Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

thực trạng pháp luật về thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay ngân hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (373.31 KB, 95 trang )

CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẾ CHẤP TÀI SẢN
TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Ngân hàng Thương mại và hoạt động cho vay của Ngân hàng
thương mại.
1.1.1. Vị trí, vai trò của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế.
Như chúng ta đã biết, Ngân hàng là một tổ chức quan trọng đặc biệt đối
với nền kinh tế ở mỗi quốc gia. "Sự hình thành và phát triển của ngân hàng
gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hoá, đến lượt mình, sự
phát triển của hệ thống ngân hàng trở thành động lực thúc đẩy nền kinh tế"
18
trang 6.
Trên thực tế, mặc dù thuật ngữ "Ngân hàng" đã xuất hiện từ rất sớm.
Song, quan niệm về ngân hàng luôn thay đổi qua mỗi thời kỳ, bởi lẽ do sự
biến đổi và phát triển không ngừng của nền kinh tế mỗi quốc gia, cả trên
phạm vi toàn cầu dẫn đến các hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng ngày một
đa dạng, phức tạp.
Chúng ta có thể định nghĩa ngân hàng dựa trên các chức năng, dịch vụ
hoặc vai trò của ngân hàng trong nền kinh tế. Cách tiếp cận thận trọng và phổ
biến nhất là có thể xem xét ngân hàng trên phương diện những loại hình dịch
vụ mà chúng cung cấp. "Ngân hàng là các tổ chức Tài chính cung cấp một
danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm,
dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ
một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế
"18"
trang 7. Dựa trên các hoạt
động nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng sau đây để có thể phân biệt chúng với
các loại hình tổ chức và tài chính phi ngân hàng như:
- Nhận tiền gửi của công chúng (cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp )có
hoàn trả.
- Cấp tín dụng dưới hình thức cho vay (cho các cá nhân, tổ chức, mọi
thành phần kinh tế ).


- Làm trung gian thanh toán và đồng thời cung cấp các dịch vụ, quản lý
các phương tiện thanh toán.
Ngoài ra, nhằm đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, ngân hàng cũng đã
mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ như: các dịch vụ về bất động sản, môi giới
chứng khoán tham gia hoạt động bảo hiểm, quỹ hỗ trợ đầu tư uỷ thác và nhiều
loại lĩnh vực dịch vụ mới khác.
Qua những điểm cơ bản trên, có thể thấy rằng ngân hàng là tổ chức
hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ, có chức năng nhận tiền gửi của công chứng,
có hoàn trả và cho vay đối với khách hàng có nhu cầu. Và trong số các tổ
chức tín dụng thì Ngân hàng thương mại có vai trò trung tâm, và là một chế
định quan trọng nhất của các tổ chức tín dụng.
Quan niệm về Ngân hàng thương mại được xem xét ở mỗi nước tuy có
những cách hiểu khác nhau, song đều bao hàm các nội dung hoạt động cơ bản
của ngân hàng. Ví dụ: Ở Mỹ, người ta thường nói Ngân hàng thương mại là
trung gian giữa các đơn vị thừa tiền và đơn vị thiếu tiền; Đạo luật ngày
03/6/1942 của Pháp có quy định "Được xem là Ngân hàng là những xí nghiệp
hay cơ sở nào làm nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức
ký thác, hoặc hình thức khác những khoản tiền mà họ dùng cho chính họ vào
các nghiệp vụ chiết khấu, nghiệp vụ tín dụng hay nghiệp vụ tài chính".
"17"
trang 21, qua đây ta thấy Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh
tiền tệ. Có mục tiêu chính là lợi nhuận.
Tại Điều 20 điểm 7 Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam sửa đổi 2004
ghi nhận "Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ
ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này
để cấp dịch vụ và cung ứng dịch vụ thanh toán".
Từ những căn cứ trên, ta thấy Ngân hàng thương mại có những đặc
điểm cơ bản sau:
- Thực hiện toàn bộ các hoạt động ngân hàng. Các hoạt động đó bao
gồm: Nhận tiền gửi, huy động vốn nhàn rỗi của các cá nhân, tổ chức trong xã

hội, cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán. Cùng với các hoạt động
có liên quan và các dịch vụ ngân hàng.
Đây là điểm khác biệt giữa Ngân hàng thương mại với các tổ chức tín
dụng phi ngân hàng chỉ thực hiện một số hoạt động ngân hàng. VD: các quỹ
tài chính công ty tài chính của các doanh nghiệp, của các tổ chức tín dụng có
chức năng huy động vốn trung và dài hạn.
- Thực hiện việc huy động vốn và cấp tín dụng ngắn hạn là chủ yếu,
đồng thời từng bước chuyển dần sang các nghiệp vụ huy động vốn và cấp tín
dụng dài hạn, đáp ứng quy mô mở rộng hoạt động kinh doanh của khách hàng
và nhu cầu vốn của nền kinh tế. "Đặc trưng này làm cho Ngân hàng thương
mại khác với thị trường chứng khoán và tạo ra mối quan hệ tương hỗ với thị
trường chứng khoán vì hoạt động cung cầu vốn".
"17"
trang 50.
- Khác với Ngân hàng chính sách xã hội và quỹ hỗ trợ phát triển (tín
dụng chính sách). Hoạt động của Ngân hàng thương mại có mục tiêu hàng
đầu là lợi nhuận.
- Tính đa dạng hoá trong hình thức sở hữu của hệ thống Ngân hàng
Việt Nam hiện hành, nhằm phát huy tối đa khả nâng của mọi thành phần kinh
tế. Hiện tại, số liệu hiện có cho thấy Việt Nam có: 05 Ngân hàng thương mại
Nhà nước, trong đó VCB vừa chính thức được cấp giấy phép chuyển sang mô
hình cổ phần, Ngân hàng chính sách xã hội, Ngân hàng nông nghiệp và phát
triển nông thôn, 06 ngân hàng liên doanh, 36 ngân hàng thương mại cổ phần,
44 chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
- Nhằm đối phó với làn sóng các ngân hàng 100% vốn nước ngoài đổ
bộ vào Việt Nam kể từ 1 - 4 -2007 (hiện tại ở Việt Nam đã có 05 ngân hàng
có 100% vốn nước ngoài được cấp phép- đó là HSBC; SCB ). Một mặt các
Ngân hàng thương mại Việt Nam hoạt động theo định hướng đa năng, kinh
doanh tổng hợp, đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, nhất là các ngân hàng bán
lẻ nhằm phục vụ nhu cầu khách hàng cá nhân ngày càng có nhu cầu cao mà

lâu nay các Ngân hàng thương mại Việt Nam còn bỏ ngỏ.
Từ những nội dung phân tích trên đây có thể thấy được vai trò của hệ
thống các Ngân hàng thương mại đối với sự phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia.
Bản thân các Ngân hàng thương mại là một tổ chức trung gian tài chính có vị
trí số 1 trong hệ thống các định chế tài chính ở mỗi nước. Bởi vì, tổng số tài
sản dư nợ của các Ngân hàng thương mại bao giờ cũng lớn hơn tổng số tài sản
nợ của các loại hình ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng khác
"17"
trang 22.
1.1.2. Khái niệm đặc điểm của hoạt động cho vay của Ngân hàng
thương mại.
1.1.2.1. Hoạt động cho vay của các Ngân hàng thương mại là một
trong số các chức năng cơ bản và mang lại nguồn thu chủ yếu (khoảng 70%)
hàng năm. Thông qua việc cho vay, các ngân hàng thương mại đã thực hiện
việc điều hoà nguồn vốn nhàn rỗi tạm thời (nguồn vốn mà ngân hàng có được
thông qua việc huy động từ công chúng) để đáp ứng nhu cầu về vốn cho
doanh nghiệp, cá nhân ,tổ chức tín dụng trong xã hội…
Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại (với tư cách là chủ nợ)
và người đi vay (khách hàng vay) là một hợp đồng tín dụng, ghi nhận những
thoả thuận cơ bản ràng buộc người vay phải tuân thủ trước khi giao kết hợp
đồng tín dụng: VD: Điều kiện về tài sản bảo đảm, mục đích sử dụng vốn vay,
tính khả thi của dự án, phương án kinh doanh, mức độ tin tưởng lẫn nhau giữa
khách hàng và ngân hàng… Và để đảm bảo cho Ngân hàng thương mại tồn tại
và phát triển bền vững thì hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại phải
luôn tôn chỉ mục đích: An toàn lợi nhuận, và tính cạnh tranh. Việc cho vay
được tiến hành theo một quy trình - Quy trình cho vay.
"Quy trình cho vay là tổng hợp các nguyên tắc, quy định của ngân hàng
trong việc cho vay. Quy trình này bao gồm nhiều khâu, theo một trật tự nhất
định. Có thể khái quát quy trình cho vay theo sơ đồ sau:
SƠ ĐỒ QUY TRÌNH CHO VAY

Khách hàng
cung cấp tài
liệu thông tin
Cán bộ tín
dụng tiếp xúc
khách hàng tư
vấn, hướng dẫn
Hồ sơ xin vay
.Đơn xin vay
.Hồ sơ pháp lý
.Dự án, phương
án kinh doanh
.Thu thập thông tin
. Qua trao đổi, thu
thập mua, tự kiểm
tra
* Cập nhật thông
tin
. Thị trường
. Chính sách
. Pháp lý
.Khách hàng
Thẩm định hồ sơ
Quyết định cho vay
Thực hiện quyết
định cho vay
Thông báo
. Cho vay
. Từ chối + Lý do
. Thông báo khác

Ký hợp đồng
tín dụng
Giải ngân
Tổ chức giám sát
khách hàng
Thu nợ
Không thu đủThu đủ
Thanh lý hợp đồng
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
(5)
Ký hợp đồng
tín dụng
(7)
(8)
(9b)
Xử lý
rủi ro
(12)
Gia hạn
nợ đáo nợ

(10b)
Xử lýtài
sản khởi
kiện
(10c)

(11b)
(9a)
(11b)(11a)
Sơ đồ quy trình cho vay:
"19"
01 trang 48 (đính kèm).
Như vậy về cơ bản có thể thấy rằng, cho vay là một quan hệ giao dịch
giữa 02 chủ thể (Ngân hàng thương mại và người vay), trong đó một bên
(Ngân hàng thương mại) chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia (người
vay) sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận tiền hoặc tài
sản cam kết hoàn trả vốn (gốc và lãi) cho bên vay và điều kiện theo thời hạn
đã thoả thuận.
"19"
trang 24.
Tại Quyết định số 1627, ghi nhận: cho vay là một hình thức cấp tín
dụng, theo đó, tổ chức tín dụng giao cho khách hàng một khoản tiền để sử
dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có
hoàn trả cả gốc và lãi.
Bản chất cho vay đó là sự hoàn trả (Trong cho vay tiền mặt thì trả cả
gốc và lãi vay). Đây là tiêu chí để phân biệt cho vay với cấp phát ngân sách
của Nhà nước.
Cho vay có đặc điểm khác với hoạt động chiết khấu; cho thuê tài chính;
hoạt động bảo lãnh ở chỗ : cụ thể là :
Điều 57 luật các Tổ chức tín dụng 2004. Khác với cho vay, hoạt động
cấp tín dụng dưới hình thức chiết khấu các chứng từ có giá của các tổ chức tín
dụng là một hình thức tín dụng hợp đồng, dựa trên thoả thuận giữa tổ chức tín
dụng và người thụ hưởng về việc tổ chức tín dụng sẽ mua thương phiếu và
các giấy tờ có giá khác của người thụ hưởng trước khi đến hạn thanh toán.
"Nét đặc trưng của việc chiết khấu là tổ chức tín dụng khấu trừ ngay lãi
xuất chiết khấu và chỉ cấp cho khách hàng phần tiền còn lại, phần lãi xuất

chiết khấu và các khoản hoa hồng khác liên quan chính là phần lãi của tổ chức
tín dụng".
"10"
, Trang 243.
Trong hoạt động bảo lãnh ngân hàng, theo Điều 58- Luật các tổ chức
tín dụng quy định thì :"Bảo lãnh của ngân hàng là cam kết của ngân hàng
dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho
khách hàng của ngân hàng khi khách hàng không thực hiện đúng cam kết".
(18)
. trang 107. Khác với cho vay, ngân hàng không phải xuất tiền, hoạt động
bảo lãnh của ngân hàng là hình thức tài trợ thông qua uy tín. Ngân hàng có
thể được thực hiện bảo lãnh dưới các hình thức cơ bản như: phát hành thư bảo
lãnh, mở tín dụng thư, ký hối phiếu nhận nợ
- Đối với hoạt động cho thuê tài chính (quy định tại Đ61 - Luật các Tổ
chức tín dụng - 2004). Đây là một hình thức cấp tín dụng trung và dài hạn của
tổ chức tín dụng.
Hiện nay, một số Ngân hàng thương mại đã lập ra các phòng cho thuê
hoặc các công ty cho thuê tài chính để thực hiện các quản lý hoạt động cho
thuê.
Điểm khác biệt với hoạt động cho vay đó là: bên thuê không được đơn
phương hủy bỏ hợp đồng thuê , cho đến khi hết thời hạn thuê, bên thuê được
quyền ưu tiên mua hoặc thuê lại tài sản đó theo các điều kiện đã thoả thuận.
- Không có sự chuyển đổi quyền sở hữu về tài sản của bên cho thuê cho
bên thuê.
So với các hình thức cấp tín dụng kể trên hoạt động cho vay của các
Ngân hàng thương mại luôn chiếm tỷ lệ cao nhất (xấp xỉ 70% doanh số và lợi
nhuận).
Hoạt động cho vay diễn ra dựa trên cơ sở: Hợp đồng tín dụng, quy
trình, nghiệp vụ cho vay…. Quy trình nghiệp vụ cho vay được bắt đầu từ khi
cán bộ tín dụng tiếp nhận hồ sơ khách hàng và kết thúc khi kế toán viên tất

toán - thanh lý hợp đồng tín dụng, về cơ bản được tiến hành theo 03 bước sau:
- Thẩm định trước khi cho vay.
- Kiểm tra, giám sát trong khi cho vay.
- Kiểm tra, giám sát, tổ chức thu hồi nợ sau khi cho vay.
Quy trình cho vay được khái quát bằng sơ đồ
"19"
trang 48; và quyết định
số (20) - 1627 Cùng với các cam kết khác về nội dung như của hoạt động
tín dụng:
- Mục đích sử dụng vốn vay
- Thời hạn thanh toán
- Cách thức xử lý tài sản bảo đảm khi khách hàng vay không trả nợ
đúng thời hạn như cam kết trong hợp đồng tín dụng…tất cả đều được ghi
nhận đầy đủ trong hợp đồng tín dụng trước khi NHTM ra quyết định giải
ngân cho khách hàng vay.
1.1.2.2. Phân loại các khoản cho vay.
Dựa vào nội dung, mục đích sử dụng vốn vay của hợp đồng tín dụng,
các khoản vay được phân thành các loại cơ bản sau:
+ Thời hạn cho vay: - Ngắn hạn
- Trung hạn
- Dài hạn
Cho vay ngắn hạn là các khoản cho vay có thời hạn ≤ 12 tháng.
Mục đích cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng các nhu cầu về vốn cho sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ, phục vụ đời sống của khách hàng.
"19"
trang 51.
- Cho vay trung và dài hạn là các khoản cho vay có thời hạn trên 01
năm. Ở Việt Nam hiện nay,theo thông lệ của các NHTM thì các khoản cho
vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm được coi là cho vay trung hạn, trên 05 năm gọi
là cho vay dài hạn. Các sản phẩm chính đó là cho vay theo DADT; cho thuê

tài chính (CTTC)
"19"
trang 94.
+Cho vay trên tài sản. Ví dụ :
- Chiết khấu giấy tờ có giá: là việc Ngân hàng thương mại mua giấy tờ
có giá chưa đến hạn thanh toán của khách hàng… đối tượng chiết khấu là các
giấy tờ có giá như: kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, sổ tiết kiệm, thương phiếu,
trái phiếu, bộ chứng từ hàng xuất
"19"
trang 79.
- Bao thanh toán:
Đây là hình thức cấp tín dụng của các Ngân hàng thương mại cho bên
bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu bắt nguồn từ việc mua,
bán hàng hoá, được thoả thuận giữa bên mua và bên bán theo hợp đồng mua -
bán đã ký kết.
"19"
trang 84.
Ngoài ra, còn một số hình thức cho vay khác như: cho vay theo hạn
mức thấu chi, cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng
1.1.3. Các vấn đề về rủi ro trong hoạt động cho vay của Ngân hàng
thương mại.
Trên thực tế , rủi ro có thể xảy ra đối với bất kỳ loại hình kinh doanh
nào. Không loại trừ yếu tố đó, kinh doanh ngân hàng luôn gắn liền với yếu tố
rủi ro. Tuy nhiên đây là hoạt động kinh doanh rủi ro có tính toán.
Mặc dù vậy, rủi ro trong kinh doanh ngân hàng có những điểm khác
biệt với các lĩnh vực kinh doanh khác về mức độ nguyên nhân. Rủi ro trong
kinh doanh ngân hàng có tính lan truyền và để lại hậu quả to lớn, không chỉ
bao gồm rủi ro nội tại của ngành, mà còn của tất cả các ngành khác trong nền
kinh tế, không chỉ trong phạm vi một quốc gia mà còn ảnh hưởng đến nhiều
quốc gia khác,

"19"
Trang 290. Một số rủi ro cơ bản mà các Ngân hàng thương
mại thường gặp trong hoạt động kinh doanh của mình đó là:
- Rủi ro tín dụng
- Rủi ro lãi xuất
- Rủi ro thanh toán
- Rủi ro hối đoái, rủi ro hoạt động khác
Rủi ro là sự kiện xảy ra ngoài ý muốn và ảnh hưởng xấu đến hoạt động
kinh doanh của Ngân hàng thương mại (VD: Kết quả đặt ra không đạt được,
thất thoát tài sản, vốn ).
Chính bởi xuất phát từ đặc trưng cơ bản trong hoạt động kinh doanh
của các Ngân hàng thương mại đó là kinh doanh tiền gửi - chức năng ban đầu
là nhận tiền gửi của xã hội, sau đó Ngân hàng thương mại đã trở thành các
chủ thể chuyên mua bán quyền sử dụng vốn, và tính hệ thống cao nên kinh
doanh trong ngân hàng có độ rủi ro gấp nhiều lần so với các doanh nghiệp
trong các lĩnh vực kinh doanh khác,
"19"
trang 290.
1.1.3.1. Rủi ro tín dụng
Có thể nói, đây là loại rủi ro cơ bản nhất của ngân hàng bao gồm các
hoạt động như: cho vay, bảo lãnh, tài trợ, cho thuê tài chính
Rủi ro tín dụng xảy ra trong trường hợp đến hạn thanh toán các khoản
vay theo hợp đồng tín dụng ký giữa ngân hàng và khách hàng. Khách hàng vi
phạm cam kết nghĩa vụ trả nợ về: thời gian, số tiền phải thanh toán bao gồm
gốc và lãi…đã không được hoàn trả đầy đủ.
"Theo thống kê cho thấy hiện nay, hoạt động cho vay trong các ngân
hàng vẫn là chủ yếu, chiếm từ 70% đến 90% tổng tài sản có và một tỷ lệ
tương đương trong tổng thu nhập của hệ thống ngân hàng. Đồng thời, tỷ lệ nợ
xấu mặc dù đã được cải thiện song vẫn ở mức cao và đang có xu hướng tăng
lên"

"21"
.
Nguyên nhân gây nên rủi ro tín dụng xuất phát từ các lý do như:
- Khách hàng vay lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính như :làm ăn
thua lỗ nên không đủ khả năng thanh toán cho ngân hàng.
. Công tác thẩm định, đánh giá về khách hàng, cũng như tính khả thi
của DA, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, phương án đầu tư không
chính xác trước khi NH TM ra quyết định cấp tín dụng.
. Việc định giá tài sản bảo đảm thấp hơn so với nghĩa vụ trả nợ cho
ngân hàng; sự cố tình trì hoãn không trả nợ, hoặc xuất phát từ các lý do bất
khả kháng khác.
Ngoài ra, do sự yếu kém về nghiệp vụ, đạo đức của một số cán bộ nhân
viên trong hệ thống ngân hàng thương mại cũng là tác nhân gây ảnh hưởng
đến rủi ro tín dụng.
Theo đánh giá của ThS. Phạm Tiến Thành (BIDV): "Có vẻ như rủi ro
trong hoạt đông của các Ngân hàng Việt Nam đang có xu hướng tăng lên".Rủi
ro dễ nhận biết đầu tiên là rủi ro tác nghiệp
"21"
.
Như vậy, có thể thấy rằng, rủi ro tín dụng luôn tồn tại và nợ xấu là một
thực tế hiển nhiên ở bất cứ ngân hàng nào, kể cả ngân hàng hàng đầu trên thế
giới. Bởi có những rủi ro nằm ngoài tầm kiểm soát của con người. Tuy vậy,
sự khác biệt giữa các ngân hàng có năng lực quản trị rủi ro tín dụng là khả
năng khống chế nợ xấu ở một tỷ lệ thấp có thể chấp nhận được. Nhất là đối
với những rủi ro tín dụng mang tính chủ quan, xuất phát từ yếu tố con người.
Quan điểm của P.Volker, cựu chủ tịch Cục dự trữ Liên bang Mỹ (FED) cho
rằng "nếu ngân hàng không có những khoản nợ xấu thì đó không phải là hoạt
động kinh doanh"
"22"
trang 17.

1.1.3.2. Rủi ro lãi suất.
Rủi ro lãi suất là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến gắn với
thay đổi của lãi suất và nhiều nhân tố khác như cấu trúc và kỳ hạn của tài sản
và nguồn, quy mô và kỳ hạn các hợp đồng kỳ hạn,
"18"
trang 137.
Thực ra, lãi suất là giá cả của sản phẩm ngân hàng, nó cũng như giá cả
của nhiều mặt hàng khác, lãi suất cho vay, lãi suất huy động tiền gửi, chứng
khoán luôn biến động, một mặt có thể mang lại lợi nhuận cho ngân hàng
hoặc ngược lại. Do vậy rủi ro lãi suất là rủi ro do sự biến động của lãi suất.
Một số nguyên nhân cơ bản gây ra rủi ro lãi suất cho các Ngân hàng
thương mại.
Đó là:
- Đánh giá của ngân hàng về sự thay đổi của lãi suất trên thị trường
không đúng.
- Tỷ lệ lãi suất cố định được các ngân hàng luôn sử dụng trong các hợp
đồng tín dụng.
- Sự không phù hợp về kỳ hạn của nguồn và tài sản,
"18"
trang 140.
1.2. Một số biện pháp bảo đảm tiền vay cơ bản.
1.2.1. Khái niệm bảo đảm tiền vay.
Hoạt động tín dụng (trong đó có hoạt động cho vay) của ngân hàng
thương mại là một hoạt động quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng cao nhất và
mang lại nguồn lợi nhuận chủ yếu (ước tính khoảng 70%). Đồng thời đây
cũng là hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất.
Nhằm bảo đảm an toàn, hiệu quả cao trong hoạt động cho vay, tránh rủi
ro đổ vỡ đối với từng ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng, pháp luật
điều chỉnh hoạt động cho vay của các nước đều chú trọng tới việc điều chỉnh
các nguyên tắc nhằm cho vay có hiệu quả, bảo đảm an toàn vốn của ngân

hàng: Xây dựng pháp luật điều chỉnh liên quan đến các biện pháp bảo đảm
tiền vay, hợp đồng tín dụng, quy trình xét duyệt, kiểm tra trước khi cho
vay…
Như vậy, các biện pháp bảo đảm tiền vay được sử dụng nhằm ngăn
ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và các ràng buộc pháp lý để thu hồi khoản tiền
đã cho khách hàng vay trong trường hợp khách hàng vay vi phạm nghĩa trả
nợ như đã cam kết trong hợp đồng tín dụng .
Ở Việt Nam các quy định cơ bản của pháp luật điều chỉnh vấn đề này
đó là :
NĐ 178/1999 NĐ/CP ngày 29/12/1999 về bảo đảm tiền vay của các tổ
chức tín dụng.
Nghị định 85/2002/NĐ - CP ngày 25/10/2002 về sửa đổi, bổ sung nghị
định 178…
Xét theo nghĩa hẹp thì "Bảo đảm tiền vay là những biện pháp đảm bảo
việc trả nợ vốn vay như:cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay,
bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba, cầm cố, thế chấp bằng tài sản hình thành
từ vốn vay"
"1"
Tr 229 -Luật ngân hàng giáo trình chương IV.
Như vậy, có thể thấy rằng, hầu hết các loại tài sản hoặc các quyền phát
sinh từ tài sản có giá trị thanh khoản đều có thể được sử dụng để bảo đảm tiền
vay. Dưới góc độ kinh tế thì để bảo đảm tiền vay có hiệu quả, cần lưu ý thêm
các vấn đề như:
+ Giá trị của tài sản đảm bảo so với nghĩa vụ được đảm bảo.
+ Tính thanh khoản cao của tài sản bảo đảm.
+ Quyền xử lý tài sản bảo đảm thu hồi vốn vay của Ngân hàng thương
mại phải được đảm bảo, xem xét đến.
- Hình thức cho vay có bảo đảm bằng tài sản áp dụng đối với các
khách hàng có uy tín không cao đối với ngân hàng. Đây là cơ sở pháp lý (dự
phòng) để ngân hàng có thêm nguồn thu nợ thứ 2, nhằm bổ sung cho nguồn

thu nợ thứ nhất (có được từ hiệu quả sản xuất kinh doanh, đầu tư ) khi không
hiệu quả.
Việc bảo đảm tiền vay bằng tài sản được thực hiện thông qua cam kết,
thoả thuận giữa người vay và Bên cho vay theo quy định của pháp luật
(thông qua các hợp đồng thế chấp bảo lãnh, cầm cố ).
Xét theo nghĩa rộng thì : bảo đảm tiền vay là việc tổ chức tín dụng áp
dụng các biện pháp phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi
được các khoản nợ đã cho khách hàng,
"2"
.
Để bảo đảm tiền vay, hạn chế, ngăn chặn tới mức thấp nhất các rủi ro
có thể xảy ra, nhằm thu hồi vốn, lãi suất (các loại và các chi phí khác) Các
Ngân hàng thương mại có thể áp dụng hàng loạt các biện pháp nghiệp vụ khác
nhau. (ngoài các nghiệp vụ truyền thống như: cầm cố, thế chấp, bảo lãnh ).
Việc các ngân hàng cho vay không cần có tài sản bảo đảm cũng được xem xét
dựa trên các yếu tố (tiêu chí) như: - Đối với các khách hàng có uy tín, trung
thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính lành mạnh, hiệu quả kinh doanh,
uy tín trên thường trường, đánh giá của bạn hàng, hoặc xếp hạng của các tổ
chức đánh giá doanh nghiệp có uy tín ( trung tâm thông tin tín dụng CIC ), áp
dụng phương pháp quản trị có hiệu quả. Nói chung theo đánh giá của ngân
hàng là có lịch sử tín dụng tốt.
Các quy định của pháp luật cơ bản liên quan đến việc cho vay không
cần tài sản bảo đảm , đó là :
-Khoản 1 - Đ52 Luật các tổ chức tín dụng 1997( sửa đổi, bổ sung 2004)
- Mục a, K2 Đ3 NĐ 178/1999/NĐ - CP 1999/NĐ- CP.
- và quy định tại NĐ85/2002/NĐ - CP ngày 25/10/2003 của Chính
phủ … thì khách hàng có đủ các điều kiện sau được vay không cần tài sản
bảo đảm:
+ Sử dụng vốn vay có hiệu quả và trả nợ gốc, lãi, vốn vay đúng hạn
trong quan hệ vay vốn đối với tổ chức tín dụng cho vay hoặc các tổ chức tín

dụng khác.
+ Tính khả thi của phương án, dự án đầu tư (theo quy định của pháp
luật).
- Có khả năng tài chính thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
- Cam kết thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tài sản theo yêu cầu của tổ
chức tín dụng nếu sử dụng vốn vay không đúng cam kết trong hợp đồng tín
dụng, cam kết trả nợ trước thời hạn nếu không thực hiện được các biện pháp
bảo đảm bằng tài sản quy định tại điều này.
- Đối với các doanh nghiệp, ngoài các điều kiện trên còn phải là khách
hàng tín nhiệm (theo tiêu chí tại hệ thống tính điểm và xếp hạng tín dụng;
hoặc đơn vị trực tiếp cho vay và khách hàng vẫn có thể thoả thuận về việc
bên thứ 3 cam kết bằng uy tín và năng lực tài chính của mình trả nợ thay bằng
văn bản, nếu khách hàng vay không trả được nợ
"3"
.
- Ngoài ra, trong một số trường hợp, Ngân hàng thương mại cho vay
không có bảo đảm bằng tài sản theo chỉ định của Chính phủ.Khi phát sinh các
tổn thất do nguyên nhân khách quan thì việc xử lý theo quy định của Chính
phủ và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Và cho vay bảo đảm bằng tín chấp của các tổ chức, đoàn thể xã hội
khác nhau cho các hội viên (Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Đoàn thanh niên,
Hội nông dân ).Tuy nhiên giá trị của các khoản vay thường không lớn, và
hạn chế về đối tượng được cho vay.
Xuất phát từ những đặc điểm phân tích trên đây có thể đưa ra một khái
niệm về bảo đảm tiền vay như sau: "Bảo đảm tiền vay (theo nghĩa hẹp) là
những biện pháp mà các tổ chức tín dụng áp dụng nhằm ngăn ngừa và hạn
chế tới mức thấp nhất những rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động cho vay của
mình, cụ thể là đảm bảo cho việc thu hồi vốn và lãi suất vay
"4"
. [các biện pháp

bảo đảm tiền vay bằng tài sản của các tổ chức tín dụng - Đại học Quốc gia Hà
Nội, Lê Thị Thủy, Trang 53, NXBTP - 2006].
1.2.2. Sự cần thiết phải có bảo đảm tiền vay.
- Cũng giống như các doanh nghiệp nói chung, nguồn vốn của Ngân
hàng thương mại là toàn bộ, các nguồn tiền tệ mà ngân hàng tạo lập, huy động
được để cho vay, đầu tư và thực thi các dịch vụ ngân hàng. Về cơ bản, nguồn
vốn chủ yếu của Ngân hàng thương mại bao gồm:
- Vốn chủ sở hữu
- Vốn huy động
- Vốn đi vay và các nguồn vốn khác
Như vậy, có thể thấy rằng tín dụng là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn
nhất ở hầu hết các Ngân hàng thương mại. Đây cũng là mảng hoạt động đặc
trưng của các Ngân hàng thương mại. Trong khoản mục tín dụng thì hoạt
động cho vay luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất.
- Trên thực tế, mọi khoản cho vay của Ngân hàng thương mại đều có
bảo đảm. Việc hợp đồng tín dụng phân chia thành có bảo đảm bằng tài sản
cầm cố, thế chấp, bảo lãnh hoặc không có bảo đảm hoàn toàn không nói lên
tính an toàn của các khoản cho vay của Ngân hàng thương mại, còn việc cho
vay có bảo đảm bằng tài sản chỉ là nguồn thu nợ thứ hai từ bảo đảm mà thôi.
Bên cạnh việc tối đa hoá lợi nhuận, tính cạnh tranh thì yêu cầu đảm bảo
an toàn (gồm có an toàn thanh khoản, an toàn tín dụng và các an toàn khác )
luôn được đặt lên hàng đầu. Bởi lý do "Ngân hàng luôn kinh doanh bằng tiền
của người khác” (quan điểm của các nhà ngân hàng Anh), bởi trên thực tế vốn
chủ sở hữu của ngân hàng thường chiếm một phần rất nhỏ (10%) mà thôi. Số
vốn còn lại ngân hàng huy động từ các cá nhân, tổ chức, các doanh nghiệp
khác Do đó, sự an toàn của hệ thống cũng như của riêng một ngân hàng
thương mại luôn được giám sát bởi các cá nhân, Chính phủ, ngân hàng nhà
nước và các nhà quản trị tại ngân hàng chuyên nghiệp.
Việc (luật hoá) các quy định liên quan tới hoạt động cho vay của ngân
hàng trước khi có quy chế cho vay 1627 “5” cũng đặt ra nguyên tắc bắt buộc

khi vay vốn tại các tổ chức tín dụng, đó là nguyên tắc bảo đảm tiền vay. Sau
khi quy chế cho vay 1627 ra đời (có hiệu lực) thì tính chủ động được trao cho
các Ngân hàng thương mại, Các NHTM có toàn quyền trong việc lựa chọn
cho vay có bảo đảm hoặc không có bảo đảm (ngoại trừ một số khoản cho vay
theo chỉ định của Chính phủ).
a. Xuất phát từ những phân tích trên đây thì việc đặt ra các biện pháp
bảo đảm tiền vay đã tạo cơ sở, tiền đề an toàn trong hoạt động cho vay của
các Ngân hàng thương mại nói chung. Bởi "rủi ro tín dụng là đặc trưng tiêu
biểu nhất, dễ xảy ra nhất trong hoạt động ngân hàng
"4"
tr.79.
Chính vì lý do đó phòng ngừa rủi ro (khách quan và chủ quan) từ phía
khách hàng vay khi đến hạn mà không trả được nợ (cả tiền gốc và lãi). Các
ngân hàng luôn kèm theo hàng loạt các điều kiện vay vốn, điều khoản về tài
sản bảo đảm tiền vay luôn được đặt lên hàng đầu. Các điều kiện của tài sản
bảo đảm thường có yêu cầu cơ bản đó là:
- Trị giá của tài sản bảo đảm so với nghĩa vụ được bảo đảm.
- Tính thanh khoản của tài sản bảo đảm.
- Tính hợp pháp của tài sản bảo đảm.
b. Việc cho vay có bảo đảm bằng tài sản góp phần bảo vệ quyền và lợi
ích chính đáng của các bên tham gia quan hệ tín dụng.
- Nghị định số 165/1999/NĐ- CP- Về giao dịch bảo đảm (trừ trường
hợp việc cầm cố, thế chấp quy định trong hoạt động tín dụng ngân hàng) là cơ
sở để giải quyết khi phát sinh tranh chấp giữa các bên về quyền và nghĩa vụ
trong hoạt động tín dụng.
- Nghị định số 178/1999/NĐ - CP- tại điều 5 ghi nhận việc nhà nước
bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong việc bảo đảm tiền vay
,không một tổ chức cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào việc bảo
đảm tiền vay và việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của các bên.
"4"

tr 87
1.2.3. Phân loại bảo đảm tiền vay.
Có thể phân loại các hình thức bảo đảm tiền vay theo tiêu chí khác
nhau. Tùy vào tình hình thực tế hoặc quy định pháp luật của mỗi quốc gia.
Tuy vậy, có một số cách phân loại cơ bản sau:
1.2.3.1. Bảo đảm đối nhân và bảo đảm đối vật.
- Bảo đảm đối nhân:
Biện pháp cơ bản mà các Ngân hàng thương mại thường áp dụng đó là
bảo lãnh.
+ Nội dung chính trong biện pháp này đó là việc bên thứ ba cam kết với
bên có quyền về việc sẽ thực hiện thay nghĩa vụ cho người có nghĩa vụ trong
trường hợp nghĩa vụ không được thực hiện như đã thoả thuận ban đầu.
Trong tình huống (trường hợp này) "các bên không xác định cụ thể tài
sản của bên bảo đảm để thực hiện nghĩa vụ, người nhận bảo đảm không có
quyền ưu tiên với tài sản của người bảo đảm ,
"6"
.
- Bảo đảm đối vật.
Khác với bảo đảm đối nhân, bảo đảm đối vật có tác dụng mang lại cho
chủ nợ các quyền đặc biệt trên một hoặc nhiều tài sản của người mắc nợ.
"7"
.
+ Các biện pháp bảo đảm đối vật cơ bản bao gồm: cầm cố, thế chấp, đặt
cọc, ký quỹ các tài sản bảo đảm trên thuộc quyền sở hữu và sử dụng hợp
pháp của người có nghĩa vụ hoặc bên thứ ba.
Lưu ý: Trong trường hợp tài sản của bên thứ ba đứng ra bảo lãnh dưới
các hình thức như: bảo lãnh bằng thế chấp ,cầm cố. Đây là một dạng bảo lãnh
đối vật, mang tính chất cổ điển, phổ thông nhất. "Bảo lãnh đối vật là cách mà
người bảo lãnh thiết lập tình trạng trách nhiệm hữu hạn của mình đối với
người nhận bảo lãnh

"7"
,trang 56 .
1.2.3.2. Bảo đảm tiền vay bằng tài sản và bảo đảm tiền vay không có
tài sản bảo đảm.
Theo NĐ 178 khoản 2 điều 2: "Cho vay có bảo đảm bằng tài sản là việc
cho vay vốn của tổ chức tín dụng, mà theo đó nghĩa vụ trả nợ của khách hàng
vay được cam kết bảo đảm thực hiện bằng tài sản cầm cố, thế chấp, tài sản
hình thành từ vốn vay của khách hàng vay hoặc bảo lãnh bằng tài sản của bên
thứ ba.
Hiện nay, các tổ chức tín dụng (trong đó có các Ngân hàng thương mại)
thường áp dụng các loại hình thức bảo đảm tiền vay sau:
+ Bảo đảm tiền vay bằng tài sản như: cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh
của bên thứ ba.
+ Bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay.
+ Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản…
- Về các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản.
Theo quy định tại K2- điều 2 - NĐ 178/1999/NĐ - CP "cho vay có bảo
đảm bằng tài sản là việc cho vay vốn của tổ chức tín dụng mà theo đó nghĩa
vụ trả nợ của khách hàng vay được cam kết bảo đảm thực hiện bằng tài sản
cầm cố, thế chấp, tài sản hình thành từ vốn vay của khách hàng vay và bảo
lãnh bằng tài sản của bên thứ ba".
Tài sản bảo đảm có thể là động sản, bất động sản, quyền tài sản khác
Theo quy định tại khoản 2- Điều 1 - NĐ số 85/2002/NĐ - CP ngày
25/10/2002 ( sửa đổi, bổ sung NĐ 178/1999/NĐ - CP ngày 29/12/1999 ) về
bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng thì tài sản bảo đảm tiền vay là tài
sản của khách hàng vay, bên bảo lãnh để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ,
bao gồm: Tài sản thuộc quyền sở hữu, giá trị quyền sử dụng đất của khách
hàng vay, bên bảo lãnh; Tài sản thuộc quyền quản lý, sử dụng khách hàng vay
của bên bảo lãnh là doanh nghiệp nhà nước; tài sản hình thành từ vốn vay.
Khi nghĩa vụ bị vi phạm: khách hàng không trả được nợ theo thoả thuận trong

hợp đồng tín dụng với ngân hàng hoặc bên bảo lãnh thực hiện không đúng
nghĩa vụ trả nợ thì tài sản dùng để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ tại tổ chức tín
dụng được xử lý để thu hồi nợ. Bảo đảm quyền lợi cho bên có quyền
"1"
, trang
232, 233 (như đã ký kết trong hợp đồng tín dụng cho các Ngân hàng thương
mại).
Trường hợp bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay, được
pháp luật ghi nhận tại :
- K5 -Đ2 - NĐ 178/1999 NĐ - CP;
-quy định tại K2- Điều 320 BLDS.2005.
Ngoài ra, tại thông tư số 12/2000/TTLT/NHNN - BTP - BTC -TCĐC
ngày 22 tháng 11 năm 2002 hướng dẫn thực hiện một số giải pháp về bảo
đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng theo quy định tại NĐ số 11/2000/NQ -
CP ngày 31/07/2000.
Căn cứ để xác lập một tài sản bảo đảm là vật hình thành trong tương lai
thì chỉ căn cứ vào thời điểm vật này thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm.
Vật thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm sau thời điểm nghĩa vụ được xác lập
hoặc giao dịch bảo đảm được giao kết thì được coi là vật hình thành trong
tương lai không phân biệt đó là động sản hay bất động sản.
- Bảo đảm tiền vay không bằng tài sản.
Về cơ bản ngân hàng có quyền chủ động lựa chọn và quyết định cho
vay có bảo đảm bằng tài sản, cho vay không có tài sản bảo đảm và chịu trách
nhiệm về quyết định của mình. Cần lưu ý rằng trường hợp cho vay không có
bảo đảm bằng tài sản theo chỉ định của Chính phủ, thì tổn thất do nguyên
nhân khách quan của các khoản cho vay này sẽ được Chính phủ xử lý.
Khi cho vay không có tài sản bảo đảm, nếu trong quá trình sử dụng vốn
vay, ngân hàng phát hiện có sự vi phạm cam kết trong hoạt động tín dụng từ
phía khách hàng, ngân hàng có quyền yêu cầu khách hàng vay thực hiện các
biện pháp hoạt động bằng tài sản hoặc thu hồi nợ trước thời hạn,

"3"
.
"Trích hướng dẫn tại Mục 4, chương XII - bảo đảm tiền vay, trang 315,
sổ tay tín dụng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì: - Ngân hàng chủ động lựa
chọn khách hàng có đủ điều kiện để cho vay không có bảo đảm bằng tài sản.
- Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản theo chỉ thị của Chính phủ,
của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và hướng dẫn của TGĐ".
(VD:bảo lãnh bằng tín chấp cho hộ gia đình của hội phụ nữ )
Trường hợp áp dụng cho vay không có tài sản bảo đảm :
-Đơn vị trực tiếp cho vay được quyền chủ động lựa chọn khách hàng đủ
điều kiện để áp dụng cho vay không có tài sản bảo đảm.
- Đơn vị trực tiếp cho vay được áp dụng cho vay không có bảo đảm
bằng tài sản trong trường hợp Chính phủ, Thủ tướng chính phủ có quy định
về cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đối với khách hàng vay và nhu cầu
vay vốn cụ thể .
- Đơn vị trực tiếp cho vay không được cho vay không có bảo đảm bằng
tài sản đối với các đối tượng : Tổ chức kiểm toán , kiểm tra viên đang kiểm
toán tại tổ chức tín dụng , Kế toán trưởng , Thanh tra viên .
Doanh nghiệp có một trong những đối tượng là thành viên Hội đồng
quản trị, ban kiểm soát, Tổng Giám đốc ( Giám đốc ), Phó Tổng giám đốc
( Phó giám đốc ) của tổ chức tín dụng, người thẩm định xét duyệt cho vay ,
Bố mẹ vợ chồng con của thành viên HĐQT, ban kiểm soát, Tổng Giám đốc
(Giám đốc ), Phó Tổng giám đốc ( Phó Giám đốc ) sở hữu trên 10 % vốn
điều lệ của doanh nghiệp đó.
Điều kiện đối với khách hàng vay không có bảo đảm bằng tài sản :
- Sử dụng vốn vay có hiệu quả và trả nợ gốc, lãi vốn vay đúng hạn ( tại
thời điểm ký kết hợp đồng tín dụng không có nợ gốc quá hạn hoặc chậm trả
lãi vốn vay đối với NHNo và các tổ chức tín dụng khác ).
Nợ gốc quá hạn , lãi vốn vay chậm trả không bao gồm khoanh nợ, nợ
được giãn , nợ chờ xử lý theo quy định của Chính phủ và lãi vốn vay chậm trả

phát sinh từ khoản nợ này.
- Có dự án đầu tư, phương án sản xuất , kinh doanh , dịch vụ khả thi có
hiệu quả ; hoặc có dự án đầu tư , phương án phục vụ đời sống khả thi, phù
hợp với quy định của pháp luật.
- Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
- Cam kết thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tài sản theo yêu cầu của
đơn vị trực tiếp cho vay nếu sử dụng vốn vay không đúng cam kết trong hợp
đồng tín dụng đồng thời cam kết trả nợ trước hạn nếu không thực hiện được
các biện pháp bảo đảm bằng tài sản theo quy định.
- Riêng đối với các doanh nghiệp , để đựơc vay không có tài sản bảo
đảm , ngoài các điều kiện như trên còn phải là khách hàng tín nhiệm (theo
tiêu chí tại hệ thống tính điểm và xếp hạng tín dụng).
- Trường hợp khách hàng vay có đủ điều kiện để được vay không có
bảo đảm bằng tài sản , đơn vị trưc tiếp cho vay và khách hàng vay vẫn có thể
thoả thuận về việc bên thứ ba có uy tín và năng lực tài chính Cam kết trả nợ
thay bằng văn bản , nếu khách hàng vay không trả được nợ.
Trường hợp cho vay không có bảo đảm bằng tài sản theo chỉ định của
Chính phủ.
Trường hợp khách hàng hoặc nhu cầu vay vốn cụ thể được chính phủ
hoặc Thủ tướng Chính phủ chỉ định cho vay không có tài sản bảo đảm bằng
tài sản . Đơn vị trực tiếp cho vay lưu ý một số vấn đề sau :
- Thực hiện đúng các quy định cảu Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
đối với khoản cho vay được chỉ định và tuân thủ các quy định của pháp luật
trong quá trình xem xét cho vay , kiểm tra sử dụng vốn vay và thu hồi nợ
(bao gồm cả gốc và lãi ) .
Tổ chức theo rõi riêng các khoản cho vay theo chỉ định và báo cáo tình
hình sử dụng vốn vay, khả năng thu hồi nợ , kiến nghị xử lý những tổn thất
trong các trường hợp không thu hồi được nợ theo quy định.
Trường hợp phát sinh tổn thất các khoản vay theo chỉ định của Chính
phủ do nguyên nhân khách quan thì việc xử lý theo quy định của Chính phủ

và hướng dẫn của NHNN VN.
Giấy tờ kèm theo bộ hồ sơ cho vay không có bảo đảm bằng tài sản :
- Đối với khách hàng theo quy định của Chính phủ :
Đối với hộ nông dân, trang trại: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
hoặc giấy xác nhận của UBND xã , phường, thị trấn về diện tích đất đang sử
dụng không có tranh chấp.
Đối với hợp tác xã làm dịch vụ cung ứng vật tư, cây, con giống : Hợp
đòng tiêu thụ.
Đối với hợp tác xã sản xuất hàng xuất khẩu, làng nghề truyền thống:
Hợp đồng xuất khẩu hoặc đơn đặt hàng khả thi.
- Đối với khách hàng đáp ứng các điều kiện cho vay không có bảo đảm
bằng tài sản :
Biên bản họp hội đồng tín dụng thống nhất cho vay không có bảo đảm
bằng tài sản trong đó nêu rõ những căn cứ để thống nhất cho vay không có
bảo đảm bằng tài sản
Cam kết thực hiện biện pháp bảo đảm tiền vay trong trường hợp sử
dụng vốn vay không đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng.
Các giấy tờ theo quy định về hồ sơ bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm
cố, thế chấp, bảo lãnh trong trường hợp phải thực hiện bảo đảm bằng tài sản.
- Bảo đảm tiền vay hữu hình và bảo đảm tiền vay vô hình.
+ Bảo đảm tiền vay hữu hình:
Thực chất đây là các hoạt động bảo đảm tiền vay mang tính chất truyền
thống. Tài sản bảo đảm là những tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của
người đi vay hoặc bên bảo lãnh như: động sản, bất động sản, hàng hoá,
nguyên vật liệu sản xuất.
+ Bảo đảm tiền vay vô hình:
Tài sản vô hình theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay rất đa
dạng. VD: quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công
nghiệp, quyền đòi nợ, quyền nhận được số tiền bảo hiểm, các quyền tài sản
khác phát sinh từ hợp đồng hoặc từ các căn cứ pháp lý khác.

- Các loại thương phiếu, cổ phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu chứng chỉ tiền
gửi, sổ tiết kiệm, thương phiếu hoặc các giấy tờ có giá trị khác. Ngoài ra, còn
rất nhiều tài sản vô hình khác mà pháp luật chưa đề cập đến như khả năng thu
hút thân chủ của luật sư, bác sĩ, uy tín thương hiệu.
1.3. Thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay của ngân hàng
thương mại.
1.3.1. Khái niệm thế chấp tài sản. (tài liệu đính kèm)
Bộ Luật dân sự Việt Nam (sửa đổi) 2005 quy định các biện pháp bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự gồm: cầm cố, thế chấp tài sản (trong đó có
cầm cố, thế chấp bằng tài sản của người thứ ba), đặt cọc, ký quỹ, ký cược, bảo
lãnh, (biện pháp bảo đảm đối nhân) và tín chấp.
Theo tinh thần chung thì việc thế chấp tài sản được ghi nhận là một
trong số các biện pháp bảo đảm (nhằm) thực hiện nghĩa vụ dân sự (Tại Đ318-
BLDS sửa đổi 2005). Trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại thì
thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay là một dạng bảo đảm mang tính chất truyền
thống, không còn xa lạ.
Khái niệm thế chấp được pháp luật của nhiều nước trên thế giới ghi
nhận. Ví dụ: -Tại Đ703 - BLDS và TM Thái Lan quy định "bất kỳ loại bất
động sản nào cũng có thể được thế chấp"
"11"
.
- Tại (chương III, thiên XVIII) Điều 2114, BLDS Pháp NXBTP (2005)
quy định:
"Thế chấp là một quyền tài sản đối với động sản được sử dụng đảm bảo
việc thực hiện nghĩa vụ.
Về bản chất, thế chấp không thể phân chia và tồn tại trên tất cả các bất
động sản thế chấp, trên từng bất động sản và trên mỗi phần của bất động sản
đó.
Khi bất động sản được chuyển dịch sang cho người khác, việc thế chấp
đã xác định trên bất động sản đó vẫn tồn tại"

"11"
.
- Tại các điều 2118 “ 13” quy định rõ: bất động sản thế chấp được sử
dụng vào hoạt động thương mại và những vật phụ của bất động sản được coi
như bất động sản.
Điều 2111 loại trừ bất động sản thì động sản không phải là đối tượng
của thế chấp,
"14"
hoặc [động sản không thể trở thành đối tượng của thế chấp].
Theo quy định của Bộ luật dân sự Việt Nam (sửa đổi và bổ sung) năm
2005, tại Đ342 thì "Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế
chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân
sự đối với bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp) và không chuyển giao
tài sản đó cho bên nhận thế chấp"
"15"
.
Trong trường hợp thế chấp một phần hoặc toàn bộ bất động sản, vật
phụ của bất động sản nếu không có thoả thuận khác thì cũng thuộc tài sản thế
chấp, tài sản hình thành trong tương lai có thể được coi là tài sản thế chấp …
nhìn chung , các vấn đề liên quan đều được Bộ luật dân sự dự kiến, điều
chỉnh.
Việc quy định trên đây cho thấy: tiêu chí để phân biệt giữa cầm cố và
thế chấp tài sản đó là: Trong hợp đồng thế chấp tài sản, bên thế chấp được giữ
tài sản thế chấp, còn trong hợp đồng cầm cố thì bên cầm cố phải chuyển giao
tài sản cho bên nhận cầm cố giữ Như vậy, sự khác nhau giữa thế chấp và
cầm cố đó là sự chuyển giao hoặc không chuyển giao vật, đây cũng là cơ sở
để phân biệt động sản, bất động sản Đồng thời, cũng đánh dấu một bước cải
tiến đáng kể trong xu thế quốc tế hoá các hoạt động ngân hàng nói chung
trong quan niệm về tài sản.
Quy định của Bộ luật dân sự về bảo lãnh là đồng thời chuyển bảo lãnh

bằng tài sản cụ thể thành : cầm cố, thế chấp bằng tài sản của người thứ ba, đã
loại trừ việc quy định về bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai
2003, nay được chuyển thành thế chấp quyền sử dụng đất, còn pháp luật về
đăng ký giao dịch bảo đảm sẽ không điều chỉnh đăng ký bảo lãnh nữa.
1.3.2. Đặc điểm thế chấp tài sản.
Về cơ bản, theo quy định tại Đ342 - K1 - BLDS 2005 thì thế chấp tài
sản là việc bên thế chấp (bên có nghĩa vụ) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình
để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên nhận thế chấp.
Đây là một dạng bảo đảm đối vật, quyền của bên nhận thế chấp tài sản
được xác định là tập hợp quyền đối với tài sản (bất động sản) cụ thể thuộc sở
hữu của người khác,
"16"
.
Quan hệ thế chấp tài sản là một trong số các biện pháp bảo đảm cho
việc thực hiện nghĩa vụ, được thiết lập trên cơ sở thoả thuận giữa hai bên hoặc
do luật định. Nghĩa vụ của bên thế chấp trong quan hệ này là cam kết trả nợ
vay đúng thời hạn (cả nợ gốc và lãi). Mục đích của bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ (bảo đảm tiền vay), một mặt nhằm nâng cao trách nhiệm thực hiện cam kết
trả nợ của bên vay. Mặt khác nhằm phòng ngừa rủi ro khi phương án trả nợ
dự kiến của bên vay không được thực hiện, hoặc xảy ra các rủi ro ngoài ý
muốn và nhằm phòng ngừa gian lận
Lưu ý: Trong trường hợp này bên nhận thế chấp cần thoả thuận trước
với khách hàng vay về lợi tức và các quyền phát sinh từ việc thế chấp tài sản
sẽ thuộc về người nhận thế chấp nếu pháp luật không có quy định khác. Đồng
thời, nếu tài sản thế chấp được bảo hiểm thì số tiền bảo hiểm này cũng thuộc
tài sản thế chấp nhằm tránh các xung đột về lợi ích không cần thiết có thể
xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng thế chấp tài sản.
- Thế chấp tài sản là nghĩa vụ phụ bên cạnh nghĩa vụ chính đồng thời là
biện pháp bảo đảm phát sinh từ nghĩa vụ chính. Thế chấp tài sản không tồn
tại một cách độc lập mà luôn gắn liền với một nghĩa vụ chính. Nghĩa vụ thế

chấp tài sản phát sinh và tồn tại khi và chỉ khi nghĩa vụ chính còn tồn tại.
Không có nghĩa vụ chính thì cũng không thể có nghĩa vụ thế chấp tài sản.
- Trong một số trường hợp, mặc dù hợp đồng thế chấp là hợp đồng phụ
song sự vô hiệu của hợp đồng chính/hợp đồng tín dụng, cũng không làm cho
hợp đồng thế chấp vô hiệu, hợp đồng thế chấp có tính độc lập tương đối
"8"
.
1.3.3. Phân loại thế chấp tài sản.
Việc phân loại thế chấp tài sản được xem xét dựa trên rất nhiều tiêu chí
khác nhau. Có thể dựa vào một số nội dung chính được thoả thuận giữa các
bên làm cơ sở để phân loại thế chấp tài sản Dựa trên thực tế, hợp đồng thế

×