LỜI MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế hội nhập hiện nay, để hòa nhịp cùng xu hướng vận động phát
triển toàn cầu, Việt Nam đã phấn đấu, cố gắng không ngừng để sánh vai cùng các
quốc gia khác trên toàn thế giới về mọi lĩnh vực. Trước tình hình đó, Việt Nam đã
có nhiều nỗ lực trong việc hoàn thiện về cơ chế, chính sách và pháp luật để đáp
ứng kịp thời yêu cầu của tiến trình hội nhập.
Để có thể theo kịp được tiến trình hội nhập, chúng ta đã đồng thời tăng cường
nâng cao hiệu quả hoạt động của lĩnh vực hành pháp, kết hợp với lập pháp và tư
pháp. Tuy nhiên, xã hội càng phát triển thì nhu cầu sống và làm việc theo pháp luật
của người dân càng được tăng cường, những yêu cầu đặt ra cho chủ thể quản lý
càng khắt khe hơn. Những mâu thuẫn, bất đồng giữa các cơ quan nhà nước và
người dân cũng theo đó mà tăng lên. Nhu cầu khiếu kiện trong nhiều lĩnh vực gia
tăng về số lượng với tính chất càng ngày càng gay gắt và phức tạp. Đặc biệt, đối
với tố tụng hành chính - một lĩnh vực rất mới mẻ thì những khiếu kiện này còn rất
nhiều khó khăn đối với người khởi kiện, người bị kiện và cả phía cơ quan xét xử.
Những tranh chấp hành chính chủ yếu xuất phát từ việc các đối tượng quản lý hành
chính có quyền, lợi ích bị xâm hại trong quá trình thực hiện hoạt động quản lý
hành chính nhà nước thông qua việc ban hành các QĐHC, quyết định kỷ luật buộc
thôi việc cán bộ, công chức hay thực hiện các HVHC của chủ thể quản lý hành
chính nhà nước. Hiện nay, thực trạng tranh chấp hành chính diễn biến rất phức tạp,
nhất là sự xuất hiện tình trạng khiếu kiện đông người, vượt cấp, vượt quyền diễn ra
ở nhiều địa phương và thậm chí ở các cơ quan trung ương. Nhằm đảm bảo được
yêu cầu cơ bản của nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân là phải
đảm bảo quyền con người, quyền công dân, công dân phải hiểu đúng và thực hiện
đúng quyền và nghĩa vụ của mình. Do đó, pháp luật quy định công dân có quyền
khởi kiện VAHC ra Tòa giải quyết để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng
1
của mình. Tòa án sẽ dựa trên quy định pháp luật, thực hiện công việc xét xử
VAHC của mình. Xét xử VAHC được thực hiện theo nguyên tắc hai cấp xét xử,
trong đó xét xử sơ thẩm VAHC là cấp xét xử thứ nhất, có ý nghĩa quyết định, quan
trọng đối với hoạt động xét xử nói chung.
Thực tiễn công tác xét xử VAHC nói chung và xét xử sơ thẩm VAHC trong
những năm vừa qua, cho thấy chúng ta đã đạt được những kết quả tích cực thể hiện
ở việc quyền và lợi ích hợp pháp của người dân đã được bảo vệ, hoạt động của cơ
quan hành chính nhà nước ngày một hiệu quả hơn. Ngoài ra, ý thức tự giác đấu
tranh của người dân đối với sai phạm trong quản lý hành chính cũng dần được
nâng cao. Nhưng bên cạnh đó, việc xét xử sơ thẩm VAHC đang còn gặp rất nhiều
vướng mắc. Các văn bản pháp luật tuy đã đưa ra những quy định và hướng dẫn,
song chỉ mới dừng lại ở hình thức Pháp lệnh nên hiệu lực chưa cao và còn mâu
thuẫn, chồng chéo với một số văn bản pháp luật khác. Điều này đã dẫn tới việc xét
xử sơ thẩm VAHC còn tồn đọng nhiều bất cập. Điển hình như người dân không
xác định được đối tượng khởi kiện, khởi kiện sai thời hiệu quy định hay cơ quan
xét xử thụ lý chậm, giải quyết chưa thuận ý dân, xét xử sai thẩm quyền, sai đối
tượng… hay chính phía người bị kiện là chủ thể quản lý hành chính nhà nước
chậm hoặc thậm chí cố tình không thực hiện bản án mà Tòa đã tuyên. Và ngay
chính bản thân cơ quan nhà nước, thậm chí cơ quan xét xử còn hạn chế về trình độ
chuyên môn chưa cao, một số bộ phận cán bộ làm việc chưa có trách nhiệm, chưa
đạt được hiệu quả tốt. Thực trạng này đã gây rất nhiều khó khăn cho việc giải
quyết các tranh chấp hành chính, nó đã và đang ảnh hưởng đến sự ổn định chính trị
- xã hội, làm giảm hiệu quả quản lý nhà nước cũng như làm giảm lòng tin của nhân
dân vào Nhà nước và pháp lụât.
Quy định về xét xử sơ thẩm VAHC đã được Nhà nước cụ thể trong một số
văn bản pháp luật như : PLTTGQCVAHC (đã được sửa đổi, bổ sung), Nghị quyết
số 04 ngày 04/08/2006 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn thi
hành một số quy định của PLTTGQCVAHC. Đặc biệt, hiện nay Luật TTHC đã
được Quốc hội thông qua và có hiệu lực vào ngày 01/07/2011 sẽ là một văn bản
2
quy phạm pháp luật mới trực tiếp điều chỉnh về xét xử sơ thẩm VAHC. Sự ra đời
của Luật TTHC trên cơ sở sự kế thừa, phát triển các quy định cũ và học tập kinh
nghiệm của nước ngoài hứa hẹn mang đến nhiều thay đổi tích cực cho xét xử sơ
thẩm vụ án hành chính trên phương diện lý luận cũng như thực tiễn.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về xét xử
sơ thẩm vụ án hành chính ” là một yêu cầu khách quan, cần thiết nhằm góp phần
nâng cao hiệu quả xây dựng và thực thi pháp luật trong giai đoạn này.
II. Tình hình nghiên cứu
Xét xử sơ thẩm VAHC là giai đoạn đảm bảo thực hiện quyền khởi kiện ra tòa
yêu cầu giải quyết khi có tranh chấp hành chính của cá nhân, cơ quan tổ chức. Đây
là một quyền mới được pháp luật quy định, bắt đầu từ khi PLTTGQCVAHC được
ban hành. Do đó, việc nghiên cứu về xét xử sơ thẩm VAHC cũng chưa nhiều, chưa
chuyên sâu. Trong những năm qua, đã có một số đề tài, công trình nghiên cứu về
vấn đề này :
Trước hết, có thể kể đến luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Thanh Bình :“
Thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong việc giải quyết các khiếu kiện hành
chính”, bảo vệ năm 2003. Luận án là một công trình này nghiên cứu chuyên sâu
về phương diện lý luận cũng như phương diện thực tiễn về thẩm quyền của tòa án
trong việc giải quyết tranh chấp hành chính. Tuy nhiên, công trình này tập trung
nghiên cứu bao quát thẩm quyền của TAND trong nhiều giai đoạn, trong đó chỉ có
một phần nhỏ đi vào nghiên cứu hoạt động xét xử VAHC nói chung của TAND.
Bên cạnh đó, luận án tiến sĩ của tác giả Hoàng Quốc Hồng “ Đổi mới tổ chức
và họat động của Tòa hành chính đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền
Viêt Nam hiện nay”, được công bố năm 2007 cũng đã có nghiên cứu qua về xét xử
sơ thẩm VAHC. Vì mục đích nghiên cứu của luận án và đi sâu về tổ chức và hoạt
động của tòa hành chính, cho nên tác giả trong quá trình nghiên cứu về hoạt động
của tòa hành chính đã có nghiên cứu qua về xét xử sơ thẩm VAHC để qua đó giúp
đọc giả thấy được hoạt động của tòa hành chính trong từng giai đoạn riêng.
Luận án tiến sĩ của tác giả Phạm Hồng Quang : “ Tòa hành chính ở Việt Nam
3
– Mô hình, thẩm quyền và những kinh nghiệm nước ngoài”(“Administrative
Division Court in Viet Nam – Model, Jurisdiction and Lesson from foreign
experiences” ), được xuất bản thành sách của Trung tâm Luật Châu Á, Đại học
Nagaya, Nhật Bản vào tháng 5/2010. Tương tự, các luận án tiến sĩ trên, ở công
trình này tác giả chuyên sâu vào nghiên cứu về Tòa hành chính ở các phương
diện : mô hình, thẩm quyền, nội dung các bản án, quyết định của Tòa hành chính
và vấn đề học tập kinh nghiệm nước ngoài về vấn đề này cho Việt Nam. Bởi vậy,
tác giả cũng không đi sâu nghiên cứu về xét xử sơ thẩm VAHC.
Tiếp theo, luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Mạnh Hùng : “ Thẩm quyền
xét xử hành chính của Tòa án nhân dân”, bảo vệ năm 2006. Cũng như các công
trình trên, tác giả Nguyễn Mạnh Hùng tập trung nghiên cứu về thẩm quyền xét xử
của tòa hành chính; bởi vậy trong công trình này cũng dừng lại ở việc điểm qua về
xét xử sơ thẩm VAHC.
Một số công trình nghiên cứu trực tiếp hơn nhưng chỉ là các bài báo đăng trên
các tạp chí khoa học, như : “ Hiệu quả xét xử hành chính của Tòa án nhân dân
nhìn từ hai giai đoạn của Tố tụng hành chính ” của tác giả Nguyễn Thanh Bình,
Tạp chí quản lý nhà nước số 7/1999; “ Một số khía cạnh của việc nâng cao hiệu
xuất hoạt động của Tòa hành chính trong việc giải quyết khiếu kiện hành chính”
của Ts Vũ Thư, Tạp chí Nhà nước và Pháp Luật số 8/2003; “ Kinh nghiệm từ mô
hình và thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của một số nước trên thế giới” của Ts
Phạm Hồng Quang, Tạp chí nghiên cứu lập pháp 2010; “ Một số vấn đề về thẩm
quyền xét xử của Tòa án nhân dân” của tác giả Trần Thị Kim Liễu, Tạp chí khoa
học pháp lý số 02/2004; “ Về quyền hạn của Tòa án khi giải quyết một vụ án hành
chính cụ thể” của tác giả Đặng Xuân Đào, Tập san Người bảo vệ công lý số
6/2002; “ Một số vấn đề về thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân” của tác giả
Trần Kim Liễu, Tạp chí khoa học pháp lý số 02/2004; “Bàn về tính minh bạch của
pháp luật tố tụng hành chính ”, Ts Trần Thị Hiền, Số chuyên đề Khiếu kiện hành
chính và tài phán hành chính, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, 2008.
Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến các khía cạnh khác nhau về xét
4
xử VAHC nói chung và xét xử sơ thẩm VAHC nói riêng, như : hiệu quả xét xử
hành chính, thẩm quyền xét xử hành chính, bài học kinh nghiệm cho hoạt động xét
xử VAHC ở nước ta…. Tuy nhiên do phạm vi nghiên cứu, mục đích nghiên cứu
của mỗi công trình khác nhau mà chưa đi sâu vào nghiên cứu một cách toàn diện
xét xử sơ thẩm VAHC. Hơn nữa, việc nghiên cứu về xét xử sơ thẩm VAHC là một
quá trình dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn đầy đủ, dựa trên quan điểm chỉ đạo
của Đảng và thực trạng nền hành chính, dựa vào công tác xét xử VAHC qua từng
giai đoạn cụ thể. Do vậy, những công trình nghiên cứu đó, cũng cần thiết phải bổ
sung, hoàn thiện hơn về lý luận, thực tiễn, để từ đó hình thành nên một hệ thống
quan điểm khoa học về xét xử sơ thẩm VAHC.
Mặc dù việc nghiên cứu xét xử sơ thẩm VAHC đã được quan tâm , xem xét
trên các góc độ khác nhau nhưng do việc xét xử sơ thẩm VAHC ở Việt Nam còn
nhiều vấn đề mới mẻ, những vấn đề pháp luật thực định còn chưa rõ ràng, cụ thể,
còn mâu thuẫn, chồng chéo nên việc xét xử sơ thẩm VAHC trong thực tế còn nhiều
vướng mắc.
Có thể nói, hiện nay chưa có công trình nào nghiên cứu cơ bản, toàn diện và
có tính hệ thống về xét xử sơ thẩm VAHC theo pháp luật Việt Nam. Lần đầu tiên,
đề tài “ Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ”
được nghiên cứu ở cấp độ luận văn thạc sĩ một cách chuyên sâu, hệ thống, kế thừa,
học hỏi những công trình đã đạt được cũng như kinh nghiệm thực tiễn có liên quan
và không lặp lại các công trình đã nghiên cứu.
III. Phạm vi nghiên cứu
Do khuôn khổ hạn chế của một luận văn tốt nghiệp, tác giả chỉ có điều kiện
tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận về xét xử sơ thẩm VAHC. Nghiên cứu,
tìm hiểu các quy định của pháp luật định nghĩa, tính chất, đặc điểm của xét xử sơ
thẩm VAHC. Trên cơ sở đó, tác giả đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về
xét xử sơ thẩm VAHC và đánh giá thực tiễn thực hiện các quy định này để tìm ra
được những điểm còn hạn chế, bất cập. Từ đó, đưa ra một số phương hướng, giải
pháp hoàn thiện mang tính khoa học, và mang tính thực tế về vấn đề này.
5
IV. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài có mục đích làm sáng tỏ cơ sở lý luận về xét xử sơ
thẩm VAHC, đánh giá quy định pháp luật và thực trạng thực hiện pháp luật về xét
xử sơ thẩm VAHC, qua đó đề ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về xét xử
sơ thẩm VAHC và nâng cao hiệu quả của hoạt động giải quyết các tranh chấp hành
chính, từ đó góp phần xây dựng hệ thống pháp luật Việt Nam ngày càng hoàn
thiện, phù hợp tình hình của đất nước trong giai đoạn này.
Nhiệm vụ nghiên cứu :
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về xét xử sơ thẩm VAHC, trên cơ sở đó
xây dựng những khái niệm cơ bản về xét xử sơ thẩm VAHC.
- Đánh giá những quy định pháp luật hiện hành về xét xử sơ thẩm VAHC và
đánh giá thực tiễn việc thực hiện pháp luật về xét xử sơ thẩm VAHC thông qua các
báo cáo của ngành Tòa án, và thông qua các vụ án có thật trên địa bàn các tỉnh,
thành phố.
- Chỉ ra những bất cập và những tồn tại cần khắc phục của pháp luật về xét xử
sơ thẩm VAHC. Và đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả
cho việc xét xử sơ thẩm VAHC.
V. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác – Lênin. Tác giả thực hiện nghiên cứu đề tài kết hợp giữa lý luận và thực tiễn
để làm sáng tỏ các vấn đề liên quan đến xét xử sơ thẩm VAHC.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng các phương pháp : phân tích tổng
hợp, so sánh, thống kê, lịch sử.
Phương pháp phân tích tổng hợp vừa đảm bảo tính khái quát của vấn đề được
nghiên cứu vừa đảm bảo tính chuyên sâu ở mỗi nội dung liên quan đến xét xử sơ
thẩm VAHC.
Phương pháp so sánh, lịch sử được sử dụng kết hợp với nhau. Bởi vì khi đặt
xét xử sơ thẩm VAHC trong hệ thống pháp luật Việt Nam về vấn đề này từ trước
tới nay, cũng như các quy định cuả pháp luật nước ngoài về xét xử sơ thẩm VAHC
6
thì luận văn mới có thể nghiên cứu triệt để nhất.
Phương pháp thống kê được sử dụng để nêu rõ số liệu thực tiễn về thực hiện
quy định pháp luật về xét xử sơ thẩm VAHC trong những năm qua.
VI. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Hiện nay, những quy định của pháp luật xét xử sơ thẩm VAHC vẫn còn chưa
đầy đủ, còn thiếu sự hệ thống, toàn diện, cần thiết sự tập trung trong một văn bản
cụ thể.
Luận văn là công trình ở cấp độ thạc sĩ đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ
thống và tương đối toàn diện ở góc độ lí luận và thực tiễn về vấn đề xét xử sơ thẩm
VAHC, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ có nhiều đóng góp về mặt khoa học.
Do đó, việc nghiên cứu đề tài về xét xử sơ thẩm VAHC sẽ có những đóng góp nhất
định cho các nhà làm luật trong công tác hoàn thiện pháp luật tố tụng hành chính.
Các luận cứ và kiến nghị của đề tài có độ tin cậy và giá trị tham khảo cho việc
nghiên cứu, giảng dạy, học tập, đồng thời giúp ích phần nào cho cán bộ làm công
tác thực tiễn trong việc tìm hiểu và áp dụng các quy định pháp luật về xét xử sơ
thẩm VAHC.
VII. Kết cấu của luận văn :
Luận văn gồm 3 chương :
Chương I : Một số vấn đề lý luận về xét xử sơ thẩm vụ án hành chính
Chương II : Thực trạng pháp luật về xét xử sơ thẩm vụ án hành chính.
Chương III : Hoàn thiện pháp luật và hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hành chính.
7
CHƯƠNG I : MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÉT XỬ SƠ THẨM
VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
1.1. VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
1.1.1. Khái niệm
Quản lý hành chính nhà nước là một hoạt động của Nhà nước được thực
hiện trước hết và chủ yếu bởi các cơ quan hành chính nhà nước, có nội dung là bảo
đảm sự chấp hành các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan quyền lực nhà
nước, nhằm tổ chức thực hiện pháp luật đối với các cá nhân, cơ quan, tổ chức trên
các lĩnh vực kinh tế, văn hóa – xã hội và hành chính – chính trị. Hoạt động này
được thực thi trên cơ sở pháp luật, đảm bảo các quyền và lợi ích chung của Nhà
nước và xã hội. Bởi vậy, trong quá trình thực hiện quản lý hành chính nhà nước
khó có thể tránh khỏi sự xung đột hay tranh chấp về lợi ích, quan điểm áp dụng
pháp luật giữa chủ thể quản lý hành chính nhà nước và đối tượng quản lý hành
chính nhà nước.
Những xung đột, tranh chấp này chủ yếu xuất phát từ việc chủ thể quản lý
hành chính nhà nước đơn phương áp đặt ý chí của mình gây ảnh hưởng đến quyền
và lợi ích hợp pháp của đối tượng quản lý hành chính nhà nước. Khi những xung
đột, tranh chấp này bị đẩy lên cao, các bên phải đưa ra Tòa án có thẩm quyền để
giải quyết thì sẽ phát sinh VAHC.
Theo Từ điển Tiếng Việt, thì “ vụ” là việc, sự việc không hay, rắc rối cần phải
giải quyết. Còn “án” là tranh chấp quyền lợi cần được xét xử trước tòa án. “ Vụ
án” là công việc phát sinh trên cơ sở tranh chấp về quyền lợi thuộc nhiệm vụ xét
xử của Tòa án.
Như vậy có thể hiểu khái quát về VAHC là vụ việc phát sinh trên cơ sở tranh
chấp trong các lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước.
Thực tế thì hiện nay khái niệm VAHC chưa được quy định cụ thể trong một
văn bản quy phạm pháp luật nào. Tuy nhiên, khi đề cập đến khái niệm này, ta có
thể hiểu như sau :
“ Vụ án hành chính là vụ việc tranh chấp hành chính phát sinh do cá nhân, tổ
8
chức, cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức khởi kiện yêu cầu Tòa án có thẩm
quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại bởi quyết định hành
chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc hoặc do Viện kiểm sát
khởi tố theo quy định của pháp luật tố tụng hành chính”.[9, Tr162].
Việc khái niệm về VAHC chưa được quy định trong một điều luật cụ thể thì
sẽ ít nhiều gây khó khăn cho cả người khởi kiện và Tòa án khi giải quyết, chúng ta
cần phải sớm khắc phục vấn đề này.
1.1.2. Đặc điểm
Từ quan điểm trên, chúng ta có thể nhận diện VAHC ở những đặc điểm sau:
Thứ nhất : Vụ án hành chính chỉ phát sinh khi có yêu cầu khởi kiện vụ án
hành chính của các cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định pháp luật.
Điều 1 PLTTGQCVAHC đã quy định:
“ Cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức theo thủ tục do pháp luật quy định có
quyền khởi kiện vụ án hành chính để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của mình”.
Điều 5 Luật TTHC quy định :
“ Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện vụ án hành chính để yêu
cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của Luật này”.
Với quy định trên như trên, VAHC chỉ có thể phát sinh khi có tranh chấp giữa
chủ thể và đối tượng quản lý hành chính nhà nước. Nhà nước trao quyền cho đối
tượng quản lý hành chính được khởi kiện VAHC khi có sự xâm hại đến quyền và
lợi ích hợp pháp của mình. Nguyên nhân của sự xâm hại này là xuất phát từ việc
các cơ quan nhà nước và những người có thẩm quyền trong các cơ quan này ban
hành các QĐHC hoặc thực hiện các HVHC không tuân thủ theo quy định của pháp
luật, gây ảnh hưởng quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức đó.
Nội dung và mức độ gay gắt của việc khởi kiện này phụ thuộc vào nội dung và
mức độ xâm hại các quyền, lợi ích từ phía các chủ thể quản lý hành chính nhà
nước. VAHC xuất phát từ việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp những đối
tượng chịu sự tác động trực tiếp của QĐHC, HVHC hay quyết định kỷ luật buộc
9
thôi việc.
Thứ hai : Vụ án hành chính phát sinh khi được Tòa án thụ lý.
Đặc điểm này cho thấy, VAHC muốn phát sinh cần phải đáp ứng đầy đủ các
điều kiện do pháp luật quy định. Việc quy định cho Tòa án có thẩm quyền giải
quyết các tranh chấp hành chính không có nghĩa là VAHC đương nhiên phát sinh
khi có đơn khởi kiện vụ án. Có thể xem, đặc điểm thứ nhất là điều kiện cần thì đặc
điểm này chính là điều kiện đủ của việc phát sinh VAHC tại Tòa án. Việc thụ lý
VAHC sẽ làm phát sinh trách nhiệm và quyền hạn của Tòa án trong việc giải quyết
VAHC. Bởi lẽ, mỗi cấp Tòa án được giao nhiệm vụ giải quyết những tranh chấp
thuộc thẩm quyền của mình theo quy định pháp luật, nhằm tránh tình trạng tranh
chấp thẩm quyền giữa các cấp Tòa án gây cản trở cho quá trình xét xử. Tòa án chỉ
có nhiệm vụ giải quyết VAHC theo yêu cầu khởi kiện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các đương sự, nếu vụ án đó đã được thụ lí. Việc thụ lí VAHC không chỉ
chính thức làm phát sinh trách nhiệm của tòa án trong việc giải quyết VAHC mà
còn giúp cho tòa án có những nhận định ban đầu cần thiết về tình trạng tranh chấp
hành chính, phương hướng giải quyết vụ việc và hạn chế tình trạng tranh chấp về
thẩm quyền có thể xảy ra. Việc thụ lí vụ án còn làm phát sinh những quyền hạn cụ
thể của tòa án trong xét xử hành chính. Khi đơn kiện đã được thụ lí thì VAHC đã
phát sinh và vụ án đó phải được giải quyết bằng bản án hay quyết định của tòa án.
Một điểm đáng lưu ý, đó là theo quy định của PLTTGQCVAHC, VAHC còn
có đặc điểm phát sinh sau giai đoạn tiền tố tụng hành chính. Đây là giai đoạn khiếu
nại và giải quyết khiếu nại theo thủ tục hành chính trước khi Tòa án giải quyết vụ
việc theo trình tự tố tụng hành chính.
Bàn về quy định thủ tục tiền tố tụng đối với việc khởi kiện VAHC đã có
nhiều ý kiến khác nhau :
Nhiều ý kiến cho rằng, việc quy định thủ tục “tiền tố tụng hành chính” - giai
đoạn khiếu nại ở cơ quan hành chính là bắt buộc đã hạn chế khả năng tiếp cận với
toà hành chính của công dân. Bởi lẽ, khi người dân gửi đơn khiếu nại lên cơ quan
hành chính, nếu trường hợp cơ quan này không giải quyết đúng thời hạn luật định
10
nhưng cũng không phản hồi, sẽ dẫn đến tình trạng người khiếu kiện bức xức trong
chờ đợi. Đến khi quá thời hạn khởi kiện, người dân cũng không thể kiện ra toà.
Điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
dân.
Một số ý kiến cho rằng việc quy định thủ tục tiền tố tụng hành chính là bắt
buộc (trừ một số loại việc) cũng sẽ làm giảm bớt số lượng các vụ kiện hành chính
tại tòa án. Giải quyết các tranh chấp hành chính bằng con đường khiếu nại hành
chính cũng có những ưu điểm vốn có và nếu giải quyết được thành công bằng con
đường này sẽ tiết kiệm được nhiều chi phí và thời gian so với giải quyết bằng con
đường xét xử hành chính.
Tuy nhiên, Luật TTHC đã hủy bỏ quy định về giai đoạn tiền tố tụng hành
chính nói trên. Theo đó, công dân không phải thực hiện thủ tục khiếu nại trước khi
khởi kiện, nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân và giúp đơn giản hóa
thủ tục hành chính. Điểm mới này sẽ khắc phục được phần nào những khó khăn
trong quá trình thực hiện thủ tục tiền tố tụng theo quy định cũ.
1.2. XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
1.2.1. Khái niệm
Khi bàn đến xét xử sơ thẩm VAHC, trước tiên chúng ta cần phải hiểu rõ về
khái niệm “ xét xử”? Có một số quan điểm khác nhau về khái niệm xét xử.
Có quan niệm cho rằng : “ Xét xử là hoạt động đặc trưng, là chức năng,
nhiệm vụ của các Tòa án. Các Tòa án là những cơ quan duy nhất của một nước
được đảm nhiệm chức năng xét xử, mọi bản án do các tòa án tuyên đều phải qua
xét xử. Không một ai có thể bị buộc tội mà không qua xét xử của các tòa án và kết
quả xét xử phải được công bố bằng bản án” [ 11, Tr 576].
Quan niệm khác cho rằng : “ Xét xử là hoạt động của Tòa án tại phiên tòa để
xem xét các chứng cứ và căn cứ vào pháp luật, xử lý vụ án bằng việc ra bản án và
các quyết định của Tòa án” [12, Tr 360]. Theo quan niệm này, xét xử chỉ là những
hoạt động tại phiên tòa của Tòa án.
Chúng ta có thể hiểu khái quát nhất về xét xử không chỉ là việc kiểm tra lại
11
các tài liệu, chứng cứ thu thập trong giai đoạn điều tra, truy tố và tuyên án. Mà xét
xử là một hoạt động đặc biệt mang tính quyền lực nhà nước do Tòa án thực hiện,
nhằm giải quyết những vụ án thuộc nhiều lĩnh vực như hình sự, dân sự, kinh tế,
hành chính…
Một vấn đề khác liên quan cần phải lý giải đó là “ sơ thẩm ” là gì ? Về mặt
ngôn ngữ học, hiện nay có nhiều cách hiểu về vấn đề này. Cụ thể :
Theo Từ điển Tiếng Việt thì : “ Sơ thẩm được hiểu là xét xử một vụ án với tư cách
là Tòa án ở cấp xử thấp nhất”.
Theo Từ điển Luật học thì : “ Sơ thẩm được hiểu là lần đầu tiên đưa một vụ án ra
xét xử tại Tòa án có thẩm quyền”.
Từ điển giải thích thuật ngữ pháp lý thông dụng thì quy định : “ Sơ thẩm là xét xử
một vụ án mà bị cáo, người bị hại, đương sự có quyền kháng cáo và Viện kiểm sát
có quyền kháng nghị để yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại”.
Có thể thấy, với cách hiểu của Từ điển giải thích thuật ngữ pháp lý thông
dụng chúng ta có được cái nhìn toàn diện nhất về sơ thẩm.
Từ quan niệm về xét xử và sơ thẩm, có thể tiếp cận khái niệm xét xử sơ thẩm
VAHC từ nhiều phương diện khác nhau, và được hiểu theo nhiều quan niệm khác
nhau :
Có ý kiến cho rằng, xét xử sơ thẩm VAHC là xem xét và phán quyết tính
đúng đắn, tính hợp pháp đối với QĐHC, HVHC bị khiếu kiện đúng hay sai về nội
dung và hình thức.
Ý kiến khác cho rằng xét xử sơ thẩm VAHC là một chuỗi hoạt động tổng
hợp, gắn liền các hoạt động của thẩm phán với các cơ quan hành chính có QĐHC
cá biệt hoặc người thi hành công vụ có HVHC bị khiếu kiện. Cuối cùng là kết quả
chấp nhận hay bác yêu cầu khởi kiện của công dân, và đưa ra phán quyết về
QĐHC, HVHC đó đúng hay sai.
Nhiều ý kiến cho rằng, có thể hiểu xét xử sơ thẩm là một trong các giai đoạn
tố tụng của vụ án, một trong các hai cấp xét xử của TAND, theo đó TAND tiến
hành mở phiên tòa để xét xử vụ án và ra bản án, quyết định sơ thẩm. Bản án, quyết
12
định sơ thẩm có thể bị kháng cáo, kháng nghị để đưa lên cấp xét xử cao hơn là cấp
phúc thẩm.
Như chúng ta đã biết, hoạt động xét xử sơ thẩm VAHC nói riêng và hoạt
động xét xử VAHC nói chung là trọng tâm của hoạt động tố tụng hành chính.
Theo đó, xét xử sơ thẩm VAHC là một chế định của pháp luật tố tụng hành
chính, bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ tố tụng giữa tòa án
với viện kiểm sát; giữa tòa án, viện kiểm sát với những người tham gia tố tụng
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm VAHC. Với tư cách là một giai đoạn trong quá trình
tiến hành tố tụng, xét xử sơ thẩm VAHC là một giai đoạn trung tâm của quá trình
tố tụng hành chính.
Xét xử sơ thẩm VAHC là giai đoạn tiếp theo sau khi tòa đã thụ lí đơn khởi
kiện của cá nhân, tổ chức( đương sự) đối với QĐHC, HVHC của cơ quan nhà
nước, cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan nhà
nước và quyết định kỉ luật buộc thôi việc của thủ trưởng các cơ quan nhà nước đối
với cán bộ, công chức giữ chức vụ từ vụ trưởng trở xuống, khi các đương sự cho
rằng QĐHC, HVHC đó xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Hoạt
động xét xử sơ thẩm VAHC chỉ được tiến hành khi vụ án không thuộc trường hợp
bị tạm hoãn, đình chỉ, tạm đình chỉ. Như vậy, mọi hành vi tố tụng khác như khởi
kiện, xem xét đơn khởi kiện, thụ lí vụ án, điều tra, chứng minh, thu thập chứng
cứ…đều phục vụ cho hoạt động xét xử sơ thẩm. Do đó, quyền và nghĩa vụ tố tụng
của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng được thực hiện công khai, đầy
đủ nhất ở phiên tòa sơ thẩm. Mục đích của phiên tòa sơ thẩm là xem xét tính hợp
pháp hay không hợp pháp của QĐHC, HVHC và xác định có hay không thiệt hại
về vật chất do QĐHC, HVHC đó gây ra đối với cá nhân, tổ chức. Bên cạnh đó,
thông qua hoạt động xét xử, HĐXX sơ thẩm còn xem xét yêu cầu của người khởi
kiện, chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của họ. Tòa án sẽ căn cứ vào thực tế
vụ án và dựa vào cơ sở pháp lý là các văn bản pháp luật để ra phán quyết bằng bản
án nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức. Trong
quá trình xét xử sơ thẩm, mọi chứng cứ và tài liệu mà các đương sự cung cấp hoặc
13
tòa án thông qua điều tra, xác minh được xem xét một cách công khai tại tòa. Các
bên được bình đẳng tranh luận với nhau do trước đó họ không có điều kiện thực
hiện nhằm làm sáng tỏ bản chất vụ án để rút ra kết luận làm cơ sở cho quyết định
của vụ án. Bản án hành chính sơ thẩm là kết quả của hoạt động xét xử sơ thẩm
VAHC. Bởi vậy, xét xử sơ thẩm được xác định là khâu kết thúc của quá trình tố
tụng từ giai đoạn khởi kiện. thụ lý đơn khởi kiện, quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Như vậy, qua sự phân tích trên, chúng ta có thể rút ra định nghĩa về xét xử sơ
thẩm VAHC như sau :
Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính là việc tòa án đưa vụ án thuộc thẩm quyền
ra xét xử công khai tại phiên tòa khi có đử căn cứ do pháp luật tố tụng quy định.
Mục đích của xét xử sơ thẩm là xác định rõ bản chất vụ án trên cơ sở các chứng
cứ để từ đó ra bản án, quyết định đúng pháp luật nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của cá nhân, tổ chức [ 9, Tr 256].
1.2.2. Đặc điểm
Xét xử sơ thẩm VAHC là một cấp xét xử hành chính, nên nó mang những
nét khác biệt so với xét xử sơ thẩm các lĩnh vực khác ( hình sự, dân sự, kinhtế, lao
động) :
Thứ nhất : Đối tượng xét xử sơ thẩm vụ án hành chính là các tranh chấp
trong lĩnh vực hành chính.
Tranh chấp trong lĩnh vực hành chính là tranh chấp giữa chủ thể quản lý nhà
nước và đối tượng quản lý nhà nước. Nhằm đảm bảo quyền công dân, pháp luật
nước ta đã quy định cho phép đối tượng quản lý hành chính nhà nước có quyền
được khởi kiện ra tòa nếu nhận thấy quyền và lợi ích của mình bị xâm hại bởi hoạt
động quản lý hành chính nhà nước của các chủ thể quản lý hành chính nhà nước.
Nói cách khác, khi chủ thể quản lý hành chính nhà nước ban hành QĐHC hay thực
hiện HVHC mà gây ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của đối
tượng quản lý hành chính nhà nước thì hiển nhiên sẽ gây nên mâu thuẫn giữa hai
đối tượng này. Những tranh chấp này nảy sinh từ việc cơ quan nhà nước, cơ quan
hành chính nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước, người có thẩm
14
quyền trong cơ quan hành chính nhà nước ban hành những QĐHC, thực hiện
những HVHC nhằm giải quyết các vấn đề thuộc thẩm quyền của mình. Đó là
những QĐHC, HVHC được quy định tại Điều 11 PLTTGQCVAHC ( đã được sửa
đổi, bổ sung năm 2006).
Tuy nhiên, hiện nay Luật TTHC đã mở rộng phạm vi đối tượng xét xử
VAHC thông qua quy định về thẩm quyền sơ thẩm VAHC của tòa án tại Điều 28.
Điều này nhằm mở rộng thêm quyền khởi kiện cho các cá nhân, tổ chức hơn nữa.
Theo đó, thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án được mở rộng hơn theo
phương pháp loại trừ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân, cơ quan, tổ chức
trong việc xác định quyền khởi kiện VAHC, bảo đảm sự công bằng cho người dân
và đáp ứng được yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp, hội nhập kinh tế quốc tế
của nước ta. Nhìn chung, quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm VAHC được sửa
đổi, bổ sung trên cơ sở kế thừa và phát triển quy định trong PLTTGQCVAHC.
Thẩm quyền này bao gồm việc xét xử các khiếu kiện sau : QĐHC, HVHC trừ các
QĐHC, HVHC thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an
ninh, ngoại giao theo danh mục do Chính phủ quy định và các QĐHC, HVHC
mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức; danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội,
danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân; quyết định kỷ luật buộc thôi
việc công chức giữ chức vụ từ Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống; quyết
định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lí vụ việc cạnh tranh.
Mặc dù có sự thay đổi như thế, nhưng thẩm quyền xét xử sơ thẩm VAHC vẫn
là xét xử các tranh chấp hành chính. Việc sửa đổi như trên, đã góp phần hạn chế
được những khó khăn khi áp dụng các quy định của Pháp lệnh trong xét xử sơ
thẩm VAHC. Thế nhưng, sự thay đổi này vẫn còn một số tồn tại cần được bàn bạc
lại. Việc Luật TTHC trao cho Chính phủ quyền quy định danh mục các QĐHC,
HVHC thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại
giao không thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm VAHC là không hợp lí. Vì điều đó sẽ
tạo khả năng cho Chính phủ - cơ quan thực thi quyền hành pháp hạn chế thẩm
quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án – cơ quan thực thi quyền tư pháp. Luật TTHC
15
nên bổ sung thêm quy định về những QĐHC, HVHC không thuộc thẩm quyền xét
xử sơ thẩm của Tòa án. Hơn nữa, việc liệt kê các loại đối tượng khiếu kiện hành
chính thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm như trên không những làm giảm tính thống
nhất giữa các loại đối tượng này mà còn làm phức tạp thêm một cách không cần
thiết các quy định của pháp luật về tố tụng hành chính.
Thứ hai : Hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hành chính được tiến hành theo
trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật tố tụng hành chính quy định.
Một trong những đặc điểm cơ bản của nhà nước là hoạt động theo trật tự
pháp lý, nghĩa là pháp luật quy định thẩm quyền của cơ quan nhà nước, cán bộ
công chức nhà nước. Trình tự đó còn được gọi là thủ tục thực hiện thẩm quyền. “
Thủ tục là toàn bộ quy tắc và thể thức cần phải tuân theo để hành động về mặt
pháp lý trước, trong khi tiến hành một việc cần giải quyết và cho tới khi kết thúc,
cũng như để hoàn thành những văn bản thực hiện bắt buộc” [ 12,Tr 181]. Với
cách hiểu như trên, bất kỳ hoạt động của cơ quan nhà nước nào cũng diễn ra theo
một trình tự nối tiếp nhau, trình tự đó được quy định trong hệ thống quy phạm về
thủ tục. Qua đó, có thể hiểu thủ tục tố tụng hành chính là một loại thủ tục pháp lý
được quy định trong luật tố tụng hành chính. Đó chính là tổng thể các quy phạm
pháp luật tố tụng hành chính được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành
quy định về trình tự, trật tự thực hiện thẩm quyền của tòa hành chính nhằm giải
quyết vụ án hành chính, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
Xuất phát từ đặc thù của xét xử hành chính - là xét xử các tranh chấp hành
chính giữa chủ thể quản lí hành chính nhà nước (cá nhân, tổ chức được sử dụng
quyền hành pháp) và đối tượng quản lí hành chính nhà nước (cá nhân, tổ chức phải
phục tùng quyền hành pháp) phát sinh do việc ban hành QĐHC hay thực hiện
HVHC nên việc giải quyết các tranh chấp này phải được thực hiện theo một trình
tự đặc biệt. Đó là thủ tục tố tụng hành chính - trình tự xét xử các VAHC tại Toà án.
Xét về phương diện lí luận, thủ tục tố tụng hành chính là một dạng cụ thể của thủ
tục tư pháp, cho nên thủ tục tố tụng hành chính cũng được xác lập trên cơ sở những
nguyên tắc chung của của thủ tục tư pháp như: Nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm
16
nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử; Nguyên tắc khi xét xử hội
thẩm nhân dân ngang quyền với thẩm phán; Nguyên tắc xét xử công khai; Các
đương sự bình đẳng trong tố tụng hành chính; Các đương sự được quyền tự mình
hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho mình…Tuy nhiên, bên
cạnh đó xét xử sơ thẩm VAHC phải được tiến hành theo trình tự thủ tục chặt chẽ
do luật tố tụng hành chính quy định, bao gồm các giai đoạn sau :
Giai đoạn thụ lí VAHC là giai đoạn mở đầu cho toàn bộ quá trình giải quyết
VAHC tại Toà án.
Giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm VAHC được tính từ khi thụ lí VAHC cho
đến khi Toà án ra một trong các quyết định: Đưa vụ án ra xét xử; Tạm đình chỉ
việc giải quyết vụ án; hoặc đình chỉ việc giải quyết vụ án.
Giai đoạn xét xử sơ thẩm VAHC được tính từ khi có quyết định đưa vụ án ra
xét xử cho đến khi Toà án thực hiện xong các thủ tục sau phiên toà sơ thẩm. Trong
giai đoạn này, Toà án phải tiến hành các công việc: Chuẩn bị mở phiên toà sơ thẩm;
Tiến hành phiên toà sơ thẩm; Thực hiện thủ tục sau phiên toà sơ thẩm.
Thứ ba : Hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hành chính của Tòa hành chính
được thể hiện thông qua việc áp dụng pháp luật để xét xử các khiếu kiện đối với
quyết định hành chính, hành vi hành chính của chủ thể quản lý hành chính nhà nước.
Tòa án là cơ quan xét xử các tranh chấp trong lĩnh vực hành chính. Thông qua
việc được trao thẩm quyền xét xử đó, Tòa án sử dụng quyền tư pháp của mình để
xem xét tính hợp pháp hay không hợp pháp của các QĐHC, HVHC bị khiếu kiện.
Việc xem xét tính hợp pháp hay không hợp pháp nói trên không phải là việc xem xét
theo cảm tính hay không có cơ sở. Mà nó luôn phải tuân theo những nguyên tắc, quy
định chặt chẽ của pháp luật. Tòa án phải căn cứ vào các quy định liên quan trong
văn bản pháp luật chính điều chỉnh về vấn đề này như PLTTGQCVAHC 1996;
PLTTGQCVAHC được sửa đổi, bổ sung năm 1998; PLTTGQCVAHC được sửa
đổi, bổ sung năm 2006; hay các văn bản pháp luật liên quan như Nghị quyết số
04/2006 của Hội đồng Thẩm phán; Luật Khiếu nại, tố cáo 2005, Luật Đất đai
2003 và sắp tới là Luật TTHC. Trên cơ sở đó, Tòa án lựa chọn áp dụng những quy
17
định pháp luật trực tiếp điều chỉnh đến việc xét xử các khiếu kiện đối với QĐHC,
HVHC của chủ thể quản lý hành chính nhà nước. Điều này nhằm đảm bảo cho hoạt
động xét xử sơ thẩm VAHC có thể bảo đảm cao nhất quyền và lợi ích hợp pháp của
người khởi kiện. Đồng thời, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào Nhà nước
và pháp luật; nâng cao chất lượng hoạt động quản lý hành chính nhà nước của chủ
thể quản lý hành chính nhà nước.
Thứ tư : Kết quả xét xử sơ thẩm vụ án hành chính là ra phán quyết về tính
hợp pháp của các quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện, được thể
hiện trong bản án hành chính.
Kết quả xét xử sơ thẩm VAHC sẽ được ghi nhận trong bản án hành chính.
Bản án hành chính là kết quả của quá trình giải quyết vụ án hành chính tại phiên
tòa ở các cấp xét xử. Tòa hành chính ra bản án để xác định QĐHC, HVHC bị khởi
kiện có trái pháp luật hay không? Có gây xâm hại trực tiếp đến quyền và lợi ích
của cá nhân, tổ chức cụ thể nào không? Xác định thiệt hại do QĐHC, HVHC đó
gây ra trong thực tế là bao nhiêu? Và xác định mức bồi thường thiệt hại mà cơ
quan công quyền phải gánh chịu trước cá nhân, tổ chức đó? Thông qua bản án
hành chính, Tòa hành chính sẽ đưa ra những phán quyết cụ thể về những tranh
chấp xảy ra giữa chủ thể quản lý hành chính nhà nước và đối tượng quản lý hành
chính nhà nước xảy ra trong quá trình quản lý hành chính nhà nước. Các đối tượng
có liên quan có nghĩa vụ thi hành.
Bản án hành chính là một yếu tố quan trọng có ý nghĩa trong hoạt động xét
xử VAHC, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng quản lý hành
chính nhà nước. Tiến sĩ Nguyễn Thanh Bình đã có nhận xét như sau về bản án
hành chính : “ Bản án hành chính vừa là hình thức ghi nhận diễn biễn vụ án, ghi
nhận sự đánh giá tính có căn cứ pháp lý của quyết định hành chính, hành vi hành
chính, quyết định kỷ luật cán bộ, công chức bị khiếu kiện; vừa ghi nhận kết quả
hoạt động tố tụng của tòa án trong quá trình xem xét và giải quyết vụ án hành
chính”[ 21,Tr43].
18
Phán quyết của tòa án trong bản án là trí tuệ, sức lực của cả một tập thể được
giao trọng trách thay mặt Nhà nước giải quyết vụ án. Phán quyết của tòa án là sự
đánh giá, phân tích một cách toàn diện tính đúng, sai của QĐHC, HVHC bị khởi
kiện. Thông qua đó, người khởi kiện cũng như người bị kiện nắm bắt được quyết
định của tòa án về những vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mình
Thứ năm : Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính là loại hoạt động nhà nước đặc
biệt do tòa án thực hiện.
Khác với xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, dân sự hay kinh tế…thì xét xử sơ
thẩm VAHC, các đương sự bao gồm có một bên là chủ thể quản lý hành chính nhà
nước và một bên là đối tượng quản lý nhà nước. Nói xét xử sơ thẩm VAHC là hoạt
động nhà nước đặc biệt bởi vì người bị kiện trong trường hợp này là một chủ thể
rất đặc biệt. Đó là các tổ chức, cá nhân mang quyền lực nhà nước trong quá trình
tác động tới đối tượng quản lý của mình. Quản lý hành chính nhà nước là một hình
thức hoạt động của Nhà nước được thực hiện trước hết và chủ yếu bởi các cơ quan
hành chính nhà nước, có nội dung bảo đảm sự chấp hành luật, pháp lệnh, nghị
quyết của các cơ quan quyền lực nhà nước, nhằm tổ chức và chỉ đạo một cách trực
tiếp và thường xuyên công cuộc xây dựng kinh tế, văn hóa – xã hội và hành chính
– chính trị. Đó là hoạt động chấp hành – điều hành của nhà nước. Hoạt động chấp
hành và điều hành là hoạt động chính, cơ bản của quản lý hành chính nhà nước,
được đặt dưới sự giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước. Trong đó, chủ thể quản
lý hành chính nhà nước trong hoạt động của mình có quyền nhân danh nhà nước
ban hành ra các văn bản pháp luật để đặt ra các quy phạm pháp luật hay mệnh lệnh
cụ thể bắt buộc các đối tượng quản lý có liên quan thực hiện. Mối quan hệ giữa chủ
thể quản lý nhà nước và đối tượng quản lý nhà nước là mối quan hệ “ quyền lực –
phục tùng”. Việc xét xử sơ thẩm VAHC là xét xử tranh chấp giữa hai đối tượng
này, cụ thể là xét xử đối với việc đối tượng quản lý hành chính nhà nước kiện chủ
thể quản lý hành chính nhà nước. Đối tượng bị đưa ra xét xử ở đây chính là những
QĐHC, HVHC mà chủ thể đặc biệt này đã ban hành hay thực hiện trong hoạt động
quản lý hành chính nhà nước của mình. Nói cách khác, đây chính là một hoạt động
19
nhà nước đặc biệt, trong đó Tòa án là cơ quan đánh giá hoạt động quản lý hành
chính nhà nước nói trên.
Thứ sáu : Mục đích của hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hành chính của Tòa
hành chính là bảo vệ lợi ích của cá nhân, tổ chức khi có tranh chấp với cơ quan
công quyền.
Chính vì mối quan hệ bất bình đẳng giữa chủ thể quản lý hành chính nhà nước
và đối tượng quản lý hành chính nhà nước nên khi tranh chấp xảy ra thì phần lớn
đối tượng quản lý hành chính nhà nước sẽ nắm thế yếu hơn. Khi Tòa án được giao
thẩm quyền xét xử những tranh chấp này thì các cá nhân, tổ chức này được Tòa án
xem xét, xét xử một cách công khai và minh bạch. Tòa án sẽ sử dụng quyền tư
pháp của mình, trên cơ sở áp dụng các quy định pháp luật để làm căn cứ giải quyết
xem ai đúng ai sai. Các cá nhân, tổ chức sẽ không phải chịu nhiều áp lực với việc
chờ đợi các cơ quan công quyền xem xét lại những QĐHC đã ban hành hay những
HVHC đã thực hiện có đúng hay không? Bởi vì các cơ quan công quyền thường
cho rằng họ đã ban hành đúng, thực hiện đúng pháp luật. Nếu thừa nhận cái sai thì
sẽ gây ảnh hưởng phần nào đến uy tín cũng như chất lượng quản lý hành chính nhà
nước của các cơ quan công quyền. Do đó, việc pháp luật quy định tòa án có thẩm
quyền xét xử VAHC chính là nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
các cá nhân, tổ chức trong trường hợp tranh chấp với chủ thể quản lý hành chính
nhà nước.
1.3. NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
1.3.1. Khái niệm hiệu quả xét xử sơ thẩm vụ án hành chính
Hiệu quả của các quy phạm pháp luật phụ thuộc vào những điều kiện khách
quan và chủ quan liên qua đến bản thân pháp luật, hoạt động áp dụng pháp luật.
Bất kỳ một quy phạm pháp luật nào cũng đều xuất hiện trên cơ sở và trong đời
sống xã hội, ý thức pháp luật. Khi được ban hành các quy phạm pháp luật tác động
đến các quan hệ xã hội. Tính chất của mối liên hệ qua lại giữa quy phạm pháp luật
và các mặt khác nhau của đời sống xã hội cho phép xác định hiệu quả của nó đến
20
xã hội. Mỗi một quy phạm pháp luật nói chung đều có thể tác động đến xã hội và
mang lại những kết quả nhất định. Như chúng ta đã biết pháp luật được quy định
bởi các quan hệ xã hội và quay trở lại tác động, điều chỉnh các quan hệ xã hội, cho
nên khả năng tác động vào quan hệ đó của pháp luật được coi là kết quả của pháp
luật.
Cần thấy được rằng, hiệu quả là tính chất nội tại của bất kỳ một hiện tượng
nào kể cả pháp luật. Do đó, tính chất nội tại đó không thể được hiểu ngoài phạm vi
của nó, vì thế để tìm hiểu về hiệu quả pháp luật thì trước hết phải tìm hiểu ngay
trong bản thân pháp luật. Hiệu quả của pháp luật là mức độ đạt được các mục đích
mà các nhà làm luật đặt ra khi xây dựng các quy phạm pháp luật. Mức độ đạt được
các mục đích được nhận biết qua các tiêu chí, yếu tố đánh giá hiệu quả của một
quy phạm pháp luật nói chung.
Như đã phân tích ở trên, hiệu quả là mức độ đạt được mục đích mà các nhà
làm luật đặt ra khi xây dựng các quy phạm pháp luật. Những mục đích đó là tiêu
chí cơ bản để đánh giá hiệu quả của quy phạm pháp luật. Giống như vậy, để tiến
hành xét xử sơ thẩm VAHC thì phải ban hành các văn bản quy phạm pháp luật
điều chỉnh quan hệ xã hội phát sinh giữa tòa án với viện kiểm sát, và giữa những
cơ quan này với người tham gia tố tụng. Yêu cầu của văn bản pháp luật đó chính là
yêu cầu hiệu quả xét xử sơ thẩm VAHC. Những tiêu chí đánh giá không giống
nhau, không chung nhất ở tất cả các thời kỳ mà ở từng thời kỳ, thời điểm khác
nhau.
Chính vì vậy, khái niệm hiệu quả xét xử sơ thẩm VAHC được hiểu là những
kết quả có lợi có được khi tiến hành xét xử sơ thẩm VAHC mà Nhà nước ta đặt ra
khi ban hành các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội xuất hiện
xung quanh hoạt động xét xử sơ thẩm VAHC. Theo đó, hiệu quả xét xử sơ thẩm
VAHC có thể được xem xét dưới hai góc độ, đó là hiệu quả xét xử sơ thẩm VAHC
mà nhà nước ta hướng tới và hiệu quả xét xử sơ thẩm VAHC đạt được trên thực tế
so với mục đích đã đạt ra.
21
1.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động xét xử sơ thẩm vụ
án hành chính
Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động xét xử sơ thẩm VAHC cũng
chính là những tiêu chí để đánh giá về vấn đề này.
Yếu tố đầu tiên : Tình hình kinh tế - xã hội.
Tình hình kinh tế - xã hội là yếu tố thể hiện chính xác và khách quan nhất về
trình độ phát triển của một quốc gia. Một quốc gia phát triển về kinh tế và xã hội
thì mới có thể có điều kiện tốt để xây dựng được hệ thống pháp luật chặt chẽ, ổn
định, tạo cơ sở pháp vững chắc để điều chỉnh các lĩnh vực khác nhau, cụ thể là lĩnh
vực tố tụng hành chính. Đồng thời có điều kiện tốt để xây dựng cơ sở vật chất phục
vụ cho hoạt động xét xử, nâng cao chất lượng hoạt động của cơ quan xét xử cũng
như các cơ quan nhà nước, cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền
trong cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước.
Yếu tố thứ hai : Hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống pháp luật tố tụng
hành chính nói riêng.
Việt Nam chúng ta được biết đến là một nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Mà nhà nước pháp quyền gắn liền với pháp luật và được hợp pháp hoá bởi
pháp luật. Pháp luật là nền tảng của nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, vấn đề ở chỗ
là hệ thống pháp luật làm nền tảng cho nhà nước pháp quyền phải như thế nào?
Đương nhiên, một hệ thống pháp luật với những quy định hạn chế quyền tự do dân
chủ của nhân dân, cản trở sự tiến bộ xã hội, công lý không được bảo đảm, chưa kể
đến việc thủ tiêu các quyền tự do, dân chủ của nhân dân, thì không thể trở thành
nền tảng của nhà nước pháp quyền.
Hệ thống pháp luật là một yếu tố hết sức quan trọng và có ý nghĩa khi đánh
giá hiệu quả của bất kỳ hoạt động nào của một quốc gia. Bởi vậy, muốn đánh giá
được hiệu quả hoạt động xét xử sơ thẩm VAHC thì chúng ta cần thiết phải dựa vào
yếu tố này. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật nói chung là một tổng thể nhiều hệ thống
pháp luật điều chỉnh từng vấn đề, lĩnh vực cụ thể khác nhau. Xét xử sơ thẩm
VAHC là vấn đề thuộc về pháp luật tố tụng hành chính, do vậy yếu tố trực tiếp ảnh
22
hưởng chính là hệ thống pháp luật tố tụng hành chính. Tuy rằng, tuổi đời của pháp
luật tố tụng hành chính còn khá non trẻ song đã phần nào đóng góp được khá nhiều
ưu điểm. Nhưng, hệ thống pháp luật tố tụng hành chính cần được chuyển mình
nhanh, mạnh hơn nữa với việc sửa đổi, bổ sung, xây dựng mới các quy định liên
quan ngày càng hoàn thiện.
Yếu tố thứ ba : Cơ cấu tổ chức hoạt động của Tòa án.
Tòa án được biết đến là cơ quan có thẩm quyền xét xử những tranh chấp giữa
chủ thể quản lý hành chính nhà nước và đối tượng quản lý hành chính nhà nước.
Tòa án là “ người cầm cân nảy mực ”, là nơi công lý được thực thi công bằng nhất.
Trong bộ máy nhà nước ta, TAND có vị trí vô cùng quan trọng. Điều 127 Hiến
pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 quy định: " Toà án
nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự và các
Toà án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam”. Điều 72 Hiến pháp năm 1992 cũng khẳng định: “ Không ai bị
coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của toà án đã có
hiệu lực pháp luật”. Đây là cơ sở pháp lý để xác định vị trí quan trọng của TAND
trong hệ thống các cơ quan tư pháp. Vị trí này xuất phát từ “tính hệ thống và tính
chỉnh thể của hệ thống tư pháp bản thân chúng đã cho thấy rõ vai trò trung tâm của
Toà án (khâu xét xử) trong hệ thống tư pháp”.
.
Có thể nói, trong nhiều giai đoạn
lịch sử của Nhà nước ta, TAND đã trải qua những cuộc cải cách và đổi mới về tổ
chức cũng như phương thức hoạt động để đáp ứng nhiệm vụ ngày càng nặng nề
của nền tư pháp, nhất là trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Kết quả phát triển và lớn mạnh của TAND ngày nay thể hiện đậm nét sự
vận dụng đường lối lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của TAND.
Do vậy, hoạt động xét xử sơ thẩm VAHC của Tòa án có hiệu quả hay không
phụ thuộc vào việc cơ cấu tổ chức hoạt động của Tòa án như thế nào?
Yếu tố thứ tư : Tổ chức hoạt động và hiệu quả hoạt động của chủ thể quản
lý hành chính nhà nước.
Chủ thể quản lý hành chính nhà nước là các cơ quan nhà nước, người có thẩm
23
quyền trong cơ quan nhà nước, cơ quan hành chính nhà nước và người có thẩm
quyền trong cơ quan hành chính nhà nước. Đây là chủ thể đặc biệt và quan trọng
nắm quyền hành lớn trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Những chủ thể
này khi tham gia vào các quan hệ quản lý hành chính có quyền sử dụng quyền lực
nhà nước để chỉ đạo các đối tượng quản lý thuộc quyền nhằm thực hiện nhiệm vụ
của các bên tham gia quan hệ quản lý hành chính nhà nước. Tổ chức hoạt động của
chủ thể này phải được chú trọng, xem xét để đưa ra những phương hướng hợp lý
cho việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của mình. Mặt khác, hiệu quả hoạt động của
chủ thể này trực tiếp nói lên việc tổ chức, hoạt động như thế đã tốt chưa? Những
điểm nào cần phải thay đổi? Nếu như tổ chức hoạt động, hiệu quả hoạt động của
chủ thể quản lý hành chính nhà nước tốt thì việc xét xử VAHC nói chung và xét xử
sơ thẩm VAHC nói riêng sẽ đơn giản hơn, đạt kết quả cao hơn. Nếu như tổ chức
hoạt động, hiệu quả hoạt động của chủ thể quản lý hành chính nhà nước không tốt
thì việc xét xử VAHC nói chung và xét xử sơ thẩm VAHC nói riêng sẽ gặp nhiều
khó khăn, vướng mắc dẫn đến hiệu quả xét xử thường không cao.
Yếu tố thứ năm : Ý thức pháp luật của người dân.
Ý thức pháp luật của người dân là việc người dân hiểu và chấp hành các quy
định của pháp luật như thế nào. Ý thức pháp luật của người dân là một yếu tố đóng
vai trò khá quan trong trong việc đánh giá nhiều vấn đề của nước ta, trong đó có
vấn đề hiệu quả xét xử sơ thẩm VAHC. Nó không những thể hiện bộ mặt của hoạt
động quản lý hành chính nhà nước mà còn thể hiện bộ mặt của hoạt động xét xử sơ
thẩm VAHC. Ý thức pháp luật của người dân thấp thì họ sẽ khó có thể nhận thức
đúng đắn về các quy định pháp luật liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của
chính bản thân họ.Từ đó, sẽ dẫn đến việc người dân mơ hồ, hoang mang trong
hành trình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi có tranh chấp với chủ
thể quản lý nhà nước. Bởi thế, khi tòa án xét xử VAHC đương nhiên sẽ gặp vướng
mắc vì việc thực hiện sai, không đúng những quy định của pháp luật tố tụng hành
chính. Nếu ý thức pháp luật của người dân cao, thì sẽ hạn chế tối đa việc thực hiện
sai các quy định của pháp luật tố tụng hành chính, điều này giúp cho Tòa án tiến
hành xét xử nhanh gọn, hiệu quả hơn rất nhiều.
24
Kết luận chương 1
Như vậy, xét xử sơ thẩm VAHC là phương tiện giúp cho việc giải quyết
tranh chấp giữa chủ thể quản lý hành chính nhà nước và đối tượng quản lý hành
chính nhà nước. Do vậy, pháp luật quy định xét xử sơ thẩm VAHC chỉ được tiến
hành khi có đầy đủ căn cứ do pháp luật tố tụng hành chính quy định. Điều này thể
hiện việc Nhà nước bảo đảm thực hiện những quyền cơ bản của công dân đã được
ghi nhận trong Hiến pháp, và là công cụ pháp lý để công dân, cơ quan, tổ chức bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm hại và đấu tranh chống các hành vi
trái pháp luật. Đây cũng là phương thức để nhân dân tham gia vào quản lý nhà
nước, quản lý xã hội, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, xuất phát từ
những đặc điểm về hình thức, chủ thể, nội dung, cơ sở của việc xét xử sơ thẩm
VAHC; Nhà nước ta thông qua các quy định pháp luật nhằm bảo vệ đồng thời các
đối tượng liên quan khi việc xét xử sơ thẩm được thực hiện, gồm chủ thể và đối
tượng quản lý hành chính nhà nước. Như vậy, vừa đảm bảo được tính công bằng,
minh bạch của Nhà nước đối với mọi công dân, cơ quan, tổ chức thuộc sự quản lý
của mình; vừa giúp siết chặt hơn ý thức tuân thủ, thực hiện theo đúng pháp luật
đối với cả hai bên, qua đó nhằm củng cố sự phát triển, ổn định và có hiệu quả trong
hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
25