Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Tiềm năng, thực trạng và giải pháp phát triển du lịch tỉnh Dak Lak theo hướng bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (924.02 KB, 94 trang )




BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Mai Thị Thùy Dung
TIỀM NĂNG, THỰC TRẠNG VÀ
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH
TỈNH DAK LAK THEO HƯỚNG BỀN VỮNG
Chuyên ngành: Địa lý học
Mã số: 60 31 95
LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN KIM HỒNG
Thành phố Hồ Chí Minh - 2007



LỜI CẢM ƠN

Em xin được bày tỏ lòng kính trọng và cảm ơn sâu sắc đến thầy giáo hướng dẫn khoa
học PGS.TS Nguyễn Kim Hồng - Phó Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ
Chí Minh đã nhiệt tình hướng dẫn em trong thời gian thực hiện đề tài.
Xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu nhà trường, phòng Khoa học Công nghệ và sau
đại học, khoa Địa lý trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện
thuận lợi cho em
trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu để hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn Tỉnh uỷ, UBND, Sở Thương mại – Du lịch, Sở Văn hoá thông
tin, Cục thống kê, Sở Khoa học công nghệ và môi trường tỉnh Dak Lak đã cung cấp cho em
nhiều nguồn tư liệu, tài liệu hữu ích phục vụ cho đề tài.


Xin cảm ơn sự động viên, hỗ trợ rất lớn từ gia đình, bạn bè trong suốt khoá học và
quá trình thực hiện l
uận văn.
Xin nhận nơi em lòng biết ơn sâu sắc.

Tác giả luận văn



Mai Thị Thùy Dung



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

DLBV : Du lịch bền vững
GDP : Tổng sản phẩm trong nước
IUCN : Tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế
TP. HCM : Thành phố Hồ Chí Minh
TP. BMT : Thành phố Buôn Ma Thuột
UBND : Uỷ ban nhân dân
UNEP : Chương trình môi trường Liên hợp quốc
UNCED : Hội nghị của Liên hợp quốc về môi trường và phát triển
UNESCO : Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hoá của Liên hợp quốc
WTO : Tổ chức du lịch thế giới
WTTC : Hội đồng Du lịch và Lữ hành quốc tế
WWF : Quỹ bảo tồn động vật hoang dã thế giới




DANH MỤC CÁC BẢNG

trang
1. Bảng biểu
Bảng 2.1. Cơ cấu GDP theo ngành của tỉnh Dak Lak 64
Bảng 2.2. Đóng góp của du lịch Dak Lak vào ngân sách nhà nước 71
Bảng 2.3. Các dự án du lịch trên địa bàn tỉnh Dak Lak 81

2. Biểu đồ
Hình 2.1. Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế tỉnh Dak Lak 65
Hình 2.2. Lượt du khách quốc tế đến Dak Lak 67
Hình 2.3. Lượt du khách trong nước đến Dak Lak 68
Hình 2.4. Tổng lượt khách đến Dak Lak 69
Hình 2.5. Tăng trưởng doanh thu của du lịch Dak Lak 70

3. Bản đồ
Bản đồ hành chính Dak Lak 29
Bản đồ du lịch Dak La
k 89
Bản đồ các tuyến du lịch Dak Lak 97

4. Hình ảnh 114




MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra mạnh mẽ, du lịch đang

phát triển không ngừng. Đối với Việt Nam, du lịch không chỉ tạo ra nguồn thu rất lớn cho
nền kinh tế quốc dân mà còn góp phần đưa bạn bè quốc tế đến với nước ta, tạo ra mối quan
hệ toàn cầu về kinh tế, văn hoá và thúc đẩy việc quảng bá sâu rộng hình ảnh V
iệt Nam đến
các quốc gia trên thế giới.
Trong bối cảnh đó, du lịch Dak Lak cũng đang có những bước khởi sắc. Với đặc điểm
địa lí của một vùng đất cao nguyên, quy tụ rất nhiều các dân tộc và tài nguyên du lịch đa
dạng, Dak Lak được nhiều du khách trong và ngoài nước biết đến như một điểm du lịch hấp
dẫn. Tuy nhiên, hiệu quả của hoạt động du lịch chưa xứng đáng
với tiềm năng vốn có, môi
trường tự nhiên đang bị xuống cấp, bản sắc văn hóa của các dân tộc phần nào bị mai một.
Đó là vấn đề bức xúc đang đặt ra cho ngành du lịch địa phương. Tài nguyên du lịch của Dak
Lak là những gì, ngành du lịch của Dak Lak đang phát triển như thế nào, có thể phát triển
theo xu hướng bền vững hay không và chúng ta phải làm gì để du lịch Dak Lak phát triển
bền vững? Đề tài “Tiềm năng, t
hực trạng và giải pháp phát triển du lịch tỉnh Dak Lak theo
hướng bền vững” sẽ trả lời các câu hỏi đó.

2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu tiềm năng, thực trạng và đề xuất các giải pháp phát triển bền vững cho
ngành du lịch đang còn non trẻ của tỉnh Dak Lak. Đây là nguồn kiến thức, thông tin tham
khảo bổ ích để ngành du lịch tỉnh Dak Lak điều chỉnh các hoạt động du lịch, nhằm thỏa mãn
nhu cầu đa dạng của du khách, m
ang lại hiệu quả kinh tế cao, nâng cao mức sống cộng đồng
địa phương, bảo vệ môi trường và đảm bảo sự phát triển theo hướng bền vững.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Thu thập và hệ thống các thông tin về du lịch Dak Lak.
- Khảo sát, đánh giá tài nguyên du lịch và thực trạng phát triển du lịch tỉnh Dak Lak
trên qua

n điểm phát triển bền vững.
- Đề ra giải pháp phát triển du lịch tỉnh Dak Lak theo hướng bền vững.




4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu vấn đề du lịch trên địa bàn tỉnh Dak Lak trong thời gian từ năm 1996
đến năm 2005. Phân tích tiềm năng và hiện trạng phát triển du lịch của tỉnh Dak Lak trên
quan điểm bền vững và đề xuất một số giải pháp phát triển du lịch theo hướng bền vững.
Đồng thời có tham khảo hoạt động du lịch của Thái Lan, Trung Quốc và xu hướng du lịch
bền vững của thế giới. Luận văn không nghi
ên cứu hết các nội dung liên quan đến phát triển
bền vững, cũng như không đi sâu vào các lĩnh vực chuyên ngành như kiến trúc, sinh học,
dân tộc học, môi trường, marketing.

5. Lịch sử nghiên cứu
5.1.Trên thế giới
Hơn 842 triệu người du lịch ra nước ngoài năm 2005, hơn 76,7 triệu việc làm được tạo
ra từ du lịch, doanh thu của du lịch chiếm 10,3 % GDP cả thế giới. Du lịch đang là hiện
tượng toàn cầu. Lợi nhuận khổng lồ thu đư
ợc từ du lịch đã khiến cho nhiều tài nguyên thiên
nhiên bị khai thác quá mức, môi trường bị ô nhiễm, và nền kinh tế - xã hội của các lãnh thổ
đón khách bị ảnh hưởng một cách tiêu cực. Một chiến lược du lịch tôn trọng môi trường và
quan tâm đến khả năng đáp ứng các nhu cầu trong tương lai đang được nhiều nhà nghiên
cứu quan tâm.
Từ khi cụm từ “phát triển bền vững” ra đời ở Đức vào
năm 1980, nhiều nghiên cứu
khoa học đã được tiến hành nhằm phân tích những tác động của du lịch đến sự phát triển
bền vững, sự cần thiết phải bảo vệ tính toàn vẹn của môi trường sinh thái trong khi khai thác

du lịch. Chuyên gia du lịch người Thuỵ Sĩ Jos Krippendorf (1975) và Jungk (1980) là những
nhà khoa học đầu tiên trên thế giới cảnh báo về những suy thoái do hoạt động du lịch gây ra
và đưa ra khái niệm về du lịch rắn (har
d tourism) - loại hình du lịch ồ ạt, bằng xe hơi, gây
ảnh hưởng nhiều nhất đối với môi trường và du lịch mềm (soft toursim/gentle tourism) - loại
hình du lịch ít gây ảnh hưởng nhất đến môi trường và có chia sẻ lợi ích kinh tế với cộng
đồng địa phương [13].

Năm 1992, trong Hội nghị thượng đỉnh về Trái đất đã diễn ra Hội nghị về môi trường
và phát triển của Liên hợp quốc, 182 Chính phủ đã thông qua chương trình Nghị sự 21
nhằm đảm bảo một tương lai bền vững cho nhân loại bước vào thế kỉ XXI. Chương trình
Nghị sự đã nêu lên các vấn đề liên quan đến môi trường và phát triển, đề ra chiến lược
hướng tới các hoạt động m
ang tính bền vững hơn.



Về du lịch bền vững, từ những năm 1990, nhiều nghiên cứu về phát triển du lịch bền
vững đã được tiến hành. Một số loại hình du lịch mới ra đời, nhấn mạnh khía cạnh môi
trường như du lịch sinh thái, du lịch gắn với thiên nhiên, du lịch thay thế hay du lịch khám
phá nhằm tuyên truyền, nâng cao ý thức của cộng đồng về hoạt động du lịch có trách nhiệm,
đảm bảo sự phát triển bền vững.
Năm 1996, “chương trình Nghị sự 21 về du lịch: Hướng tới phát triển bền vững về mô
i
trường” đã được Hội đồng Lữ hành du lịch thế giới, Tổ chức du lịch thế giới và Hội đồng
Trái đất xây dựng, nhằm nhấn mạnh sự cần thiết phối hợp hành động giữa các Chính phủ, tổ
chức phi Chính phủ và ngành du lịch trong việc xâ
y dựng chiến lược du lịch và nêu bật
những lợi ích to lớn của việc phát triển du lịch bền vững.
Các nhà Địa lý học bắt đầu quan tâm đến lĩnh vực du lịch từ những năm 30 (Mc

Murray 1930; Jones 1935; Selke 1936) và đặc biệt là sau chiến tranh thế giới thứ II. Nhiều
nhà Địa lý học người Mỹ, Anh, Canađa đã tiến hành các nghiên cứu về du lịch ở góc độ địa
lý như Gilbert (1949), Wolfe (1951), Coppock (1977). Về sau, khi du lịch ngà
y càng phát
triển và cụm từ du lịch bền vững được nhắc đến nhiều hơn thì những nghiên cứu của các
nhà địa lý học về du lịch cũng đã tăng lên rất nhiều, bởi khó có thể tìm thấy một khía cạnh
của du lịch mà không dính dáng đến địa lý và rất ít các ngành của địa lý mà không có ít
nhiều đóng góp cho việc nghiên cứu hiện tượng du lịch.

5.2. Việt Nam
Cùng với sự phát triển của ngành du lịch, các nghiên cứu về du lịch ở nước ta cũng
ngày một nhiều hơn. Có thể điểm qua một số công trình như: Tổ chức lãnh thổ du lịch Việt
Nam, Quy hoạch tổng thể du lịch Việt Nam 1995 - 2000, Quy hoạch tổng thể du lịch Việt
Nam đến năm 2010, Cơ sở Địa lý du lịch, Địa lý du lịch, Tổng quan du lịch, nghiên cứu cả
lý luận và thực tiễn, ở những quy m
ô và phạm vi khác nhau. Tất cả đều phục vụ cho du lịch
và cũng cho thấy sự quan tâm sâu sắc đến môi trường, đến khía cạnh bền vững trong du lịch
Việt Nam.
Năm 1997, Tổng cục du lịch Việt Nam kết hợp với Quỹ Hanns Seiden (Đức) tổ chức
Hội thảo về Phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam tại Huế, sau đó các hội thảo khác về du
lịch bền vững cũng được tổ chức như Hội thảo về du lịch sinh thái với phát triển bền vững ở
Việt Nam tại Hà Nội năm 1998, Hội thảo về Nâng c
ao nhận thức và năng lực phát triển du
lịch bền vững trong thời đại toàn cầu hoá tại Hà Nội năm 2006 thu hút nhiều nghiên cứu,
đóng góp của các nhà khoa học, các cán bộ du lịch trong và ngoài nước tham gia.



Các hội thảo và các công trình nghiên cứu đều hướng đến sự phát triển bền vững cho
ngành du lịch Việt Nam, bằng nhiều cách khác nhau. Đó là dấu hiệu tốt cho định hướng

chiến lược phát triển du lịch của nước ta trong thời gian tới. Tuy nhiên, có thể thấy rằng
ngành du lịch Việt Nam đang còn non trẻ và những đóng góp của các nhà khoa học về du
lịch bền vững vẫn đang là bước khởi đầu và du lịch bền vững chưa thực sự đi vào thực tiễn
ở nhiều địa phương.
Du lịch bền vững đã được Tỉnh uỷ, UBND và Sở Thương mại - Du lịch Dak Lak đánh

giá cao, tuy vậy, tỉnh hiện chưa có nghiên cứu nào về du lịch bền vững. Vì vậy, luận văn
này có thể là sự đóng góp đầu tiên cho du lịch bền vững của tỉnh Dak Lak.

6. Các quan điểm và phương pháp nghiên cứu
6.1. C
ác quan điểm
6.1.1. Quan điểm hệ thống tổng hợp
Hệ thống lãnh thổ du lịch là một hệ thống mở, gồm các thành phần tự nhiên, kinh tế,
xã hội, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và chịu sự chi phối của nhiều quy luật cơ bản.
Nghiên cứu du lịch không thể tách rời hệ thống kinh tế - xã hội của địa phương và cả nước.
Qua
n điểm hệ thống giúp chúng ta có cái nhìn tổng thể, khái quát của toàn bộ hệ thống du
lịch trong khi vẫn bao quát được hoạt động của mỗi phân hệ trong hệ thống đó. Du lịch Dak
Lak cần được nghiên cứu trong mối quan hệ tương hỗ: kinh tế - xã hội - môi trường không
chỉ riêng Dak Lak mà của cả nước. Quan điểm này được áp dụng trong suốt quá trình thực
hiện luận văn.

6.1.2. Quan điểm lịch sử, viễn cảnh
Mọi sự vật, hiện tượng đều có quá trình phát sinh, vận động và biến đổi. Quá trình ấy
có thể bắt đầu từ trong quá khứ, hiện tại vẫn tiếp diễn và kéo dài đến tương lai. Đứng tr
ên
quan điểm lịch sử, phân tích nguồn gốc phát sinh, đánh giá đúng đắn hiện tại sẽ là cơ sở để
đưa ra các dự báo xác thực về xu hướng phát triển trong thời gian sắp tới. Q
uan điểm này

được vận dụng trong khi phân tích các giai đoạn chủ yếu của quá trình phát triển hệ thống
du lịch và dự báo xu hướng phát triển của hệ thống lãnh thổ.

6.1.3. Quan điểm lãnh thổ



Lãnh thổ du lịch được tổ chức như là một hệ thống liên kết không gian của các đối
tượng du lịch trên cơ sở các nguồn tài nguyên và dịch vụ cho du lịch. Việc nghiên cứu du
lịch bền vững của tỉnh Dak Lak không thể tách rời với hiện trạng và xu hướng du lịch của
Việt Nam. Quá trình phát triển du lịch bền vững của tỉnh Dak Lak là một phần trong quá
trình phát triển du lịch bền vững của Tây Nguyên và của cả nước.

6.1.
4. Quan điểm sinh thái
Phát triển du lịch phải gắn liền với bảo vệ môi trường sinh thái. Quan điểm sinh thái
cho thấy sự cần thiết phải bảo vệ tính toàn vẹn của hệ sinh thái, đánh giá tác động của du
lịch đến môi trường và khả năng chịu đựng của môi trường trước sự phát triển của kinh tế
nói chung, du lịch nói riêng.

6.1.5. Quan điểm du lịch bền vững
Mục tiêu của du lịch bền vững l
à bảo vệ tài nguyên và môi trường, tăng cường bảo tồn
và chia sẻ lợi ích cho cộng đồng, đảm bảo sự phát triển kinh tế một cách bền vững. Kết hợp
hài hoà nhu cầu của hiện tại và tương lai trên cả hai góc độ sản xuất và tiêu dùng du lịch
nhằm đạt đến sự cân bằng giữa các yếu tố kinh tế, xã hội và môi trường. Luận văn quán tr
iệt
quan điểm này trong suốt quá trình đánh giá tiềm năng, phân tích hiện trạng và đề xuất giải
pháp.


6.2. Phương pháp nghiên cứu
6.2.1. Thu thập, xử lí thông tin
Thu thập những tài liệu có liên quan ở các nguồn tin cậy, sắp xếp và xử lí tài liệu một
cách có hệ thống, phân tích từng nội dung đưa ra những kết luận đúng đắn nhất.

6.2.2. Phân tích, tổng hợp, so sánh
Thông tin, số liệu sau khi thu thập sẽ được s
o sánh, phân tích, tổng hợp cho phù hợp
với mục đích của từng phần. Quá trình tổng hợp sẽ có được cái nhìn bao quát về du lịch Dak
Lak. Qua phân tích, các thông tin được chắt lọc với độ tin cậy và mang lại hiệu quả cao
nhất.

6.2.3. Thực địa



Đây là phương pháp không thể thiếu nhằm tích luỹ tài liệu thực tế về sự hình thành,
phát triển và đặc điểm của tổ chức lãnh thổ du lịch. Trong quá trình thực hiện luận văn,
phương pháp này rất được coi trọng vì nó phản ánh thực tiễn khách quan của đề tài mà luận
văn nghiên cứu.

6.2.4. Khai thác phần mềm hệ thống thông tin
Các thông tin, số liệu và dự báo trong luận văn được xử lý bởi phần mềm M
S Word,
Excel, AutoCad, Mapinfo để thể hiện các phân tích, đánh giá, so sánh và xu hướng du lịch
của tỉnh Dak Lak.

6.2.5. Bản đồ, biểu đồ
Đây là phương pháp đặc trưng của địa lý. Sử dụng các bản đồ, biểu đồ làm tăng tính
trực quan của đề tài, không chỉ cho biết đặc điểm, phân bố, mạng lưới mà còn thể hiện một

số kết quả của công trình nghiên cứu.

6.2.6. Phương pháp t
hống kê
Sau khi t
hu thập thông tin, số liệu, tiến hành thống kê, sắp xếp chúng lại cho phù hợp
với cấu trúc của đề tài, trình tự thời gian và lập ra các bảng biểu về quá trình phát triển kinh
tế - xã hội của tỉnh cũng như ngành du lịch Dak Lak.

7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục, nội dung chính của
luận văn được trình bày qua 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về phát triển du lịch bền vững.
Chương 2. Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch tỉnh Dak Lak theo hướng bền vững.
Chương 3. Định hướng và giải pháp phát triển du lịch tỉnh Dakla
k theo hướng bền vững.



CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN
DU LỊCH BỀN VỮNG
1.1. Quan niệm về du lịch bền vững
1.1.1. Quan niệm về du lịch
Ở mỗi thời đại, quan niệm về du lịch có sự thay đổi bắt đầu ngay từ thời kì đồ đá, khi
mà con người phải “đi” vì lí do sinh tồn trước cái đói và sự sợ hãi.
Đến thời kì cường thịnh của đế quốc La Mã, các chuyến du ngoạn bằng ngựa đã mang
mục đích tiêu khiển của tầng lớp thống trị. Khi tàu hoả ra đời
vào thế kỉ XIX, nó tạo động
lực cho du lịch phát triển hơn. Rồi lần lượt đến tàu thuỷ, ô tô, máy bay, chúng ngày càng

làm cho du lịch gắn bó mật thiết với con người.
Năm 1925, Hiệp hội quốc tế các tổ chức du lịch được thành lập tại Hà Lan, đánh dấu
bước ngoặt trong việc thay đổi, phát triển các khái niệm về du lịch. Đầu tiên, du lịch được
hiểu là việc đi lại của từng cá nhân hoặc một nhóm
người rời khỏi chỗ ở của mình trong
khoảng thời gian ngắn đến các vùng xung quanh để nghỉ ngơi, giải trí hay chữa bệnh.
Năm 1985, I.I.Pirogionic đưa ra khái niệm: “Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư
trong thời gian rỗi liên quan tới sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi cư trú thường
xuyên nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển t
hể chất và tinh thần, nâng cao trình độ nhận
thức – văn hoá hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế và văn
hoá”.
Ở Việt Nam, theo luật du lịch ban hành từ tháng 6 thăm 2005 và có hiệu lực từ ngày 1
tháng 1 năm 2006: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người
ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải
trí, nghỉ dưỡng trong khoảng thời gian nhất định”.
WTO định nghĩa: “ Du lịch theo nghĩa hành động được định nghĩa là một hoạt động di
chuyển vì mục đích giải trí, tiêu khiển và tổ chức các dịch vụ xung quanh hoạt động này.

Người đi du lịch là người đi ra khỏi nơi mình cư trú một quãng đường tối thiểu là 80 km
trong khoảng thời gian hơn 24 giờ với mục đích giải trí tiêu khiển”.
Còn nhiều qua
n niệm khác về du lịch. Trong luận văn này, tôi sử dụng định nghĩa về du
lịch do Tổng cục du lịch Việt Nam ban hành trong luật Du lịch năm 2005.

1.1.2. Quan niệm về du lịch bền vững



Cụm từ “ phát triển bền vững” có nguồn gốc từ thực tiễn quản lí rừng ở Đức vào thế kỉ

XIX, nhưng mãi đến thập kỉ 80 của thế kỉ XX mới được phổ biến rộng rãi.
Năm 1980, IUCN cho rằng “phát triển bền vững” phải cân nhắc đến hiện tượng khai
thác đến các nguồn tài nguyên tái tạo và không tái tạo, đến các điều kiện thuận lợi cũng như
khó khăn trong việc tổ chức các kế hoạch
hành động ngắn hạn và dài hạn đan xen nhau.
Đến năm 1987, Uỷ ban môi trường và phát triển thế giới WCED do bà GroHarlem
Brundtland thành lập đã công bố thuật ngữ “phát triển bền vững” trong báo cáo “ tương lai
của chúng ta” như sau: “ Phát triển bền vững được hiểu là sự phát triển có thể đáp ứng được
những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp
ứng nhu cầu
của các thế hệ mai sau” [5].
Theo Hội nghị thượng đỉnh về Trái đất năm 1992, được tổ chức ở Rio - de - Janeiro,
“phát triển bền vững được hình thành trong sự hoà nhập, xen cài và thoả hiệp giữa ba hệ
thống là hệ tự nhiên, hệ kinh tế và hệ xã hội”.


Ngày nay, tất cả các quốc gia đều đề cập đến “phát triển bền vững” trong quá trình
hoạch định chính sách và quản lí phát triển kinh tế, với ý muốn nhấn mạnh phương thức và
việc sử dụng có trách nhiệm các nguồn lực của sự phát triển.
Xu thế phát triển du lịch thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang đứng trước sự
bắt buộc phải sử dụng có trách nhiệm các nguồn lực của
mình, đặc biệt là tài nguyên du lịch
tự nhiên và nhân văn.
Khái niệm phát triển du lịch bền vững xuất hiện khoảng 10 năm trở lại đây, trên cơ sở
cải thiện và nâng cấp khái niệm du lịch mềm (soft tourism), được nhiều quốc gia và hiệp hội
du lịch lớn trên thế giới ủng hộ. Tuy nhiên, một khái niệm “du lịch bền vững” hoàn chỉnh
được tất cả mọi người sử dụng đến na
y vẫn chưa có.




Năm 1992, WTO định nghĩa: “Du lịch bền vững là việc phát triển các hoạt động du
lịch nhằm đáp ứng các nhu cầu hiện tại của du khách và người dân bản địa trong khi vẫn
quan tâm đến việc bảo tồn và tôn tạo các nguồn tài nguyên cho việc phát triển hoạt động du
lịch trong tương lai. Du lịch bền vững sẽ có kế hoạch quản lí các nguồn tài nguyên nhằm
thoả mãn các nhu cầu về kinh tế, xã hội, thẩm mĩ của con người trong khi đó vẫn duy tr
ì
được sự toàn vẹn về văn hoá, đa dạng sinh học, sự phát triển của các hệ sinh thái và các hệ
thống hỗ trợ cho cuộc sống của con người”.
Năm 1996, WTTC đưa ra khái niệm: “Du lịch bền vững là sự đáp ứng nhu cầu hiện tại
của du khách và vùng du lịch mà vẫn đảm bảo khả năng đáp ứng nhu cầu cho các thế hệ du
lịch mai sau”.
Du lịch
bền vững đòi hỏi các cấp và đơn vị kinh doanh du lịch quản lí tất cả các dạng
tài nguyên du lịch theo một cách nào đó để một mặt đáp ứng được các nhu cầu kinh tế, xã
hội và thẩm mỹ, mặt khác vẫn duy trì được bản sắc văn hoá, các quá trình sinh thái cơ bản,
sự đa dạng sinh học và các hệ sinh thái đảm bảo sự sống
(theo Hens L. 1998)
.
Đối với Việt Nam, “phát triển bền vững” được thể hiện trong chỉ thị 36/CT của Bộ
chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng ngày 25/06/1998: Mục tiêu và các quan điểm cơ
bản cho phát triển bền vững chủ yếu dựa vào hoạt động bảo vệ môi trường, bảo vệ môi
trường sinh thái, sử dụng hợp lí tài nguyên như một cấu thành không thể tách rời của phát
triển bền vững.
Theo quan điểm của Tổng cục du lịch Việt Nam, phát triển du lịch phải được định
hướng và quản lí theo phương châm: Kết hợp hài hoà nhu cầu của hiện tại và tương lai trên
cả hai góc
độ sản xuất và tiêu dùng du lịch, khai thác, sử dụng hợp lí và phát triển tài
nguyên du lịch tự nhiên, chú trọng bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị của tài nguyên du lịch
nhân văn, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, tránh hiện đại hoá hoặc làm biến

dạng môi trường, cảnh qua
n di tích, xây dựng và giữ gìn môi trường xã hội lành mạnh, đảm
bảo an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, đặc biệt là ở các đô thị du lịch và các điểm
tham quan du lịch.
Điều 5, luật du lịch Việt Nam:
“Phát triển du lịch bền vững, theo quy hoạch, kế hoạch, đảm bảo hài hoà giữa kinh tế -
xã hội – môi trường, phát triển có trọng tâm, trọng điểm theo hướng du lịch văn hoá – lịch
sử, du lịch sinh thái, bảo tồn, t
ôn tạo, phát huy giá trị của tài nguyên du lịch.
Bảo đảm chủ quyền quốc gia, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội.



Bảo đảm lợi ích quốc gia, lợi ích cộng đồng, lợi ích chính đáng và an ninh, an toàn cho
khách du lịch, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch.
Bảo đảm sự tham gia của mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư trong phát triển
du lịch.
Góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại và giao lưu quốc tế để quảng bá hình ảnh đất
nước, con người Việt Nam.
Phát triển đồng thời du lịch trong nước v
à du lịch quốc tế, tăng cường thu hút ngày
càng nhiều khách du lịch nước ngoài vào Việt Nam”.
Như vậy, có thể nói đối với cả Việt Nam và thế giới, du lịch bền vững không phải là
một loại hình hay trào lưu du lịch mà đó là cương lĩnh phát triển du lịch của thời đại.

1.2. Những nguyên tắc đảm bảo phát triển du lịch bền vững
1.2.1. Khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyê
n một cách hợp lí
Phát triển bền vững chủ trương ủng hộ việc lưu lại cho các thế hệ tương lai một nguồn
tài nguyên thiên nhiên không kém hơn so với cái mà các thế hệ trước được hưởng. Ngăn

ngừa trước những thay đổi không thể tránh được đối với những tài sản môi trường không có
khả năng thay thế, tính vào chi phí hoạt động kinh tế các dịch vụ được môi trường thiên
nhiên cung cấp, những dịch vụ này không phải
là “hàng hoá cho không”.
Các nguyên tắc như vậy cũng được áp dụng đối với các tài nguyên nhân văn. Cần trân
trọng các nền văn hoá địa phương, truyền thống dân tộc, kế sinh nhai và đất đai mà người ta
dựa vào để sống.
Việc sử dụng bền vững, bảo tồn và bảo vệ các nguồn lực này đang ngày càng được
nhìn nhận như là vấn đề sống còn đối với việc quản lí hợp lí m
ang tính toàn cầu và nó cũng
khiến cho kinh doanh phát triển lâu dài.

1.2.2. Hạn chế sử dụng quá mức tài nguyên và giảm thiểu chất thải
Sự tiêu thụ quá mức các nguồn tài nguyên sẽ dẫn đến sự huỷ hoại môi trường trên toàn
cầu của chúng ta và đi ngược lại với sự phát triển bền vững lâu dài của du lịch. Kiểu tiêu thụ
này là một đặc trưng của các nước có nền công nghiệp phát triển nhưng lại lan rộng rất
nhanh trên toàn cầu như là phong cách sống phương Tây. Các dự á
n du lịch được triển khai
mà không có đánh giá tác động môi trường hoặc không thực thi những kiến nghị về đánh
giá tác động của môi trường đã dẫn đến sự tiêu dùng tài nguyên môi trường và các tài



nguyên khác một cách lãng phí và không cần thiết. Chính điều này gây ra sự ô nhiễm và xáo
trộn về văn hoá và xã hội.
Khai thác, sử dụng quá mức tài nguyên và không kiểm soát lượng chất thải từ du lịch
góp phần dẫn đến suy thoái môi trường mà hậu quả của nó là sự phát triển không bền vững
của du lịch nói riêng và kinh tế xã hội nói chung.
Việc giảm tiêu thụ quá mức và giảm chất thải sẽ tránh được những chi phí tốn kém cho
việc phục hồi tổn hại về môi trường và đóng góp c

ho chất lượng của du lịch.

1.2.3. Phát triển du lịch phải gắn với bảo tồn tính đa dạng
Tính đa dạng về thiên nhiên, văn hoá và xã hội là thế mạnh của mỗi quốc gia nhằm
thoả mãn nhu cầu đa dạng của du khách cũng như sản phẩm của du lịch. Đa dạng cũng là sự
sống còn để tránh việc quá phụ thuộc vào một hay một vài nguồn hỗ trợ sinh tồn.
Phát triển bền vững chủ trương ủng hộ việc để lại cho thế hệ mai s
au sự đa dạng cả về
thiên nhiên và nhân văn không ít hơn những gì thế hệ trước được thừa hưởng. Chiến lược
bảo tồn thế giới nhấn mạnh sự cần thiết bảo tồn đa dạng nguồn gen. Từ đó, mục đích đã
đư
ợc mở rộng, trong đó có sự đa dạng cơ cấu chính trị, kinh tế - xã hội và các nền văn hoá.
Việc duy trì và phát triển tính đa dạng của thiên nhiên, văn hoá và xã hội là rất quan
trọng đối với du lịch bền vững, là chỗ dựa sinh tồn của ngành công nghiệp du lịch.

1.2.4. Phát triển phải phù hợp với quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội
Du lịc
h là ngành kinh tế tổng hợp có tính liên ngành, liên vùng cao, vì vậy mọi phương
án khai thác tài nguyên để phát triển phải phù hợp với các quy hoạch tổng thể kinh tế - xã
hội. Du lịch được lập kế hoạch đúng đắn sẽ tăng cường giá trị về tài sản môi trường, bảo vệ
các loài quý hiếm và mang lại sự cải thiện đối với cộng đồng địa phương. Những nơi mà du
lịch không phối hợp với các ngành khai thác thông qua quy hoạch có chiến lược thì du lịch
sẽ bung ra một cách nhanh chóng và khó kiểm so
át được nền kinh tế địa phương mỏng
manh.
Hợp nhất phát triển du lịch vào trong khuôn khổ hoạch định chiến lược cấp quốc gia và
địa phương, tiến hành đánh giá tác động môi trường làm tăng khả năng tồn tại lâu dài của
ngành du lịch.
1.2.5. Chia sẻ lợi ích đối với cộng đồng địa phương




Để phát triển kinh tế - xã hội nói chung và từng ngành kinh tế nói riêng, việc khai thác
các tài nguyên là tất yếu. Tuy nhiên, thực tế cho thấy trên một địa bàn lãnh thổ nếu mỗi
ngành chỉ biết đến lợi ích của mình mà không có sự hỗ trợ đối với sự phát triển kinh tế và
chia sẻ quyền lợi đối với cộng đồng địa phương thì sẽ làm cho kinh tế và cuộc sống của
người dân địa phương gặp nhiều khó khăn. Điều này buộc cộng đồng địa phương phải khai
thác tối đa các tài nguyên của mìn
h, làm đẩy nhanh quá trình cạn kiệt tài nguyên và tổn hại
đến môi trường sinh thái. Kết quả là những tác động tiêu cực đến sự phát triển bền vững của
ngành du lịch nói chung và kinh tế - xã hội nói riêng. Do đó, du lịch phải làm nền cho sự đa
dạng hoá kinh tế bằng hoạt động trong nhiều lĩnh vực. Sự đầu tư có kế hoạch
đúng đắn về
hạ tầng cơ sở như đường sá, điện, nước, thông tin liên lạc có thể phục vụ cho sự phát triển
không phải là phát triển du lịch nhưng vẫn củng cố và thúc đẩy công nghiệp du lịch.
Du lịch cần lưu tâm đến các chức năng kinh tế có tính chất quan trọng và hợp nhất các
giá trị môi trường trong các quyết định đầu tư.
Ngành du lịch hỗ trợ đư
ợc các hoạt động kinh tế địa phương và có tính đến các giá trị
và chi phí về mặt môi trường thì mới bảo vệ được các nền kinh tế địa phương và tránh được
sự tổn thất về môi trường.

1.2.6. Khuyến khích tham gia của cộng đồng địa phương
Sự tham gia của địa phương là cần thiết cho ngành du lịch. Người dân địa phương, nền
văn hoá, môi trường, lối sống và truyền thống của họ là những nhân tố quan trọng thu hút
khác
h du lịch đến một điểm du lịch. Nó đáp ứng nhu cầu của người dân bản địa, bảo vệ môi
trường thiên nhiên và văn hoá của họ. Ngược lại, sự tham gia thực sự của cộng đồng có thể
làm phong phú thêm loại hình và sản phẩm du lịch.


Hơn thế nữa khi cộng đồng địa phương được tham gia chỉ đạo phát triển du lịch thì sẽ
tạo ra được những điều kiện đặc biệt thuận lợi cho du lịch bởi cộng đồng sở tại là chủ nhân
và là người có trách nhiệm chính với tài nguyên và môi trường khu vực. Điều này sẽ tạo ra
khả năng phát triển lâu dài của du lịch. Sự tham gia của cộng đồng địa phương và
o hoạt
động du lịch được thực hiện thông qua việc khuyến khích họ sử dụng các phương tiện, các
cơ sở vật chất của mình để phục vụ khách du lịch như chuyên chở, thuyết minh hướng dẫn
du khách, cho thuê nhà để ở, nấu ăn cho khách, sản xuất các hàng thủ công mỹ nghệ làm đồ
lưu niệm.



Khuyến khích cộng đồng địa phương cùng làm du lịch không chỉ qua những việc làm
có thu nhập thấp, theo mùa và những việc phục vụ như bồi bàn, dọn phòng mà nên có cả
những công việc ở mức cao hơn và những công việc quản lí có thu nhập cao thường do
người nước ngoài làm thì cũng có thể được đảm đương bởi người địa phương mà kinh
nghiệm và sự hiểu biết đặc biệt về địa phương m
ình của họ sẽ có phần góp phần không nhỏ
cho du lịch.
Việc tham gia của cộng đồng địa phương vào du lịch sẽ không chỉ mang lại lợi ích cho
họ và môi trường mà còn nâng cao chất lượng du lịch.

1.2.7. Thường xuyên trao đổi, tham khảo ý kiến với cộng đồng địa phương và các
đối tượng có liên quan
Tham khảo ý kiến quần chúng là một quá trình nhằm dung hoà giữa phát triển kinh tế
với những mối quan tâm lớn hơn của người d
ân địa phương và tác động tiềm ẩn của sự phát
triển lên môi trường tự nhiên, xã hội và văn hoá. Ý kiến của người dân địa phương là cần
thiết để đánh giá một dự án phát triển, các biện pháp để giảm thiểu tác động tiêu cực và tối
đa hoá sự đóng góp tích cực của quần chúng địa phương.

Du lịch còn đem lại sự tiếp xúc trực tiếp giữa du khác
h với người dân bản địa có các
tập quán văn hoá và tín ngưỡng khác họ. Do đó, du lịch bền vững cần tham khảo ý kiến và
thông báo cho người dân địa phương về những thay đổi tiềm ẩn do sự thay đổi nhanh chóng
của ngành du lịch. Tham khảo ý kiến trên diện rộng với các chính quyền địa phương cũng
như người dân để khuyến khích sự tham gia đóng góp ý kiến, lồng ghép các lợi ích của cá
nhân và quần chúng.

1.2.
8. Chú trọng đào tạo, nâng cao nhận thức về tài nguyên môi trường
Một lực lượng lao động được đào tạo và có kĩ năng thành thạo không những đem lại
lợi ích về kinh tế cho ngành mà còn nâng cao chất lượng của sản phẩm du lịch. Việc đào tạo
đúng mức và nhận thức của người học về tầm quan trọng và tính chất phức tạp của du lịch
sẽ giúp cho việc nâ
ng cao lòng tự hào nghề nghiệp và tăng cường sản phẩm của du lịch đối
với cả du khách, chủ nhà và ngành du lịch.
Việc đào tạo phải bao gồm cả giáo dục đa văn hoá nhằm tăng cường sự hiểu biết và
cảm nhận khác nhau về văn hoá và làm cho nhân viên du lịch và học viên nắm được nhu cầu
của cả khách và chủ nhà. Điều đó cũng giúp loại bỏ những thành kiến và tính bài ngoại.



Lợi ích lâu dài cho mọi người đòi hỏi việc đào tạo và sử dụng nhân viên là người địa
phương. Điều này được áp dụng đặc biệt đối với cán bộ tổ chức và hướng dẫn viên du lịch
có kiến thức sâu rộng và mối quan tâm lớn trong vùng và việc tham gia của họ sẽ nâng cao
chất lượng dịch vụ. Đào tạo nhân viên người địa phương không chỉ nên hạn chế trong những
công việc đơn giản, có vị trí thấp và mức lương thấp.
Việc đào tạo nhân viê
n trong đó có lồng ghép vấn đề du lịch bền vững vào thực tiễn
công việc, cùng với việc tuyển dụng lao động địa phương vào mọi cấp sẽ làm tăng chất

lượng du lịch.

1.2.9. Tăng cường quảng bá, tiếp thị du lịch một cách có trách nhiệm
Tiếp thị và quảng cáo là những vũ khí lợi hại cho việc bá
n thành công bất cứ sản phẩm
nào. Phát triển bền vững dựa trên sự tiếp thị đầy đủ và trung thực các thông tin về sản phẩm,
bao gồm cả tác động của chúng đối với nhân viên và môi trường. Điều đó nhằm nâng cao
chất lượng môi trường tự nhiên, nhân tạo và mức sống có tính đến giá thành của những giá
trị môi trường. Nó xét đến nhu cầu của các thế hệ hiện tại và mai sau.
Chiến lược tiếp thị đối với du lịch
bền vững bao gồm việc xác định, đánh giá và luôn
rà soát lại mặt cung của những tài nguyên thiên nhiên và nhân văn và những nguồn lực
khác, cũng như khía cạnh cung - cầu.
Do sự tăng trưởng của du lịch và sự hoán vị của các điểm tham quan mà tiếp thị du lịch
đặc biệt có tính chất cạnh tranh. Nó mang tính chất độc nhất và người tiêu thụ mu
a sản
phẩm một cách “mù” vì người ta không thể khảo sát điểm tham quan trước khi mua, do đó,
người tiêu thụ đến với sản phẩm và tiêu thụ nó ngay tại nguồn, chứ không phải ngược lại.
Tiếp thị và quảng cáo du lịch một cách đầy đủ và có trách nhiệm giúp nâng cao hiểu biết, sự
cảm kích, lòng tôn trọng văn hoá và môi trường địa phương, và cũng làm tăng sự thoả mãn
toàn diện của du khách.

1.2.
10. Thường xuyên tiến hành công tác nghiên cứu
Để ngành du lịch phát triển và tồn tại một cách bền vững, điều cốt yếu là cần có dự
đoán vấn đề và nắm được trước chi phí giải quyết vấn đề. Tốc độ phát triển nhanh của du
lịch tại những khu vực dễ bị tổn thương về mặt môi trường, kinh tế và xã hội, những môi
trường này thường có ít số liệu do khó khăn t
rong việc thu thập, cho thấy rằng cần cấp bách
nghiên cứu cơ bản hơn nữa để đảm bảo không chỉ cho hiệu quả kinh doanh mà còn cho sự

phát triển bền vững trong mối quan hệ với cơ chế, chính sách, với việc bảo vệ tài nguyên,



môi trường. Việc nghiên cứu toàn diện đòi hỏi sự phối hợp giữa ngành du lịch với các
trường đại học, các viện nghiên cứu, chính phủ, các tổ chức phi chính phủ về tiềm năng, kĩ
năng nghiên cứu và tổ chức cũng như thiện chí về chính trị, sự trung thực và cam kết về
nghiệp vụ.
Tiếp tục nghiên cứu và giám sát ngành du lịch thông qua việc sử dụng và phân tích có
hiệu quả các số liệu là
cần thiết để giúp cho việc giải quyết những vấn đề còn tồn đọng và
mang đến lợi ích cho các điểm tham quan, cho cộng đồng địa phương, cho du lịch và cho du
khách.

1.3. Xu hướng phát triển du lịch bền vững
Sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật vào cuối thế kỉ XX và đầu thế kỉ XXI
làm tăng năng suất lao động, đời sống vật chất của con người ngày càng đư
ợc đáp ứng đầy
đủ, trong khi thời gian lao động giảm bớt. Điều này thúc đẩy nhu cầu về đời sống tinh thần
của con người, trong đó nhu cầu về du lịch được đặt lên hàng đầu. Ngày nay, trên phạm vi
toàn cầu, du lịch đã trở thành nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống của con người và
hoạt động du lịch đang được phát triển một cách mạnh mẽ. Đặc biệt trong hai thập kỷ trở lại
đây, ngà
nh du lịch có tốc độ phát triển chưa từng có, tạo được những giá trị kinh tế và lợi
nhuận cao, trở thành một ngành kinh tế quan trọng ở nhiều nước trên thế giới. Trước tình
hình đó, người ta đã báo động về một xu hướng phát triển du lịch chỉ với mục tiêu đơn
thuần về kinh tế mà không chú ý đến những vấn đề khác, đặc biệt là sự đe doạ

huỷ hoại môi
trường sinh thái và nguy cơ giá trị văn hoá của các dân tộc bị tàn phá. Xuất phát từ yêu cầu

bức xúc này, vấn đề du lịch bền vững được đề cập tới, như một khái niệm mới, thể hiện một
đòi hỏi khách quan và rất gay gắt để đảm bảo cho sự phát triển lâu dài, vững chắc của ngành
kinh tế du lịch trong thời kỳ mới.
Xu hướng phát triển của du lịch bền vững không phải là một hiện tượng có tính nhất
thời, một hoạt động có tính phong trào m
à là một đòi hỏi khách quan của thời đại, có ý
nghĩa quan trọng không chỉ về mặt kinh tế, lợi nhuận của bản thân du lịch, mà sâu xa hơn
còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển bền vững của xã hội, của quốc gia,
của cộng đồng trong quan hệ với việc khai thác tài nguyê
n và môi trường tự nhiên và văn
hoá nhân văn.
Với lợi thế đặc biệt về địa lí kinh tế và chính trị, tài nguyên du lịch phong phú, đa
dạng, nguồn nhân lực dồi dào, cần cù, mến khách, đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng



mở và đa dạng hoá cùng những chính sách đổi mới quản lý, phát triển du lịch,Việt Nam có
nhiều thuận lợi để phát triển du lịch. Đặc biệt, từ ngày 09/11/2006, Việt Nam đã trở thành
thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới, nguồn vốn đầu tư, các nhà đầu tư
và du khách sẽ đổ vào Việt Nam nếu được khơi luồng tốt. Nếu như năm 1990, du lịch Việt
Nam mới đón được 250.000 lượt khác
h quốc tế và trên một triệu lượt khách du lịch nội địa
thì đến năm 2005 đã đón được trên 3,6 triệu lượt khách quốc tế và trên 16,5 triệu lượt khách
du lịch nội địa với thu nhập du lịch đạt gần 2 tỉ USD. Du lịch Việt Nam đang có những
chuyển biến lớn lao với những bước tiến quan trọng cả về lượng và chất. Chúng ta đang
đứng trước một xu thế phát triển du lịch rất mạnh mẽ với sự lựa chọn bắt buộc là phải sử
dụng c
ó trách nhiệm các nguồn lực của mình, đặc biệt là tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân
văn. Chúng là nguồn lực cơ bản, quyết định sự phát triển du lịch. Đối với nước ta, việc bảo
vệ môi trường cho phát triển du lịch, đồng thời bảo vệ văn hoá, m

ôi trường không bị tác
động tiêu cực từ du lịch đang được quan tâm sâu sắc. Xu hướng phát triển du lịch bền vững
không chỉ của các nước có nền du lịch phát triển mạnh mẽ mà là của toàn cầu, của mọi
quốc gia, trong đó có Việt Nam.

1.4. Kinh nghiệm phát triển du lịch bền vững của Thái Lan và Trung Quốc
1.4.1. Kinh nghiệm của Thái Lan
Đối với khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, Thái Lan là một nơi thu hút khách du lịch
nhiều nhất chỉ đứng sau Trung Quốc và Malaixia. Thành công m
ang lại ngoài những lợi thế
về tài nguyên du lịch và môi trường hiện có, còn phải kể đến các chính sách, chiến lược phát
triển bền vững của quốc gia mà Chính phủ Thái Lan đã áp dụng một cách linh hoạt và có
hiệu quả.
Trung tâm du lịch Chiang Mai của Thái Lan có nhiều nét tương đồng với tự nhiên và
văn hoá Dak Lak trong khai thác du lịch. Đó cũng là vùng cao nguyên với nhiều dân tộc ít
người và nghề săn bắn voi. Sự phát triển của ngành du lịch Chiang Mai nói riêng và du lịch
Thái Lan nói chung đã
cung cấp cho chúng ta những kinh nghiệm quý để phát triển du lịch.
Trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội Thái Lan giai đoạn 1997 - 2003, quốc gia này đã
tập trung vào hai hướng ưu tiên chính là bảo vệ, bảo tồn các nguồn tài nguyên và tài sản du
lịch phục vụ phát triển bền vững lâu dài và để thế giới công nhận là một điểm du lịch nổi
tiếng nhưng vẫn giữ được bản sắc riêng của nền văn hoá Thái Lan. Cơ q
uan Du lịch Quốc
gia Thái Lan (TAT) hỗ trợ các cộng đồng bản địa trong việc duy trì sức hấp dẫn của các



điểm tham quan du lịch. TAT đã xây dựng các quy hoạch tổng thể và hỗ trợ về kỹ thuật,
trong một số trường hợp còn hỗ trợ về tài chính nhằm giúp các địa phương phát triển du
lịch. Chính phủ Thái Lan đã có nhiều sáng kiến độc đáo và sáng tạo, triển khai những

chương trình phát triển du lịch bền vững có chất lượng như “chương trình loại trừ tác động
của xã hội”. TAT còn phối hợp với Cục Bảo tồn Rừng và các cơ quan liên quan ở địa
phương triển khai 13 dự án
giáo dục đào tạo và nâng cao nhận thức cho lãnh đạo và nhân
dân địa phương về giá trị của các di sản thiên nhiên và văn hoá cũng như lối sống của họ.
Cơ quan Du lịch quốc gia Thái Lan (TAT) đã khuyến cáo và đưa ra 8 biện pháp bảo
vệ môi trường thiên nhiên của các khu du lịch gồm:
- Hạn chế số lượng khách du lịch trên cơ sở sức chứa của khu du lịch.
- Có biện pháp quản lý sự ra vào các khu bảo tồn.
- Giảm lượng c
hất thải và nâng cao mức độ trong sạch.
- Huy động vốn đóng góp.
- Thành lập trung tâm điều phối
- Quản lý chất lượng dịch vụ
- Phân chia khu vực
- Ký hiệu chỉ dẫn thông tin chi tiết rõ ràng tại các địa điểm.
Chiang Mai được thiết kế để đón du khách với những điệu m
úa của người dân tộc
bản xứ, các làng nghề truyền thống như dệt thổ cẩm, nghề săn bắt voi và có các trại nuôi
voi. Vốn thành lập trại voi được huy động từ nhiều nguồn, chịu sự quản lý của trung tâm
điều phối. Chợ đêm nơi đây cũng được tổ chức rất quy mô, có biển chỉ dẫn rõ ràng, dễ hiểu
cho du khách.
Tại Thái Lan các hoạt động đã đư
ợc tiến hành nhằm giữ gìn vệ sinh môi trường, giữ
gìn kiến trúc truyền thống và áp dụng tiêu chuẩn “lá xanh” để đánh giá việc bảo vệ môi
trường sinh thái đối với các khách sạn.
Đối với hoạt động phát triển du lịch sinh thái văn hoá tại Thái Lan, Chính phủ và các
cơ quan hữu quan đã bắt đầu phát động một phong trào nhằm khôi phục lại giá trị nguyên
bản của văn hoá và đất nước Thái Lan. Trung tâm
của phong trào là phát triển du lịch sinh

thái, gắn du lịch với bảo vệ môi trường, cảnh quan và các giá trị truyền thống của đất nước.
Chính phủ Thái Lan kêu gọi các khu làng mạc ở vùng nông thôn và miền núi hãy giữ
nguyên vẻ đẹp nguyên sơ của mình, bảo vệ cây cối và giảm tiếng ồn, gìn giữ phong cách
kiến trúc Thái Lan.



Trong mối quan hệ của cộng đồng với sự nghiệp phát triển du lịch sinh thái. Thái
Lan đã thông qua hiến pháp mới nhằm công nhận sự tham gia của người dân địa phương
vào việc bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và trực tiếp khuyến khích người dân địa phương tìm
các phương thức để quản lý các nguồn lực của mình vì lợi ích phát triển của cộng đồng, điều
này tạo cơ sở cho người dân địa phương tha
m gia vào sự phát triển du lịch để phát triển
cộng đồng và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên. Tuy nhiên, sự suy thoái về lối sống của một bộ
phận người dân, xã hội xáo trộn cũng như sự tràn lan các bệnh truyền nhiễm và HIV/AIDS
do tác động từ du lịch cũng là bài học kinh nghiệm cho du lịch của các nước khác.

1.4.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Năm 2005, Trung Quốc có tổng thu nhập từ 109 triệu du khách nước ngoài là 25,7 tỉ
USD, tương đư
ơng với 5% GDP của nước này. Những thành công mà Trung Quốc đạt được
trong du lịch là nhờ định hướng mang tính chiến lược trong vòng 20 năm qua. Đó là sự nâng
cao chất lượng dịch vụ theo tiêu chuẩn quốc tế, thủ tục hành chính gọn nhẹ, giao thông
thuận lợi, giá cả hợp lý, sản phẩm du lịch theo chuyên đề rất đa dạng. Đặc biệt trong thập kỷ
gần đây Chính phủ Trung Quốc đã chú trọng đến việc xây dựng và thực hiện chiến lược
phát triển du lịch bền vững, thông qua các hoạt động cụ thể như xây dựng các quy hoạch
tổng thể về du lịch; quản lý phát t
riển du lịch bền vững bao gồm công tác chỉ đạo, điều phối
và kiểm soát, nhằm gắn kết các nguồn lực dành cho xây dựng và thực hiện các chính sách
du lịch quốc gia. Thúc đẩy và tạo điều kiện t

hu hút nhiều sự tham gia của khu vực tư nhân
và sự hợp tác giữa khu vực nhà nước với các thành phần kinh tế khác.
Du lịch xanh là chủ đề chính của du lịch Trung Quốc, được ra đời từ năm 1999, từ
đó, Chính phủ đã không ngừng quan tâm bảo vệ môi trường. Họ đã tổ chức các hội thảo về
phát triển du lịch bền vững, về quản lý và phát triển du lịc
h sinh thái của từng địa phương;
xây dựng và truyền bá những thuận lợi của tiện nghi du lịch. Kết quả của những hội thảo ấy
là hướng Trung Quốc đi vào việc phát triển du lịch sinh thái và xem đây là một trong những
cách tác động trực tiếp và tích cực đến việc phát triển bền vững.
Vào thời điểm năm 2000, Trung Quốc đã bước vào kế hoạch 5 năm lần thứ 10.
Chính phủ Trung Quốc đã tiếp tục xây dựng chiến lược phát triển du lịch bền vững, sử dụng
công nghệ tạo ra những sản phẩm sạch và xa
nh, thu hồi chất phế thải, đồng thời Chính phủ
đã xây dựng và quản lý sâu rộng hệ thống xanh của đất nước. Họ cố gắng hướng du lịch trở
thành một bộ phận không thể thiếu và có mối quan hệ bền chặt với môi trường. Những định



hướng và hoạch định kế hoạch thực hiện của Trung Quốc nêu trên là những kinh nghiệm
quý báu cho chúng ta tham khảo.
Chẳng hạn núi Nga My của Trung Quốc đã được đầu tư xây dựng tuyến cáp treo rất
quy mô để đưa du khách chiêm ngưỡng cao nguyên Thanh Tạng từ trên cao. Hoặc du khách
cũng có thể thưởng ngoạn vẻ đẹp của núi rừng khi đi ô tô trên những con đường đã được rải
nhựa rất đẹp uốn lượn quanh núi. Động thực vật nơi đây
được bảo tồn nghiêm ngặt khiến
cho chủng loài và số lượng rất phong phú. Ngay trên đỉnh núi tưởng chừng heo hút là nhà
hàng, khách sạn và khu vui chơi giải trí rất hấp dẫn. Các cửa hàng bán hàng lưu niệm được
làm bởi người dân tộc bản địa bày bán rất nhiều mặt hàng bắt mắt, đặc sắc. Chùa trên núi
cũng là điểm thu hút khách tham quan. Các tỉnh miền núi nước ta có thể tham khảo mô hình
này, đối với Dak Lak thì đó là núi

Chư Yang Sin, cao hơn 2.400m.
Phát huy lợi thế của nước đi sau, học tập được các kinh nghiệm hay để áp dụng và biết
được những vấp váp của các nước đi trước mà phòng tránh, đồng thời cũng nhận rõ tầm
quan trọng của việc phát triển du lịch bền vững, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc bảo
vệ môi trường, thông qua các dự án quy hoạch, các nghiên cứu khoa học về môi trường,

đánh giá tác động của hoạt động du lịch đến tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn, đến
môi trường tự nhiên và xã hội, đến các hoạt động kinh tế, đề ra các quy chế quản lý hoạt
động du lịch, chú trọng bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực du lịch cùng với tăng cường
giáo dục du lịch toàn dân, góp phần tích cực vào việc phát triển du lịch bền vững và sự
nghiệp bảo vệ môi trường chung của đất nước.

Kết luận c
hương 1
Đời sống của con người ngày càng được nâng cao thì nhu cầu về du lịch cũng không
ngừng tăng lên. Trước những tác động tiêu cực mà du lịch gây ra cho môi trường, kinh tế và
văn hoá, nhân loại đang đặt ra các nguyên tắc nhằm đảm bảo cho du lịch phát triển bền
vững. Xu hướng phát triển của du lịch bền vững đang được áp dụng ở nhiều nơi trên thế
giới, đó không phải là một hiện tượng có tính nhất thời mà là một đòi hỏi khách quan của
thời đại, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển bền vững của xã hội, của quốc
gia, của cộng đồng tr
ong quan hệ với việc khai thác tài nguyên và môi trường tự nhiên và
văn hoá nhân văn. Du lịch Việt Nam đã có chiến lược phát triển du lịch bền vững, trong quá
trình phát triển của m
ình, kinh nghiệm về du lịch bền vững của các nước trên thế giới đã



được Việt Nam tiếp thu chọn lọc nhằm tìm ra hướng đi phù hợp nhất với hoàn cảnh đất
nước và xu thế

phát triển du lịch bền vững của thế giới.




CHƯƠNG 2. TIỀM NĂNG VÀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN
DU LỊCH TỈNH DAK LAK THEO HƯỚNG BỀN VỮNG
2.1. Tiềm năng du lịch của tỉnh Dak Lak
Dak Lak nằm giữa cao nguyên Nam Trung Bộ, có tọa độ địa lý khoảng từ 11
O
30’B đến
13
O
25’B và 107
O
30’Đ đến 109
O
30’Đ.
Phía Bắc giáp tỉnh Gia Lai, phía Nam giáp tỉnh Lâm Đồng và Dak Nông, phía Đông
giáp tỉnh Khánh Hòa và Phú Yên, phía Tây giáp vương quốc Campuchia.
Dak Lak có diện tích 13.125,37km
2
, dân số 1.714.855 người (2005), với 44 dân tộc
sinh sống, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm gần 30%.
Luận văn phân tích các yếu tố được xem là thế mạnh, là lợi thế so sánh, tạo điều kiện
cho du lịch Dak Lak phát triển theo hướng bền vững.

2.1.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên
2.1.1.1. Địa hình
Dak Lak nằm ở đoạn cuối của dãy Trường Sơn trên một vùng cao nguyên có độ cao

trung bình 500m so với mặt biển. Địa hì
nh còn trẻ, được hình thành từ kỉ Miôxen hoặc
muộn hơn một ít, tức cách đây trên dưới 500 triệu năm. Hình dáng như một cái chảo khổng
lồ úp sấp, cao ở giữa và thoải về các phía. Phía Đông là núi cao Chư Diju (1.929m), Chư
Hmu (2.050m), Chư Yang Sin (2.442m), thoải dần về phía Tây. Phía Nam là miền đồng
trũng có nhiều đầm hồ. Các dòng sông đều chảy ra biển, bắt nguồn từ Tây sang Đông,
nhưng dòng Sêrêpôk không theo quy luật đó mà chảy theo địa hì
nh Tây Nguyên. Dòng chảy
ấy qua những gềnh đá, uốn mình quanh núi đồi rồi đổ xuống vực sâu tạo thành những ngọn
thác ở cao nguyên.
Dak Lak có nhiều thác nước đẹp hùng vĩ, còn giữ được vẻ hoang sơ, có khả năng khai
thác phục vụ du lịch rất lớn. Đây là những tài nguyên du lịch rất có giá trị và cũng là cơ sở
để du lịch tỉnh Dak Lak phát triển theo hướng bền vững.
Th
ác Krông Kmar nằm ở trung tâm thị trấn huyện Krông B
ông, cách TP.BMT 60km
đi theo tỉnh lộ 12 hoặc đi theo quốc lộ 27. Từ đỉnh Chư Yang Sin cao hơn hai ngàn mét,
dòng nước đổ xuống thành những bậc thác nối tiếp nhau, âm thanh rền vang khắp khu rừng
nguyên sinh, bọt tung trắng xóa. Cạnh những cột nước có rất nhiều tảng đá to, có mặt phẳng
cho du khách ngồi chiêm ngưỡng thác hoặc tổ chức liên hoan nhẹ. Ngược lên phía thượng
nguồn, nơi xuất phát của dòng sông Krông Kmar, du khách sẽ không khỏi ngỡ ngàng trước

×