Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Nghiên Cứu Đất Chua Ở ĐBSCL pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 19 trang )

CHƯƠNG 1. KHÁI NIỆM
1.1. Bạc màu đất
Theo GLASOD, bạc màu đất là tiến trình mô tả hiện tượng do con người gây ra
dẫn đến giảm sút khả năng của đất hỗ trợ đời sống của con người. Là tiến trình làm mất đi
một phần hoặc toàn bộ các chức năng của đất: chức năng sinh thái; chức năng liên quan
đến hoạt động của con người.
1.2. Chua hoá đất
- Tiến trình dẫn đến sự tăng nồng độ ion H
+
trrong dung dịch và làm giảm pH của
đất.
- Các nguồn gây chua:
+ Al
3+
và H
+
hoạt động trong dung dịch: độ chua hoạt động.
+ Al
3+
và H
+
trong hệ trao đổi: độ chua tiềm tàng.
+ Hydroxyt nhôm Al(OH)xy
+
: độ chua dư tồn chiếm phần lớn trong đất.
1.2.1. Đất chua
Đất chua là đất có nhiều axit, chứa ion H
+
hoặc có nhiều ion sắt (Fe
3+
), nhôm (Al


3+
)
tự do. Các ion này gây ra nhiều bất lợi cho việc giữ gìn và cung cấp thức ăn cho cây,
đồng thời làm cho đất ngày càng suy kiệt cả về lý tính, hóa tính và sinh học của đất.
1.2.2. Đất phèn
Đất phèn là đất có chứa các vật liệu sinh phèn mà kết quả của các tiến trình sinh
hoá xảy ra là acid sulfuric được tạo thành với một số lượng có ảnh hương lâu dài đến
những đặc tính chủ yếu của đất.
 Diện tích và phân bố
Đất phèn: diện tích 1.600.263 ha, là nhóm đất chiếm diện tích lớn nhất và phức tạp
nhất ở đồng bằng sông Cửu Long. Đất phèn phân bố ở các vùng Đồng Tháp Mười, Tứ
giác Long Xuyên và bán đảo Cà Mau.
Ở vùng Đồng Tháp Mười, phần lớn đất phèn hình thành từ trầm tích sét nặng có độ
thấm cao, khi bị oxy hóa dễ dàng xuất hiện khoáng Jarosite. Ở Tứ giác Long Xuyên đất
phèn tương đối đồng đều về nguồn gốc hình thành và độc tố, ít có những biến động lớn
trong cùng một khu vực. Đất phèn vùng bán đảo Cà Mau hình thành trên trầm tích sông
biển hỗn hợp chứa Pyrite bị phủ một lớp trầm tích sông mỏng bên trên, do đó lượng chất
độc không cao, đất thường bị nhiễm mặn vào mùa khô bởi nước biển tràn vào sông rạch.
CHƯƠNG 2. NGUYÊN NHÂN ĐẤT BỊ CHUA HOÁ
2.1. Sự rửa trôi
Do rửa trôi bởi nước mưa, nước tưới quá thừa. Nước mang đi chất dinh dưỡng hòa
tan, trong đó có nhiều chất kiềm như canxi (Ca), Magiê (Mg), Kali (K)… xuống tầng đất
sâu, sông suối, ao hồ…. làm cho đất mất chất kiềm, biến thành chua.
2.2. Do cây trồng hấp thụ nhiều nguyên tố có tính kiềm
Do cây hút thức ăn : ngoài đạm, lân, kali (NPK) cây hút khá nhiều Ca, Mg… một
vụ lúa trung bình cây hút 40 – 50kg canxi của đất (tính trên 1 ha) ; trồng nhiều vụ/năm,
giống năng suất cao, lượng Ca và Mg trong đất mất đi càng nhiều. Nếu hàng năm không
bón bù vào số cây bị lấy đi, càng làm cho đất chóng chua.
2.3. Sự phân giải chất hữu cơ
Sự phân giải chất hữu cơ luôn thải ra nhiều loại axit cacbonic H

2
CO
3
, axit Sunfuric
(H
2
SO
4
), axit Nitric (HNO
3
) axit Axetic (CH
3
COOH)… các axit này hòa tan Ca, Mg và
rửa trôi, làm cho đất chua.
2.4. Do sự oxi hoá hoặc khoáng hoá các hợp chất đạm dạng hữu cơ
Bón phân khoáng (hóa học) mang gốc axit như phân SA (Sunfat amôn), KCl
(Clorua kali), K
2
SO
4
(Sunfat kali), Suppe lân … Các gốc axit SO
4
-
, Cl
-
cây không hút
hoặc hút rất ít, tồn tại trong đất, cùng với nước tạo thành axit làm cho đất chua.
2.5. Do oxy hoá vật liệu sinh phèn
Đất phèn được hình thành từ các vật liệu chứa nhiều chất sunfua, sắt, nhôm, được
chia thành hai nhóm: đất phèn tiềm tàng (Potential Acid Sulfate Soil) có chứa vật liệu

sinh phèn (sulfidic materials) và đất phèn hoạt động (Actual Acid Sulfate Soil) có chứa
vật liệu phèn (sulfuric materials) và có thể có vật liệu sinh phèn bên dưới tầng phèn hoặc
xen lẫn nhau.
Tầng sinh phèn chứa vật liệu sinh phèn (chủ yếu là khoáng Pyrite FeS
2
và chất hữu
cơ, khoáng sét có màu đặc trưng từ màu xám đến xám đen) và tầng phèn chứa vật liệu
phèn (chủ yếu là khoáng Jarosite có màu đặc trưng là vàng rơm). Các chất này bị phân
huỷ giải phóng các nguyên tố kim loại như sắt, nhôm, magie và nồng độ hydro H
+
gia
tăng làm cho môi trường đất trở nên chua (độ pH của đất và nước trong đất rất thấp) gây
độc hại cho cây trồng và làm ô nhiễm nguồn nước. Vì vậy, khi nói đến đất phèn là nói đến
độ chua của đất.
CHƯƠNG 3. ẢNH HƯỞNG CỦA CHUA HOÁ ĐẤT
3.1. Đến sinh vật
Trong các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, các vấn đề về cải tạo đất sản xuất ở các
vùng đất nhiễm phèn, các vùng đất chua do có pH thấp đã được nhiều nhà khoa học
nghiên cứu và ứng dụng vào thực tiển sản xuất. Một trong những khó khăn trở ngại khi
sản xuất trên các vùng đất này là do ảnh hưởng của pH.
- Cá sống trong môi trường có pH thấp thì số lượng hồng cầu trong máu cao hơn ở
môi trường có pH cao. Do sống trong môi trường có pH thấp, khả năng liên kết của oxy
với hemoglobin giảm vì sự chênh lệch về nồng độ H
+
giữa trong và ngoài cơ thể, HbH
không thể phân ly thành Hb và H
+
, do đó oxy không thể gắn kết với hemoglobin.
- Tôm nuôi trong ao bị nhiễm phèn bên cạnh tôm bị mềm vỏ do sự thiếu calcium
và những nhân tố cần thiết cho quá trình hình thành vỏ, chúng còn bị ảnh hưởng bởi vật

chất lơ lững của sắt đóng trên bề mặt mang.
- Loài phù du (Ephemera danica) khi sống trong môi trường pH thấp sẽ làm tăng
tính độc của Al lên chúng do nhôm hydroxide kết tủa làm hình thành trên mang lớp màng
nhầy, từ đó làm giảm quá trình điều hòa áp suất thẩm thấu, trao đổi ion, làm ảnh hưởng
đến quá trình hô hấp do giảm sự di chuyển của oxy. Sinh vật phản ứng lại bằng cách gia
tăng tần số hô hấp dẫn đến tiêu tốn nhiều năng lượng cho quá trình hô hấp. Từ đó làm ảnh
hưởng đến quá trình sinh trưởng và sinh sản.
- Khi pH thấp, các ion kim loại ở dạng tan (Fe
2+
, Al
3+
) tác dụng với photphat (lân)
tạo thành các hợp chất không tan, hạn chế sự phát triển của tảo, từ đó làm giảm nguồn
thức ăn cần thiết cho thủy động vật và làm tiêu tốn một lượng phân lân lớn trong quá trình
cải tạo ao.
3.2. Đến sản xuất nông nghiệp
- Sự ngộ độc phèn của cây lúa thường diễn ra ở rễ, làm cho rễ có màu đen, ngắn và
dễ gãy. Lúa bị ngộ độc phèn thể hiện bằng sự kém đẻ nhánh, cây lùn lại, hạt lép nhiều, lá
lúa trở màu vàng cam, lá non bị đỏ, lá lúa thường có màu xanh đậm, mọc thẳng hơn lá
bình thường.
- Các loại cây trồng được trên đất có pH thấp rất hạn chế chủ yếu là cây 1 lá mầm
và phải qua quá trình cải tạo đất mới có thể canh tác được.
Đất chua nặng về bản chất không thích hợp với nông sản khác hơn cây Tràm, tuy
nhiên cải thiện điều kiện tưới tiêu và dùng vôi với lân đã giúp trồng trọt các sản phẩm
khác có thể gồm lúa.
CHƯƠNG 4. BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC
4.1. Biện pháp bón phân
- Tăng cường bón phân hữu cơ (phân chuồng, phân xanh, phân Komix…). Với đất
cát nhẹ, đất bạc màu bón được 20 – 30 tấn/ha hàng năm càng tốt. Nếu có điều kiện lấy đất
sét nặng trộn với đất mặt cũng là biện pháp cải tạo đất cát, đất bạc màu để tăng khả năng

hấp thụ của đất.
- Dùng phân hóa học nên chọn loại phân trung tính hoặc kiềm như DAP, KNO
3
,
CA(NO
3
)
2
, lân nung chảy, Apatic, Phosphorit, Urê, NH
4
NO
3
,… Không dùng phân chua
sinh lý như SA, KCl, K
2
SO
4
, Suppe lân…
4.2. Biện pháp bón vôi
Ca và Mg sẽ dần dần bị mất theo thời gian do thực vật, rửa trôi… nên độ bão hòa
base và pH ngày càng giảm thấp, nhất là các vùng nhiệt đới ẩm. Do đó, cần thiết phải bón
vôi theo chu kỳ nhất định cho các vùng đất này nhằm duy trì hàm lượng Ca, Mg, pH và
độ bão hòa base cho đất.
4.3. Kỹ thuật canh tác
- Trong mỗi ruộng nên làm những mương giáp vòng quanh ruộng để xả phèn, bề
rộng và sâu chỉ cần khoảng 50 – 70cm.
- Đối với những ruộng lớn nên xẻ thêm các mương xương cá trên ruộng nối với
các mương giáp vòng để xả phèn tốt hơn.
- Việc làm đất cần phải lưu ý giữ nước thường xuyên trong ruộng để trồng lúa,
không nên để nước cạn và tuyệt đối không cài ải đối với đất phèn.

- Đối với đất phèn nhẹ, phèn trung bình có thể cày sâu khoảng 20 – 25cm, sau một
thời gian sẽ làm cho tầng canh tác đất dày lên và tăng khả năng khoáng hóa chất hữu cơ,
giảm được độc sắt.
- Đối với đất phèn nặng, có tầng phèn tiềm tàng gần tầng đất mặt, không được cày
sâu vì nếu cày sâu thì vô tình sẽ lật cả tầng phèn lên trên và gây độc cho lúa.
Canh tác cây trồng cạn, trồng rừng. Do rửa trôi mạnh nên trong canh tác cần thiết
đưa cây họ đậu vào hệ thống luân canh nhằm duy trì hàm lượng chất hữu cơ và dinh
dưỡng cho đất. Ngoài ra, cần chú ý đến các biện pháp kỹ thuật sau:
- Chống xói mòn đất.
- Duy trì chất hữu cơ cho đất.
- Bón phân hợp lý.
- Tưới tiêu hợp lý.
CHƯƠNG 5. NHẬN DẠNG VÀ SỬ DỤNG ĐẤT PHÈN Ở ĐBSCL
5.1. Giới thiệu
Đất phèn là đất có chứa các vật liệu sinh phèn mà kết quả của các tiến trình sinh
hóa xảy ra là các acid sunfuric được tạo thành với một số lượng có ảnh hưởng lâu dài đến
những đặc tính chủ yếu của đất.
Dựa trên sự hình thành và phát triển của đất, Pons (1973) đã chia đất phèn ra làm
hai loại: đất phèn tiềm tàng (Pontential acid sulphate soil) và đất phèn thật sự hoặc đất
phèn hiện tại (Actual acid sunphate soil).
Tiêu chuẩn chẩn đoán của đất phèn tiềm tàng và đất phèn thật sự trong hệ thống
phân loại đất theo Soil taxonomy (USDA, 1975) là tầng có chứa pyrite (vật liệu sulfidic)
và tầng sulfuric với pH < 3,5 và những đốm màu vàng rơm của Jarosite. Hoặc không có
đốm vàng rơm, nhưng pH < 3,5, đất giàu chất hữu cơ bán phân hủy vẫn được xếp vào
nhóm đất phèn thật sự có tầng perdysic.
Đất phèn tiềm tàng thường xuất hiện ở những vùng đất ngập nước, ngập lũ theo
triều, vùng đất thấp ven biển và thảm thực vật dày đặc. Dấu hiệu của đất phèn tiềm tàng là
vật liệu sulfidic. Vật liệu sulfidic là vật liệu đất hữu cơ hoặc khoáng ngập nước chứa >
0,75% lưu huỳnh, chủ yếu ở các dạng sulfide và có hàm lượng CaCO
3

không quá 3 lần
hàm lượng lưu huỳnh. Đất phèn hoạt động phát triển từ đất phèn tiềm tàng. Khi pyrite bị
oxi hóa, H
2
SO
4
được hình thành, đất trở nên chua. Dấu hiệu của đất phèn hoạt động là
tầng sulfuric. Tầng sulfuric là vật liệu đất hữu cơ hoặc khoáng có pH < 3,5 và có các đốm
jarosite (Aard và Lawoo, 1992). Tùy theo độ sâu của tầng sinh phèn và tầng phèn mà đất
phèn có thể được chia thành các tiểu nhóm khác nhau: đất phèn nặng (nếu độ sâu xuất
hiện tầng phèn hoặc tầng sinh phèn trong vòng 50cm), đất phèn trung bình (tầng phèn
xuất hiện từ 50 - 100cm) và đất phèn nhẹ (tầng phèn xuất hiện từ 100 – 150cm).
5.2. Nguồn gốc và phân loại
Khi đề cập đến đất phèn, cần phân biệt hai trạng thái phèn: Phèn tiềm tàng
(potential) và phèn hoạt động (actual).
Dựa trên sự hình thành và phát triển của đất, Breeman (1976) đã chia đất phèn ra
làm hai loại: Đất phèn tiềm tàng (Potential acid sulphate soil) và đất phèn thật sự hoặc đất
phèn hoạt động (Actual acid sulphate soil). Trạng thái tiềm tàng hình thành trong điều
kiện khử, nhưng trạng thái hoạt động phải có sự oxid hoá.
Tiêu chuẩn chẩn đoán của đất phèn tiềm tàng và đất phèn hoạt động trong hệ thống
phân loại đất theo Soil Taxonomy (USDA, 1975 và 1999) là tầng sulfidic chứa khoáng
pyrite ( FeS
2
) và tầng sulfuric với PH<3,5 có sự hiện diện của những đốm màu vàng rơm
(2.5Y8/6) của khoáng Jarosite (KFe
3
(SO
4
)
3

(OH)
6
).
5.2.1. Đất phèn tiềm tàng
Đất phèn tiềm tàng nằm trong bộ Entisol, thuộc bộ phụ Aquent, với 3 nhóm lớn là
Sulfaquents, Hydraquent và Fluvaquent, vùng ẩm ướt ở đầm lầy ngập triều, trên những
nơi mà ở đó đất bị bão hòa nước liên tục hoặc từng thời kỳ, hoặc vùng ven biển ngập
triều. Đất phèn tiềm tàng được tạo thành chủ yếu do vật liệu Pyrite (FeS
2
), chất khoáng
này thường chiếm 2-10% trong đất.
* Sự tạo thành khoáng pyrite
Sự tạo thành pyrite thích hợp ở pH từ 4,0-8,0 liên quan đến sự khử SO
4
2-
thành
sulfide S
2-
có sự tham gia của vi khuẩn. Sau đó sulfide bị oxy hoá từng phần thành S dưới
tác động qua lại giữa Fe
+2
và Fe
+3
(Rickard, 1973; Breement, 1976).
Các phản ứng tạo thành pyrite được Pons và Breement , (1982) diễn tả như sau:
Fe
2
O
3


(S)
+ 4SO
4
2-
(aq) + 8CH
2
O +1/2O
2
→ 2FeS
2(S)
+8HCO
3
-
(aq) +4H
2
O (1)
Các điều kiện cần thiết cho sự tạo thành pyrite từ phương trình trên là :
 Nguồn sắt có trong trầm tích biển: FeOOH→Fe
2
O
3
+H
2
O
 Nguồn sulfate hoà tan có trong nứơc biển, nước lợ.
 Chất hữu cơ cung cấp năng lượng cho sự khử sulfate.
 Môi trường yếm khí đầm nước lợ, rừng đước.
 Sự loại bỏ chất kiềm HCO
3
-

sinh ra dễ bị cuốn trôi.
 Thời gian.
 Vi khuẩn khử sulfate vi sinh vật dị dưỡng Desulfovibrio và Sulfotomaculumm.
Như vậy sự hình thành đất phèn tiềm tàng chủ yếu bao gồm sự tạo thành khoáng
pyrite chiếm 2-10% trong tổng khối đất này .
Một vùng đất trũng thấp có trở nên phèn hay không ngoài việc dựa vào lượng
pyrite đựơc tạo thành, còn tuỳ thuộc vào những chất có khả năng trung hoà độ chua.
Những chất đó gồm:
(a)- Carbonate (3% CaCO
3
trung hòa được 1% pyrite). Phần lớn vùng trũng thấp
nhiệt đới chịu ảnh hưởng của triều, lượng CaCO
3
rất ít hoặc không có vì HCO
3
-
sinh ra do
phản ứng khử sulfate thường không được giữ lại trong trầm tích do sự kết tủa CaCO
3

bị cuốn trôi do thủy triều.
(b)- Cation baze trong phức hệ hấp thu (Ca, Mg, Na, K): Vào khoảng 50 meq/100g
đất trong sét biển trung hòa được 0,5% pyrite.
(c)- Khoáng sét silicate dễ bị phá hủy có khả năng trung hòa độ chua (trung hòa ở
pH<4,9 phản ứng xảy ra chậm).
* Sự oxy hóa pyrate
Khi mực nước rút khỏi tầng pyrite, quá trình oxy hóa xảy ra. Sự oxy hóa pyrite
trong đất phèn trải qua nhiều giai đoạn, bao gồm cả hai tiến trình hóa học và sinh học.
Tiến trình oxy hóa như sau:
Đầu tiên oxygen hoặc Fe

3+
hòa tan phản ứng chậm với pyrite, tạo thành sắt (II),
sulphate hoặc nguyên tố S:
FeS
2
+ 1/2O
2
+ 2H
+
 Fe
2+
+ 2S + H
2
O (2)
Phản ứng (2) cho thấy sự oxy hóa học thuần túy của pyrite, không có Fe
3+
tham gia
ở môi trường ẩm và thoáng khí. Khi có Fe
3+
tham gia:
FeS
2
+ 2Fe
3+
 3Fe
2+
+ 2S (3)
2S + 12Fe
3+
+ 8H

2
O  12 Fe
2+
+ 2SO
4
2-
+ 16H
+
(4)
Khi pH< 3,5 sự oxy hóa hóa học của Fe
2+
thành Fe
3+
rất chậm (phản ứng 5), tốc độ
của phản ứng không tùy thuộc vào pH:
Fe
2+
+ 1/4O
2
+ H
+
 Fe
3+
+ 1/3H
2
O (5)
Khi pH bằng hoặc lớn hơn 3,5 phần lớn Fe
3+
bị thủy phân và kết tủa dưới dạng
Fe(OH)

3
(6), phản ứng này xảy ra rất nhanh so với sự oxy hóa hóa học thuần túy Fe
3+

phản ứng (5):
Fe
3+
+ 3H
2
O  Fe(OH)
3
+ 3H
+
(6)
Sự oxy hóa nguyên tố S bởi O
2
xảy ra rất chậm nếu thiếu sự tham gia của Vi sinh
vật (7):
2S + 3O
2
+ 2H
2
O  2SO
4
2-
+ 4H
+
(7)
Kết hợp phản ứng (2) và (3):
FeS

2
+ 14Fe
3+
+ 8H
2
O  15Fe
2+
+ 2SO
4
2-
+ 16H
+
(8)
Từ phản ứng (8) lượng Fe
3+
giảm đi nếu Thiobacillus ferroxidans không tiếp tục
oxy hóa Fe
2+
thành Fe
3+
:
Fe
2+
+ 1/4O
2
+ H
+
 Fe
3+
+ 1/2H

2
O (9)
Điều này giải thích tại sao ở pH thấp Fe
2
O
3
, Fe
2
(SO
4
)
,
jarosite không thể tồn tại
trong vùng tiếp cận pyrite. Do đó FeSO
4
sinh ra từ phản ứng (10) chỉ có thể bị oxy hóa ở
điểm cách xa pyrite sau khi khuyết tán và H
+
sinh ra từ các phản ứng này làm gia tăng độ
chua trong đất:
FeS
2
+ 7/2O
2
+ H
2
O  Fe
2+
+ SO
4

2-
+ 2H
+
(10)
Cả hai sản phẩm FeSO
4
và H
2
SO
4
đều rất dễ hòa tan và thường hiện diện dưới dạng
ion trong dung dịch nước. Tuy nhiên khi đất khô lại thì trên mặt đất có thể hình thành
những tinh thể có chứa FeSO
4
khác nhau (như Szomolnokite FeSO
4
.H
2
O; Rosenite
FeSO
4
.4H
2
O; Hexahydrite FeSO
4
.6H
2
O; hoặc Melanterite FeSO
4
.7H

2
O) tùy thuộc vào ẩm
độ của đất. Các ion Fe
2+
được hình thành từ phản ứng trên tiếp tục bị oxy hóa để cho ra
Fe(OH)
3
và Jarosite:
Fe
2+
+ SO
4
2-
+ 1/4O
2
+ 5/2H
2
O  Fe(OH)
3
+ 2H
+
+ SO
4
2-
(11)
Fe
2+
+ SO
4
2-

+ 1/4O
2
+ 3/2H
2
O + 1/3K
+
 1/3KFe
3
(SO
4
)
2
(OH)
6
+ 3H
+
+4/3SO
4
2-
(12)
Jarosite
Kết hợp (10) và (12) ta có:
FeS
2
+ 15/4O
2
+ 5/2H
2
O + 1/3K
+

 1/3KFe
3
(SO
4
)
2
(OH)
6
+ 3H
+
+4/3SO
4
2-
(13)
Fe
2
O
3
tạo thành từ phản ứng oxy hóa Fe
2+
hòa tan (11), và sự tạo thành Goethite từ
sự oxy hóa 1 mole FeS
2
sản sinh ra 2 moles acid sulfuric:
FeS
2
+ 7/4O
2
+ 5/2H
2

O  FeOOH + 4H
+
+ SO
4
2-
(14)
Tốc độ oxy hóa pyrite có thể rất nhanh, tùy thuộc và sự hiện diện của O
2
tự do, nếu
O
2
tự do nhiều sẽ oxy hóa nhanh pyrite để tạo thành đất phèn.
* Hình thái phẫu diện và nhận dạng đất phèn tiềm tàng
Để có thể nhận dạng đất phèn, một trong những đặc điểm quan trọng nhất là hình
thái phẫu diện đất. Do hiện diện trong điều kiện khử và có tầng sinh phèn nên thường nền
đất có màu xáu đen, nhất là nơi có chứa khoáng pyrite (FeS
2
). Một số nơi, nền đất có thể
có màu xám hơi xanh nhưng quan sát kỹ thì chúng có thể nhận dạng ra được những đốm
đen chen lẫn trong đất. Đất kém phát triển, không thuần thục (unripe) nên thường không
có cấu trúc hoặc có cấu trúc rất yếu trên tầng mặt. Thường đất có chứa nhiều chất hữu cơ
phân hủy đến bán phân hủy và có thể quan sát bằng mắt thường. Do phẫu diện đất thường
được bão hòa nước thường xuyên nên ẩm độ đất khá cao ngay cả trong mùa khô.
Việc xác định đất phèn tiềm tàng có thể được thực hiện ngoài

đồng qua việc oxy
hóa nhanh đất bằng H
2
O
2

trong khoảng 5 – 10 phút, nếu pH hạ thấp xuống thấp đến < 2
thì đất chua có vật liệu sinh phèn.
5.2.2. Đất phèn hoạt động (Dent, 1986)
Đất phèn thật sự nằm trong bộ Inceptisols, bộ phụ Aquepts với 3 nhóm lớn là
Sulfaquepts, Tropaquepte, Humaquepte, là loại đất thoát thủy từ kém đến tốt, có tầng đất
thay đổi theo mùa. Tiêu chuẩn phân loại là không có vật liệu Sulfidic trong vòng 50 cm
đất mặt nhưng có tầng jarosite, pH đất thấp, thường trong khoảng tử 3 đến 4, độ thuần
thục của đất bằng hoặc nhỏ hơn 0,7 trong một hoặc nhiều phụ tầng ở độ sâu 20 – 50 cm.
Trong điều kiện thoáng khí như thoát thủy, mực thủy cấp xuống sâu hơn sẽ làm
cho khoáng pyrite bị oxid hóa thành các khoáng sắt ở dạng Fe (III) và các hợp chất khách
cũng như có nhiều ion H
+
được sinh ra. pH giảm thấp, nhiều hợp chất bị hòa tan và môi
trường trở nên rất acid và rất độc, ảnh hưởng đến sự sinh trưởng cho thực vật và thủy sản.
Khi đất phèn tiềm tàng bị oxid hóa trở thành đất phèn hoạt động thì hình thái đất bị
biến đổi đầu tiên với sự hiện diện của tinh khoáng jarosite (KFe
3
(SO
4
)
2
(OH)
6
) màu vàng
rơm (2,5Y8/6 – 2,5Y8/8) theo bảng so màu đất (Munsell). Đây là khoáng có màu đặt
trưng dùng để chuẩn đoán tầng phèn (sulfuric) và là một trong những tiêu chuẩn được
dùng để phân loại đất phèn hoạt động. thông thường, các khoáng này tập trung ở những
khe nứt, ống rể thực vật bị phân hủy và có thể phân bố tập trung hoặc phân tán đều tuỳ
theo điều kiện oxy xâm nhập vào trong đất. Ngoài ra, có thể có những khoáng hydroxide
sắt (Fe(OH)

3
) màu nâu trong những tế khổng đất. Khi đất phèn hoạt động trải qua một
thời gian khá dài, các khoáng Goethite (FeO.OH) màu vàng hoặc nâu và khoáng hematite
(Fe
2
O
3
) màu đỏ hiện diện trong đất thông qua tiến trình thuỷ phân; phần lớn các khoáng
này thường thì nằm bên trên các khoáng Jarosite nhưng cũng có thể nhìn thấy chúng xuất
hiện cùng với tầng sulfuric. Các khoáng Goethite màu nâu – vàng đậm có thể tạo thành
những hạt kết von nhỏ khá cứng nằm dọc theo ống rễ thực vật đã bị phân huỷ.
* Sự oxy hoá Pyrite
Sự oxy hoá pyrite qua nhiều phản ứng hoá học, nhiều sản phẩm được tạo ra, phản
ứng tổng hợp sau cùng của tiến trình này trong thời gian dài như sau:
FeS
2
+ 15/4 O
2
+ 7/2 H
2
O Fe(OH)
3
+ 2SO
4
2-
+ 4H
+
(15)
Một mole pyrite bị oxy hoá sẽ phóng thích 2 mole acid sulfuric.
* Sự oxy hoá Fe

Trị số pH của đất lớn hơn 4, sắt (III) sẽ kết tủa dưới dạng oxide boặc hydroxide sau
khi oxy hoá sắt (III) hoà tan. Khi sự oxy hoá xảy ra, keo oxid sắt (III) thường xuất hiện
trong hệ thống thoát thuỷ. Goethite là dạng oxide sắt thường dễ nhận biết nhất. Đôi khi nó
có thể biến đổi một cách chậm chạp sang dạng hematite. Hematite là những đốm Fe đỏ
thường có nhiều trên các loại đất phèn đã phát triển.
2 FeO.OH Fe
2
O
3
+ H
2
O (16)
Goethite Hematite
* Sự tạo thành Jarosite
Trong điều kiện sự oxy hoá xảy ra mạnh. Eh lớn hơn 400mV, pH nhỏ hơn 3.7 các
đốm màu vàng rơm của jarosite KFe
3
(SO
4
)
2
(OH)
6
được tạo thành jarosite kết tủa dọc theo
các ống rễ và khe nứt. Jarosite có thể được tạo thành dưới dạng Natrojarosite:
NaFe
3
(SO
4
)

2
(OH)
6
và Hydroniumjarosite: HFe
3
(SO
4
)
2
(OH)
6
khi Na và H thay thế K.
Thường dạng potassium chiếm ưu thế hơn, và pah3n ứng tạo thành jarosite xảy ra như ở
phản ứng (13). Ở trị số pH cao, jarosite biến chuyển thành Goethite và thuỷ phân cho ra
oxid sắt:
KFe
3
(SO
4
)
2
(OH)
6
3 FeO.OH + K
+
+ 3H
+
+ SO
4
2-

(17)
Quan sát lớp đất mỏng qua kính hiển vi cho thấy các đốm màu vàng của đất phèn
chủ yếu là jarosite, chỉ có một số ít là goethite. Các đốm màu nâu và đỏ trong đất phèn
chủ yếu là goethite, đôi khi goethite kết hợp với jarosite và hematite (Breemen, 1976).
Jarosite hình thành tạo vùng có pH thấp, trong khi đó FeSO
4
chỉ có ở vùng Eh thấp hoặc
pH tương đối cao và Fe(OH)
3
tìm thấy trong khoảng thay đổi lớn, nhưng không xuất hiện
ở pH thấp. Trong phẫu diện, những đốm rỉ nhìn thấy được là Fe(OH)
3
và những đốm vàng
nhạt là jarosite. Nhưng có những vùng chúng ta không thấy được những đốm rỉ và
jarosite, vì tại đó chứa rất nhiều Fe
2+
và SO
4
2-
, đất rất chua, khiến jarosite không hình
thành được kể cả Fe(OH)
3
. Nếu trong đất chứa nhiều hữu cơ ở điều kiện oxid hoá cao
cùng với lượng FeSO
4
nhiều, thì những đốm màu vàng rơm điển hình không được tạo
thành vì vậy tầng này xếp thành “tầng perdusic” (Perdisic Horizon) nghĩa là tầng đất phèn
có pH rất thấp nhưng không có đốm jarosite.
Qua quan sát hình thái, cấu trúc yếu đã hình thành ở ngay tầng mặt và tầng phèn;
sau khi phát triển một thời gian cùng với độ dày tầng đất được thoáng khí thì cấu trúc

cũng phát triển theo, và lúc này một cấu trúc trung bình có thể được quan sát ngay tại
ngoài đồng. Qua nhiều phẫu diện đất phèn ở vùng châu thổ sông Mekong cho thấy phần
lớn có cấu trúc lăng trụ (prismatic) hoặc cấu trúc khối (blocky structure). Tuy nhiên, ở
tầng phèn thì các cấu trúc này thường bị phá vỡ do sự hình thành jarosite để hình thành
những cấu tử đất có cấu trúc nhỏ. Đặc tính này thường thấy ở những đất phèn hoạt động
phát triển khá; người nông dân khó có thể đào để lấy những tảng đất to như những loại
khác.
Mật độ và sự phân bố các tinh khoáng jarosite có thể tập trung hoặc phân tán dọc
theo ống rễ hoặc kẻ nứt trong đất. Với một độ dày xuất hiện và mật dộ của jarosite mà có
thể hình thành tầng phèn trong đất.
5.3. Tác hại của đất phèn
Khi khoáng pyrite trong đất phèn tiềm tàng bị oxid hoá hoàn toàn để hình thành
khoáng jarosite ở đất phèn hoạt động thì cứ 1 mole FeS
2
khi bị oxid hoá sẽ sản sinh ra 4
mole ion H
+
. Do có sự gia tăng nồng độ H
+
nhiều như thế nên có sự gia tăng độ chua
trong đất. Môi trường đất lúc bấy giờ có thể đạt 3,5. Tuy nhiên, ở một vài nơi có điều kiện
rửa phèn khá tốt, có thể có giá trị pH cao hơn.
Trong môi trường đất có giá trị pH < 3, phần lớn các ion Fe
3+
và Al
3+
trong hợp
chất hydroxide Fe và Al đều dễ bị hoà tan và dễ dàng gây độc cho cây trồng lẫn nguồn
thuỷ sản. Một khi giá trị pH được nâng lên khoảng bằng 4 thì sắt (Fe) bị cố định và độc
chất quan trọng nhất trong môi trường này chủ yếu là do nhôm (Al) hoà tan. Có lẽ vì thế

mà người nông dân lo ngại phèn lạnh (do Al) hơn là phèn nóng (do Fe) vì sử dụng nước
và vôi để rửa phèn và nâng pH vượt qua khỏi giá trị 5 trong đất phèn hoạt động nặng là
công việc không dễ dàng trong một khoảng thời gian ngắn.
Các độc chất trong đất phèn hoạt động chủ yếu là hợp chất chứa sắt (Fe), nhôm
(Al) và sulphate (SO
4
2-
). Tuy nhiên, không phải bất cứ lúc nào tất cả các hợp chất này đểu
gây độc cho thực vật và thuỷ sinh vật trên vùng đất phèn mà nó tuỳ thuộc vào môi trường
đất vốn thay đổi theo mùa hoặc do bởi những yếu tố tác động khác.
Tuỳ theo điều kiện hình thành mà có nơi Fe chiếm ưu thế hoặc có nơi Al chiếm ưu
thế, có nơi 2 thành phần này cùng chung sống với nhau. Khi quan sát màu nước trong
ruộng, biểu hiện rõ là ở các gốc ruộng hoặc quanh bờ, mặt nước có vàng màu đỏ thì có
thể hiểu ngay ruộng đó do phèn sắt gây ra là chủ yếu, có nơi gọi là phèn nóng. Còn ở
những ruộng mặt nước trong xanh, đất quanh bờ có màu xám ít thấy cỏ mọc hoặc chỉ thấy
có cỏ năng mọc lác đác từng chòm thì ruộng đó nghiêng về phèn nhôm, có nơi gọi là phèn
lạnh. Mức độ phèn nhiều hay ít tuỳ thuộc vào độ nông, sâu của tầng sinh phèn. Nếu tầng
sinh phèn ở sâu, ví dụ, nằm dưới mặt đất 1 – 2 m hoặc sâu hơn thì tỷ lệ Fe, Al ở trên bề
mặt ruộng ít hơn. Còn những ruộng có tầng sinh phèn ở nông, ví dụ chỉ cách lớp đất mặt
dưới 1 m (50 – 60cm chẳng hạn) thì người ta thường nói đó là đất phèn hoạt động, lượng
Fe, Al trong ruộng sẽ nhiều hơn và biện pháp cải tạo sẽ khó khăn hơn.
5.3.1. Tính chất vật lý:
- Gần 100% đất phèn hình thành trên đất có sa cấu nặng (tức sét >40%).
- Cấu trúc kém hoặc không có cấu trúc.
- Mặc dù có hàm lượng chất hữu cơ cao nhưng do trong điều kiện chua và yếm khí
nên hầu hết chất hữu cơ phân giải rất kém, phân giải không hoàn toàn. Vì vậy hàm lượng
chất hữu cơ trong đất cao nhưng hàm lượng mùn thấp, thể hiện bằng tỷ số C/N cao (C/N
> 25).
- Cũng chính vì trong đất ngập nước và đất chua, phần lớn hoạt động phân giải của
vi sinh vật tham gia rất kém, có khi không có, nên đất phèn rất chậm hình thành cấu trúc

của nó.
5.3.2. Tính chất hóa học:
- Bất lợi đầu tiên của đất phèn là chứa hàm lượng H
2
SO
4
quá cao, do đó pH thấp
(khoảng 3,5 ở tầng phèn), và chính acid này phá vỡ cấu trúc của khoáng sét để giải phóng
nhôm. Nguyên tố có hàm lượng cao nhất trong đất phèn là H
+
, SO và Al
3+
, nếu nó hòa tan
với hàm lượng cao thì không có cây trồng nào sống nổi.
- Một bất lợi nữa của đất phèn là hàm lượng các chất dinh dưỡng tổng số tuy cao
nhưng khả năng hữu dụng rất thấp (đặc biệt là lân).
- Do có sa cấu sét và hàm lượng chất hữu cơ cao nên CEC cao, tính đệm pH rất cao
(rất khó để cải thiện pH đất).
5.3.3. Tính chất sinh học:
- Hầu hết các vi sinh vật hoạt động trong đất phèn là những sinh vật không có ích
cho sự chuyển hóa các chất dinh dưỡng cho cây trồng, nếu có thì cũng không đáng kể.
Chủ yếu là vi khuẩn Thiobacillus tham gia vào quá trình chuyển hoá lưu huỳnh.
5.4. Biện pháp cải tạo
5.4.1. Biện pháp quản lý nước
- Khi mùa mưa bắt đầu:
+ Những trận mưa đầu tiên làm hoà tan các muối nhôm trên mặt đất và ở bề mặt
các khe nứt, Sau đó các muối này sẽ được mao dẫn và tích luỹ lại trên mặt đất. Đất cực kỳ
chua và có hàm lượng Al
3+
, Fe

3+
cao.
+ Khi mưa nhiều và mặt đất trở nên bị ngập, tiến trình khử bắt đầu.
+ Vào cuối mùa mưa, sau thời gian ngập nước, pH trong dung dịch đất tăng đến
trung bình đạt 5,8 và có thể lên tới 6,7 trên đất phèn nặng ở Hòa An, Phụng Hiệp (Hậu
Giang). Hàm lượng Fe
3+
thấp (biến động từ 0,16-1,71 meq/l) (Fritr Bil, 1992).
Do đó trước khi mùa khô bắt đầu, có thể gieo trồng lúa khi đất đang ở trong tình
trạng khử, lớp đất đế cày vẫn chưa bị nứt nẻ, có thể ngăn cản sự di chuyển acid từ tầng
jarosite lên mặt đất. Khi đất bắt đầu khô, các trở ngại bắt đầu, pH giảm, Al
3+
gia tăng. Các
khe nứt tiến sâu vào lớp đất bên dưới sẽ mang acid và các muối Al lên bề mặt đất, và tiến
trình oxy hóa acid hóa lại bắt đầu.
+ Sự ngập nước liên tục ảnh hưởng có lợi làm pH đất tăng, giảm hàm lượng Al
3+
hòa tan, tuy nhiên cây trồng bị ngộ độc do hàm lượng Fe
2+
hòa tan cao và bởi hàm lượng
H
2
S cao trong đất khử (Dent, 1986).
Fe(OH)
3
+ 2H
+
+ ¼ CH
2
O Fe

2+
+ 11/4H
2
O + 1/4 CO
2
SO
4
2-
+ 2H
+
+ 2 CH
2
O H
2
S + 2H
2
O + 2 CO
2
+ Ngoài ra trong điều kiện khử khả năng gây độc do H
+
, Al
3+
, tuy tạm thời được
giảm nhưng tiềm năng gây độc vẫn không bị loại trừ, sẽ trở nên hoạt động khi đất bị khô
trở lại.
5.4.2 Biện pháp rửa phèn (Leaching): Lên líp, đào Mương phèn:
Việc rửa các chất hòa tan Fe
3+
,
Al

3+
và nồng độ cao của ion H
+
có thể
thực hiện bằng biện pháp lên líp đào
mương phèn.
Đất được lên thành những lớp có
kích thước 10 – 30 m x 36 m, giữa các
líp là mương phèn có kích thước là 1 m
chiều rộng x 0,3 - 0,6 m chiều sâu tùy
theo độ sâu xuất hiện của tầng jarosite
các mương phèn được thông với các mương chính để tiêu nước.
Khoảng cách giữa hai mương phèn càng ngắn tiến trình rửa phèn càng mạnh, tuy
nhiên hiệu quả kinh tế cần được quan tâm. Cần chú ý biện pháp làm giảm độc chất và
cũng rửa đi một số dưỡng chất cần thiết và nếu ruộng thường bị khô biện pháp rửa cũng
trở nên không hữu hiệu.
5.4.3 Biện pháp ém phèn
Biện pháp ém phèn là duy trì chế độ nước tự nhiên của vùng, chế độ nước ngọt
trong mùa mưa và nước mặn trong mùa khô sẽ ngăn cản sự chua hoá do quá trình oxy hoá
trong mùa khô trên đất phèn hiện tại hoặc ngăn cản oxy hoá pyrite trên đất phèn tiềm tàng
bị nhiễm mặn.
Tô phúc Tường (1993) ghi nhận ảnh hưởng tai hại do sự hạ thấp mực nước ngầm
đã được báo cáo bởi Beye (1973), Kanapamy (1973), Yin và Chin (1982). Điều này đã
đưa đến khuyến cáo tổng quát cho việc quản lý đất phèn tiềm tàng là giữ mực nước ngầm
cao khỏi tầng pyrite để tránh hiện tượng pyrite bị oxy hoá. Khuyến cáo nhấn mạnh vai trò
Hình 7. Mô hình lên líp rửa phèn
của mực thuỷ cấp trong việc kiểm soát các tiến trình hoá học trong đất phèn, tuy nhiên
ảnh hưởng của độ sâu mực nước ngầm dẫn đến sự mao dẫn phèn và độc tố lên tầng mặt
vào mùa khô là điều cần được quan tâm. Khi tầng sulfidic gần mặt đất mực nước ngầm
cao sẽ ngăn cản sự rửa các muối tích luỹ trên bề mặt đất,và làm giảm sự thoáng khí ở rễ.

Trên thực tế việc quản lý mực nước ngầm ở diện rộng cũng gặp khó khăn, cần một
mạng lưới kênh dẫn nước dày đặt và cần rất nhiều công sức cũng như một lượng nước để
duy trì mực nước thích hợp trong mương.
5.4.4 Biện pháp bón vôi, sử dụng phân bón hợp lý
Bón phân hợp lý góp phần tăng thu nhập cho nông dân, tạo điều kiện làm giàu cho
nông dân, trên cơ sở chế độ bón phân hợp lý và cân đối đảm bảo không ngừng cải thiện
các đặc tính hoá học, vật lý và sinh học của đất, đồng thời góp phần năng cao hiệu quả sử
dụng phân bón và cải thiện các đặc tính bất lợi của đất.
Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Mỹ Hoa (1985), trên đất phèn nặng ở Hoà An cho
thấy bón vôi 15, 30, 45 ngày trước sạ không có ảnh hưởng làm gia tăng năng suất ở vụ
đầu, bón vôi ở liều lượng từ 3, 6, 10 tấn/ha làm gia tăng năng suất rõ rệt. Ở vụ thứ hai,
bón vôi thấp ở liều lượng 1 tấn/ha cũng có tác dụng làm gia tăng năng suất. Hiệu quả lưu
tồn của vôi rõ rệt ở nghiệm thức bón 6, 10 tấn/ha. Tỉ số lợi nhuận/vốn đầu tư đạt từ 0.6 –
1.21, khi bón từ 0.5 – 3 tấn/ha và đạt 1.5 khi bón 10 tấn/ha. Do đó hiệu quả kinh tế kém
trong những vụ đầu. Tuy nhiên biện pháp rửa phèn kết hợp với bón vôi 1 – 2 tấn/ha trong
nhiều vụ được xem là biện pháp khuyến cáo để cải tạo đất phèn. Bón vôi ở liều lượng
thấp 0.2 – 0.5 tấn/ha để bổ sung dưỡng chất Ca cho đất cũng rất cần thiết (Nguyễn Mỹ
Hoa, 1997).
Kết quả nghiên cứu về sử dụng phân lân của Đỗ Thị Thanh Ren (1985) cho thấy
bón 30 – 60 kg P
2
O
5
/ha, đối với phân super phosphate và bón 120 kg đối với phân Apatite
là thích hợp. Bón phân ở các thời điểm 1 ngày trước khi cấy hoặc phối hợp với các tỉ lệ
khác nhau chia thành nhiều lần bón ở các giai đoạn 1 ngày sau khi cấy, 15, 30, 45 ngay
sau khi cấy đều cho kết quả khác biệt không ý nghĩa so với bón 1 lần vào1 ngày trước khi
cấy. Kết quả nghiên cứu trên đất phèn trung bình của Đỗ Thị Thanh Ren và ctv., (1993)
cho thấy bón phân đạm ở liều lượng từ 100 – 120 kg/ha kết hợp với bón 30 – 60 kg
P

2
O
5
/ha cho năng suất đạt cao nhất.
5.4 5.Bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý
Bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý là một biện pháp nhằm khai thác và sử dụng đất
phèn một cách có hiệu quả nhất. Trên cơ sở các đặt tính về đất và các chất lượng đất đai
ảnh hưởng đến các kiểu sử dụng đất và trên cơ sở lựa chọn các kiểu sử dụng đất có triển
vọng, công tác đánh giá khả năng thích nghi của đất đối với từng kiểu sử dụng đất đã
được thực hiện. Lê Quang Trí (1996) đã đề nghị các kiều sử dụng cho các vùng đất phèn
Tân Thạnh, Tri Tôn, Phụng Hiệp, An Hoà dựa trên cơ sở đánh giá khả năng thích nghi
của đất. Cơ cấu lúa – Tôm sú, lúa – Cua lột cũng được thực hiện thành công trên vùng đất
phèn tiềm tàng nhiễm mặn (Võ Tòng Xuân,1993).
5.5. Biện pháp bảo tồn
- Cần có chiến lược sử dụng các loại đất phèn một cách hợp lý có hiệu quả kinh tế.
Khôi phục diện tích trồng rùng, nuôi cá, nuôi ong. Giảm tối đa các hoạt động thoát thuỷ,
xáo trộn làm oxi hoá pyrite làm gia tăng diện tích đất bị phèn hoá.
- Cần có những nghiên cứu đánh giá về sự chua hoá và ô nhiễm kim loại nặng
trong nước do hậu quả các hoạt động bao đê, thoát thuỷ, cải tạo đất phèn để trồng lúa trên
các vùng đất phèn nặng.
5.6. Mô hình canh tác trên đất phèn
Quản lý đất chua phèn phải tập trung hạn chế quá trình phèn hoá. Đối với lâm
nghiệp cần chú ý bảo vệ rừng tràm và áp dụng các phương thức “Nông lâm kết hợp”
(NLKH) trong sử dụng đất, làm đất phù hợp. Người dân có rất nhiều kinh nghiệm trong
sử dụng đất phèn. Cây tràm vừa cho gỗ, vừa cho tinh dầu. Hiếm có cây nào có giá trị đa
tác dụng như cây tràm mặc dù thời điểm hiện nay tràm đang rớt giá, nhiều hộ nông dân
chặt tràm để trồng cây khác. Về mặt bảo vệ đất rừng tràm có tác dụng rất lớn. Chúng hạn
chế quá trình phèn hoá. Các chất độc trong đất phèn như sắt, nhôm kết hợp các chất hữu
cơ tạo thành phức hợp hữu cơ – khoáng. Do vậy nước dưới rừng phèn có màu đỏ, không
độc cho cây và cá. Có thể dùng nước dưới rừng tràm để sổ phèn và tưới cho ruộng lúa vì

giàu chất hữu cơ. Vào mùa khô, nước còn tồn tại trong các mương có tác dụng ém phèn.
Cây tràm có khả năng chịu phèn ở mức độ nhất định. Trong điều kiện phèn mạnh thưòng
gặp các loài tràm gió, tràm bụi cây thấp bé hẳn như cây bụi.
Để có thể sử dụng được đất phèn biện pháp chủ yếu là lên líp. Chiều cao và rộng
của líp phụ thuộc vào đặc điểm đất phèn.và điều kiện nhân lực, máy móc làm đất. Đối với
tràm líp thường thấp hơn. Nhìn chung chiều cao của líp biến động từ 30cm tới 50cm.
Chiều rộng líp từ 3m tới 4.5m. Sau khi lên líp cần có thời gian rửa phèn nhờ nước mưa.
Trên líp trồng phổ biến tràm, bạch đàn, điều, chuối đu đủ, so đũa. Trong canh tác người
dân rất chú ý tới việc rửa phèn và ém phèn, họ đào thêm các rãnh thoát phèn trong ruộng
lúa (rãnh rộng 40cm, sâu 40cm bằng chiều cao bộ rễ lúa). Khoảng cách các rãnh cách
nhau 10 - 20m đào 1 rãnh thoát phèn. Đất đào rãnh được san đều trên mặt ruộng. Người
dân địa phương gọi là phương pháp kê đất. Trong nhiều rừng tràm các lâm ngư trường và
cá hộ gia đình cũng đào thêm các mương nhỏ góp phần thuận lợi để rửa phèn, ém phèn,
chống cháy rừng.
Có rất nhiều mô hình NLKH trên đất chua phèn áp dụng ở ĐBSCL như:
- Trồng tràm xen lúa nước khi rừng tràm chưa khép tán bằng phương pháp sạ hạt.
- Mô hình nông –lâm –ngư kết hợp (tràm +lúa nước +cá+ong ) thực hiện ở lâm
ngư trường U Minh I ( Cà Mau).Diện tích cho mỗi hộ gia đình 7 ha trong đó: chuyên canh
lúa nước 7%, trồng tràm 60.3%, mương ém phèn và nuôi cá 7%, bờ bao 8.5%, đất thổ cư
VAC 2.6%.
- Mô hình trồng tràm quảng canh kết hợp nuôi cá trên đất phèn mạnh, ngập sâu ở
tỉnh Đồng Tháp. Rừng tràm trồng 300ha, đào mương bao quanh khu vực để rửa phèn, ém
phèn, nuôi cá, rộng 10m, sâu 1.2m. Bờ bao dài 4.5 km, cao 1.5m, mặt bờ rộng 4m. Bờ bao
trồng 30.000 cây bạch đàn trắng. Có rất nhiều mô hình phong phú khác trên thực tiễn
nhưng các biện pháp, kỹ thuật quản lý đất là giống nhau.
Một số ví dụ điển hình về việc cải tạo đất phèn để canh tác nông nghiệp:
* Lúa ở Đồng Tháp Mười:
Đồng Tháp Mười (ĐTM) là vùng bị nhiễm phèn nặng nên việc canh tác lúa ở
ĐTM cần phải kết hợp nhuần nhuyễn 4 yếu tố: thủy lợi, chọn giống, biện pháp hóa học,
biện pháp canh tác.

Hiện nay, một số giống lúa đang trồng phổ biến ở ĐTM và ĐBSCL như: IR 50404,
IR 59606, PSB 14, IR 60A, VNĐ 95-20. Những qui trình canh tác được công nhận tiến bộ
kỹ thuật như: qui trình phòng trừ cỏ lồng vực cho lúa sạ ở ĐTM; bón phân cho lúa trên
đất phèn trung bình, trên đất xám; khai hoang, trồng lúa trên đất phèn nặng ĐTM; canh
tác cây đay; canh tác cây khoai mỡ.
* Khóm ở Tiền Giang:
Khóm sinh trưởng tốt trên đất chua, nhưng đất phải thoát nước để trồng, nông trại
cần làm đê bao. Đất không được lợi từ lũ và hơn nữa, lá và thân khóm không thể vùi vào
đất do sinh khối thấp. Như vậy, trồng khóm sẽ làm thoái hóa độ phì nhiêu của đất. Có
khoảng 8.600 ha nông trại khóm ở tỉnh Tiền Giang và chở đến nhà máy chế biến trong và
ngoài tỉnh.
Bên cạnh đó, vài nông dân trồng nông sản như dưa hấu, khoai mỡ và cây ăn trái
ngay cả khi chúng được trồng trên lô đất nhỏ.

×