Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Tổ chức lãnh thổ trồng và chế biến điều ở tỉnh Bình Thuận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 92 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH






Phạm Hoàng Hải Ngọc




TỔ CHỨC LÃNH THỔ TRỒNG VÀ
CHẾ BIẾN ĐIỀU Ở TỈNH BÌNH THUẬN




Chuyên ngành: Địa lý học
Mã số:
60 31 95



LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC






NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. PHẠM XUÂN HẬU










Thành phố Hồ Chí Minh - 2010
THƯ
VIỆN





LỜI CẢM ƠN

Sau một thời gian dài học tập, nghiên cứu, đề tài luận văn “Tổ chức lãnh thổ trồng
và chế biến điều ở Bình Thuận” của em được hoàn thành. Em xin được bày tỏ lòng kính
trọng và tri ân sâu sắc đến:
 Tất cả các Thầy Cô phụ trách khóa học, các Thầy Cô trong Khoa Địa lý Trường
Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn,
giúp đỡ em trong suốt khóa học.
 Thầy PGS.TS. Phạm Xuân Hậu đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt
quá trình làm và hoàn thành Luận văn Cao học.

 Ban Giám hiệu nhà trường, Phòng Khoa học Công nghệ và Sau Đại học đã tạo
điều kiện thuận lợi cho học viên trong việc học tập, nghiên cứu và hoàn thành
Luận văn tốt nghiệp.
Cùng lời cảm ơn chân thành đến các Thầy Cô, đồng nghiệp, bạn bè và gia đình đã
có nhiều sự giúp đỡ, đóng góp ý kiến và tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi có thể hoàn
thành tốt khóa học và Đề tài nghiên cứu.


Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 8/2010
Tác giả Luận văn



Phạm Hoàng Hải Ngọc
MỞ ĐẦU

1.Lý do chọn đề tài
Điều là loại cây trồng có nhiều công dụng, có giá trị kinh tế cao, không chỉ là nguồn
thực phẩm cung cấp cho con người mà còn là nguồn nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế
biến.
Cây điều là cây nhiệt đới, nguồn gốc ở Brazil. Người Bồ Đào Nha là những người đầu
tiên đưa cây điều từ Brazil tới châu Á và châu Phi. Ngày nay trên thế giới cây điều đã được
trồng trên một vùng rộng lớn trong phạm vi từ vĩ tuyến 30
0
Nam đến 30
0
Bắc và trở thành
một cây có giá trị kinh tế lớn. Những nước trồng điều nhiều là Ấn Độ, Brazil, Mozambique,
Tanzania, Kenya.
Cây điều được du nhập vào nước ta từ thế kỷ XVIII, ban đầu được trồng phân tán

trong các vườn hộ gia đình và đồn điền. Sau năm 1975, cây điều được chọn là cây trồng phủ
xanh đất trống đồi trọc kết hợp lấy hạt, trái. Từ năm 1980 trở đi, cây điều được quan tâm mở
rộng diện tích trồng theo hướng thu hoạch hạt phục vụ cho chế biến xuất khẩu. Ngày nay, ở
Việt Nam các tỉnh có diện tích trồng điều lớn là Bình Phước, Đồng Nai, Tây Ninh, Bình
Thuận…
Bình Thuận là tỉnh nằm trong vùng duyên hải Nam Trung bộ, là vùng được thiên
nhiên ưu đãi cho cây điều phát triển với quy mô lớn. Nhiều năm nay, ngành trồng và chế
biến điều đã đóng góp đáng kể trong thu nhập kinh tế quốc dân của các địa phương và tỉnh.
Mặc dù hiện nay nhu cầu sản phẩm và thị trường tiêu thụ điều trong và ngoài nước là rất lớn
nhưng việc sản xuất và chế biến điều ở Việt Nam nói chung và tỉnh Bình Thuận nói riêng
vẫn chưa đạt được kết quả tương xứng với tiềm năng của nó, đặc biệt là sự kết hợp giữa
trồng và chế biến điều còn rời rạc, chưa có sự liên kết chặt chẽ với nhau, chưa hình thành
một cơ chế thống nhất, tính chất liên kết chưa được đảm bảo giữa nhà máy chế biến và vùng
nguyên liệu, hiệu quả kinh tế chưa cao.
Vì vậy, cần phải xây dựng được mô hình tổ chức sản xuất hợp lý có sự kết hợp giữa
vùng nguyên liệu với các cơ sở chế biến nhằm phát huy lợi thế của địa phương. Là người con
của địa phương, tôi chọn đề tài: “Tổ chức lãnh thổ trồng và chế biến điều ở tỉnh Bình Thuận”
làm đề tài nghiên cứu nhằm góp phần nhỏ bé của mình giải quyết những vấn đề cụ thể, đưa
ngành phát triển đạt hiệu quả cao hơn.
2.Mục đích
-Tổng hợp cơ sở lý luận và thực tiễn về tổ chức lãnh thổ các ngành sản xuất nông
nghiệp (trồng và chế biến sản phẩm nông nghiệp).
-Phân tích hiện trạng phát triển ngành trồng và chế biến sản phẩm từ cây điều, mối
quan hệ và hiệu quả của ngành tại tỉnh Bình Thuận .
-Đề xuất định hướng và giải pháp tổ chức lãnh thổ giữa trồng và chế biến điều nhằm
đem lại hiệu quả cao hơn tại tỉnh Bình Thuận.
3.Nhiệm vụ
-Sưu tầm tư liệu về tổ chức lãnh thổ các ngành kinh tế, tập trung chủ yếu vào việc
trồng và chế biến sản phẩm từ cây điều ở Bình Thuận.
-Phân tích cụ thể về tình hình trồng và chế biến sản phẩm từ cây điều, mối quan hệ của

chúng và hiệu quả đạt được từ cây điều ở Bình Thuận.
-Xây dựng mô hình tổ chức lãnh thổ hợp lý và đề xuất giải pháp thực hiện có hiệu quả
ngành sản xuất điều ở tỉnh Bình Thuận.
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
-Đối tượng nghiên cứu: tình hình trồng và chế biến sản phẩm từ cây điều và mối quan
hệ giữa trồng và chế biến điều ở Bình Thuận.
-Phạm vi nghiên cứu: địa bàn nghiên cứu chủ yếu là các khu vực trồng điều và các cơ
sở chế biến điều ở Bình Thuận.
5. Những công trình nghiên cứu có liên quan
-Tổ chức lãnh thổ trồng và chế biến nông sản cũng như kết hợp nông – công nghiệp đã
được nghiên cứu từ lâu và đi vào thực tiễn sản xuất của nhiều nước trên thế giới. Ở Việt
Nam, mô hình kết hợp nông – công nghiệp đã được nghiên cứu cả về mặt lí luận lẫn thực
tiễn.
-Với sự chú trọng quan tâm đầu tư phát triển của Đảng và Nhà nước đã có nhiều đề
tài, dự án, hội thảo nghiên cứu phát triển cây điều:
+ Đề tài “Xây dựng mô hình thâm canh cây điều ghép trên vùng đất cát đỏ Bình
Thuận” – KS.Tô Quang Bình – Sở Nông nghiệp Phát triển Nông thôn Bình Thuận
+ Dự án cây điều VIE 85/005 – Bình Thuận (1986 – 1992)
+ Báo cáo “Kĩ thuật trồng và thâm canh cây điều” – Sở Nông nghiệp Phát triển Nông
thôn Bình Thuận
Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có nghiên cứu nào cụ thể liên quan đến tổ chức lãnh thổ
cũng như việc quy hoạch, tổ chức có hiệu quả giữa vùng nguyên liệu với các cơ sở chế biến
nhằm phát huy lợi thế của ngành sản xuất cây điều. Đây cũng là nội dung cơ bản cho đề tài
nghiên cứu của luận văn dưới góc độ về Địa lý Kinh tế- Xã hội.
6.Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
6.1.Phương pháp luận
6.1.1.Quan điểm hệ thống
Bình Thuận là tỉnh cực nam của vùng duyên hải Nam Trung bộ, có mối quan hệ và
giao lưu kinh tế thuận lợi với các tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, các tỉnh nam
Tây Nguyên và duyên hải miền Trung. Sức hút của các trung tâm phát triển lớn như Thành

phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu và Nha Trang tạo điều kiện thuận lợi cho Bình Thuận tiếp thu
nhanh khoa học kỹ thuật, mở rộng liên kết và phân bố lại lực lượng sản xuất, hòa nhập vào
xu thế phát triển chung của cả nước.
Sản xuất và chế biến điều và các sản phẩm từ điều là một quá trình thống nhất giữa
các khâu trong một chu trình sản xuất – chế biến – tiêu thụ sản phẩm. Mối quan hệ giữa
trồng và chế biến điều phải được xem xét trong hệ thống sản xuất nông nghiệp và công
nghiệp của toàn tỉnh.
6.1.2.Quan điểm tổng hợp lãnh thổ
Đây là quan điểm cơ bản của Địa lý học. Tức là phải nghiên cứu các đối tượng trên
một lãnh thổ để thấy sự khác biệt của lãnh thổ đó trên cơ sở đánh giá tổng hợp các nhân tố
ảnh hưởng đến những nét khác biệt của vùng.
Đề tài trồng và chế biến điều cần được đặt trong bối cảnh kinh tế - xã hội của tỉnh
Bình Thuận có những nét đặc thù về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên,
kinh tế - xã hội, lịch sử phát triển, v.v…để hình thành các khu vực trồng trọt năng suất cao,
các khu vực chế biến tập trung với nhiều sản phẩm chất lượng cao, có giá trị.
6.1.3.Quan điểm lịch sử viễn cảnh
Khi xem xét các quá trình phát triển và liên kết của các ngành phải chú ý đến quá khứ,
hiện tại và những dự báo cho tương lai. Mỗi một giai đoạn mang một số đặc điểm riêng. Vận
dụng quan điểm lịch sử trong việc nghiên cứu tổ chức lãnh thổ trồng và chế biến điều ở tỉnh
Bình Thuận nhằm đánh giá thực trạng của vấn đề trong từng giai đoạn nhất định. Quá trình
này phải được xem xét trong chiến lược phát triển ngành điều của tỉnh nói riêng và của cả
nước nói chung.
6.1.4.Quan điểm sinh thái và phát triển bền vững
Việc trồng và chế biến điều tác động rất lớn đến môi trường. Do vậy, quán triệt quan
điểm sinh thái trong nghiên cứu nhằm giảm thiểu những tổn hại đến môi trường sinh thái như
suy thoái đất, ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên, v.v…Việc thiết lập hệ thống liên kết
nông – công nghiệp trồng và chế biến điều cũng như việc đưa ra các giải pháp cho vấn đề
này cũng phải dựa trên quan điểm sinh thái và phát triển bền vững nhằm đảm bảo không làm
cạn kiệt tài nguyên và ô nhiễm môi trường của tỉnh Bình Thuận.
6.2.Phương pháp nghiên cứu

6.2.1.Phương pháp thu thập, thống kê và phân tích tổng hợp
Tiến hành thu thập tài liệu liên quan đến nội dung đề tài từ các nguồn: báo chí, thư
viện, trên mạng Internet, các dự án của các ban ngành, hội thảo….Từ đó, chọn lọc nội dung,
phân tích, tổng hợp và xử lý số liệu đảm bảo giá trị phục vụ cho nội dung nghiên cứu đề tài.
Số liệu được tổng hợp và xử lý trên cơ sở dữ liệu của Cục Thống kê tỉnh Bình Thuận,
Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Bình Thuận….Đồng thời, tôi cũng tham khảo
các số liệu được công bố trên sách, báo của các cơ quan khác như Viện Khoa học Kỹ thuật
Nông nghiệp miền Nam.
6.2.2.Phương pháp điều tra thực địa
Để có các số liệu cơ bản và có cái nhìn thực tế để nhận xét đúng các yếu tố ảnh hưởng
cũng như thực trạng trồng và chế biến điều ở tỉnh Bình Thuận nên tôi đã đi thực tế đến các
cơ quan ban ngành có liên quan, đến một số hộ gia đình nông dân gắn bó lâu dài với nghề
trồng điều. Đồng thời tôi cũng tham khảo ý kiến về những khó khăn, kiến nghị đến việc
trồng và chế biến điều từ một số cán bộ, chuyên gia và hộ nông dân.
6.2.3.Phương pháp bản đồ, biểu đồ
Đây là phương pháp đặc trưng trong nghiên cứu các vấn đề về Địa lý. Xây dựng một
số bản đồ liên quan tới nội dung đề tài và xây dựng một số sơ đồ, biểu đồ thể hiện đối tượng
nghiên cứu một cách trực quan cho việc phân tích đánh giá và so sánh số liệu giữa các năm.
6.2.4.Phương pháp dự báo
Dự báo xu hướng phát triển của từng ngành, từng vùng là công việc cần thiết không
thể thiếu được của nghiên cứu địa lý. Trong nội dung nghiên cứu của mình, tôi cố gắng đưa
ra những dự báo có cơ sở khoa học về việc phát triển ngành điều trên các phương diện: diện
tích trồng điều, sản lượng điều, khả năng đáp ứng nhu cầu cho người tiêu dùng, tình hình
xuất nhập khẩu điều và dự báo về khả năng phát triển tổ chức lãnh thổ trồng và chế biến điều
ở tỉnh Bình Thuận trong chiến lược phát triển kinh tế của tỉnh nói riêng và cả nước nói
chung.
6.2.5.Phương pháp hệ thống thông tin địa lý (GIS)
Hệ thống phần mềm thông tin địa lý (GIS) được sử dụng phổ biến để lưu trữ, phân
tích, xử lý các thông tin không gian lãnh thổ. Hệ GIS cho phép chồng xếp các thông tin địa
lý để thấy được nét đặc trưng riêng cho đối tượng địa lý. Đề tài chủ yếu sử dụng phần mềm

MapInfo để tính toán, thiết kế, biên tập bản đồ, vẽ biểu đồ, đồ thị minh họa cho nội dung đề
tài.
7.Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục và mục lục của đề
tài thì nội dung chính của đề tài gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về tổ chức lãnh thổ sản xuất nông – công nghiệp
Chương 2: Tiềm năng và thực trạng tổ chức lãnh thổ ngành sản xuất điều ở Bình
Thuận
Chương 3: Định hướng và giải pháp tổ chức lãnh thổ sản xuất điều ở Bình Thuận



CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC LÃNH THỔ
SẢN XUẤT NÔNG – CÔNG NGHIỆP
1.1.Một số khái niệm tổ chức lãnh thổ
1.1.1.Tổ chức lãnh thổ kinh tế
Theo quan điểm Liên Xô (cũ): Tổ chức lãnh thổ kinh tế là sự sắp xếp, phân bố và phối
hợp các đối tượng có mối liên hệ qua lại giữa các hệ thống sản xuất, hệ thống tự nhiên và hệ
thống dân cư nhằm sử dụng hợp lý các nguồn lực để đạt hiệu quả cao về kinh tế, xã hội và
môi trường.
Theo quan điểm Phương Tây: sử dụng thuật ngữ Tổ chức không gian kinh tế- xã hội.
Tổ chức không gian là sự lựa chọn về nghệ thuật sử dụng lãnh thổ một cách đúng đắn, có
hiệu quả.
Tổ chức: là việc sắp xếp các đối tượng (xí nghiệp, công trình, các ngành, các lĩnh vực,
các điểm dân cư, kết cấu hạ tầng)
Lãnh thổ: là địa bàn để tổ chức, sắp xếp các đối tượng, có ranh giới xác định.
Việc tổ chức được tiến hành trên một lãnh thổ xác định theo yêu cầu phát triển kinh tế-
xã hội.









1.1.2.Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp là một trong những hình thức tổ chức của nền sản xuất
xã hội theo lãnh thổ.
Qua các công trình của K.I.Ivanov, của VG.Kriutokov (1978) và một số tác giả khác
có thể quan niệm về vấn đề này như sau: “Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp được hiểu là một hệ
thống liên kết không gian của các ngành, các xí nghiệp nông nghiệp và các lãnh thổ dựa trên
Tổ chức nền sản xuất xã hội
TCLT các ngành và vùng
TCLT các vùng TCLT ngành Thành thị Nông thôn
Tổ chức môi trường sống
cơ sở các quy trình kỹ thuật mới nhất, chuyên môn hóa, tập trung hóa, liên hợp hóa và hợp
tác hóa sản xuất cho phép sử dụng có hiệu quả nhất sự khác nhau theo lãnh thổ về các điều
kiện tự nhiên, kinh tế, nguồn lao động và đảm bảo năng suất lao động xã hội cao nhất”.
Thông qua định nghĩa này, có thể thấy rõ sự nổi bật của một số điểm dưới đây:
-Phân công lao động theo lãnh thổ cùng với việc kết hợp giữa tự nhiên, kinh tế, nguồn
lao động là cơ sở để hình thành các mối liên hệ qua lại theo lãnh thổ.
-Khía cạnh ngành và khía cạnh lãnh thổ quyện chặt với nhau trong tổ chức lãnh thổ
nông nghiệp.
-Các đặc điểm không gian của sản xuất phần nhiều bắt nguồn từ tính chất của việc
khai thác và sử dụng các điều kiện sản xuất hiện có.
-Hiệu quả kinh tế là tiêu chuẩn hàng đầu trong việc tổ chức lãnh thổ nông nghiệp.
Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp không phải là bất biến. Nói cách khác, hình thái kinh tế-
xã hội nào thì có kiểu tổ chức lãnh thổ nông nghiệp tương ứng như thế. Hiện nay, tổ chức

lãnh thổ nông nghiệp gắn bó mật thiết với cuộc cách mạng khoa học- kỹ thuật, một cuộc
cách mạng đang phát triển mạnh mẽ và trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp liên quan chặt chẽ với hệ thống lãnh thổ nông nghiệp.
Đây là các phân hệ sản xuất và chế biến nông phẩm có mối quan hệ khăng khít với nhau. Ở
nhiều nước kinh tế phát triển đã và đang hình thành các hệ thống lãnh thổ nông nghiệp, trong
đó phổ biến rộng rãi nhất là các hệ thống lãnh thổ sản xuất và chế biến các sản phẩm chăn
nuôi. Quá trình xuất hiện các hệ thống lãnh thổ nông nghiệp mới và hoàn thiện các hệ thống
lãnh thổ nông nghiệp hiện có trong điều kiện hiện nay không chỉ tiêu biểu cho ngành chăn
nuôi. Quá trình này ngày càng xâm nhập sâu vào ngành trồng trọt, nhất là các phân ngành
sản xuất sản phẩm phải qua chế biến công nghiệp. Việc hình thành các hệ thống lãnh thổ
trong ngành trồng trọt cũng dựa trên cơ sở chuyên môn hóa theo giai đoạn, tập trung hóa,
hợp tác hóa và liên hợp hóa trong sản xuất. Sự thống nhất về tổ chức của các giai đoạn trồng
và chế biến nguyên liệu từ nông nghiệp vào một xí nghiệp có ảnh hưởng rõ rệt đến việc hình
thành các hệ thống lãnh thổ. Từ đó, hoạt động nông nghiệp đạt hiệu quả kinh tế cao hơn.
Việc nghiên cứu tổ chức lãnh thổ sản xuất nông nghiệp có ý nghĩa to lớn không chỉ về
mặt lý luận, mà còn cả về mặt thực tiễn. Việc xem xét tổ chức lãnh thổ nông nghiệp nói
chung và các hình thức tổ chức lãnh thổ nói riêng trước hết tạo ra những tiền đề cần thiết
nhằm sử dụng hợp lý các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của cả nước cũng như của từng
địa phương.
Việc nghiên cứu tổ chức lãnh thổ nông nghiệp tạo nên những điều kiện nhằm đẩy
mạnh và làm sâu sắc chuyên môn hóa sản xuất nông nghiệp.
Chuyên môn hóa sản xuất nông nghiệp là sự tập trung các điều kiện sản xuất của
nông nghiệp để sản xuất ra một hoặc một vài loại sản phẩm hàng hóa chủ yếu thích nghi nhất
với các điều kiện tự nhiên, kinh tế của một địa bàn lãnh thổ nông nghiệp nhất định.
Chuyên môn hóa sản xuất nông nghiệp là biểu hiện sự phân công lao động xã hội
trong nông nghiệp với những hình thức cụ thể:
-Chuyên môn hóa sản xuất theo ngành: là hình thức biểu hiện sự phân công lao động
theo ngành, là quá trình hình thành và phát triển các ngành sản xuất mới theo hướng ngày
càng chuyên môn hóa cao gắn với việc sản xuất những sản phẩm tiêu dùng cuối cùng.
-Chuyên môn hóa sản xuất theo vùng: là hình thức biểu hiện sự phân công lao động

theo vùng lãnh thổ, là sự tập trung các điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội tương đối đồng
nhất của vùng để tiến hành sản xuất ra những nông sản hàng hóa có lợi thế so sánh nhất so
với những vùng khác.
-Chuyên môn hóa theo các doanh nghiệp nông nghiệp: là hình thức biểu hiện phân
công lao động giữa các doanh nghiệp, đơn vị kinh doanh nông nghiệp, là sự tập hợp các năng
lực sản xuất của doanh nghiệp để sản xuất ra một vài nông sản hàng hóa có hiệu quả kinh tế
cao nhất.
Sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên nhiều hơn các ngành sản xuất
khác. Hoạt động nông nghiệp bao trùm phạm vi lãnh thổ rộng lớn với các điều kiện tự nhiên
rất khác nhau. Trong chừng mực nhất định, các điều kiện tự nhiên nào đó có thể thuận lợi
hoặc không thuận lợi cho sự phát triển từng loại vật nuôi, cây trồng. Do vậy, khi vạch ra các
hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp, cần nghiên cứu kỹ các điều kiện tự nhiên, tiến hành
đánh giá chung về phương diện sinh thái. Điều đó nghĩa là cây trồng, vật nuôi phải được
phân bố ở những nơi có điều kiện thích hợp nhất. Vì thế, việc phân bố cây trồng, vật nuôi
cần được tiến hành trên cơ sở vạch ra các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp.
Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp có nhiều hình thức từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp. Trong phạm vi đề tài, tôi xin đưa ra một vài hình thức tổ chức lãnh thổ nông
nghiệp quan trọng.
Xí nghiệp nông nghiệp: Xí nghiệp nông nghiệp là một trong những hình thức của tổ
chức lãnh thổ nông nghiệp trong đó có sự thống nhất giữa lực lượng lao động với công cụ và
đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội. Mỗi xí nghiệp đều có tính độc
lập về pháp lý và có thể có quan hệ với các xí nghiệp khác.
Ở các nước Xã hội chủ nghĩa, các nông trang, nông trường quốc doanh, tập thể, các
hợp tác xã nông nghiệp được coi là xí nghiệp nông nghiệp.
Ở các nước phương Tây có nhiều hình thức liên quan đến xí nghiệp nông nghiệp. Phổ
biến là các nông trại và các đồn điền. Hình thức nông trại thường thấy ở Tây Âu và Bắc Mỹ
với quy mô khác nhau: từ vài ha đến hàng trăm ha. Trong khi đó, hình thức đồn điền tương
đối phổ biến ở các nước thuộc địa cũ thuộc vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Sản phẩm của
các đồn điền thường là các loại cây công nghiệp lâu năm (cao su, cà phê, ca cao, chè), cây
công nghiệp hàng năm, cây thực phẩm và chủ yếu để xuất khẩu.

Thể tổng hợp nông nghiệp: Thể tổng hợp nông nghiệp được xem như một hình thức
tổ chức lãnh thổ nông nghiệp bắt nguồn từ học thuyết của nhà địa lý Xô Viết
N.N.Kôlôxôvaki. Trong các công trình của mình, ông đã đưa ra học thuyết chu trình sản xuất
động lực với 8 chu trình, sau đó I.U.G.Xauskin và nhiều nhà khoa học khác đã phát triển tư
tưởng này và chia thành 19 chu trình, trong đó tập hợp chu trình nông công nghiệp được
tách ra thành các chu trình: trồng trọt, cải tạo đất, chăn nuôi trâu bò, chăn nuôi công nghiệp,
chu trình đồn điền và chu trình sinh nhiệt.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, những thành tựu khoa học kỹ thuật đã tạo nên tiền đề
quan trọng làm thay đổi tận gốc bản thân quá trình sản xuất các sản phẩm nông nghiệp.
Phương pháp công nghiệp ngày càng được áp dụng rộng rãi trong nông nghiệp. Nhiều phân
ngành mới đã và đang xuất hiện với phương pháp tổ chức quy trình sản xuất theo lối công
nghiệp, có mối liên hệ gián tiếp với đất đai. Ngoài ra, các mối liên hệ sản xuất kỹ thuật trước
đây chỉ hạn chế trong phạm vi một xí nghiệp thì ngày nay đã bị phá vỡ. Tất cả những điều đó
cùng với sự phát triển của giao thông vận tải đã mở ra triển vọng to lớn cho việc hình thành
các thể tổng hợp nông nghiệp.
Theo quan niệm của I.F.Mukomel thì thể tổng hợp nông nghiệp là sự kết hợp theo lãnh
thổ các xí nghiệp giống nhau về tính chất của cùng một kiểu. Tất nhiên, quan niệm này
không thể hiện được các mối liên hệ kỹ thuật sản xuất giữa các xí nghiệp. Trong chừng mực
nhất định, nó có thể phản ánh được tổ chức sản xuất của nền nông nghiệp trong quá khứ, một
phần ở hiện tại nhưng rõ ràng không thể chấp nhận được trong tương lai.
K.I.Ivanov đưa ra một quan niệm đầy đủ hơn. Theo ông, thể tổng hợp nông nghiệp
như là sự phối hợp của xí nghiệp nông nghiệp có mối liên hệ qua lại và liên kết với nhau về
mặt lãnh thổ cũng như của các xí nghiệp nông nghiệp và các xí nghiệp công nghiệp cho phép
trên cơ sở các quy trình kỹ thuật mới nhất, sử dụng đầy đủ nhất điều kiện tự nhiên và các
điều kiện kinh tế hình thành trong lịch sử để đạt năng suất lao động xã hội cao nhất.
Mặc dù quan niệm về các thể tổng hợp nông nghiệp rất đa dạng nhưng có thể đề cập
những quan niệm quan trọng dưới đây:
Các yếu tố quyết định diện mạo của thể tổng hợp nông nghiệp gồm có vị trí địa lý,
điều kiện tự nhiên- kinh tế, chuyên môn hóa theo giai đoạn của xí nghiệp nông nghiệp, các
mối liên hệ thuận chiều và ngược chiều của các xí nghiệp nông nghiệp chế biến nông sản.

Các xí nghiệp nông nghiệp có xu hướng phân bố liền nhau về lãnh thổ mang lại hiệu
quả kinh tế cao.
Cơ sở cấu trúc của các thể tổng hợp nông nghiệp, là các xí nghiệp nông nghiệp và các
xí nghiệp công nghiệp chế biến.
Cơ sở để phân loại dựa vào những sản phẩm hàng hóa mà việc sản xuất những sản
phẩm này do các điều kiện tự nhiên, kinh tế quyết định và liên quan tới việc lựa chọn các
quy trình hợp lý để đảm bảo hiệu quả kinh tế cao. Toàn bộ hệ thống các xí nghiệp nông
nghiệp, các xí nghiệp công nghiệp liên quan với nhau và liền nhau về lãnh thổ được hình
thành xung quanh các sản phẩm hàng hóa chính và các quy trình kỹ thuật để sản xuất ra các
sản phẩm ấy.
Xuất phát từ những quan điểm trên, người ta chia thành hai nhóm thể tổng hợp nông
nghiệp:
Các thể tổng hợp mà những sản phẩm hàng hóa sản xuất ra trước hết do các điều kiện
tự nhiên phân bố mang tính chất quyết định.
Các thể tổng hợp nông nghiệp ngoại thành. Đặc trưng cho các thể tổng hợp này là ở
chỗ sản phẩm hàng hóa chủ yếu của chúng do nhu cầu thực phẩm dân cư thành phố chi phối.
Các thể tổng hợp nông nghiệp ngoại thành hình thành chủ yếu xung quanh các thành phố,
các trung tâm công nghiệp. Ở đây, các yếu tố kinh tế đóng vai trò chủ đạo, còn các yếu tố tự
nhiên tuy cũng được lưu ý nhưng chỉ giữ vị trí thứ yếu. Quy mô (diện tích, sản phẩm) của
các thể tổng hợp có thể rất khác nhau tùy thuộc vào quy mô số dân của các thành phố, các
trung tâm công nghiệp.
Có thể nói thể tổng hợp nông nghiệp là một trong những hình thức tổ chức sản xuất
theo lãnh thổ mang lại hiệu quả kinh tế cao. Đồng thời, đây còn là bộ khung để tạo nên các
vùng nông nghiệp.
Vùng nông nghiệp: Vùng nông nghiệp được coi là một trong những hình thức tổ chức
lãnh thổ nông nghiệp. Thực chất, đó là những lãnh thổ sản xuất nông nghiệp tương đối đồng
nhất về các điều kiện tự nhiên, kinh tế được phân chia với mục đích phân bố hợp lý và
chuyên môn hóa đúng hướng các hoạt động sản xuất nông nghiệp trên cơ sở sử dụng đầy đủ
và có hiệu quả nhất các điều kiện sản xuất của các vùng trong cả nước cũng như trong nội
bộ từng vùng.

Các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp có liên quan mật thiết với nhau nhưng
không thể thay thế cho nhau được.
Trước hết là mối quan hệ giữa vùng nông nghiệp với kiểu xí nghiệp nông nghiệp. Mặc
dù một lãnh thổ được coi như một vùng nông nghiệp đồng nhất về các điều kiện tự nhiên,
kinh tế- xã hội, song điều đó không có nghĩa là các điều kiện này không tác động đến sản
xuất nông nghiệp hoàn toàn giống hệt nhau ở mọi nơi trên thực tế, cơ cấu sản xuất của các xí
nghiệp nông nghiệp được phân bố trong các vùng có điều kiện tự nhiên giống nhau và có thể
rất khác nhau.
Với cách hiểu như vậy, vùng nông nghiệp là sự biểu hiện tổng hợp của các hình thức
sản xuất nông nghiệp khác nhau và được coi như một lãnh thổ có sự lặp lại của các kiểu sản
xuất tương đối giống nhau hoặc các kiểu sản xuất khác nhau nhưng liên quan mật thiết với
nhau.
Ở một số vùng, ngoài các kiểu sản xuất đặc trưng còn có cả một vài xí nghiệp khác
không tiêu biểu cho vùng. Từ đó, có thể hiểu vùng nông nghiệp là một bộ phận lãnh thổ của
đất nước có sự lặp đi lặp lại một cách có quy luật, sự kết hợp của các kiểu xí nghiệp nông
nghiệp, trong đó đa số kiểu xí nghiệp đặc trưng cho vùng, còn một vài kiểu khác không thể
hiện bộ mặt của vùng. Để tính toán đầy đủ sự khác nhau về phương diện lãnh thổ, cần tiến
hành phân loại các kiểu xí nghiệp nông nghiệp lẫn phân vùng nông nghiệp, bởi vì phân kiểu
các xí nghiệp nông nghiệp không thể thay thế cũng như không làm giảm ý nghĩa của phân
vùng nông nghiệp và ngược lại.
Mối quan hệ giữa phân vùng nông nghiệp với việc nghiên cứu các thể tổng hợp nông
nghiệp cũng tương tự như thế. Việc nghiên cứu các thể tổng hợp nông nghiệp và phân vùng
nông nghiệp là hai vấn đề có mối liên hệ qua lại và bổ sung cho nhau của phương pháp
nghiên cứu nông nghiệp.
1.1.3.Tổ chức lãnh thổ công nghiệp
Để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tổ chức
lãnh thổ nói chung và tổ chức lãnh thổ công nghiệp nói riêng có ý nghĩa cực kỳ to lớn.
Tổ chức lãnh thổ công nghiệp là một trong những hình thức tổ chức của nền sản xuất
xã hội theo lãnh thổ. Vấn đề này đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học.
Theo A.T.Khơrusov (1979), tổ chức lãnh thổ công nghiệp được hiểu là hệ thống các

mối liên kết không gian của các ngành và các kết hợp sản xuất lãnh thổ khác nhau trên cơ sở
sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, vật chất, lao động cũng như tiết kiệm chi
phí để khắc phục sự không phù hợp đã xuất hiện trong lịch sử về việc phân bố các nguồn
nguyên nhiên liệu, năng lượng, nơi sản xuất và nơi tiêu thụ sản phẩm, góp phần đạt hiệu quả
kinh tế cao.
Ở nước ta, số lượng các công trình nghiên cứu về tổ chức lãnh thổ công nghiệp không
nhiều. Tuy nhiên, tổ chức lãnh thổ công nghiệp có thể được coi là việc bố trí hợp lý các cơ sở
sản xuất công nghiệp, các cơ sở phục vụ cho hoạt động công nghiệp, các điểm dân cư cùng
kết cấu hạ tầng trên một phạm vi lãnh thổ nhất định, nhằm sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực bên trong cũng như bên ngoài của lãnh thổ đó.
1.2. Liên kết nông- công nghiệp- nội dung cốt lõi của tổ chức lãnh thổ
1.2.1.Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ với nền sản xuất nông
nghiệp tiên tiến
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ đã biến nông nghiệp từ một ngành
sản xuất cổ truyền chủ yếu dựa vào kinh nghiệm thành một ngành sản xuất tiên tiến, dạng
sản xuất kiểu công nghiệp.
Không một ngành sản xuất nào trong giai đoạn hiện nay lại không chịu ảnh hưởng của
khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Trước hết là ở lĩnh vực cơ sở vật chất kỹ thuật phục
vụ sản xuất nông nghiệp. Việc đầu tư cho sản xuất nông nghiệp để chuyển từ nền sản xuất cổ
truyền tới một nền sản xuất hiện đại, một dạng sản xuất kiểu công nghiệp đã diễn ra từ giữa
thế kỷ XX. Các nước tư bản có nền kinh tế phát triển cao như Hoa Kỳ, Pháp, Australia,
Đức….đã đầu tư rất lớn cho sản xuất nông nghiệp trước hết là đầu tư trong lĩnh vực nghiên
cứu khoa học kỹ thuật phục vụ sản xuất nông nghiệp.
Các nước có trình độ khoa học kỹ thuật cao đã không ngần ngại khi đầu tư kinh phí
vào quá trình sản xuất nông nghiệp từ khâu lai tạo, chọn giống, cải tiến kỹ thuật sản xuất
(máy móc, thuốc trừ sâu, phân bón…). Cuộc cách mạng trong lĩnh vực di truyền đã làm thay
đổi nhanh chóng các kết quả sản xuất nông nghiệp: nhiều giống cây trồng và vật nuôi mới có
khả năng cho năng suất cao đã nâng sản lượng của ngành sản xuất nông nghiệp lên một cách
đáng kể và làm thay đổi cơ cấu giá trị sản lượng nông nghiệp trong cơ cấu tổng sản phẩm
quốc dân trong nước.

Quá trình hiện đại hóa nông nghiệp đã dẫn đến chỗ tăng sản lượng hàng hóa nông
nghiệp, chính điều đó, trong chừng mực nhất định, đã có tác dụng mở rộng quan hệ giữa
nông nghiệp với các ngành sản xuất công nghiệp khác. Sản lượng nông nghiệp nhiều đòi hỏi
phải được chế biến để tăng giá trị thương phẩm và để sử dụng lâu dài. Sản xuất nông nghiệp
phát triển đòi hỏi các ngành công nghiệp có liên quan về mặt sản xuất cung ứng các loại máy
móc, thiết bị, hóa chất cũng phải phát triển theo phục vụ kịp thời cho nông nghiệp.
Quá trình hiện đại hóa nông nghiệp được thể hiện qua các khâu cơ giới hóa, điện khí
hóa, thủy lợi hóa, hóa học hóa,…Những điều này đã được chứng minh ở tất cả các nước có
nền kinh tế phát triển trên thế giới.
Để đảm bảo sản xuất nông nghiệp từ sản xuất nhỏ thủ công sang giai đoạn sản xuất
lớn kiểu công nghiệp cần phải có sự đầu tư thích đáng vào máy móc, thiết bị sản xuất nông
nghiệp. Trong những năm trước đây, việc đầu tư vào sản xuất nông nghiệp diễn ra chậm
chạp vì quá trình thu hồi vốn trong sản xuất nông nghiệp diễn ra chậm hơn nhiều so với
trong sản xuất công nghiệp. Hơn nữa do tính chất rủi ro trong sản xuất nông nghiệp thường
cao hơn công nghiệp nên các nhà đầu tư ít đầu tư vào nông nghiệp.
Việc sử dụng vốn cố định trong sản xuất nông nghiệp, không giống như trong sản xuất
công nghiệp, vì tính chất gián đoạn của sản xuất nông nghiệp. Cần phải đầu tư nhiều hơn cho
lao động nông nghiệp so với lao động công nghiệp mới đảm bảo quá trình đưa kỹ thuật công
nghiệp vào sản xuất nông nghiệp. Quá trình tăng vốn đầu tư cho lao động nông nghiệp diễn
ra ở các nước tư bản nhanh hơn ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây.
Tuy việc đầu tư vốn cho một lao động nông nghiệp ngày càng tăng nhưng năng suất
lao động công nghiệp vẫn cao hơn nhiều so với lao động nông nghiệp. Sản xuất công nghiệp
đã bước sang giai đoạn tự động hóa. Giá trị sản phẩm do một lao động nông nghiệp làm ra
ngay ở các nước tư bản chủ nghĩa có trình độ phát triển cao vẫn thấp hơn nhiều so với giá trị
sản phẩm do một lao động công nghiệp. Phải chăng sự cách biệt về năng suất lao động xã hội
có nhiều khác biệt còn nằm ở cả cách tính giá trị sản phẩm nông nghiệp. Để đảm bảo bằng
khoảng cách này cần phải đầu tư vào sản xuất nông nghiệp cùng với việc tính lại giá trị sản
phẩm nông nghiệp.
1.2.2.Mối quan hệ giữa nông nghiệp với các ngành kinh tế khác
Lực lượng sản xuất phát triển kéo theo sự thay đổi tận gốc quan hệ giữa nông nghiệp

với các ngành kinh tế quốc dân khác. Mối quan hệ giữa sản xuất nông nghiệp với sản xuất
công nghiệp thể hiện ở chỗ nông nghiệp nhận những sản phẩm của công nghiệp phục vụ cho
qúa trình sản xuất nông nghiệp như phân bón, thiết bị máy móc, thuốc trừ sâu, … và cả
phương pháp tiến hành sản xuất hợp lý kiểu nông nghiệp.
Lực lượng sản xuất phát triển, phân công lao động xã hội ngày càng trở nên sâu sắc thì
mối liên hệ giữa các khâu trong quá trình sản xuất sản phẩm càng phải chặt chẽ hơn. Sự liên
kết giữa các khâu trong một quá trình sản xuất sản phẩm cuối cùng từ nông nghiệp đã dẫn
đến sự hình thành các liên hợp nông công nghiệp.
Quá trình liên kết giữa các bộ phận của sản xuất nông nghiệp với nhau hoặc giữa sản
xuất nông nghiệp với sản xuất công nghiệp được gọi là quá trình nhất thể hóa. Có sự nhất thể
hóa theo chiều ngang giữa các xí nghiệp sản xuất cùng một loại sản phẩm hoặc các xí nghiệp
cùng nằm trong một giai đoạn công nghệ để mở rộng quy mô sản xuất, sử dụng tốt hơn công
suất thiết bị. Cũng có sự nhất thể hóa theo chiều dọc giữa các xí nghiệp hoặc các ngành có
liên quan trong việc tạo ra sản phẩm cuối cùng, các xí nghiệp hoặc các ngành trong cùng dây
chuyền sản xuất.
Khái niệm nhất thể hóa bắt nguồn từ tiếng La Tinh “Integrato” nghĩa là “sự nhích lại
gần nhau”, “sự quyện chặt lấy nhau”. Theo nghĩa kinh tế của từ nhất thể hóa là tập hợp các
mối liên hệ thường xuyên, lâu dài, ổn định về sản xuất, kỹ thuật và kinh tế giữa các bộ phận
cấu thành một cách tự nguyện, tương đối biệt lập nhưng vẫn có mối liên hệ phụ thuộc lẫn
nhau của một tổng thể kinh tế nào đó nhằm tối ưu hóa cấu trúc và đảm bảo cho nó phát triển
tổng hợp, cân đối, nhịp nhàng.
Mục đích của quá trình nhất thể hóa là giảm tối thiểu chi phí sản xuất và thu lợi nhuận
tối đa. Nhất thể hóa loại trừ nguy cơ cạnh tranh giữa các công đoạn khác nhau của cùng một
chu trình thống nhất sản xuất ra một loại sản phẩm cuối cùng, làm hạ giá thành sản phẩm.
Nhất thể hóa còn là điều kiện để công nghiệp hóa nông thôn, thúc đẩy quá trình chuyển hóa
nông thôn thành đô thị.
Sự liên kết ngày càng chặt chẽ giữa công nghiệp và thương nghiệp với nông nghiệp
trong quá trình nhất thể hóa làm cho số lượng sản phẩm (có nguồn gốc nông nghiệp) đã qua
chế biến ngày càng đa dạng và giá thành hạ. Xu thế hòa hoãn và hợp tác sau thời kỳ chiến
tranh lạnh càng làm mở rộng hơn, làm sâu sắc thêm quá trình nhất thể hóa. Quá trình liên kết

giữa nông nghiệp và công nghiệp không chỉ diễn ra trong một vùng, một quốc gia mà cả liên
quốc gia, có quy mô quốc tế.
Tác động của khoa học kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp đã gây nên
những biến động lớn trong nông nghiệp. Ngày nay một nông dân ở Tây Âu hoặc Hoa Kỳ có
thể gieo trồng 300 ha ngũ cốc và chăn nuôi bò hoặc khai thác một nông trại chuyên canh ngũ
cốc khoảng 500 đến 600ha. Máy điện tử thu hoạch cà chua của Mỹ chỉ với 5 người điều
khiển có thể hái và phân loại 300 tấn cà chua trong 1 giờ.
Xu thế hiện đại hóa nông nghiệp, áp dụng quy trình công nghệ kiểu công nghiệp trong
sản xuất nông nghiệp đã làm cho nông nghiệp và công nghiệp xích lại gần nhau hơn, mối
liên hệ về mặt sản xuất trở nên vững vàng hơn.
1.2.3.Hợp tác quốc tế trong sản xuất nông nghiệp
Ngày nay, khi chấm dứt thời kỳ chiến tranh lạnh, xu thế hợp tác giữa các quốc gia,
khu vực và thế giới ngày càng phát triển. Sự hợp tác đó không chỉ dựa trên cơ sở liên kết về
mặt sản xuất mà cả ở khâu vận chuyển và tổ chức tiêu thụ sản phẩm. Các tổ chức kinh tế
quốc tế đã tạo điều kiện cho các xí nghiệp nông nghiệp, các đồn điền, trang trại trong từng
vùng, từng quốc gia, khu vực phát triển phù hợp với xu thế hiện nay; đa dạng hóa mẫu mã
hàng hóa từ một dạng nguyên liệu ban đầu. Sự hợp tác trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp
thể hiện từ hình thức trợ vốn đến chuyển giao công nghệ và bao tiêu sản phẩm.
Tóm lại, liên kết nông công nghiệp là hình thức áp dụng kiểu sản xuất công nghiệp
trong ngành nông nghiệp trên quy mô lớn (liên kết nhiều xí nghiệp có cùng chức năng lại với
nhau), là quá trình liên kết giữa các ngành công nghiệp với các ngành nông nghiệp trong
chuỗi dây chuyền sản xuất các sản phẩm nông nghiệp và tổ chức tiêu thụ các sản phẩm nông
nghiệp (cả những sản phẩm tươi sống và các sản phẩm đã qua quá trình chế biến).
1.3.Liên kết nông- công nghiệp là nội dung cốt lõi của tổ chức lãnh thổ nền nông
nghiệp hiện đại
1.3.1.Cơ sở kinh tế- xã hội của liên kết nông- công nghiệp
Ngày nay khi mà trình độ sản xuất nông nghiệp đã đạt mức phát triển cao, việc liên kết
giữa sản xuất nông nghiệp với công nghiệp và các ngành kinh tế khác đòi hỏi ngày càng
hoàn thiện các mối quan hệ sản xuất giữa chúng và trên cơ sở đó tạo ra các hình thức mới
của nền sản xuất xã hội. Quá trình đó được quy định bởi nhiều nhân tố có tính chất xã hội,

kinh tế, tự nhiên và lịch sử.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội là cơ sở đầu tiên
của quá trình liên kết nông công nghiệp và các ngành khác trong nền kinh tế quốc dân. Trước
khi xảy ra cuộc phân công lao động lần thứ nhất thì trồng trọt là hoạt động sản xuất duy nhất
của loài người, các sản phẩm làm ra chỉ mang tính chất tự cung, tự cấp.
Dựa vào sự phát triển của lực lượng sản xuất theo từng thời kì mà sự phân công lao
động diễn ra theo từng giai đoạn khác nhau. Sau giai đoạn đầu, chăn nuôi tách khỏi trồng
trọt, bên cạnh đó một số loại lao động mới có tính chất riêng biệt được tách khỏi nông nghiệp
là thủ công và thương nghiệp. Nền đại cơ khí xuất hiện là một bước ngoặc đã làm thay đổi
toàn bộ các quá trình sản xuất, thu hẹp thời gian, giải phóng sức lao động trong tất cả các
ngành. Từ đó các ngành thể hiện dần chỗ đứng độc lập của mình. Nông nghiệp, công nghiệp,
thương nghiệp… ra đời.
Sự phân công lao động xã hội dẫn tới sự tách riêng nhiều ngành sản xuất mang tính
chuyên môn hóa cao, nâng cao mức độ tập trung và xã hội hóa sản xuất, đẩy mạnh kinh tế,
tăng cường kết quả hoạt động của các ngành. Từ đó đã làm cho năng xuất lao động xã hội
tăng lên chưa từng thấy trước đây. Đây là một xu hướng được thể hiện ở việc tổ chức các
quy trình sản xuất cũng như sự phân chia quá trình công nghệ. Nhiều ngành sản xuất công
nghiệp hóa được tách ra như công nghiệp chế biến, cơ khí trồng trọt, cơ khí chăn nuôi…
Do tính chất về năng suất lao động và những thành tựu khoa học kĩ thuật áp dụng
trong sản xuất, đòi hỏi các xí nghiệp chuyên môn hóa sản xuất nhỏ phải tập trung và trở
thành các xí nghiệp có quy mô lớn tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa cho xã hội. Sự cần thiết
phải thiết lập các mối quan hệ chặt chẽ và tương đối ổn định giữa các xí nghiệp chuyên môn
hóa sản xuất dẫn đến sự hợp tác các xí nghiệp này với nhau. Vì thế chuyên môn hóa và hợp
tác hóa là hai mặt khác nhau của cùng một quá trình phân công lao động xã hội và quy định
lẫn nhau trong sự phát triển của mình.
Nếu các xí nghiệp ngày càng được chuyên môn hóa sâu thì nó càng phụ thuộc chặt chẽ
vào các xí nghiệp khác. Các mối liên hệ kinh tế - kỹ thuật ngày càng trở nên chặt chẽ hơn thì
đòi hỏi việc tổ chức lãnh thổ các mối liên hệ giữa chúng ngày càng cao hơn.
Ngày nay, theo xu hướng phát triển nền kinh tế nông nghiệp hiện đại, việc liên kết
giữa hai ngành sản xuất nông nghiệp và công nghiệp là một đòi hỏi tất yếu nhằm đem lại sản

phẩm cho xã hội vừa phong phú vừa đa dạng. Sự liên kết giữa các ngành sản xuất trong xã
hội tư bản không phải diễn ra trong tất cả các ngành, các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và
công nghiệp mà chỉ ở các ngành sản xuất có liên quan đến ngành công nghiệp chế biến các
sản phẩm từ nông nghiệp.
Việc tách ra hàng loạt các dạng hoạt động thuộc ngành công nghiệp và các ngành
khác: sản xuất tư liệu sản xuất, chế biến, bảo quản, vận chuyển và tiêu thụ nông phẩm là điều
kiện liên kết nông công nghiệp. Quá trình này diễn ra như sau:
Thứ nhất: Qua con đường tách các ngành công nghiệp sản xuất, tư liệu sản xuất nông
nghiệp: trước kia nền nông nghiệp vốn tự cung, tự cấp phần lớn các tư liệu sản xuất như: sức
kéo, giống gia súc, công cụ sản xuất thô sơ, thức ăn gia súc… Sau đó nhờ sự phát triển của
công nghiệp mà công nghiệp cơ khí nông nghiệp, công nghiệp chế biến thức ăn gia súc tách
ra thành các ngành công nghiệp riêng biệt.
Thứ hai: Qua con đường tách ra từ công nghiệp các ngành chế biến các sản phẩm
nông nghiệp như các ngành công nghiệp chế biến rau quả, thịt, cá, sữa…
Thứ ba: Qua con đường vận chuyện nông phẩm: gần như toàn bộ các hoạt động kể
trên được đưa sang ngành giao thông, vì các sản phẩm của nông nghiệp đã trở thành hàng
hóa.
Thứ tư: Qua con đường tiêu thụ sản phẩm: Trước kia nền nông nghiệp là một nền sản
xuất mang tính chất tự cung, tự cấp khép kín. Ngày nay, sự phát triển của các ngành nông
nghiệp và các ngành kinh tế khác đòi hỏi nông nghiệp phải chuyên môn hóa sản xuất không
thể tự đóng khung cho mình. Các mối trao đổi hàng hóa phát triển, các tổ chức chuyên môn
hóa thu mua hàng nông sản với cơ sở vật chất kỹ thuật phù hợp (như kho tàng, cơ quan kiểm
nghiệm sản phẩm và kiểm định chất lượng sản phẩm) là bộ phận quan trọng của nông nghiệp
thương mại hóa.
Trong quá trình này còn hình thành các dạng hoạt động riêng lẻ thuộc các ngành phục
vụ sản xuất nông nghiệp như cung ứng tư liệu sản xuất cho nông nghiệp, sửa chữa các thiết
bị, xây dựng, thú y, cải tạo đất… tức là hình thành cấu trúc hạ tầng cho liên hiệp nông - công
nghiệp.
Trên cơ sở phân công lao động xã hội, các ngành và các hoạt động xã hội riêng lẻ đã
được tách ra, sau đó thì giữa chúng với nhau có mối liên hệ chặt chẽ trong quá trình phát

triển đi lên của mình, giữa chúng đều có mối tương hỗ lẫn nhau, ngành này là cơ sở cho
ngành kia phát triển.
Việc bảo đảm các mối liên hệ chặt chẽ giữa các xí nghiệp thực hiện các giai đoạn kế
tiếp nhau trong cùng một quá trình công nghệ nhưng lại bị phân tán và quản lí theo từng
ngành khác nhau diễn ra rất phức tạp. Nếu không tổ chức tốt các mối liên hệ, tất yếu dẫn đến
tình trạng mất cân đối và ảnh hưởng xấu đến nhịp điệu trao đổi, chất lượng nguyên liệu và
sản phẩm cuối cùng, dẫn đến những hao phí, tổn thất trong quá trình sản xuất và tiêu thụ.
Tính tất yếu và trở thành một yêu cầu khách quan là cần phải liên kết các xí nghiệp và các
ngành sản xuất chuyên môn hóa nhằm tái tạo quy trình công nghệ thống nhất mà trước đó đã
bị chia cắt trong quá trình phân công lao động xã hội.
Ở Hoa Kỳ và các nước Tây Âu thể hiện khá rõ nét về sự liên kết sản xuất, hầu như các
nông trại lớn có mối liên hệ với các công ty chế biến sản phẩm nông nghiệp, hóa chất, sản
xuất máy móc phục vụ nông nghiệp… thành các liên hợp lớn.
Hiện nay, các liên hợp nông công nghiệp đã hình thành các xí nghiệp có tính chất đa
quốc gia. Chuyển giao công nghệ và áp dụng công nghệ tiên tiến trong quy trình sản xuất.
Các xí nghiệp nông công nghiệp không những chỉ kết hợp hoạt động sản xuất nông nghiệp
với các xí nghiệp chế biến nông sản mà còn quản lý luôn cả khâu bảo quản, lưu trữ và lưu
thông phân phối. Như hãng Vexton ở Anh. Hãng này có 115 trang trại lớn, 6 nhà máy liên
hợp nuôi gia cầm, 18 nhà máy chế biến thức ăn phục vụ cho chăn nuôi, 114 nhà máy chế
biến bánh kẹo, chè, cà phê, 522 cửa hàng với tổng số lao động khoảng 110.000 công nhân.
Tóm lại: Việc hình thành liên kết nông công nghiệp là kết quả của quá trình hai mặt
tưởng như đối lập nhau: một mặt phân công lao động xã hội đã tách việc sản xuất nông phẩm
cuối cùng thành các ngành, các dạng hoạt động, tức là thể hiện sự phân hóa và mặt khác là
sự liên kết tổng hợp các ngành và các dạng hoạt động lại với nhau.
1.3.2.Cơ sở vật chất của liên kết nông- công nghiệp
Hiện nay hầu hết các nước trên thế giới đều có khuynh hướng đổi mới cơ cấu trong
nông nghiệp. Có nghĩa là biến đổi nền sản xuất nông nghiệp trở thành một kiểu sản xuất
công nghiệp, bằng cách thay đổi cơ sở vật chất kỹ thuật, quy trình công nghệ và tổ chức quản
lý nông nghiệp. Công nghiệp hóa nông nghiệp chính là cơ sở vật chất tạo tiền đề cho việc
hình thành liên kết nông công nghiệp.

Công nghiệp hóa nông nghiệp là quá trình cơ giới hóa tổng hợp và tự động hóa trong
sản xuất nông nghiệp từ khâu trồng trọt cho đến khâu chăn nuôi, áp dụng kỹ thuật công
nghiệp có tính dây chuyền và tính nhịp điệu vào mọi thao tác và các giai đoạn sản xuất để tạo
ra sản phẩm cuối cùng. Từ đó có thể nâng cao việc chế biến nông sản, đưa hoạt động từ xí
nghiệp nông nghiệp sang xí nghiệp công nghiệp với những quy trình công nghệ phức tạp có
tính chất chuyên môn hóa sản xuất, tạo ra các sản phẩm hàng hóa có tính hàng loạt. Các xí
nghiệp công nghiệp ngoài tính chuyên môn hóa còn tiến tới tính tự động hóa sản xuất.
Cuộc cách mạng kỹ thuật và công nghệ đã làm biến đổi không ngừng cả về số lượng
lẫn chất lượng trong quá trình cơ giới hóa, điện khí hóa, hóa học hóa, thủy lợi hóa và tự động
hóa. Công nghệ sản xuất đã sử dụng các giống tốt, công cụ máy móc hiện đại và các vật tư
kỹ thuật có hiệu lực cao theo hướng giảm chi phí lao động, tăng chi phí lao động quá khứ.
Trong lĩnh vực cơ khí hóa: bước đầu cơ giới hóa chỉ mang tính bộ phận như từng
khâu, từng quy trình công nghệ. Dần dần tiến tới áp dụng tổ hợp máy cơ khí tổng hợp và tự
động hóa trong các quy trình sản xuất. Càng về sau các máy móc phục vụ nông nghiệp tăng
dần tốc độ và công suất. Hiện nay các loại máy kéo có công suất từ 4 đến 400 sức ngựa.
Các máy liên hợp được đưa vào sản xuất nông nghiệp với chức năng thực hiện nhiều
thao tác kỹ thuật, các loại máy liên hợp này thường kết hợp chặt chẽ giữa cơ khí hóa và hóa
học hóa nông nghiệp. Tiến hành xây dựng và áp dụng hệ thống giao thông, cùng các phương
tiện vận chuyển chuyên môn hóa phù hợp với những đặc điểm của sản xuất nông nghiệp.
Thực hiện các quy trình kỹ thuật mới, tổ chức lao động tiên tiến trong tất cả quá trình sản
xuất thuộc ngành trồng trọt và chăn nuôi.
Trong lĩnh vực điện khí hóa: con người chế tạo các loại thiết bị bảo đảm điện khí hóa
tổng hợp mọi quá trình sản xuất và hoàn toàn điều khiển chúng theo chương trình tự động sử
dụng năng lượng nhiệt và các nguồn năng lượng khác cho nông nghiệp.
Trong lĩnh vực hóa học và sinh học: sử dụng rộng rãi và có hiệu quả các loại phân
đạm, lân, kali, phân hỗn hợp NPK cho các loại cây trồng cho năng suất cao. Các loại hóa
chất phòng trừ sâu bệnh, cỏ dại… để bảo vệ cây trồng. Các chất vi lượng, các chất kích thích
tăng trọng… cho từng loại vật nuôi công nghiệp.
Trong lĩnh vực thủy lợi: ngoài việc sử dụng các loại máy bơm nước tưới tràn, tưới
rãnh, còn có các thiết bị tưới giọi, tưới ngầm để tiết kiệm nước.

Trong lĩnh vực khoa học phục vụ nông nghiệp: nghiên cứu các kỹ thuật về tách và
ghép GIEN để tạo ra các giống thực vật và động vật mới có năng suất cao, chất lượng tốt
phục vụ trồng trọt và chăn nuôi. Nghiên cứu trong nhà kính cây trồng trong dung dịch và
chất độn thay thế đất tự nhiên để đưa vào sản xuất.
Hầu hết những lĩnh vực nêu trên làm cho quá trình nhất thể hóa giữa các ngành tham
gia sản xuất ra sản phẩm cuối cùng hình thành liên hợp nông công nghiệp.
Hiện nay trong điều kiện cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ phát triển nhanh
chóng, công nghiệp hóa nông nghiệp được thể hiện qua các đặc điểm như sau:
- Không chỉ hệ thống máy móc, mà các tổ hợp, các tư liệu lao động cơ giới, hóa học,
kỹ thuật, thủy lợi và sinh học đều nằm trong một tổng thể cơ sở vật chất sinh học - kỹ thuật
của nông nghiệp.
- Nét tiêu biểu của giai đoạn tiến bộ kỹ thuật hiện nay trong nông nghiệp là sự kết hợp
hữu cơ những biến đổi cơ sở vật chất kỹ thuật với những cải tiến tương ứng về tổ chức sản
xuất ở mọi cấp.
- Công nghiệp hóa nông nghiệp phát triển với nhịp độ cao, kết hợp chặt chẽ với cơ sở
vật chất sinh học, kỹ thuật của quy trình công nghệ và tổ chức sản xuất.
Tóm lại: Liên kết nông công nghiệp ra đời là do sự phân công lao động trong xã hội
ngày càng sâu sắc, đồng thời nhờ vào kết quả của quá trình tập trung hóa, chuyên môn hóa
và nhất thể hóa trong sản xuất tạo nên những mối liên hệ giữa nông nghiệp, công nghiệp và
các ngành kinh tế khác. Bên cạnh đó có sự tham gia của các thành tựu khoa học kỹ thuật và
công nghệ vào quy trình sản xuất và quản lý.
1.3.3.Tiền đề khách quan của sự ra đời liên kết nông- công nghiệp ở Việt Nam
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã và đang diễn ra hết sức mạnh mẽ trên thế
giới đã làm thay đổi sâu sắc về cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia, nhất là các nước đang phát
triển. Liên kết kinh tế giữa các nước là hình thức biểu hiện mang tính hệ thống toàn cầu phụ
thuộc lẫn nhau. Vì vậy, nước ta không thể không mở cửa, hòa nhập với nền kinh tế thế giới,
tận dụng những tiến bộ khoa học - kỹ thuật và công nghệ phục vụ cho sự phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước.
Từ Đại hội Đảng lần thứ VII cho đến nay, Đảng ta luôn có những chiến lược và sách
lược đúng đắn để tiến hành CNH, HĐH đất nước, nhằm tạo ra những giá trị về vật chất với

trình độ công nghệ cao (cơ khí hóa, tin học hóa, tự động hóa, sinh học hóa, hóa học hóa…),
tranh thủ những cơ hội đi tắt, đón đầu, hình thành những mũi nhọn phát triển theo trình độ
tiên tiến khoa học – công nghệ thế giới.
Trong những năm vừa qua, nhiều luồng gió mới thổi vào nền kinh tế Việt Nam. Đặc
biệt ở lĩnh vực nông nghiệp và kinh tế nông thôn, Bộ Chính Trị đã ra Nghị Quyết 100, Nghị
quyết 10/NQ-TW (5-4-1988) về đổi mới quản lý nông nghiệp như chính sách ruộng đất,
chính sách phát triển các thành phần kinh tế, chính sách thị trường, chính sách đầu tư và tín
dụng…; cùng với Nghị quyết Trung ương 5 khóa VII về tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế
xã hội nông thôn. Bên cạnh đó có nhiều tập đoàn tư bản lớn các nước vào đầu tư ở Việt Nam
tạo điều kiện cho việc thúc đẩy nền kinh tế nước ta tăng trưởng.
Nông nghiệp là cơ sở, xuất phát điểm cho nền kinh tế, vì vậy các sản phẩm nông
nghiệp nước ta tham gia vào thị trường thế giới cần phải hoàn chỉnh từ khâu sản xuất cho
đến khâu chế biến, có chất lượng cao, số lượng nhiều mới đáp ứng yêu cầu của thị trường
hàng hóa, đồng thời giữ vững được ưu thế cạnh tranh trong nước và quốc tế.
Muốn có chất lượng cao, giá thành hạ về sản phẩm nông nghiệp, điều tất yếu phải có
sự chuẩn bị về cơ sở vật chất - kỹ thuật như: giống, kỹ thuật sản xuất, phân bón, vốn… phục
vụ cho sản xuất. Liên kết với các nhà đầu tư trong lĩnh vực sản xuất hàng hóa từ nông
nghiệp, qua nhiều hình thức liên doanh, liên kết, đầu tư vốn, kỹ thuật sản xuất cũng như
những kinh nghiệm về tổ chức quản lý sản xuất…
Những năm qua các chương trình về liên doanh sản xuất đã được thực hiện trong lĩnh
vực nông nghiệp, nhất là 2 năm 1995-1996 là thời kỳ tập trung đầu tư cao cho công nghiệp
chế biến nông sản. Hầu hết các doanh nghiệp chế biến nông sản đã đi sâu vào đầu tư xây
dựng vùng nguyên liệu, đổi mới thiết bị và công nghệ, tăng thêm cơ sở và công suất, làm cho
năng lực chế biến nông sản ngày càng tăng nhanh và phong phú.
Đây là điều kiện cho sự gắn bó sản xuất giữa ngành nông nghiệp và công nghiệp ở
nước ta, thể hiện mối liên kết nông- công nghiệp trong sản xuất. Tạo thế phát triển nhanh và
dần dần tiến tới thế ổn định trong nền kinh tế quốc dân, từ ngày đất nước đổi mới.
1.3.4.Kết hợp nông nghiệp với công nghiệp là một trong những con đường tất yếu
để phát triển kinh tế nước ta
Trong những năm qua, công cuộc đổi mới đã làm cho đời sống kinh tế Việt Nam khởi

sắc và ngày càng năng động hơn. Cơ sở vật chất kỹ thuật và trình độ khoa học công nghệ đã
được nâng cao đáng kể. Thị trường trong nước tăng nhanh, thị trường ngoài nước được mở
rộng. Chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần đang phát huy tác dụng tích cực trong
việc huy động các nguồn lực và phát huy lợi thế của đất nước, tạo điều kiện thuận lợi cho thu
hút các nguồn lực từ bên ngoài. Vị thế của đất nước trên trường quốc tế được cải thiện và
củng cố.
Có được kết quả trên, ngoài việc tác động của chính sách phát triển nông nghiệp đúng
đắn mà Đảng và Nhà nước đề ra, còn có sự tham gia tích cực và hiệu quả của nền công
nghiệp. Các ngành công nghiệp phục vụ cho sản xuất ra đời như: nhà máy cơ khí phục vụ
nông nghiệp, nhà máy sản xuất phân bón, thuốc trừ sâu, công nghiệp chế biến nông sản…;
sự tác động mạnh mẽ của công nghiệp vào nông nghiệp đã làm cho cả hai ngành nông, công
nghiệp từng bước lớn mạnh.
Theo tổng kết kinh nghiệm của nhiều nước, người ta đã rút ra một kết luận là: mối
quan hệ nông công nghiệp bền vững là mối quan hệ 1 : 2, có nghĩa là nếu nông nghiệp phát
triển với tốc độ 2%/năm thì công nghiệp chỉ có thể phát triển với tốc độ trên dưới 4%/năm,
và nói chung mối quan hệ này tương đối đúng cho nhiều nước trong quá trình phát triển công
nghiệp hóa.
Vấn đề đặt ra là: Các nhà máy chế tạo máy móc nông nghiệp và các nhà máy chế biến
sản phẩm nông nghiệp từ phục vụ sản xuất cho đến tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Giữa
chúng chưa có mối quan hệ mật thiết nội tạng với nhau và đặc biệt chưa có những mối liên
kết kiểu nông công nghiệp theo đúng nghĩa của nó. Muốn phát triển nông nghiệp có hiệu quả
cao, thì không còn cách nào khác là phải hợp tác chặt chẽ giữa các ngành sản xuất công cụ,
máy móc công nghiệp và chế biến sản phẩm nông nghiệp dựa trên sự phân công lao động
trong một dây chuyền công nghệ sản xuất một loại sản phẩm nông nghiệp.
Vừa qua các doanh nghiệp ở nước ta cũng đã tiến hành bố trí lại sản xuất, xác định
nguồn nguyên liệu nông sản, áp dụng công nghệ mới trong chế biến, đa dạng hóa sản phẩm
và cải tiến mẫu mã phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của từng thị trường trong và ngoài nước
như: sản phẩm chè chế biến từ 7 mặt hàng (3 loại chè đen và 4 loại chè hương), đến nay đã
có 45 mặt hàng chè tham gia vào thị trường; về cà phê, ngoài cà phê nhân còn có các mặt
hàng cà phê hòa tan, cà phê rang xay xuất khẩu; mặt hàng gạo xuất khẩu cũng đa dạng hơn.

Tóm lại: Để đạt được hiệu quả kinh tế cao trong nền sản xuất nông nghiệp ở nước ta,
điều tất yếu phải thực hiện mối liên kết nông công nghiệp trong sản xuất.
1.3.5.Thực trạng của việc liên kết nông- công nghiệp và các hình thức kết hợp ở
Việt Nam
Gần mười năm đổi mới, từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp chuyển sang cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước, môi trường sản xuất và kinh doanh nước ta đã và
đang được hoàn thiện dần từng bước, cơ cấu nông nghiệp có những chuyển biến quan trọng
theo hướng tích cực. Nhiều vùng chuyên môn hóa sản xuất hàng hóa đã được hình thành và
phát triển.
Các thành phần kinh tế vừa thực hiện đổi mới vừa phát triển, bước đầu gắn bó với
nhau, vừa thống nhất lại vừa đa dạng, đa thành phần tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai
thác có hiệu quả các tiềm năng kinh tế đất nước. Hơn nữa, trong bối cảnh toàn cầu hóa và tự
do hóa nền kinh tế thế giới, Việt Nam có cơ hội trao đổi hàng hóa, dịch vụ, vốn, công nghệ -
thông tin với thế giới bên ngoài tạo cơ sở và động lực cho sự phát triển kinh tế. Do tính chất
đa dạng hóa sản xuất nên các thành phần kinh tế nước ta có mối liên kết giữa các ngành với
nhau, sản phẩm của ngành này là nguyên liệu của ngành kia. Vì thế các doanh nghiệp tự liên
kết thành hệ thống trong quy trình sản xuất.
Sản lượng công nghiệp chế biến tăng đáng kể, trong năm 1995 so với 1990, tiêu biểu
một số mặt hàng như : sản lượng gạo, ngô qua chế biến đạt 12,5 triệu tấn, tăng 4,5 triệu tấn;
đường mật các loại đạt 393.000 tấn, tăng 70.000 tấn; chè búp khô chế biến công nghiệp đạt
35.000 tấn, tăng 11.000 tấn; cao su mủ khô đạt 120.000 tấn, tăng trên 50.000 tấn; cà phê
nhân đạt trên 200.000 tấn, tăng gấp 4 lần…
Chỉ trong vòng 5 năm từ 1991 đến 1995 giá trị sản lượng chế biến nông sản liên tục
tăng với tốc độ cao. Bình quân giá trị sản lượng chế biến lương thực tăng 17,4% /năm và giá
trị sản lượng chế biến thực phẩm tăng 12,7% /năm.
Tuy có những bước nhảy vọt về phát triển kinh tế trong nông nghiệp, nhìn một cách
khách quan thì các thành phần kinh tế hoạt động chưa đồng bộ về nhiều mặt. Chưa hình
thành một cơ chế thống nhất, đảm bảo liên kết các nhà máy với các vùng nông thôn sản xuất
nguyên liệu để hình thành vùng nguyên liệu ổn định, đủ lớn về quy mô, đồng bộ về chất
lượng, kịp thời về thời gian, phục vụ tốt cho công nghiệp chế biến phát huy hết công suất

thiết kế. Tình trạng nguyên liệu lúc thiếu, lúc thừa, tranh chấp quyền lợi giữa nông dân và
nhà máy diễn ra kéo dài trong ngành điều, gỗ làm bột giấy, đay sợi v.v… ảnh hưởng xấu đến
thu nhập của nông dân và khả năng cạnh tranh của ngành công nghiệp chế biến nông sản
Việt Nam.
Nhìn chung, năng lực công nghiệp chế biến và công nghệ sau thu hoạch chưa theo kịp
tốc độ phát triển sản xuất nguyên liệu và yêu cầu về nâng cao chất lượng và hiệu quả nông
sản phẩm. Hầu hết các sản phẩm nông nghiệp đều được tiêu thụ dưới dạng thô hoặc sơ chế.
Công nghiệp chế biến chưa làm được chức năng mở đường tạo điều kiện cho nông nghiệp
phát triển.

×