Tải bản đầy đủ (.pdf) (145 trang)

Đánh giá tiềm năng, thực trạng và định hướng phát triển kinh tế biển huyện Gò Công Đông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.15 MB, 145 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH








Phạm Thị Hoàng Dung






ĐÁNH GIÁ TIỀM NĂNG, THỰC TRẠNG
VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN
KINH TẾ BIỂN HUYỆN GÒ CÔNG ĐÔNG
(TỈNH TIỀN GIANG)









LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC















Thành phố Hồ Chí Minh - 2009

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH






Phạm Thị Hoàng Dung





ĐÁNH GIÁ TIỀM NĂNG, THỰC TRẠNG

VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN
KINH TẾ BIỂN HUYỆN GÒ CÔNG ĐÔNG
(TỈNH TIỀN GIANG)




Chuyên ngành : Địa lý học
Mã số : 60 31 95






LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN VĂN THÔNG






Thành phố Hồ Chí Minh - 2009



LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tác giả xin chân thành cảm ơn Phòng KHCN & Sau Đại
học Trường Đại học Sư Phạm Thành Phố Hồ Chí Minh cùng với Khoa địa lý
và thư viện trường đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình
học tập đến khi hoàn thành luận văn này.
Và tôi cũng xin gởi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến Thầy – TS. Trần Văn
Thông, người đã rất tận tình hướng dẫn t
ôi từ những ngày đầu viết đề cương
luận văn. Thầy đã dành nhiều thời gian sửa chữa, hướng dẫn tôi trong từng nội
dung và nhắc nhở tôi từng chi tiết nhỏ đến khi luận văn được hoàn chỉnh. Một
lần nữa, tôi xin cảm ơn Thầy.
Kế đến, tôi cũng xin cảm ơn những đơn vị: Uỷ ban nhân dân, Phòng
thống kê, Phòng kế hoạch đầu tư, Phòng nông nghiệp huyện Gò Công Đông
và Sở tài nguyên môi trường, Sở thủy sản Tỉnh Tiền Gi
ang đã rất nhiệt tình
cung cấp tài liệu một cách đầy đủ, chính xác, nhanh chóng giúp tôi có thể làm
tốt luận văn này.
Lời sau cùng, tôi xin gởi lời tri ân đến gia đình, cùng tập thể Thầy cô
nơi tôi đang công tác và các anh chị thành viên lớp cao học K17. Họ là những
người luôn sát cánh cùng tôi, ủng hộ, động viên và tạo cho tôi thêm niềm tin
và động lực
trong cuộc sống, trong học tập và nhất là khi thực hiện luận văn.

Tác giả
Phạm Thị Hoàng Dung


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài

Biển có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự sinh tồn của nhân loại. Biển là
kho nước vô tận, là kho tài nguyên, là kho thực phẩm vô cùng quý giá, là môi
trường nuôi sống con người trong quá khứ, ở hiện tại và cả tương lai. Biển là tài sản
quý giá của mỗi quốc gia. Nhiều nhà kinh tế học đã nói đến “lục địa xanh” này và
họ cho rằng “nền kinh tế tương lai của loài người trước hết là nền kinh tế gắn với
biển”, bởi vì đất liền đang m
òn mỏi dần vì bị khai thác kiệt quệ tài nguyên, biển có
thể mở lối thoát khỏi tình trạng bế tắc về nguyên liệu, nhiên liệu cho sự phát triển.
Chính vì thế mà ngày nay, hầu như tất cả các quốc gia có biển (kể cả những quốc
gia không có biển) cũng điều chú ý đến việc nghiên cứu, khai thác nguồn lợi từ biển
trong quá trình phát triển kinh tế đất nước.
Có diện tích hơn 3,4 triệu km
2
, Biển Đông là một bộ phận nhỏ của Thái Bình
Dương nhưng lại có vị trí chiến lược quan trọng, là nơi qua lại của những đường
giao thông huyết mạch đối với nhiều nước, nối liền khu vực Đông Bắc Á với Tây
Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương và vùng Vịnh qua eo Malacca. Biển Đông là nơi
có nguồn tài nguyên biển vô cùng phong phú về số lượng và chủng loại.
Việt Nam nằm ở rìa biển Đông, là mặt tiền quan trọng của đất nước để thông
ra Thái Bì
nh Dương và mở cửa ra nước ngoài. Nước ta là một quốc gia biển, với
diện tích vùng biển rộng gấp 3 lần diện tích đất liền (vùng biển rộng khoảng 1 triệu
km
2
), đường bờ biển dài 3260km bao lấy lãnh thổ cả 3 hướng: Bắc, Đông, Nam;
trung bình khoảng 100km
2
đất liền có 1km bờ biển và không một nơi nào trên đất
nước ta lại cách xa biển hơn 500km. Từ bao đời nay, biển đã gắn bó chặt chẽ, mật
thiết với mọi hoạt động sản xuất và đời sống của dân tộc ta, ảnh hưởng lớn đến mọi

miền của Tổ Quốc, trở thành động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế đất
nước.
Với 32km
bờ biển, Tiền Giang có điều kiện thuận lợi phát triển kinh tế biển.
Trong đó, Huyện Gò Công Đông là huyện có nhiều tiềm năng và lợi thế lớn. Tình
hình kinh tế - xã hội vùng biển của Huyện trong thời gian qua đã có bước phát triển,

vừa đóng góp đáng kể trong việc phát triển kinh tế - xã hội chung của tỉnh, vừa kết
hợp chặt chẽ với bảo vệ môi trường sinh thái. Nhận thức được tầm quan trọng của
nền kinh tế biển trong tương lai, tôi chọn đề tài : “Đánh giá tiềm năng, thực trạng và
định hướng phát triển kinh tế biển Huyện Gò Công Đông tỉnh Tiền Giang”.
2. Mục tiêu, nhiêm vụ nghiên cứu
2.1 Mục tiêu nghiên cứu
Trong những năm
qua, kinh tế biển đã bước đầu khẳng định được vai trò của
mình trong công cuộc phát triển kinh tế huyện Gò Công Đông. Cùng với chương
trình hành động thực hiện Nghị Quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp Hành Trung
ương Đảng (khóa X) về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, Tỉnh Tiền Giang
nói chung và Huyện Gò Công Đông nói riêng đã đề ra chương trình thực hiện mục
tiêu “vươn ra biển lớn” nhằm man
g lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Đề tài nghiên cứu:
“Đánh giá tiềm năng, thực trạng và định hướng phát triển kinh tế biển Huyện Gò
Công Đông tỉnh Tiền Giang” với những mục đích sau:
+ Khảo sát và đánh giá các nguồn lực phát triển kinh tế biển của huyện.
+ Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế biển huyện Gò Công Đông giai đoạn
2000 – 2007.
+ Xác định các phương hướng phát triển và các giải pháp phát triển kinh tế
biển đến năm
2020.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

- Tổng quan cở sở lý luận về kinh tế biển
- Phân tích hiện trạng phát triển kinh tế biển huyện Gò Công Đông.
- Căn cứ vào vào hiện trạng phát triển biển của huyện để đưa ra những định
hướng nhằm phát triển kinh tế biển của huyện tr
ong tương lai đồng thời đưa ra
những giải pháp phát triển kinh tế biển một cách bền vững.
3. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian nghiên cứu: Bắt đầu từ 30/04/2008, Tỉnh Tiền Giang chính
thức công bố Huyện mới với tên gọi là Huyện Tân Phú Đông là phần đất được tách
ra từ Huyện Gò Công Đông, Huyện Gò Công Tây. Trong phạm vi luận văn này, tôi

chỉ nghiên cứu Huyện Gò Công Đông giai đoạn 2000 – 2007.
- Về nội dung nghiên cứu: Về nội dung nghiên cứu chính của đề tài là những
vấn đề xoay quanh ngành kinh tế biển thật sự là thế mạnh của Huyện (những bộ
phận của kinh tế biển: ngành thủy hải sản, du lịch biển, vấn đề môi trường biển).
4. Lịch sử nghiên cứu
Kinh tế biển có vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển nền ki
nh tế
của đất nước và càng được chú trọng hơn trong giai đoạn hiện tại. Chính tầm quan
trọng đó của kinh tế biển nên từ trước đến nay có rất nhiều nghiên cứu về vấn đề
này nhưng tập trung nhất là các tỉnh có lợi thế lớn về biển như: Nha Trang, Bà Rịa
Vũng Tàu,….Vì vậy, các công trình nghiên cứu kể trên sẽ là những tài liệu tham
khảo để tôi nghiên cứu đề tài “Đánh giá tiềm năng, thực trạng và định hướng phát

triển kinh tế biển Huyện Gò Công Đông” (Tỉnh Tiền Giang) được đầy đủ và hoàn
chỉnh hơn.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp luận
5.1.1 Quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
Quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin

là phương pháp luận khoa học. Trong quá trình nghiên cứu các vấn đề về lý luận và

thực tiễn phát triển kinh tế biển cần xem xét trong sự phát triển của khoa học này
với sự phát triển của các ngành khoa học có liên quan trong sự vận động, phát triển
của kinh tế - xã hội theo những quy luật khách quan và trong mối quan hệ biện
chứng qua lại chặt chẽ.
5.1.2 Quan điểm hệ thống
Quan điểm này được sử dụng rộng rãi trong quá trình nghiên cứu. Kinh tế
biển là một bộ phận của nền ki
nh tế chung, nó có mối quan hệ với nhiều ngành khoa
học khác và trong nội bộ của nó cũng có sự liên kết và gắn bó với nhau. Vì thế, khi
nghiên cứu, chúng ta phải đặt vấn đề trong mối quan hệ tương hỗ, tác động qua lại
của các yếu tố tạo thành một hệ thống hoàn chỉnh. Vì vậy, phải coi vấn đề kinh tế
biển và phát triển như là một hệ thống nằm
trong hệ thống kinh tế - xã hội hoàn

chỉnh, luôn luôn vận động và phát triển không ngừng.
5.1.3 Quan điểm tổng hợp lãnh thổ
Trong thực tế, các sự vật - hiện tượng luôn có sự phân hóa theo không gian
làm cho chúng có sự khác nhau giữa nơi này với nơi khác. Và việc nghiên cứu các
vấn đề về kinh tế biển huyện Gò Công Đông không thể tách rời vấn đề phát triển
kinh tế biển của tỉnh, vùng và cả nước.
5.1.4 Quan điểm lịch sử - viễn cảnh
Sự p
hát triển kinh tế biển và kinh tế - xã hội trong quá khứ, tương lai ảnh
hưởng lớn đến kinh tế biển và kinh tế - xã hội hiện tại. Vì vậy, việc nghiên cứu vấn
đề kinh tế biển trong mối liên hệ quá khứ - hiện tại - tương lai sẽ làm rõ được bản
chất của vấn đề theo một chuỗi thời gian, đảm bảo tính logic, khoa học và chính xác
khi nghiên cứu.
5.1.5 Quan điểm sinh thái và phát triển bền vững

Nghiên
cứu vấn đề biển phải dựa trên quan điểm sinh thái và phát triển bền
vững. Phát triển kinh tế biển, kinh tế - xã hội phải đi đôi với sử dụng hợp lý kết hợp
với bảo vệ và tái tạo tài nguyên thiên nhiên, chống gây ô nhiễm môi trường, có sự
kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội nhằm nâng
cao chất lượng cuộc sống con người.
5.2. Phương
pháp nghiên cứu
5.2.1 Phương pháp phân tích, tổng hợp
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, việc vận dụng phương pháp phân tích –
tổng hợp một cách thuần thục sẽ mang lại nhiều lợi ích. Vì việc dựa trên việc phân
tích tài liệu đã có cũng như thực tế sẽ giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện về vấn đề
nghiên cứu. Từ đó, chúng ta rút ra được những nội dung tổng hợp nhất, đầy đủ nhất
nhằm đáp
ứng được những nhiệm vụ và mục tiêu mà vấn đề đã đặt ra.
5.2.2 Phương pháp thực địa
Thực địa là phương pháp truyền thống được sử dụng trong các nghiên cứu
nói chung và đặc biệt quan trọng trong quá trình nghiên cứu các vấn đề địa lí kinh tế
- xã hội nói riêng. Vì vậy, trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng

phương pháp này để kiểm tra độ chính xác, tin cậy của các nguồn tài liệu đã thu
thập được.
Các nguồn tài liệu cần thu thập tương đối đa dạng, phong phú cần chọn lọc
chính xác. Đối với công tác nghiên cứu địa lý kinh tế - xã hội, trước hết cần quan
tâm đến các dạng thông tin sau: trình bày bằng văn bản, số liệu thống kê, các bản
đồ, các dạng khác (trên mạng, những cuộc điều tra,…).
5.2.3 Phương pháp bản đồ - biểu đồ
Phương pháp bản đồ là p
hương pháp đặc trưng của khoa học Địa lí, bởi vì
mọi nghiên cứu thuộc lĩnh vực địa lý kinh tế - xã hội đều mở đầu bằng bản đồ và

kết thúc bằng bản đồ. Ý nghĩa to lớn của nó là góp phần giải quyết nhiều nội dung
nghiên cứu như đánh giá các nguồn lực, phân tích hiện trạng theo ngành và theo
lãnh thổ. Sử dụng phương pháp này giúp c
ho các vấn đề nghiên cứu được cụ thể,
trực quan và toàn diện hơn. Ngày nay, phương pháp bản đồ ngày càng được hoàn
thiện và đem lại hiệu quả cao trong nghiên cứu nhờ kỹ thuật viễn thám và hệ thông
tin địa lý (GIS).
Ngoài ra, đề tài còn thể hiện các mối quan hệ địa lí thông qua hệ thống bảng
số liệu và biểu đồ.
5.2.4 Phương pháp sưu tầm
Đây là một phương pháp rất quan trọng vì trên cơ sở sưu tầm đư
ợc những số
liệu có liên quan đến nội dung nghiên cứu, chúng ta mới rút ra được các đặc điểm
về kinh tế biển huyện Gò Công Đông cũng như nhìn nhận, đánh giá chính xác mối
quan hệ giữa kinh tế biển và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
5.2.5 Phương pháp sử dụng hệ thông tin địa lý
Trong hai thập kỷ gần đây, công nghệ thông tin phát triển nhanh như vũ bã
o.
Việc sử dụng những thành tựu mới của nhân loại trong nghiên cứu địa lý kinh tế -
xã hội ngày càng được nhân rộng.
Hệ thông tin địa lý (GIS) là hệ thông tin đa dạng dùng để lưu trữ, xử lý, phân
tích, tổng hợp, điều hành và quản lý những dữ liệu không gian, đồng thời cho phép
lấy và trình bày thông tin dưới dạng dễ tiếp nhận, trao đổi và sử dụng. Có thể coi

đây là một công cụ hoặc là một phương pháp có hiệu quả trong nghiên cứu địa lý
kinh tế - xã hội. Nó cho phép chồng xếp các thông tin địa lý để xác định được
những đặc trưng của các đối tượng nghiên cứu với độ tin cậy cao.
5.2.6 Phương pháp dự báo
Đề tài sử dụng phương pháp dự báo dựa trên cơ sở tính toán từ các số liệu đã
thu thập được và sự phát triển có tính qui luật của các sự vật, hiện tượng tr

ong quá
khứ, hiện tại và tương lai.
6. Cấu trúc luận văn
Mở đầu
Chương 1: Cơ sở lí luận
Chương 2: Hiện trạng phát triển kinh tế biển huyện Gò Công Đông
Chương 3: Định hướng và các giải pháp phát triển kinh tế biển huyện Gò
Công Đông đến năm 2020.
Kiến nghị
Kết luận














Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Biển
1.1.1 Khái niệm về biển
Mặt nước bao la liền một dải của đại dương Thế giới chiếm 70,8% diện tích
bề mặt hành tinh của chúng ta. Tên gọi “đại dương” bắt nguồn từ tên riêng của con
sông thần thoại Okêan. Theo sự tưởng tượng của người Babylon và người Ai Cập

vào thời kỳ văn hóa sơ khai, con sông này bao quanh các đất nổi mà hình dạng như
một cái đĩa bằng phẳng. Sự phát t
riển của ngành hàng hải dần dần cho thấy rõ ràng
không phải là một con sông bao quanh các lục địa, nhưng tên riêng của con sông
thần thoại ấy vẫn còn lại.
Khi có sự thâm nhập của lục địa vào đại dương thì các đảo và bán đảo được
hình thành và ngược lại, khi có sự thâm nhập của đại dương vào lục địa thì các biển,
vịnh và eo biển được hình thành.
Biển là một bộ phận biệt lập của đại dương. Nó đư
ợc phân biệt bởi những
đặc điểm tự nhiên, chủ yếu là bởi những đặc điểm thủy văn và khí hậu. Nó có thể
nằm giữa hai lục địa, ăn sâu vào lục địa hoặc tách ra khỏi đại dương bởi các bán
đảo, đảo và địa hình ngầm.
Tùy thuộc vào đặc tính của sự tiếp xúc giữa lục địa và đại dương, các biển
được phân chia thành ba nhóm:
- Các biển giữa các lục địa. Các biển nà
y được bố trí giữa hai lục địa. Cần
chú ý rằng các biển giữa các lục địa nằm ở các vòng đai đứt gãy của vỏ Trái đất,
cho nên những nét đặt trưng của các biển này là sự chia cắt mạnh mẽ của đường bờ,
sự chênh lệch rõ rệt của độ sâu, hoạt động địa chấn và hoạt động núi lửa mạnh mẽ.
- Các biển trong lục địa. Các biển này ăn sâu vào tr
ong lục địa, nằm ở thềm
lục địa và có độ sâu không lớn.
- Các biển rìa lục địa. Các biển này được tách ra khỏi đại dương bởi các quần
đảo hay bán đảo, được nối với các đại dương trên những tuyến rộng. Các biển này
được bố trí hoặc là ở thềm lục địa với độ sâu nhỏ, hoặc là ở sườn lục địa với sự tăng
nha
nh đến độ sâu của đại dương..

Vị trí địa lý của biển quy định về nhiều mặt chế độ thủy văn của nó. Các biển

trong lục địa ít liên quan với đại dương, cho nên độ mặn của nước, chế độ của các
dòng biển và của thủy triều ở các biển này khác biệt rõ rệt so với đại dương.
1.1.2 Khái niệm về vùng ven biển
Từ trước đến nay có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về biển đã đưa
ra các định nghĩa khác nhau về vùng ven biển. Dưới đây là một số định nghĩa về
vùng ve
n biển đã được lựa chọn tùy theo từng quốc gia và từng lĩnh vực khoa học
cụ thể.
- Vùng ven biển (theo các nhà khoa học Nga) là dải ranh giới giữa đất liền và
biển, đặc trưng bởi sự có mặt phổ biến của các dạng địa hình bờ biển cổ và hiện đại.
Định nghĩa
này phù hợp với nghiên cứu môi trường và tài nguyên thiên nhiên,
nhưng hạn chế khi nghiên cứu về địa lý, nhân khẩu học và kinh tế học, không nêu
được những ảnh hưởng của biển đến các hoạt động kinh tế hướng tới biển.
- Vùng ven biển (theo Joe Baker – Viện khoa học biển Australia) là dải đất
rộng khoảng 3km dọc đường bờ biển, bao gồm phần kéo dài của biển đến ranh giới
ảnh hưởng của thủy triều vào trong đất liền. Định nghĩa
này đã đề cập đến tương tác
biển và lục địa nhưng vẫn còn hạn chế khi nghiên cứu về các tác động kinh tế - xã
hội trong quá trình khai thác lợi thế của biển.
- Vùng ven biển (theo định nghĩa của Tổ chức bảo tồn thiên nhiên Quốc tế)
là vùng tính sâu vào nội địa tới điểm ảnh hưởng của thủy triều lên các con sông,

suối và các vùng đất ngập nước, hoặc tính sâu vào nội địa 10 km, tùy theo khoảng
cách nào lớn hơn. Định nghĩa này thiên về nghiên cứu tài nguyên thiên nhiên. Các
tác giả theo quan điểm này cũng chưa chú ý đến các vấn đề về kinh tế - xã hội, dân
cư sinh sống và khai thác các nguồn lợi biển.
Khi phân tích các tác động kinh tế - xã hội và môi tường của phần lãnh thổ
sát biển với các vùng bị nhiễm mặn cho thấy các hoạt động kinh tế - xã hội của dân
cư m

ang những sắc thái đặc thù gắn với nguồn lợi ven biển. Quá trình khai phá
thềm lục địa, phát triển các lĩnh vực kinh tế hướng tới mở rộng kinh tế đối ngoại
qua đường hàng hải của dân cư các quốc gia có biển cho thấy các định nghĩa chung

về vùng ven biển phải đề cập không chỉ đến những tiêu chí khách quan về điều kiện
tự nhiên và tài nguyên vùng ven biển, mà còn phải phản ánh được các vấn đề về dân
cư và các hoạt động kinh tế - xã hội, đồng thời phải tuân thủ những điều luật Quốc
tế và Quốc gia về xác định chủ quyền, ranh giới và các vùng đặc quyền kinh tế của
một quốc gia trên biển. Như vậy, có thể phân định vùng ven biển là toàn bộ phần
đất liền ve
n biển và các hải đảo trên phần biển hải phận và vùng đặc quyền kinh tế
của một quốc gia. Đó là một không gian để bố trí các hoạt động kinh tế - xã hội
hướng biển.
1.2. Kinh tế biển
1.2.1 Khái niệm về kinh tế biển
Kinh tế biển là một ngành kinh tế có vai trò ngày càng quan trọng. Chính vì
thế định nghĩa cụ thể thế nà
o là kinh tế biển là việc làm rất có ý nghĩa.
Trước tiên, kinh tế biển phải được định nghĩa bằng cách tách ra giữa hoạt
động biển và phi biển.
Theo giáo sư Nguyễn Văn Hường (Tạp chí hoạt động khoa học kỹ thuật – số
5 năm 1996) đã viết: “Kinh tế biển là một lĩnh vực bao trùm gồm nhiều ngành hoạt
động liên quan đến biển như: thủy sản, du lịch, giao thông vận tải, dầu khí,…
nhằm
khai thác toàn bộ lợi ích mà biển có thể mang lại để phát triển đất nước”.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu một cách đơn giản: kinh tế biển là những hoạt
động kinh tế dựa trên việc khai thác các nguồn tài nguyên và môi trường biển.
Khi xem xét tới kinh tế biển, cũng cần đề cập đến kinh tế vùng ven biển ở
một mức độ cần thiết. Để có một khái niệm
mang tính quy ước khi phân tích, quan

niệm kinh tế biển bao gồm:
1) Toàn bộ các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển, chủ yếu gồm: 1. Kinh tế
Hàng hải (Vận tải biển và Dịch vụ cảng biển); 2. Hải sản (đánh bắt và nuôi trồng
hải sản); 3. Khai thác Dầu khí ngoài khơi; 4. Du lịch biển; 5. Làm muối; 6. Dịch vụ
tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn; 7. Kinh tế đảo. Có thể coi đây là quan niệm về ki
nh tế
biển theo nghĩa hẹp.

2) Các hoạt động kinh tế trực tiếp liên quan đến khai thác biển, tuy không
phải diễn ra trên biển nhưng những hoạt động kinh tế này là nhờ vào yếu tố biển
hoặc trực tiếp phục vụ các hoạt động kinh tế biển ở dải đất liền ven biển, bao gồm:
1. Đóng và sửa chữa tàu biển (hoạt động này cũng được xếp chung vào lĩnh vực
kinh tế hàng hải); 2. Công nghiệp chế biến dầu, khí; 3. Công nghiệp chế biến thuỷ,
hải sản; 4. Cung cấp dịch vụ biển; 5. Thông tin liên lạc (biển); 6. Nghiên cứu khoa

học - công nghệ biển, đào tạo nhân lực phục vụ phát triển kinh tế biển, điều tra cơ
bản về tài nguyên - môi trường biển. Có thể coi cách hiểu kinh tế biển bao gồm cả
các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển và các hoạt động kinh tế trực tiếp liên qua
n
đến khai thác biển ở dải đất liền ven biển là quan niệm về kinh tế biển theo nghĩa
rộng.
Cách quan niệm về kinh tế biển như vậy về cơ bản cũng thống nhất với
thông lệ quốc tế. Ví dụ, trong thống kê hàng năm về kinh tế biển của Trung Quốc,
tập hợp trong khái niệm về kinh tế biển bao gồm: hải sản, khai thác dầu và khí tự
nhiê
n ngoài khơi, các bãi biển, công nghiệp muối, đóng tàu biển, viễn thông và vận
tải biển, du lịch biển, giáo dục và khoa học biển, bảo vệ môi trường biển, dịch vụ
biển…
Hiện nay thế giới thống nhất kinh tế biển là nền kinh tế tổng thành của các
ngành công nghiệp do môi trường biển đem lại. Môi trường biển được định nghĩa là

những vùng biển Việt Nam có chủ quyền: mặt nước ven bờ, lãnh hải, vùng kinh tế
đặc quyền. Môi trường biển là một chức năng gồm cả công nghiệp và địa lý. Nhưng
trong các báo cáo tổng kết về ki
nh tế biển hiện nay, ta chỉ thấy một bức tranh không
toàn cục, chủ yếu là đánh bắt, dầu khí và vận tải. Tại các hội thảo về kinh tế biển,
người ta vẫn thấy những cái nhìn rời rạc, chưa có một nghiên cứu tổng thể để từ đó
lên kế hoạch cụ thể cho
từng ngành công nghiệp biển vừa nêu. Ở các nước, vẫn có
nhiều tranh cãi trong các phép đo của từng ngành công nghiệp biển, cũng như sự
đối kháng, xung đột của các ngành, kể cả những xung đột nhất định trong nội bộ
ngành. Chẳng hạn đánh bắt và nuôi trồng xung đột với nhau vì một bên gây ô nhiễm
môi trường, làm cho cá không sinh sản trong những vùng nước gần bờ đư
ợc. Chẳng

hạn khai thác dầu khí, khoáng sản thường gây ô nhiễm nước ảnh hưởng đến đời
sống hải sản… nếu không tính đến bài toán phát triển bền vững qua bảo vệ môi
trường một cách hữu hiệu, biển sẽ trở thành sa mạc nước.
Khác với kinh tế biển, kinh tế vùng ven biển là toàn bộ các hoạt động kinh tế
ở dải ven biển (có thể tính theo địa bàn các xã ven biển, các huyện ven biển hoặc
cũng có thể là các tỉnh ven biển - có biên giới đất liền tiếp giáp với b
iển), bao gồm
cả các lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp; công nghiệp và dịch vụ trên phạm vi địa bàn
lãnh thổ này
1.2.2 Cơ cấu của kinh tế biển
Cơ cấu kinh tế là tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế có quan hệ
hữu cơ tương đối ổn định hợp thành. Từ định nghĩa này có thể nhấn mạnh đến hai
nội dung chủ yếu: t
hứ nhất, đó là tổng thể các bộ phận hợp thành và thứ hai, chúng
có mối quan hệ hữu cơ tương đối ổn định.
Cơ cấu ngành (lĩnh vực) kinh tế là một bộ phận cấu thành cơ bản của nền

kinh tế quốc dân. Đây là tổng hợp các ngành (lĩnh vực) của nền kinh tế được sắp
xếp t
heo một tương quan tỷ lệ nhất định. Nói cách khác, cơ cấu ngành thể hiện số
lượng, tỷ trọng của ngành (lĩnh vực) tạo nên nền kinh tế.
Có rất nhiều ngành tạo thành nền kinh tế. Về đại thể, chúng được phân thành
ba nhóm ngành sau đây:
- Khu vực 1 bao gồm: nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp.
- Khu vực 2 bao gồm: công nghiệp và xây dựng.
- Khu vực 3 là dịch vụ.
Cần lưu ý thêm, trong nền ki
nh tế có cơ cấu ngành thì trong bản thân từng
ngành cũng tồn tại cơ cấu đó. Chẳng hạn, cơ cấu ngành của ngư nghiệp là tương
quan tỷ trọng giữa đánh bắt và nuôi trồng thủy hải sản,...
Cơ cấu kinh tế biển theo nghĩa hẹp bao gồm: 1. Kinh tế Hàng hải (Vận tải
biển và Dịch vụ cảng biển); 2. Hải sản (đánh bắt và nuôi trồng hải sản); 3. K
hai thác
Dầu khí ngoài khơi; 4. Du lịch biển; 5. Làm muối.


1.2.2.1 Kinh tế hàng hải
Đại dương, biển chiếm gần 71% bề mặt của hành tinh xanh. Lịch sử tiến hóa
của loài người luôn được gắn kết với biển. Văn minh nhân loại càng phát triển thì
giá trị của biển càng được tôn vinh. Ngành hàng hải ra đời, biển chẳng những là cầu
nối giữa các châu lục, các quốc gia mà còn là tài sản vô giá của Trái đất.
Từ sau những cuộc phát kiến địa lý lớn, ngành hàng hải mới chính thức ra
đời và phát triển khá nha
nh cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản Thế giới,
với sự trao đổi hàng hóa giữa các nước có chuyên môn hóa kinh tế khác nhau, giữa
chính quốc và các nước thuộc địa, giữa các nước có nền kinh tế phát triển và các
nước kém phát triển.

Ngành vận tải biển là ngành mang tính chất kinh doanh, phục vụ trong khâu
vận chuyển hàng hải bằng đường biển và xếp dỡ hàng hóa tại cảng biển. Khâu vận
chuyển c
ó nhiệm vụ tổ chức khai thác và kinh doanh tàu biển hoạt động trên một
địa bàn rộng lớn. Khâu xếp dỡ có nhiệm vụ tổ chức khai thác và kinh doanh các
hoạt động sản xuất, phục vụ ở cảng biển.
Vận tải biển ra đời khá sớm so với các phương thức vận tải khác. Ngay từ
thế kỷ thứ V trước công nguyên, con người đã biết lợi dụng biển làm các tuyến
đư
ờng giao thông để giao lưu các vùng miền, các quốc gia với nhau trên thế giới.
Cho đến nay, vận tải biển được phát triển mạnh và trở thành ngành vận tải hiện đại
trong hệ thống vận tải quốc tế.
Khối lượng hàng hóa vận chuyển bằng đường biển không lớn, nhưng vì
đường dài nên hiện nay đường biển đảm đương tới 3/5 khối lượng luân chuyển
hàng hóa của tất cả các phương tiện vận tải trên Thế giới. Không chỉ có các tuyến
viễn dương có ý nghĩa qua
n trọng, mà cả các tuyến vận tải ven bờ cũng có ý nghĩa
đối với các nước có đường bờ biển.
Các tuyến hàng hải thường được chia thành ba loại: từ cảng đến cảng (port –
to – port), tuyến con lắc (pendulum) và vòng quanh Thế giới (round the world). Các
dịch vụ kiểu con lắc rất được ưa chuộng do tính chất uyển chuyển trong dịch vụ và

đặc biệt là trong thời đại chuyên chở bằng các tàu container. Trong những năm gần

đây, còn có khuynh hướng tích hợp và chuyên môn hóa các tuyến đường biển nhờ
các tàu chuyển tải đường ngắn nối các cảng lớn với nhau.
Đại dương bao la nhưng các tuyến đường hàng hải lại chỉ tập trung ở một số
tuyến quan trọng: Bắc Đại Tây Dương nối Châu Âu và Bắc Mỹ, Địa Trung Hải –
Châu Á qua kênh Suez, thông qua kênh Panama nối Châu Âu và bờ Đông Hoa Kỳ
và Châu Á, đường biển Nam Phi nối Châu Âu qua Châu Mỹ với Châu Phi, đường

biển Nam Mỹ nối Châu Âu và Bắc Mỹ với Nam Mỹ, đư
ờng Biển Bắc Thái Bình
Dương nối Tây Hoa Kỳ với Nhật Bản và Trung Quốc, đường biển Nam Thái Bình
Dương từ Tây Hoa Kỳ đến Ôxtrâylia, Niu Dilân, Inđônêsia và Nam Á. Đường biển
từ vùng vịnh Pecxich qua mũi Hảo Vọng (Nam Phi) đến Châu Âu và Châu Mỹ dành
riêng cho các tàu chở dầu khổng lồ không đi qua được kênh Suez.
Vận tải đường biển là loại phương tiện vận tải hàng hóa chủ yếu nhất trong
thương mại quốc tế. Trước khi Thế giới bước và
o kỷ nguyên của các chuyến bay
liên lục địa thì vận chuyển hành khách bằng tàu biển khá quan trọng, nhất là ở Bắc
Đại Tây Dương, nối Châu Âu với Bắc Mỹ. Vào năm 1838, vượt Đại Tây Dương hết
15,5 ngày (tàu Great Western), thì đến đầu thế kỷ XX chỉ còn 4,5 ngày (tàu
Mauritania, 1907) và đến năm 1952 chỉ còn 3,5 ngày (tàu United States, 1952).
Nhưng cũng từ thời điểm đó, vận tải hàng không đã chiếm mất vị trí độc tôn của tàu
vận tải khá
ch xuyên Đại Tây Dương. Hiện nay, chỉ còn một số tàu chở khách viễn
dương nhằm mục tiêu du lịch, các phà biển (ferries) hay các tàu chở khách nhỏ như
các nước quần đảo Inđônêxia, Philippin, các nước vùng Caribê. Trong khi việc
chuyên chở hành khách bằng đường biển giảm sút thì việc chuyên chở dầu mỏ, các
hàng hóa khác lại tăng lên mạnh. Việc chuyên chở các loại khoáng sản, gỗ, ngũ
cốc,… vẫn còn chiếm một khối lượng lớn, từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, việc
chuyên chở các loại hàng c
hế biến ngày càng tăng mạnh.
Khoảng ½ khối lượng hàng vận chuyển trên đường biển quốc tế là dầu mỏ và
các sản phẩm dầu mỏ. Việc chở dầu bàng các tanke luôn đe dọa ô nhiễm môi
trường. Toàn Thế giới có hàng trăm tàu chở dầu c
ó trọng tải trên 100 nghìn tấn
đang hoạt động. Tàu chở dầu chở tới hơn 300 loại sản phẩm dầu mỏ và mỡ. Mỗi khi

lấy hàng, người ta xả nước, nước nóng vào các khoang để rửa sạnh tàu rồi trút nước

và cặn bẩn xuống biển. Theo đánh giá của UNEP (Chương trình môi trường của
Liên Hợp Quốc) năm 1987, thì mỗi năm các tàu chở dầu trút xuống biển 1,1 triệu
tấn dầu mỏ từ nước rửa tàu và nước trọng tải dầu, cộng thêm khoảng 500 nghìn tấn
dầu do các sự cố tàu dầu.
Hiện nay, khoảng 100000 tàu biển có trọng tải trên 100 tấn đang hoạt động
khắp Thế giới, trong đó ½ làm
nhiệm vụ trọng tải, còn ½ làm nhiệm vụ dịch vụ.
Cùng với sự mở rộng buôn bán quốc tế, đội tàu biển đã tăng lên cả về số lượng và
trọng tải trung bình.
Trong đời sống ngành hàng hải Thế giới phổ biến hiện tượng chủ tàu mượn
cờ của nước khác, chẳng hạn gần như toàn bộ đội tanke của Libêr
ia và Panama là
thuộc về các chủ tàu Hoa Kỳ, Hi Lạp và một số nước khác. Điều này giải thích tại
sao có các quốc gia tuy không đóng vai trò lớn trong nền kinh tế Thế giới nhưng lại
có đội tàu buôn với trọng tải rất lớn.
Đội tàu buôn được chia thành tàu chở khách, tàu chở hàng (cargo ship) và
tàu chở dầu (tanke). Các tàu hàng thông thường có thể chở hàng được đóng gói,
hàng rót (quặng, ngũ cốc) và cả một số hàng lỏng (mủ cao s
u, dầu ăn,..). Có những
tàu hàng được thiết kế chuyên dụng để chuyên chở ô tô, ngũ cốc.
Đối với địa lý vận tải đường biển, mạng lưới các cảng biển có ý nghĩa căn
bản. Cảng biển là nơi tàu đỗ tiện lợi và an toàn, nơi có thể tiến hành bốc dỡ hàng
hóa và xếp hàng mới. Thường thì các cảng tự nhiên được xây dựng ở bờ vịnh nước
sâu ha
y ở các cửa sông. Người ta thường phân loại các cảng thành cảng địa phương,
cảng khu vực hay cảng quốc tế, cảng chuyển tải, cảng bách hóa hay cảng chuyên
dụng.
Lịch sử của ngành đường biển thế giới cho thấy kinh tế biển luôn được coi là
ngành mũi nhọn, trong đó vai trò chủ đạo là cảng biển. Nơi nào có cảng biển, nơi
đó sẽ là thành phố với kinh tế, công nghiệp và giao thương phát triển. Cảng biển

phồn vi
nh, kinh tế biển càng mạnh.

Cảng biển là kết cấu hạ tầng quan trọng của kinh tế hàng hải, nó phải đi
trước một bước để thúc đẩy các ngành kinh tế biển khác phát triển. Vì vậy cần phải
có một quy hoạch cụ thể, phù hợp vì hoạt động của một cảng biển tồn tại đến hàng
trăm năm hoặc lâu hơn thế. Chẳng hạn cảng Rotterdam của Hà Lan hình thành từ
những năm
1860 đến nay đã gần 150 năm mà vẫn còn sầm uất, hiện nay vẫn là cảng
lớn nhất Châu Âu và còn một số cảng khác như: cảng London của Anh, cảng
Hamburg của Đức, cảng Antwerp của Bỉ cũng tương đồng ý nghĩa đó.
Cảng nằm trong một hệ thống phân phối hàng hóa. Vì vậy, để phân tích sự
phát triển và hoạt động của cảng, người ta phải quan tâm đến hậu phương
(hinterland) và vùng trước cảng (foreland). Hậu phương của cảng có thể được h
iểu
là một bộ phận lãnh thổ của đất nước tạo nên thị trường tự nhiên và phục vụ cho
cảng. Vùng trước cảng có thể được hiểu là vùng đất đối diện với hậu phương của
cảng qua vùng biển, nơi mà hàng hóa được chở từ đó đến cảng và ngược lại. Vùng
trước cảng xác định sự tham gia của cảng vào nền ki
nh tế Thế giới. Hiện trên Thế
giới có khoảng 6000 – 7000 cảng đang hoạt động, nhưng chỉ khoảng 100 có ý nghĩa
toàn cầu.
Cuối cùng, cần phải đề cập đến ba vị trí địa lý chiến lược cực kỳ quan trọng
trong hàng hải Thế giới hiện đại: kênh Suez (được đào cắt ngang eo đất Suez của Ai
Cập, nối Đại Tây Dương với Ấn Độ Dương)
, kênh Panama (cắt qua eo đất Panama
rộng 50 km là con đường ngắn nhất nối Thái Bình Dương và Đại Tây Dương) và eo
biển Malacca.
1.2.2.2 Hải sản
Nguồn lợi hải sản là thế mạnh đặc trưng của biển và khi nói về kinh tế biển

không thể không nhắc đến vai trò, vị trí của ngành. Ngành hải sản bao gồm các lĩnh
vực như: khai thác, nuôi trồng, chế biến.
Tài nguyên sinh vật biển rất phong phú, đa dạng, bao gồm ng
uồn lợi động
vật biển (cá, tôm, cua, các loài động vật thân mềm (mực, bào ngư, trai ngọc,…) và
nhiều động vật có giá trị cả về kinh tế và nghiên cứu đa dạng sinh học biển như: rùa
biển, sứa,…) và thực vật biển (rong biển). Sức sản xuất nguyên khai của biển

khoảng 500 tỷ tấn/năm và sản lượng hàng năm đạt khoảng 600 triệu tấn. Đây là
tiềm năng rất lớn đối với ngành khai thác thủy sản của Thế giới.
Theo thống kê của FAO, hiện nay toàn Thế giới có hơn 160 quốc gia làm
kinh tế thủy sản, trong đó có hơn 20 quốc gia có sản lượng đánh bắt cá biển trên 1
triệu tấn/năm thuộc Châu Á, Châu Âu, Châu Mỹ.
Sản lượng khai thác thủy sản từ nửa sau thế kỷ XX cho đến nay ngày càng
tăng nhanh. Vào những năm 1950, sản lượng khai thác gần 20 triệu tấn thì đến
những năm đầu của thế kỷ XXI, sản lượng thủy sản khai thác đạt gần 100 triệu tấn.
Các nước có sản lượng đánh bắt thủy sản lớn nhất Thế giới là Trung Quốc (gần 18
triệu tấn), Pêru (gần 8 triệu tấn), Hoa Kì (5 triệu tấn)
, Nhật Bản (4,8 triệu tấn),
Inđônêxia (4,3 triệu tấn), Chilê (4 triệu tấn), Ấn Độ (3,9 triệu tấn), Liên Bang Nga
(3,7 triệu tấn), Thái Lan (2,9 triệu tấn) và Na Uy (2,8 triệu tấn). Đến năm 2007, Việt
Nam được đánh giá là một trong những quốc gia có tiềm năng khai thác hải sản trên
biển, xếp thứ 12 trên thế giới về năng lực đánh bắt với sản lượng luôn ổn định ở
mức 1,5 - 1,8 triệu tấn/năm.
Ngành khai thác thủy sản đòi hỏi phải có cơ sở vật chất kỹ thuật đồng bộ. Đó
là các đội tàu đá
nh cá lớn với tàu chế biến đi kèm, lưới tốt, thiết bị hiện đại thăm dò
luồng cá, các cảng cá, xí nghiệp sửa chữa tàu, chế tạo ngư cụ, các cơ sở hậu cần
dịch vụ,…
Tuy nhiên, việc khai thác thủy sản quá

mức ảnh hưởng lớn đến nguồn lợi
thủy sản. Vì vậy, vấn đề khai thác hợp lý kết hợp với bảo vệ và phát triển nguồn tài
nguyên thủy sản có ý nghĩa to lớn. Một số ngư trường, chẳng hạn bãi cá thu Grand
Banks ngoài khơi phía đông Canada, đã bị khai thác vượt quá khả năng phục hồi.
Đánh bắt cá quá mức đã trở thành một vấn đề lớn. The
o báo cáo của Liên Hiệp
Quốc, hơn 25% ngư trường trên toàn thế giới bị khai thác quá mức, 50% bị đánh bắt
hết công suất và 75% cần được cấm hoặc giảm tốc độ đánh bắt ngay lập tức để đảm
bảo nguồn cá cho tương lai.
Các ngư trường khai thác thủy sản chủ yếu trên Thế Giới là Biển Bắc, Đông
Bắc Đại Tây Dương, Tây Bắc Đại Tây Dương, Trung Tâm Tây Đại Tây Dương,


Tây Nam Đại Tây Dương, Bắc Địa Trung Hải, Đông Ấn Độ Dương, Tây Bắc Thái
Bình Dương, Đông và Đông Bắc Thái Bình Dương, Tây Nam Thái Bình Dương
Tuy việc đánh bắt từ biển vẫn còn cung cấp cho Thế giới tới 2/3 sản lượng
thủy sản, song ngành nuôi trồng đã và đang phát triển nhanh với vị thế ngày càng
cao. Rõ ràng, nguồn tài nguyên biển là có giới hạn, lại đang bị con người khai thác
quá mức. Để đáp ứng nhu cầu ngà
y càng tăng của Thế giới, việc phát triển nuôi
trồng thủy sản có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Sản lượng thủy sản nuôi trồng của Thế giới từ năm 1950 đến nay tăng gấp 3
lần, đạt trên 48 triệu tấn. Các loài thủy sản được nuôi ở các vùng nước lợ và nước
mặn ngày càng phổ biến với nhiều loài có giá trị cao về thực phẩm, về ki
nh tế đã trở
thành đối tượng nuôi trồng để xuất khẩu như tôm (tôm sú, tôm hùm,..), cua, cá…
Ngành nuôi trồng phát triển mạnh ở các nước Châu Á như Trung Quốc, Ấn
Độ, Nhật Bản, Philippin,…Ngoài ra còn có các nước khác như Bănglađet, Hàn
Quốc, Chilê,…
Sự tăng trưởng của các hoạt động nuôi trồng, khai thác, đánh bắt, chế biến

thủy hải sản là lĩnh vực quan trọng đối với phát triển kinh tế biển,
phát triển kinh tế
- xã hội vùng biển. Trong đó năng lực đánh bắt thủy sản phụ thuộc vào việc trang bị
cơ giới và công suất động lực của tàu thuyền. Và bên cạnh các hoạt động khai thác,
đánh bắt hải sản tự nhiên thì việc đầu tư nuôi thủy sản cũng đã được phát triển rộng
rãi, trở thành một nghề mới có ý nghĩa quan trọng của đông đảo dân cư vùng biển.
Hoạt động nuôi trồng thủy sản đa dạng, tập t
rung vào các loại sản phẩm có giá trị
kinh tế cao và phù hợp với điều kiện sinh thái của mỗi địa phương. Kế đến là hoạt
động chế biến thủy hải sản, đây là biện pháp tốt nhất nhằm bảo quản các sản phẩm
thủy hải sản từ hoạt động đánh bắt và nuôi trồng.
Nguồn nguyên liệu hải sản dồi dà
o cung cấp cho các ngành công nghiệp chế
biến, tạo một bước khởi đầu quan trọng cho ngành công nghiệp chế biến thực phẩm
phát triển. Trên Thế giới, ngành công nghiệp chế biến hải sản rất phát triển và ngày
càng có vai trò quan trọng trong cuộc sống con người, góp phần tăng giá trị của các
nguồn tài nguyên trong lòng biển cả.

1.2.2.3 Khai thác dầu khí ngoài khơi
Trong điều kiện thuận lợi, trải qua những biến đổi địa chất, dầu mỏ được tạo
thành tích tụ ở các lớp đá phù hợp (côlectơ) có độ nức nẻ hay có độ rỗng và có khả
năng chứa dầu. Tập hợp các vỉa dầu ở một khu vực nhất định của vỏ Trái đất tạo
nên mỏ dầu. Dầu có thể di chuyển theo các khe nứt ha
y lỗ rỗng của đá giúp cho việc
khai thác được dễ dàng. Người ta khai thác dầu từ các giếng với lỗ khoan hẹp khoan
trong đá cho tới vỉa chứa dầu. Sau khi khoan tới vỉa chứa dầu, dầu thô được hút lên
mặt đất. Khi vỉa dầu còn đủ áp lực thì dầu theo giếng đi lên và tràn ra mặt đất. Khi
áp suất trong vỉa tuột xuống, giếng không tự phun được, người ta phải dùng bơm.
Dầu từ vỉa đư
ợc hút và bơm lên các bể chứa rồi được vận chuyển bằng đường ống

tới các trung tâm lọc, hóa dầu.
Dầu mỏ và các sản phẩm của nó được dùng làm nhiên liệu chiếm vị trí số
một trong số các loại nhiên liệu do dễ sử dụng, vận chuyển và có khả năng sinh
nhiệt cao (10000 – 11500 kcal/kg). Dầu mỏ, khí đốt là nguồn năng lượng mới, chỉ
thực sự được sử dụng nhiều vào nửa sau thế kỷ XX, từ 2% năm 1860 lên 4% năm
1900, đến 26% năm 1940 và 44% năm 1960 rồi đạt cực đại vào thập kỷ 80 gắn liền
với sự phát triển của ngành giao thông vận tải, công nghiệp hóa chất, đặc biệt là hóa
dầu…Dầu mỏ đư
ợc coi là “vàng đen” của đất nước.
Khí thiên nhiên trong một thời gian dài bị coi thường. Khí đồng hành ở các
mỏ dầu đã bị đốt đi một cách phí phạm
. Ngày nay, khí thiên nhiên là nhiên liệu
sạch, có hiệu quả, ít gây ô nhiễm môi trường hơn so với việc sử dụng than và dầu
nên được tận dụng một cách triệt để.
Trung Đông là khu vực có tiềm năng cực lớn về dầu mỏ và chiếm tới 65%
trữ lượng của Thế giới. Tiếp theo với trữ lượng nhỏ hơn nhiều là Châu Phi (9,3%),
Liên Xô cũ và Đông Âu (7,9%), Trung và Nam Mỹ (7,2%). Nếu phâ
n theo nhóm
nước thì hơn 80% trữ lượng dầu mỏ toàn cầu tập trung ở các nước đang phát triển.
Trữ lượng khí đốt nhiều nhất cũng thuộc về Trung Đông, Liên Xô cũ và Đông Âu,
Châu Phi, Viễn Đông – ASEAN.

Nhờ những tiến bộ về khoa học công nghệ mà con người ngày càng phát
hiện thêm nhiều mỏ dầu – khí mới, làm cho trữ lượng của chúng tăng lên đáng kể.
Theo đánh giá của các chuyên gia, trữ lượng ước tính của dầu mỏ từ 400 đến 500 tỉ
tấn, còn trữ lượng chắc chắn khoảng 140 tỉ tấn và khoảng 190 nghìn tỉ m
3
khí đốt.
Công việc thăm dò, khai thác và lọc hóa dầu đòi hỏi trình độ khoa học công
nghệ cao, vốn đầu tư lớn, khả năng quản lý giỏi về kinh tế. Vì thế, việc điều hành,

quản lý công tác thăm dò khai thác và chế biến dầu hiện nay là độc quyền của một
số công ty và tập đoàn dầu khí lớn như Exxon, Shell, Mobil, BP,…Các nước đang
phát triển giàu nguồn tài nguyên này đều phải hợp tác, liên doanh và chia sẻ quyền
lợi với các công ty dầu mỏ hàng đầu Thế giới.
Dầu khí là tài nguyê
n mũi nhọn, có ưu thế nổi trội nhất của biển. Hiện nay,
tại các khu vực có tiềm năng dầu khí cao, đang có các hoạt động khai thác với quy
mô ngày càng lớn, góp phần quan trọng vào việc thay đổi cơ cấu năng lượng của cả
Thế giới. Và khí thiên nhiên cũng là một nguồn tài nguyên to lớn, có thể đáp ứng
nhu cầu tiêu thụ năng lượng của c
ác ngành công nghiệp.
1.2.2.4 Du lịch biển
Du lịch được hiểu là sự lữ hành để nhằm mục đích giải trí hoặc tìm hiểu.
Thường thì du khách đi thành các nhóm hoặc cá nhân.
Du lịch “là một tập hợp các hoạt động và dịch vụ đa dạng, liên quan đến việc
di chuyển tạm thời của con người ra khỏi nơi ở thường xuyên của họ nhằm mục
đích tiêu khiển, nghỉ ngơi, văn hóa, dưỡng sức,…và nhìn chung l
à vì những lí do
không phải để kiếm sống” (WTO,1994).
Du lịch biển là ngành du lịch nhằm tận dụng các cảnh quan và sinh thái vùng
ven biển đáp ứng nhu cầu hưởng thụ cho du khách. Các tài nguyên phục vụ hoạt
động du lịch biển bao gồm tài nguyên du lịch tự nhiên (các bãi biển, hệ thống các
đảo và quần đảo, nguồn nước, tài nguyên sinh vật,…) và tài nguyên du lịch nhân
văn (các lễ hội, hoạt động thể thao,…), có thể khai thác, phát triển nhiều l
oại hình
du lịch: tham quan, nghỉ dưỡng, chữa bệnh, nghiên cứu, giải trí, thể thao,…
- Tài nguyên du lịch tự nhiên phục vụ du lịch biển

+ Kiểu địa hình ven bờ, đặc biệt là các bãi cát ven biển, đảo, thường được
gọi là các bãi biển. Địa hình tự nhiên đa dạng của dải ven biển tạo ra những thắng

cảnh đẹp. Các bãi biển, hệ thống các đảo và quần đảo đóng một vai trò quan trọng
trong việc sử dụng tiềm năng tự nhiên của biển vào mục đích nghỉ ngơi và du lịch
biển.
Các bãi biển hấp dẫn du khách và thuận lợi phát triển các loại hình du lịch
tắm b
iển, lặn biển, thể thao biển, nghỉ dưỡng chữa bệnh cần có các điều kiện: có bãi
cát trắng, mịn, chiều dài và chiều rộng lớn, có độ dốc từ 1 – 3
0
, nước biển có độ
trong suốt cao từ 3 – 5m, độ mặn từ 2,5% - 4%, đảm bảo các tiêu chuẩn lý hóa sinh
không bị ô nhiễm, độ sâu của bãi tắm không quá 1,5m, độ sâu của các vùng ven bờ
phát triển du lịch lặn biển thường từ 20 – 30m. Những bãi biển có độ dốc lớn hơn
3
0
, độ sâu trên 1,5m, độ mặn trên 4% hoặc nhỏ hơn 2,5%, sóng cao trên 1,5m, độ
trong suốt dưới 0,5m, nước bị ô nhiễm đều không thuận lợi cho hoạt động tắm biển.
+ Ngoài ra, để phát triển du lịch biển còn cần có sự kết hợp các điều kiện địa
hình với điều kiện nước biển và khí hậu. Khí hậu ấm áp, nhiều nắng thuận lợi cho
phát triển du lịch biển. Khí hậu vùng ven biển thường là môi trường nghỉ dưỡng an
toàn cho du khách. Chính sự phân bố các vùng khí hậu khác nha
u đã tạo ra mức độ
thuận lợi khác nhau trong việc sử dụng các bãi biển vào mục đích nghỉ ngơi và du
lịch. Theo các nhà khí hậu học, vùng ven biển có khí hậu rất thuận lợi cho hoạt
động du lịch vì nhiệt độ ở đây cũng không quá nóng và cũng không quá lạnh như ở
lục địa.
Tài nguyên sinh vật vùng ven biển đa dạng, phong phú, là tiền đề phát triển
loại hình du lịch sinh thái, tham quan, nghiên cứu khoa học như: hệ thống rừng
ngập mặn, san hô,

- Tài nguyên du lịch nhân văn phục vụ du lịch biển

Các di tích lịch sử văn hóa, các lễ hội, các làng nghề truyền thống đã gắn
chặt với đời sống người dân vùng biển đang là một lợi thế khai thác du lịch biển,
nhất là nghệ thuật ẩm thực vùng biển, một sắc thái rất riêng của vùng biển là một tài
nguyên du lịch tạo sức hấp dẫn và lôi cuốn du khác
h một cách mạnh mẽ.

Tài nguyên nước ở vùng ven biển cho phép khai thác nhiều loại hình du lịch
tùy thuộc vào lưu lượng dòng chảy, chế độ sóng có thể khai thác các loại hình du
lịch như tắm biển (đây là loại hình phổ biến nhất), lặn, tham quan đáy biển hoặc các
hoạt động thể thao diễn ra trên biển như thuyền buồm, lướt ván, du thuyền,…
Hiện nay, du lịch biển đang trở thành một chiến lược phát triển của ngành du
lịch, đem lại nguồn thu lớn, góp phần tăng thu nhập c
ho người dân cũng như nguồn
ngân sách. Theo UNWTO (Tổ chức du lịch Thế giới), có hơn 70% số du khách rất
thích đi du lịch biển.
1.2.2.5 Làm muối
Khai thác muối biển là một nghề truyền t
hống và giữ vị trí quan trọng đối
với đời sống nhân dân vùng ven biển. Muối là một khoáng chất, được con người sử
dụng như một thứ gia vị. Đó là một chất rắn có dạng tinh t
hể, có màu từ trắng tới có
vết của màu hồng hay xám rất nhạt, thu được từ nước biển hay các
mỏ muối. Muối
thu được từ nước biển có các tinh thể nhỏ hoặc lớn hơn muối mỏ. Trong tự nhiên,
muối có thể thu được bằng cách cho bay hơi nước biển dưới ánh nắng trong các
ruộng muối.
Tài nguyên muối và c
ác hóa phẩm biển chủ yếu là các loại muối như: NaCl,
MgCl, MgSO, CaSO, CaCO,…Trong đó, chủ yếu là NaCl là nguồn thực phẩm tối
cần thiết của cuộc sống và nguyên liệu để điều chế các hóa phẩm công nghiệp khác

từ nước biển như Magiê, Clo, Brôm, Kali hay sản xuất axit clohydric,…
1.3. Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
1.3.1 Môi trường và phát triển bền vững
1.3.1.1 Môi trường
Trong khái niệm chung, môi trường đư
ợc hiểu là toàn bộ các yếu tố của hoàn
cảnh xung quanh, tạo nên điều kiện tồn tại và phát triển của một chủ thể nào đó.
Chính vì thế có nhiều định nghĩa khác nhau về môi trường. Trong giáo dục học,
người ta nói đến môi trường giáo dục; trong kinh tế học có khái niệm về môi trường
kinh tế - xã hội; trong sinh học, người ta nói đến môi trường sống. Trong “Từ điển
đa dạng sinh học và phát triển bền vững Anh Việt” khái niệm mô
i trường được định

nghĩa là toàn bộ các điều kiện bao gồm những yếu tố không sống (các chất hóa học,
năng lượng,…) và các yếu tố sống (vật dữ, con mồi, vật ký sinh,…) có tác động lên
đời sống của sinh vật hoặc một hệ thống đặc trưng khác.
Môi trường tự nhiên là bộ phận hợp thành của môi trường sống và sản xuất
của loài người, là bộ phận của môi trường xung quanh. Môi trường tự nhi
ên bao
gồm toàn bộ các đối tượng của thiên nhiên sống và không sống bao quanh con
người, các đối tượng không chịu ảnh hưởng của hoạt động của con người, những
đối tượng đã chịu những biến đổi ở những mức độ khác nhau, nhưng phần nào hay
hoàn toàn còn giữ được khả năng tự phát triển (ví dụ như: các khu rừng bị chặt, đất
bỏ hóa,…)
Định nghĩa về mô
i trường của Ngân hàng Thế giới (WB, 1980): Môi trường
là tổng hợp những nhân tố vật lý, hoá học, sinh học, kinh tế xã hội có tác động đến
một cá thể, quần thể hoặc một cộng đồng.
Định nghiã của Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP): Môi
trường bao gồm các yếu tố vật lý, hoá học, sinh học, kinh tế xã hội có tác động đến

con người. Con người là trung tâm của môi trường, không có con người không có
môi trường. Định nghĩa này quá t
hiên về môi trường con người.
Định nghiã của UNESCO (1981): Môi trường của con người bao gồm toàn
bộ các hệ thống tự nhiên và các hệ thống do con người tạo ra, những cái hữu hình
(tập quán, niềm tin,…), trong đó con người sống và lao động, họ khai thác các tài
nguyên tự nhiên và nhân tạo nhằm thỏa mãn những nhu cầu của mình.
Định nghiã của Từ điển bách khoa môi trường (Sylbil P.Parker, 1980): Môi
trường là tổng của tất cả các điều kiện ở bên ngoài và c
ó ảnh hưởng đáng kể đến sự
sống và sự phát triển của sinh vật.
Hiện nay có nhiều định nghĩa về môi trường, nhưng định nghĩa sau đây được
thừa nhận về mặt pháp lý: Môi trường bao gồm tất cả các yếu tố tự nhiên và yếu tố
vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng
đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiê
n.

×