Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Kỹ thuật biển ( dịch bởi Đinh Văn Ưu ) - Tập 1 Nhập môn về công trình bờ - Phần 5 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 19 trang )



82
15 Các lạch tàu
W.W. Massie
15.1 Mở đầu
Chúng ta có thể đa ra kết luận từ chơng trớc rằng tất cả các công việc nạo
vét nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho các tàu to có thể đi lại trong các
cảng và cửa sông. Một phần lớn các công việc nạo vét hiện nay liên quan ít nhiều
tới vùng biển hở nhằm tạo ra các lối vào an toàn cho các tàu lớn. Ví dụ lạch tàu
cảng Rotterdam đi xa về phía biển tới hơn 35 km, và đây cha phải là ví dụ tới
hạn. Vậy hậu quả gì có thể gây nên trên biển đối với các lạch nêu trên? Sau đây
là phần trả lời câu hỏi đó.
15.2 Các vấn đề liên quan
Khi các lạch sông đợc nạo vét sâu nhằm cho phép các tàu lớn đi lại, chúng ta
cần chú ý tới dòng chảy và vận chuyển trầm tích chủ yếu dọc theo các lạch đó.
Mỗi khi có hiện tợng trầm tích thì thông thờng khi đạt tới lạch tàu chúng sẽ bị
dòng chảy đa đến phần cuối của lạch. Các con tàu có thể gặp thuận lợi hay khó
khăn khi đi trong điều kiện dòng chảy mạnh theo hớng thuận hay ngợc dòng.
Vậy trạng thái trên có bị thay đổi khi ra tới biển không? Câu trả lời là có.
Thông thờng dòng chảy và vận chuyển trầm tích đều tạo một góc với hớng trục
lạch tàu. Dòng trầm tích theo hớng vuông góc với lạch tàu thờng rất cao khi
lạch tàu đi qua vùng nông nhất của dải ven bờ. Nguyên nhân chủ yếu do dòng
trầm tích do sóng đổ dọc các bờ biển kề cận. Các sóng đổ này cũng hình thành nên
dòng cắt ngang kênh tại khu vực gần cửa, điều này rất nguy hiểm đặc biệt khi
tàu chuyển động chậm. Đay là một lý do xây dựng các đê phá sóng từ bờ ra tại các
cảng hay cửa sông với mục đích cắt ngang hoặc tối thiểu cũng giảm đợc hay làm
phân tán dòng chảy và vận chuyển trầm tích dọc bờ. Về các công trình phá sóng
sẽ đợc đề cập riêng trong chơng 18 của giáo trình này. Nguyên nhân và tác
động của dòng dọc bờ và vận chuyển trầm tích sẽ đợc giới thiệu tổng quát trong
chơng 26 và đợc trình bày chi tiết trong tập II.


Xa hơn về phía biển, ngoài khu vực sóng đổ, các vấn đề liên quan trở nên đơn
giản hơn. Tại đây chỉ còn có dòng chảy và vận chuyển trầm tích do triều nhng
chúng không tạo nên vấn đề gì đặc biệt nh đối với khu vực ven bờ đã đợc trình
bày trên đây.
Tuy nhiên lại có thể xuất hiện những vấn đề nghiêm trọng ở ngoài khơi. Do vị
trí và hệ thống điều khiển trở nên kém chính xác hơn; bề rộng của lạch cần đủ
rộng để tàu không bị vấp vào cạn. Sóng ở đây cũng trở nên dữ dội hơn. Nh vậy


83
vấn đề đảm bảo lạch tàu an toàn cũng trở nên khó khăn hơn và việc nạo vét lạch
tàu cũng gặp phải những khó khăn tơng tự.
15.3 Vấn đề tối u hoá
Nh vậy trong khi lựa chọn các thiết kế cần quan tâm tới các lạch dẫn tàu.
Giải pháp lựa chọn ở đây là các kích thớc rộng và độ sâu khác nhau. Và để có lời
giải tốt chúng ta cần sử dụng phơng pháp tối u hoá. Quy trình tối u hoá sẽ
đợc đề cập tới trong tập II. Vấn đề xây dựng và nạo vét đợc trình bày trong các
chơng tiếp theo.



84
16 Các thiết bị nạo vét
L.E. van Loo
16.1 Mở đầu
Vấn đề nạo vét luôn đợc xem là cần thiết đối với các cảng sông và biển hiện
đại. Vởy loại thiết bị nào đợc xem là tốt nhất? Sau khi giải thích nguyên lý
chung của các thiết bị nạo vét chúng ta sẽ liệt kê và mô tả các loại thiết bị nạo vét
hiện hành. Tuy nhiên những trình bày dới đây cha thể xem là đầy đủ đợc, vì
vậy cần tham khảo thêm các giáo trình chuyên đề.

16.2 Các nguyên lý cơ bản
Phần lớn các máy nạo vét đều dựa trên nguyên lý máy hút thuỷ lực. Những
máy này đợc trang bị hệ thống bơm ly tâm cho phép hút hỗn hợp nớc và bùn
cát. Bùn cát chuyển động tơng tự nh các chất lơ lửng trong dòng nớc.
Tỷ lệ giữa bùn cát và nớc trong hỗn hợp đó là hết sức quan trọng tạo nên
hiệu quả của công việc. Tỷ lệ này phụ thuộc vào bản thân máy cũng nh vật liệu
đáy. Lợng hỗn hợp biến đổi từ 1 đến 2 đối với bùn và từ 3 đến 5 đối vơi cát trung
bình (d 250 m). Đối với sỏi và đá thì tỷ lệ này thờng cao hơn vào khoảng từ 10
đến 12.
Do các loại bơm và công suất của chúng đợc cố dịnh nên lợng hỗn hợp hút
đợc hay sản lợng hút phụ thuộc mạnh vào các tỷ lệ nêu trên.
Đầu ra của các ống dẫn thờng tăng lên khi kích thớc hạt tăng. Còn độ dài
cực đại của ống dẫn lại giảm khi kích thớc hạt tăng bởi vì áp suất của đầu bơm
gần nh không đổi. Một số công thức thực nghiệm cho phép tính toán kích thớc
ống dẫn với độ chính xác cha thật cao đã đợc xây dựng, có thể xem thí dụ trong
Furboter (1961).
Về lý thuyết, có thể giảm tổn thất cột nớc bằng cách giảm vận tốc. Tuy
nhiên điều này có những giới hạn nhất định, bởi vì vận tốc chỉ có thể giảm đến
mức khi các vật liệu trong hỗn hợp vẫn giữ đợc trong trạng thái lơ lửng.
Vận tốc tới hạn này sẽ tăng lên khi kích thớc và tỷ trọng hạt tăng cùng với
đờng kính ống dẫn.
16.3 Máy hút phẳng
Đây là một trong những loại máy hút phổ biến ở Hà lan. Trên hình 16.1 cho
ta sơ đồ của chúng cho phép đổ qua các ống dẫn nổi. Trên hình 16.2 cho thấy một
dạng khác đợc thiết kế kèm theo các ca- nô cặp mạn.



85


Hình 16.1. Máy hút dạng phẳng

Những máy hút loại này thờng phát huy hiệu quả đối với các vật liệu cát.
Nếu nh phần đầu của ống hút có lắp đặt vòi phun nớc mạnh thì có thể đạt tới
các lớp cát sâu.




86





87
Các máy hút này đợc giữ bởi 6 neo và chuyển động từ từ theo neo trớc. Loại
máy hút này làm việc tốt trong điều kiện địa hình đáy ghồ ghề vì vậy có thể sử
dụng cho các yêu cầu san lấp.
Giá cả vận chuyển một đơn vị bùn cát bằng loại máy hày thờng không cao.
Năng suất của các máy hút này phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó có kích
thớc hạt, độ xốp cũng nh hình dáng hố đào.
Nhằm mục đích tăng độ sâu hút ngời ta cố gắng đặt bơm sâu dới nớc.
Thông thờng bơm đợc đặt trên ống hút khác với vị trí đợc thể hiện trên hình
vẽ. Trong một số trờng hợp ngời ta sử dụng đồng thời 2 bơm: 1 trên tàu và 1
trên ống hút. Mối tơng quan giữa các yếu tố ảnh hởng lên mức độ hoàn thiện
của tàu hút đợc mô tả thông qua phơng trình máy hút. Phơng trình này
đợc rút ra từ việc xem xét sự biến đổi áp suất dọc bên trong ống hút từ đầu vào
đến bơm. Có thể thấy điều đó trên hình 16.3.


m
s
psws
g
V
fZZZp










2
*
2

(16.01)

trong đó:
f hệ số tổn thất thuỷ lực từ đầu vào ống hút đến bơm,
g gia tốc trọng trờng,
V
S
vận tốc dòng trong ống hút,
p* áp suất chân không tại đầu vào của bơm thể hiện qua độ cao cột nớc,
Z

1p
độ sâu đặt bơm,
Z
S
độ sâu đầu vào ống hút,

1m
trọng lợng riêng của hỗn hợp, và

w
trọng lợng riêng của nớc.
Giá trị phổ biến của f nằm giữa 2,5 và 3,5.
Nếu nh nồng độ của hỗn hợp đợc thể hiện trong thứ nguyên thể tích, c
v
, thì
ta có:

m
= c
V

g
+ (1 c
V
)

W
(16.02)

trong đó


g
là trọng lợng riêng của cát khô.
Tách c
V
ta thu đợc:
Wg
Wm
V
c







(16.03)



88
Hình 16.3. Cơ sở xác lập phơng trình
máy hút


Kết hợp hai phơng trình 16.01 và 16.03 ta có:




































g
V
fZZ
g
V
fZp
c
S
pS
S
p
Wg
W
V
2
2
*
2
2



(16.04)

Công suất của tàu hút sẽ tăng nếu nh áp suất chân không, p*, và độ sâu đặt
bơm, Z
p
, tăng lên. Việc tăng độ sâu đầu hút, Z
S

, và hệ số trở kháng, f, sẽ làm cho
công suất giảm.
Với các bơm đặt ngầm dới nớc, các tàu hút loại này có thể làm việc với độ
sâu rất lớn (có thể đạt tới 70 mét nếu cần).
Với một số thay đổi không cơ bản loại tàu hút chuẩn ta có đợc một loại canô
hút đợc thể hiện trên hình 16.4. Nguyên lý hoạt động của chúng hoàn toàn
không có gì thay đổi so với loại tàu hút nêu trên, chúng cũng đợc sử dụng rộng
rãi ở Hà Lan.
16.4 Máy hút cắt
Máy hút cắt là một trong những loại máy hút đa năng sơ đồ của nó đợc thể
hiện trên hình 16.5. Nó có khả năng làm việc với các vật liệu từ bùn đến đá mềm.



89

§Êt ®¸ tríc ®Çu vµo m¸y hót ®îc cµy lªn. M¸y hót chuyÓn ®éng nhê c¸c têi
neo. M¸y chuyÓn ®éng nhê mét têi vµ hót nhê mét têi kh¸c.



90

H×nh 16.5 S¬ ®å m¸y hót c¾t


91
Các phơng trình từ 16.01 đến 16.04 cũng áp dụng tốt cho các loại máy hút
cắt. Tuy nhiên cần bổ sung và thay đổi một yếu tố nhất định. Trong số đó có khả
năng cày, cắt và cờng lực cũng nh tốc độ chuyển động của các tời.

Do máy hút chỉ lấy vật liệu từ một phạm vi hạn chế, điều này cho phép kiểm
tra một cách chính xác. Có thể đạt đợc độ chính xác về độ sâu trong khoảng
0,25 m và độ dốc của bờ lạch có thể kiểm tra.
Những dao cắt nhỏ thờng đợc sử dụng cho đáy cát và sét mềm với độ liên
kết nhỏ hơn 3 x10
4
N/m
2
. Các dao cắt lớn với công suất cao đợc sử dụng đối với
sét cứng hoặc đá mềm. Các loại đá với độ bền nén khoảng 5 x10
7
N/m
2
đều có thể
nạo vét bằng các máy hút cắt. Các đá rắn hơn chỉ có thể nạo vét khi sử dụng chất
nổ.
Độ sâu cực đại sử dụng các máy hút bùn cắt giới hạn khoảng 25 mét. Giới
hạn này chủ yếu phụ thuộc vào giới hạn của tời và cáp.
Khả năng của các máy hút cắt cỡ lớn đợc trình bày trong bảng 16.1.
Để kết thúc bảng công suất các máy hút có thể đa ra các chỉ số hoạt động
của bơm sâu nh sau:
độ sâu nạo vét : 20 m
đờng kính ống dẫn: 0,8 m
công suất: 5600 kW (7500 mã lực)
Bảng 16.1. Sản lợng đặc trng của các máy hút
Vật liệu
(xem trong bài)
Sản lợng
(m
3

/h in situ)
Khoảng cách đổ tối đa
(km)
cát
sét mềm
sét cứng
đá mềm
1500
1750
750
400
từ 3 đến 6
6
3
1,5

16.5 Máy hút thùng
Loại máy hút này đợc thể hiện trên hình 16.6, đó là một con tàu với các ống
hút rắn. Các tàu này sẽ hút khi chuyển động chậm về phía trớc khoảng một vài
hải lý trong một giờ. Với khả năng đó các máy hút này đợc sử dụng cho các lạch
tàu có mật độ tàu thuyền đi lại cao. Không giống nh các máy hút cố định, loại
máy hút này chỉ hoạt động tốt khi nớc lớn. Vì thế loại phơng tiện này đợc sử
dụng cho các lạch dẫn và trên biển. Máy chỉ hút chủ yếu vật liệu bùn và cát.
Thông thờng cần từ 1 đến 3 giờ để có thể hút đầy thùng tàu đối với cát. Tuy
nhiên cũng còn phụ thuộc vào độ sâu, kích thớc hạt và độ xốp của lớp cát. Chỉ
cần từ nửa giờ đến 1 giờ để hút đầy thùng tàu đối với bùn.
Sau khi hút đầy thùng, tàu sẽ đi về khu vực đổ với vận tốc vào khoảng 11 hải
lý trong 1 giờ (khoảng 22 km/h). Năng suất của loại máy hút này phụ thuộc vào



92
khả năng bơm và dung tích thùng chứa, khoảng cách đến bãi đổ, và thời gian cần
thiết để đổ. Dung tích thùng chứa lớn nhất đên năm 1975 khoảng 10000 m
3
.
Những máy hút loại này có thể làm việc với độ chính xác theo độ sâu vào
khoảng 0,5 m với độ sâu cực đại là 35 m.
16.6 Máy hút gầu
Không giống nh các máy hút đã trình bày trên đây, đây là một phơng tiện
cơ khí hoàn toàn. Công việc đào và vận chuyển bùn cát đều do hệ thống dây
chuyền các gầu nối nhau liên tục. Có thể thấy mô tả loại máy hút này trên hình
16.7. Từ đỉnh dây chuyền các gầu đổ trực tiếp xuống các ca nô đậu dọc hai bên.
Máy hút gầu thờng đợc cố định bởi 6 neo khác nhau. Nó dịch chuyển theo
hình cánh cung với tâm là neo chính. Độ chính xác của lớp đáy đợc nạo vét vào
khoảng 0,2 m.
Rất nhiều loại vật liệu chất đáy có thể thích ứng đối với loại máy hút này. Nó
có thể sử dụng dể làm sạch các bãi đá sau khi sử dụng chất nổ để phá. Sở dĩ có
thể làm đợc việc đó vì chúng có thể nâng đợc những tảng lớn hơn bất kỳ các
kích thớc lớn nhất khi sử dụng các máy khác. Đối với loại máy hút này kích
thớc tảng lớn nhất vào khoảng 1 mét, đối với các máy khác kích thớc cực đại
chỉ vào khoảng 0,4 mét.
Độ sâu hoạt động cực đại của loại máy hút này khoảng 40 m. Các gầu múc có
dung tích khoảng 1 m
3
và tốc độ dây chuyền gầu vào khoảng 30 gầu trong một
phút. Sản lợng đặc trng cho phơng tiện hút này đợc đa ra trong bảng 16.2
với các điều kiện tơng ứng sau đây:
thể tích gầu : 0,75 m
3


độ sâu nạo vét: 15 m
công suất: 375 kW (500 mã lực)






93
H×nh 16.6. M¸y hót thïng



94


Hình 16.7. Máy hút gầu
Bảng 16.2. Sản lợng đặc trng cho loại máy hút gầu
Vật liệu Sản lợng m
3
/h in situ
bùn
sét
cát
đá vụn
đá mềm
1000
500
350
75

50




95

Hình 16.8 Máy hút biển


Hình 16.9 Máy hút dàn khung
16.7 Các hớng phát triển mới
Trên đây chỉ giới thiệu các phơng tiện hút bùn thông dụng. Một số phơng
tiện chuyên dùng đợc sử dụng trong các điều liện đặc biệt không đợc giới thiệu
ở đây. Sự phát triển của công việc nạo vét và yêu cầu kinh tế là điều kiện phát
sinh các phơng tiện nạo vét mới. Các phơng tiệ mới thờng có kích thớc lớn
đợc trang bị các bộ phận chống lại sóng và có thể làm việc trong các điều kiện
thời tiết phức tạp. Trên hình 16.8 cho ta thấy loại máy hút có bộ phận điều chỉnh
đối với sóng lừng.
Hớng phát triển thứ hai đợc trình bày trên hình 16.9 là sự kết hợp giữa
máy hút cuốc với dàn khung vẫn thờng đợc sử dụng cho các công trình ngoài
khơi. Theo các nhà thiết kế thì các phơng tiện này có thể làm việc trong các điều


96
kiện phức tạp với sóng khoảng từ 3 đến 4 mét. Có lẽ các ống dẫn bùn cát tới bãi
đổ là điểm yếu của loại máy này.
Hiện nay các vấn đề môi trờng do nạo vét và đổ đất cát càng trở nên cấp
bách, đặc biệt ở Mỹ. Vấn đề đổ bùn cát sẽ đợc trình bày trong chơng sau.
Đọc giả có thể tìm thấy các kết quả mới về vấn đề nạo vét trong các tuyển tập

Hội thảo quốc tế về nạo vét (WODCON).


97
17 Vấn đề thu đổ bùn cát
J. de Nekker
17.1 Mở đầu
Trong chơng vừa qua đã giới thiệu các vật liệu thu đợc trong quá trình nạo
vét. Mỗi khi các vật liệu thu đợc phục vụ cho mục đích khai khẩn hoặc khai thác
vật liệu sỏi cát thì thờng không có vấn đề ghì đối với việc đổ bùn cát. Cressard
(1975) đã mô tả một số hậu quả môi trờng gián tiếp của công việc nạo vét. Công
việc nạo vét thờng căn cứ theo chất lợng vật chất đáy hơn là các yêu cầu giao
thông.
Khi các yêu cầu giao thông dẫn tới yêu cầu nạo vét thì vấn đề đổ bùn cát trở
nên đáng quan tâm hơn. Chúng ta thờng gặp phải các vật liệu đáy khó có thể sử
dụng vì chất lợng kém. Những vật liệu này thông thờng đợc đổ lên đất liền
hoặc ra các vùng nớc khác.
17.2 Thu đổ bùn cát ra biển
Thông thờng các vật liệu lạ đợc đổ ra biển sẽ gây nên các hậu quả đáng kể
đối với sinh vật biển. Nhiều hậu quả xấu có thể tránh đợc nếu nh ta đổ các vật
liệu nạo vét ra các vùng biển sâu. Tuy nhiên do chi phí vận chuyển đắt đỏ nên
ngời ta chỉ áp dụng cho các trờng hợp có chất thải nguy hiểm có chứa các chất
độc hại nh các chất phóng xạ.
Hiện nay chỉ mới bắt đầu có các công trình nghiên cứu tác động của chất thải
nạo vét lên dải ven bờ. Các công việc này nhận đợc sự quan tâm trớc hết của
các nhà sinh học biển.
17.3 Thu đổ bùn cát lên bờ
Trong một số trờng hợp có thể kinh tế hơn nếu đổ các vật liệu nạo vét bùn,
sét, cát từ các cảng lên những vùng đất gần đó. Trong trờng hợp đó, các vật liệu
bùn cát cùng đi theo nớc trong ống dẫn đổ trực tiệp lên bờ. Những xử lý tiếp

theo còn phụ thuộc vào loại vật liệu đáy nạo vét.
Nếu vật liệu cát có đờng kính lớn hơn 100 m có thể đổ ngay xuống bãi thải
và để cho nó tự làm khô. Kỹ thuật này thờng tốt cho đến khi độ dày lớp đổ cha
vợt quá 0,75 m. Các lớp cát có độ nén tốt có thể cho phép các phơng tiện xây
dựng hoạt động và kéo dài thêm đờng ống dẫn.
Đối với các vật liệu cát mịn kết hợp bùn thì độ nén chậm dáp ứng yêu cầu cho
phép nối thêm ống dẫn, cho nên có thể phải ngừng hút một thời gian để nối thêm
ống.


98
Khi các vật liệu mịn nh bùn và sét thì thờng ngời ta đổ chúng vào các khu
vực đã đợc đào sâu so với xung quanh. Sau khi phần lớn các vật liệu rắn chìm
xuống thì lớp nớc trên có thể cho chảy ra ngoài. Sau khi cho nớc mặt chảy hết
lớp trầm tích còn lại nên giữ ở dộ dày khoảng 1,3 m. Có thể dào các kênh thoát
nớc qua khu vực đổ bùn cát để cho nớc rút nhanh. Sau khoảng 1 năm thì lớp
trầm tích này còn lại độ dày khoảng từ 0,9 đến 1 m. Lúc này có thể xây dựng các
đê chắn để tiếp tục đổ các bùn cát mới hút, hay có thể san lấp để cải tạo cho các
mục đích sử dụng nh nông nghiệp hay khai khẩn.



99
18 Các công trình bảo vệ
J.J. van Dijk
18.1 Mở đầu
Nh chúng ta đã thấy trong 3 chơng vừa rồi khi các tàu trở nên lớn hơn thì
vấn đề nạo vét cảng cũng trở nên lớn hơn. Thông thờng việc nạo vét có thể phải
mở rộng ra các vùng biển khơi. Do tác động của sóng tại các khu vực biển hở có
thể làm phức tạp quá trình nạo vét nên có thể kinh tế hơn nếu triển khai các biện

pháp bảo vệ lạch vào cảng. Việc bảo vệ có thể nâng cao hiệu quả nạo vét và cũng
có thể làm giảm yêu cầu nạo vét. Tất nhiên các công trình bảo vệ này đôi khi
cũng có thể sử dụng nh một cầu cảng.
Các chi tiết của công trình bảo vệ sẽ là chủ đề của một tập sách riêng. Trong
phần này chúng ta chỉ giới hạn xem xét các vấn đề liên quan tới địa mạo.
18.2 Vai trò địa mạo của các công trình bảo vệ
Làm thế nào để các công trình bảo vệ hỗ trợ giải quyết các vấn đề nạo vét
lạch tàu? Có thể nêu ra một số hớng sau đây:
a. Chúng có thể làm suy giảm tác động của sóng tại lạch dẫn tàu cho
phép các phơng tiện nạo vét hoạt động tốt hơn. Nhiều loại phơng
tiện nạo vét yêu cầu giữ ổn định trong sóng nhằm hoạt động hiệu quả.
Giảm tác động của sóng cho phép lựa chọn và sử dụng hữu hiệu các
phơng tiện nạo vét.
b. Do xây qua đới sóng đổ, các công trình bảo vệ có thể làm gián đoạn
dòng bùn cát vận chuyển dọc bờ mà trớc đó có thể gây lắng đọng tại
các lạch tàu. Bằng cách ngăn chặn dòng vật liệu do sóng, lợng bùn
cát cần nạo vét đợc giảm đi đáng kể. Thông thờng chúng ta cần xem
xét kỹ việc ngăn chặn các dòng trầm tích đó. Dòng vận chuyển dọc bờ
trớc khi xây dựng kênh bây giờ bị công trình bảo vệ chắn lại, hiện
tợng xói lở bờ có thể xẩy ra ở phía bờ kia của kênh dẫn.
c. Khi có một lợng trầm tích đáng kể đợc cung cấp từ các sông đi qua
cảng, vùng nớc nông có thể mở rộng ra khơi từ phía cửa sông. Vùng
nông này sẽ hình thành nên các cản trở đối với tàu thuyền, đặc biệt
trong các cơn bão khi sóng có thể đổ tại các vùng nông này. Rất nhiều
tàu đã bị tai nạn khi vợt qua các doi cát này trong điều kiện bão. Các
công trình bảo vệ xây dựng đảm bảo cửa vào cảng đợc giữ nguyên độ
sâu nhỏ cho đến khi độ sâu lớn làm tăng dòng chảy; kết quả dẫn đến
tăng khả năng vận chuyển trầm tích và giữ ổn định cửa vào. Vậy các
vật liệu sẽ đi đâu? Một phần trong đó sẽ lắng đọng tại vùng biển sâu



100

ngoài khơi, một số có thể đợc mang lên phía sông. Thực tế cho thấy
rằng sông sẽ đợc kéo dài khi ta xây công trình bảo vệ, độ dốc sông sẽ
giảm nhẹ và vấn đề bồi tụ sẽ hớng về phía thợng lu. Mặt khác các
vật liệu này cũng có thể đợc nạo vét trong điều kiện tốt: không có
sóng và số tàu đi lại ít. Một ví dụ về xây dựng công trình bảo vệ cửa
vào cảng đợc thể hiện trên hình 18.1. Kênh nạo vét đợc thể hiện
bằng các đờng chấm chấm. Đây là trờng hợp sông Columbia đổ ra
Thái Bình Dơng trên bờ tây Hoa Kỳ.
18.3 Những vấn đề khác
Một vấn đề đáng chú ý khác đó là: Thế nào là độ sâu tối u đối với lạch
dẫn? Đó là một chủ đề sẽ đợc đề cập trong tập II. Bằng cách làm giảm tác động
sóng trong lạch, dao động của tàu sẽ giảm cho phép tàu đi vào kênh nông hơn so
với các điều kiện khác.

Hình 18.1. Cửa vào sông Columbia bờ tây Hoa Kỳ

Tuy nhiên các công trình bảo vệ sẽ làm biến dạng các cảng. Sự thay đổi này
cũng sẽ làm biến đổi chu kỳ cộng hởng tự nhiên của sóng đứng trong cảng. Nếu
nh chu kỳ cộng hởng mới của cảng tơng ứng chu kỳ sóng triều hay sóng lừng
thì sẽ xuất hiện một số vấn đề phức tạp mới cho cảng. Về hiện tợng cộng hởng,
hay seiche, sẽ đợc đề cập tới trong chơng sau.

×