, nhiều nhà hoạch định chính sách và chuyên gia
kinh tế vẫn khẳng định “sẽ không ảnh hưởng trầm trọng đến nền kinh tế Việt Nam”, “không ảnh

hưởng nhiều đến Việt Nam” hoặc “không gây quan ngại nhiều đến nền kinh tế Việt Nam” một cách
rất chủ quan và thiếu căn cứ.
Thứ ba, kỳ vọng (expectations) của người dân và doanh nghiệp là phạm trù của môn tâm lý học
nhưng lại có ý nghĩa rất quan trọng trong sự phát triển của kinh tế học hiện đại và do đó các nhà
hoạch định chính sách không thể bỏ qua.
Ở các nước phát triển, việc tính toán và theo dõi các chỉ số nói lên kỳ vọng của người dân và doanh
nghiệp như chỉ số lòng tin người tiêu dùng, chỉ số lòng tin nhà đầu tư, chỉ số lòng tin các chủ doanh
nghiệp là rất quan trọng trong việc hoạch định chính sách vĩ mô.
Thứ tư, trong thời kỳ khó khăn của chu kỳ kinh tế, chính sách tiền tệ và tài khóa cần được kết hợp linh
hoạt để phục hồi tăng trưởng GDP và tạo việc làm. Việc nới lỏng chính sách tiền tệ, hạ lãi suất cơ
bản, lãi suất tái cấp vốn là cần thiết nhưng cần chú ý không rơi vào bẫy thanh khoản (liquidity trap)
khi lãi suất đã giảm thấp nhưng ngân hàng vẫn không cho vay, doanh nghiệp không thể tiếp cận tín
dụng như trong thời gian qua ở nước ta. Khi đó chính sách tiền tệ sẽ không còn tác dụng kích thích
nền kinh tế.
Nước Mỹ đã áp dụng chính sách lãi suất bằng 0 từ ngày 16-12-2008 nhưng cũng giống như Nhật Bản
trước đây, họ dường như đang mắc kẹt trong chiếc bẫy thanh khoản vô hình và bây giờ việc khôi phục
nền kinh tế chỉ còn biết trông chờ vào các gói kích thích tài khóa khổng lồ của Tổng thống Obama mà
thôi.
1
Đối với chính sách tài khóa, cần tính toán thận trọng hiệu quả và liều lượng của gói kích cầu. Chính
sách kích cầu mà nhiều nước trên thế giới và Việt Nam đang sử dụng dựa trên quan điểm Keynes với
lập luận cho rằng sẽ tạo ra tác động số nhân (multiplier effect) theo đó khoản chi tiêu kích cầu của
Chính phủ sẽ là thu nhập của nhiều đối tượng khác nhau trong nền kinh tế theo cấp số nhân, qua đó
làm tăng tổng cầu và tăng GDP, tạo việc làm. Không hiểu các giải pháp kích cầu của chúng ta như
giảm thuế giá trị gia tăng, giãn thuế thu nhập cá nhân, bảo lãnh tín dụng hay bù lãi suất được tính toán
với số nhân là bao nhiêu?
Nếu số nhân nhỏ hơn 1 do doanh nghiệp vay bù lãi suất chỉ để đảo nợ, để gửi ăn chênh lệch hoặc tiền
hỗ trợ hộ nghèo lại nằm trong két của các quan tham thì việc kích cầu chỉ có ý nghĩa về mặt tâm lý
và nên dừng ở mức hiện tại, không nên mở rộng lên 6 tỉ đô la để tránh làm trầm trọng thêm thâm hụt
ngân sách.

Thông tin thị trường lệch lạc
Khái niệm : trong kinh tế thì thông tin không hoàng hảo( hay còn gọi là thông tin không đối
xứng) xảy ra khi một bện để gaio dịch có nhiều hơn hoặc tốt hơn thông tin bên kia.
Ví dụ: trong lĩnh vực y tế thì người bán thuốc và bác sĩ có nhiều thông tin về thị trường thuốc hơn
bệnh nhân. Còn trong lĩnh vực inh doanh bảo hiểm thì người mua bảo hiểm sẽ biết trước tình
huống sẽ xảy ra với mình hơn là người bán.
Vẫn tồn tại trường hợp người mua nắm được nhiều thông tin hơn người bán, nhưng trường hợp đó
thường chiếm tỷ trọng lớn và gây nguy hại nhiều cho xã hội như trường hợp ngược lại.
Suy thoái đạo đức trong nền kinh tế thị trường: tình trạng lừa gạt, lừa đảo, bội tín, sản xuất hàng
kém chất lượng đặc biệt là trong lĩnh vực thực phẩm….
Nguyên nhân
Thông tin thị trường lêch lac:
Lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ giãm nếu công nhân biết chính mức độ nguy hiểm của công việc hay
người tiêu dùng có được đầy đủ độ nguy hại trong sản phẩm của họ. điều này trái với mục tiêu hóa
lợi nhuận của mình, nên doanh nghiệp thường không cung cấp đủ thông tin cho khách hàng, qua
nhưng thông tin không biết đó thì các doanh nghiệp có thể dề dạng thực hiện mục đích của mình.
Chi phí cho việc thu thập và kiểm tra thông tin là rất lớn: do doanh nghiệp cố tình che dấu khiếm
khuyết trong sản phẩm nên việc thu thập được thông tin về sản phẩm là rất khó khăn. Bên cạnh
đó, dù có được thông tin về sản phẩm thì việc kiểm tra độ an toàn của sản phẩm cũng đòi hỏi chi
phí rất lớn. tiêu biểu như chi phí cho 1 lần xét nghiệm đúng chuẩn về nồng độ chất độc hại trong
thực phẩm lên đến 70USD/lần.
1
Suy thoái đạo đức: với mục tiiêu tối đa hóa lợi nhuận, nhiều cá nhân, tổ chức trong xza4 hội đã
bất chấp mọi hành vi, kể cả cac hành vi xâm phạm đạo đức nhằm thu được lợi nhuận cao nhất tình
trạng này kèo dài và phát tán rộng rãi làm cho đạo đức xã hội suy thoái lớn.
3. biểu hiện
Ngày 28-3, tại Hà Nội, Bộ Công Thương đã tổ chức hội nghị triển khai công tác đấu tranh chống
buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại toàn quốc năm 2008. Ông Vũ Huy Hoàng, Bộ trưởng Bộ
Công Thương, nhận xét tình hình buôn lậu và gian lận thương mại trong năm đầu tiên khi VN gia
nhập WTO rất phức tạp. Các hình thức gian lận khi tạm nhập tái xuất với mặt hàng ô tô, gian lận xuất

xứ hàng hóa để được hưởng ưu đãi từ các nước ASEAN diễn ra phổ biến. Cùng đó, đã xuất hiện các
phương thức hoàn thiện hàng giả tại Hà Nội, TPHCM đưa đi các tỉnh tiêu thụ như: kính mắt, giày,
quần áo, rượu ngoại, sữa bột, mỹ phẩm. Đáng nói là phát hiện ngày càng nhiều mặt hàng nhập lậu có
giá trị cao qua đường hàng không như: vàng, ngoại tệ, kim loại quý, tân dược, ma túy, mỹ phẩm, linh
kiện điện tử cao cấp, máy tính xách tay Tinh vi hơn là một số doanh nghiệp nhập khẩu phần mềm
khai báo giá nhập khẩu với giá trị rất lớn, có dấu hiệu để chuyển tiền ra nước ngoài. Chẳng hạn như
các trường hợp: Tại TP.HCM, 15/1/2008, lực lượng công an phối hợp với Chi cục Quản lý thị trường
thành phố phát hiện kho chứa 58.000 gói thuốc lá ngoại nhập lậu tại nhà số 750/1/16 đường Nguyễn
Kiệm, phường 4, quận Phú Nhuận. 20/12/2007, 4,6 tấn gà nhập lậu nguồn gốc không rõ ràng, có nguy
cơ lây nhiễm cúm gia cầm cao đã bị các lực lượng chức năng bắt giữ và tiêu hủy tại huyện Văn Lãng
(Lạng Sơn). Tháng 8-2008, giá cả thị trường có chiều hướng ổn định hơn. Cụ thể giá xăng dầu giảm
nhẹ, xăng không chì và dầu hỏa giảm 1.000 đồng/lít, vàng SJC giảm 211.000 đồng/chỉ, đô la Mỹ giảm
150VNĐ/USD, giá gas các loại giảm từ 4.000 đồng/bình. Tuy nhiên thực tế thị trường vẫn tồn tại
nhiều bất cập. Một số doanh nghiệp, cá nhân đã lợi dụng chính sách tạo thuận lợi khi tiến hành thủ tục
hải quan để xuất nhập khẩu hàng cấm, hàng giả, lợi dụng chính sách quà tặng để nhập khẩu tân dược
trái quy định. Không chỉ gian lận trong kinh doanh xăng dầu, giả mạo các nhãn hiệu phân bón mà tình
hình hàng giả, hàng kém chất lượng đã xảy ra trên diện rộng như: rượu, sữa, thuốc tây, thuốc lá, điện
thoại di động, gas, xi măng Nguy hại hơn khi tình trạng sử dụng hàn the - một chất hóa học độc hại
để pha chế trong thực phẩm vẫn còn tiếp diễn, bánh Trung thu được sản xuất ở nhiều nơi bất chấp vệ
sinh an toàn thực phẩm. Biến động nổi bật nhất là tình trạng bán trái giá xăng và ngừng bán sau khi
giá xăng đã giảm. Lúc 9 giờ 30 ngày 22-7 Đội QLTT Củ Chi kiểm tra cây xăng của DNTNKD xăng
dầu Nguyễn Xuân tại Quốc lộ 22, ấp Tiền, xã Tân Thông Hội, huyện Củ Chi do ông Nguyễn Xuân
Bàng làm chủ. Tại đây có sáu trụ bơm nhưng không hoạt động, lấy lý do là ba trụ bị hư. Đội đã xử
phạt 4.000.000 đồng. Lúc 11 giờ ngày 14-8, lực lượng QLTT quận Tân Phú phát hiện cây xăng Bình
An tại số 462 đường Lũy Bán Bích, phường Hòa Thạnh vẫn bán xăng cho khách với giá 19.000
đồng/lít thay vì 18.000 đồng/lít như quy định mới. đội đã có quyết định xử phạt hành chính là 15 triệu
đồng đối với chủ cây xăng. Mặc dù những hành vi phạm trên đã bị sử lý hành chính nhưng vẫn có
nhiều ý kiến cho rằng đây là tội lừa dối khác hàng ở mức độ nghiêm trọng có quy định trong bộ luật
1
hình sự và nên đem ra xem xét để sử lý hình sự nhằm răng đe tình trạng kém chất lượng mà xăng dầu

là một mặt hàng thiết yếu.
Biện pháp để sự lý thông tin thị trường lệch lạ và suy thoài về đạo đức.
Thiết lập các tiêu chuẩn về chất lượng và phổ biến rộng rãi đến nhân dân, để người dân có cơ chế
kiểm tra và so sánh.
Chính phủ luôn khuyến khích các chương trình giới thiệu chất lượng, thương hiệu đối với người
tiêu dùng qua báo chí quản cáo trên truyên hình, tiếp thị một cách chính xác hữu ích cho người
tiêu dùng, và làm giảm chi phí kiểm định. Bênh cạnh đó chính phủ cần ban hành những quy định
về tính chính xác trong quản cáo cũng như chế tài trong những hành vi vi phạm
Đảm bảo quyền sỡ hữu trí tệu, xây dựng thương hiệu cho các sản phầm pah1t minh sáng chế, xử
lý nghiêm khắc hành vi làm giả làm nhái hàng kém chất lượng
Xây dựng các cơ quan tổ chức về quả lý, có uy tín và trugn lập thường xuyên kiểm dịch chất
lượng hàng hóa, qua đó người tiêu dùng có thể xác nhận chất lượng và tin tưởng vào hàng hóa
đó.
Giáo dục ý thức đạo đức, tuyên truyền đến nhân dân tác hại to lớn của hành vi xâm phạm đạo đức
xã hội…

×