Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Rủi ro và quản lý rủi ro

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.94 KB, 27 trang )

Rủi ro và quản lý rủi ro
Mục Lục
Phần 2. RỦI RO TÍN DỤNG................................................................................................5
1.Bản chất............................................................................................................................5
2.Nguyên nhân của rủi ro tín dụng..................................................................................5
2.1.Nguyên nhân thuộc về người vay...........................................................................5
2.2.Nguyên nhân thuộc về ngân hàng........................................................................6
3.Các chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng..........................................................................6
3.1.Nợ quá hạn...............................................................................................................6
________________________________________________________________________
1
Rủi ro và quản lý rủi ro
Lời nói đầu
Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại,tùy
thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại
thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng.
Ngân hàng lại là tổ chức thu hết tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh
nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội. Ngân hàng đóng vai trò thủ quy cho toàn xã hội. Thu nhập từ ngân hàng là nguồn
thu nhập quan trọng của nhiều hộ gia đình. Bên cạnh đó, ngân hàng là tổ chức cho vay chủ yếu đối với doanh nghiệp,
cá nhân, hộ gia đình và một phần đối với Nhà nước. Đối với các doanh nghiệp, ngân hàng thường là tổ chức cung cấp
tín dụng để phục vụ cho việc mua hàng hóa dự trữ hoặc xây dựng nhà máy, mua sắm trang thiết bị … Khi doanh
nghiệp và người tiêu dùng phải thanh toán cho các khỏan mua hàng hóa và dịch vụ, họ thường sử dụng séc ủy nhiệm
chi, thẻ tín dụng hay tài khoản điện tử. Và khi họ cần thông tin tài chính, họ thường đến các ngân hàng để nhận được
lời tư vấn. Các khoản tín dụng cho chính phủ của ngân hàng là nguồn tài chính quan trọng để đầu tư phát triển.
Do đó, hoạt động của ngân hàng thương mại thường ảnh hưởng trực tiếp đến sự ổn định của nền kinh tế. Ngân hàng thương mại
có vận hành trơn tru thì nền kinh tế mới có thể, phát triển bền vững.
Tuy nhiên, hoạt động của ngân hàng thương mại lại thường ẩn chứa rất nhiều những rủi ro. Một ngân hàng thương mại
có thể phải đối mặt với các loại rủi ro sau :
- Rủi ro tín dụng.
- Rủi ro về nguồn vốn.
- Rủi ro về lãi suất.


- Rủi ro hối đoái.
- Rủi ro trong thanh toán.
- Các rủi ro thuần túy ( động đất, hỏa hoạn … ).
- Rủi ro mất khả năng chi trả ( đây thường là hậu quả của một hay nhiều rủi ro nêu trêu ).
Trong đó, rủi ro tín dụng là loại rủi ro lớn nhất, thường xuyên xảy ra và thường gây ra hậu quả nặng nề nhất cho ngân hàng
thương mại. Bên cạnh đó, rủi ro lãi suất cũng thường đem lại tổn thất cho ngân hàng, và ở một khía cạnh nào đó, nó
cũng là nhân tố góp phần gây ra rủi ro tín dụng.
Việc nghiên cứu ảnh hưởng của rủi ro tín dụng và rủi ro lãi suất để từ đó đưa ra giải pháp quản lý hai loại rủi ro này là
rất cần thiết đối với ngân hàng thương mại. Có đánh giá tốt mức độ nghiêm trọng, và quản lý tốt thì ngân hàng thương
mại mới có thể vận hành tốt được. Do còn nhiều hạn chế về kiến thức, và số liệu, bài viết này chỉ để cập đến phần lý
thuyết, và một số con số thực tế của tình hình rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất và tình hình quản lý hai loại rủi ro này tại
các ngân hàng thương mại Việt Nam.
________________________________________________________________________
2
Rủi ro và quản lý rủi ro
Phần 1. Rủi Ro- Các Loại Rủi Ro
Rủi ro là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến.
1. Nguyên nhân gây ra rủi ro:
Ngân hàng là một trung gian tài chính huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế với lãi suất thấp và cho các tổ chức kinh
tế ,cá nhân vay lại với lãi suất cao để thu lợi.Do lĩnh vực hoạt động của ngân hàng rất đa dạng và nhạy cảm có liên
quan đến nhiều lĩnh vực của nền kinh tế nên chịu tác độngcủa nhiều nhân tố chủ quan lẫn khách quan.
Ngoài lĩnh vực chính là huy động vốn và cho vay ngân hàng còn cung cấp nhiều dịch vụ khác như thanh toán,bảo lãnh,kinh
doanh ngoại hối,chứng khoán,góp vốn liên doanh,dịch vụ thẻ đại lý …Vì vậy có thể nói rằng rủi ro ngân hàng rất đa
dang..Ngoài ra ngân hàng còn hoạt động trong cơ chế thị trường có sự cạnh tranh khốc liệt giữa các ngân hàng với
nhau hoặc các tổ chức tín dụng ,dẫn đến việc cạnh tranh về lãi suất để có thể huy động được vốn, làm cho lãi suất huy
động cao hơn cũng là một trong những nguyên nhân gây ra rủi ro cho ngân hàng
Có thể nói rủi ro tiềm ẩn trong từng hoạt động của ngân hàng và hiệu quả kinh doanh phụ thuộc phần lớn vào năng lực quản lý
rủi ro của ngân hàng.Do vậy công tác quản trị rủi ro luôn là mối quan tâm hàng đầu, là vấn đề sống còn của mỗi ngân
hàng
2. Các loại rủi ro:

Do đặc thù kinh doanh của ngân hàng mà có rất nhiều loại rủi ro : rủi ro ngoại hối, rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh
khoản và còn nhiều loại rủi ro khác:
 Rủi ro tín dụng :
Là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến cho ngân hàng do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả hoặc không
trả đầy đủ cả vốn và lãi.khi thực hiện cho vay một khách hàng ngân hàng không dự kiến khoản vay đó sẽ bị tổn
thất.Tuy nhiên những khoản vay đó luôn hàm chứa rủi ro.Đây là loại rủi ro có quy mô lớn nhất,gắn liền với hoạt động
quan trọng nhất của ngân hàng thương mại.
 Rủi ro lãi suất.
Là khả năng xảy ra tổn thất cho ngân hàng khi lãi suất thay đổi ngoài dự kiến.Lãi suất ngân hàng thường xuyên biến động với
các mức độ khác nhau có thể dẫn đến rủi ro.Loại rủi ro này phát sinh trong quan hệ tín dụng của các tổ chức tín dụng
do đó nó có quan hệ mật thiết với rủi ro tín dụng.
 Rủi ro hối đoái.
Bất cứ hoạt động nào mà đồng tiền thu là một đồng tiền trong khi đồng tiên chi lại là một đồng tiền khác đều chứa đựng rủi ro
Rủi ro ngoại hối là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến cho ngân hàng khi có sự thay đổi tỷ giá vượt quá dự tính của
ngân hàng.
 Rủi ro thanh khoản.
Là rủi ro xảy ra khi ngân hàng không thể có đủ tiền để đáp ứng các khoản phải trả khi đến hạn thanh toán,do tài sản không đủ
khả năng thanh khoản hay ngân hàng không huy động được vốn.Nếu quản lý không tốt rủi ro thanh khoản xảy ra có
thể dẫn ngân hàng đến nguy cơ phá sản,làm ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế.
 Các loại rủi ro khác.
________________________________________________________________________
3
Rủi ro và quản lý rủi ro
Ngoài những rủi ro kinh doanh như đã nói ở trên ngân hàng còn phải đương đầu với cac nguy cơ khác như khả năng cướp ngân
hàng, nhầm lẫn trong thanh toán,hỏa hoạn, lỗi công nghệ,rủi ro về luật pháp, về việc quản lý tài sản ngoại bảng …Khi
những rủi ro trên xảy ra đều ảnh hưởng đến uy tín và gây ra những tổn thất không nhỏ cho ngân hàng.
________________________________________________________________________
4
Rủi ro và quản lý rủi ro
Phần 2. RỦI RO TÍN DỤNG

1.Bản chất
+ Hoạt động tín dụng:
Hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng nhất ,có quy mô lớn nhất của ngân hàng thương mại.
Hoạt động tín dụng gồm có 4 hoạt động chính :
- Cho vay
- Bảo lãnh
- Cho thuê
- Chiết khấu
+ Rủi ro tín dụng:
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến cho ngân hàng do khách hàng vay không trả đúng kì
hạn,không trả ,không trả đầy đủ vốn và lãi.Khi thực hiện cho vay một khách hàng cụ thể,ngân hàng không dự kiến là
khoản cho vay đó sẽ bị tổn thất.tuy nhiên những khoản cho vay đó luôn hàm chứa rủi ro.Một số ý kiến cho rằng trên
quan điểm quản lý toàn bộ ngân hàng ,tỷ lệ tổn thất dự kiến đối với hoạt động tín dụng luôn được xác định trước trong
chiến lược hoạt động chung.Do vậy, khi tổn thấtdưới mức tỷ lệ tổn thất dự kiến,ngân hàng coi đó là 1 thànhh công
trong quản lý.
Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng nhất ,có qui mô lớn nhất của ngân hàng thương mại-hoạt động tín
dụng.Khi thực hiện 1 hoạt động tài trợ cụ thể ngân hàng cố gắng phân tích các yếu tố của người vâyếo cho độ an toàn
là cao nhất.Và nhìn chung ngân hàng chỉ quyết định cho vay khi thấy an toàn.Tuy nhiên ,không 1 nhà kinh doanh ngân
hàng tài ba nào có thể dự doán chính xác các vấn đề sẽ xảy ra.Khả nănghoàn trả tiền vay của khách hàng có thể bị thay
đổi bởi nhiều nguyên nhân.Hơn nữa ,nhiều cán bộ ngân hàng không có khả năng thực hiện phân tích tín dụng thích
đáng.Do vậy ,trên quan điểm quản lý toàn bộ ngân hàng rủi ro tín dụnglà không thể tránh khỏi,là khách quan.Nhiều
quan điểm nhất trí rằng ,rủi ro rín dụng là bạn đường trong kinh doanh ,có thể đề phòng ,hạn chế ,chứ không thể loại
trừ.Do vậy rủi ro dự kiến luôn được xác định trong hoạt động chung của ngân hàng.
2.Nguyên nhân của rủi ro tín dụng
2.1.Nguyên nhân thuộc về người vay
a).Nguyên nhân khách quan
Đây là những nguyên nhân bất khả kháng,tác động tới người vay,tạo thuận lợi hoặc khó khăn cho người vay.những
nguyên nhân đó có thểlà thiên tai ,chiến tranh,hoặc những thay đổi vĩ mô vượt quá tầm kiểm soát của cả người vay lẫn
khách hàng
Nhiều người vay ,với bản lĩnh của mình có khả năng dự báo ,thích ứng,hoặc khắc phục những khó khăn.trong những trường

hợp khác,người vay vẫn có thể bị tổn thất song vẫn có khả năng trả nợ cho ngân hàng đúng hạn cả gốc và lãi,trường
hợp này không gây tổn thất cho ngân hàng.Tuy nhiên ,khi tác động của những nguyên nhân bất khả khángđối với
người vay là nặng nề,khả năng trả nợ của họ bị suy giảm.
b).Nguyên nhân chủ quan của khách hàng
________________________________________________________________________
5
Rủi ro và quản lý rủi ro
Trình độ yếu kém của người vay trong dự đoán các vấn đề kinh doanh,yếu kém trong quản lí,chủ định lừa đảo cán bộ
ngân hàng ,chây ì trả nợ…là nguyên nhân gây rủi ro tín dụng.Rất nhiều người vay sẵn sàng mạo hiểm với kì vọng thu
được lợi nhuận cao. Để đạt được mục đích của mình họ sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn ứng phó với ngân hàng như cung
cấp thông tin sai(rủi ro đạo đức),mua chuộc(là nguyên nhân gây nên lụa chọn đối nghịch)…nhiều người cho vay đã
không tính toán kĩ lưỡng hoặc không có khả năng tính toán kĩ lưỡng những bất trắc có thể xảy ra,không có khả năng
thích ứng và khắc phục khó khăn trong kinh doanh.Trong trường hợp còn lại,người vay kinh doanh có lãi song vẫn
không trả nợ cho ngân hàng đúng hạn,họ chây ì với hy vọng có thể quỵt nợ hoặc sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt.
2.2.Nguyên nhân thuộc về ngân hàng
Chất lượng cán bộ kém,không đủ trình độ đánh giá khách hàng hoặc đánh giá không tốt,cố tình làm sai…
Thiếu nguồn nhân lực trầm trọng,công tác tuyển dụng chưa thực sự nghiêm túc và sàng lọc tốt, đào tạo chưa đáp ứng
được yêu cầu đề ra...
Ma lực cám dỗ của đồng tiên gây nên sự sa sút về đạo đức
Ngân hàng mở rộng hoạt động,tầm cỡ quốc gia và quốc tế,không kịp nâng cấp trình độ đội ngũ nhân viên gây nên
thiếu am hiểu về khách hàng,gây rủi ro tín dụng
3.Các chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng
Tuy rủi ro tín dụng là khách quan song ngân hàng phải quản lí rủi ro tín dụng nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các tổn
thất có thể xảy ra.Từ những nguyên nhân nảy sinh RRTD ,ngân hàng cụ thể hoá thành những chỉ tiêu hoặc dấu hiệu
chính phát sinh trong hoạt động tín dụng phản ánh RRTD:
(1).Nợ quá hạn và tỉ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ.
(2).Nợ khó đòi và tỉ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ.
(3).Nợ có vấn đề.
(4).Tính đa dạng hoá của tài sản.
(5).Tình hình tài chính và phương án của người vay(các yếu tố của người vay)hoặc xếp hạng tín dụng người vay

(6) Đảm bảo tiền vay.
(7).Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng.
(8)Môi trường hoạt động của người vay.
3.1.Nợ quá hạn
 Nợ quá hạn và tỉ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ.Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đã đến hạn
thoả thuận ghi trên hợp đồng tín dụng.Khi 1 món nợ không trả được vào kì hạn nợ,toàn bộ nợ gốc còn lại của hợp
đồng sẽ được chuyển thành nợ quá hạn.
 Nợ khó đòi và tỉ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ.Nợ khó dòi là khoản nợ quá hạn và kèm theo 1 số tiêu chí khác như quá
1 kì gia hạn nợ,hoặc không có tài sản đảm bảo,hoặc tài sản không bán được ,con nợ thua lỗ triền miên,phá sản…
Các chỉ tiêu này có liên quan chặt chẽ đến nhau và phản ánh các mức độ rủi ro tín dụng khác nhau. Đối với ngân hàng ,việc
khách hàng không trả đúng hạn có liên quan đến thanh khoản và rủi ro thanh khoản:Chi phí gia tăng để tìm nguồn mới
để chi trả tiền gửi và cho vay đúng hợp đồng.Nợ khó đòi là 1 lời cảnh báo cho ngân hàng:Hy vọng thu lại tiền vay trở
nên mong manh,ngân hàng cần có biện pháp hữu hiệu để giải quyết.
________________________________________________________________________
6
Rủi ro và quản lý rủi ro
Các yếu tố ảnh hưởng đến chỉ tiêu nợ quá hạn:
Thứ nhất,do định kì hạn nợ không đúng.
Nhiều cán bộ ngân hàng khi cho vay không quan tâm đích đáng đến chu kì kinh doanh của người vay,hoặc do nguồn
ngắn hạn là chủ yếu,họ đặt kì hạn nợ ngắn để hạn chế rủi ro.Kì hạn nợ không phù hợp với chu kì thu nhập của người
vay.Khi đến hạn người vay dĩ nhiên sẽ không thể trả được nợ,gây nợ quá hạn.Khoản nợ này trở thành mối đe doạ tài
chính đối với người vay,buộc họ phải trả thêm khoản “phụ phí” để được gia hạn nợ,hoặc phải chịu lãi suất phạt.
Thứ hai,do đảo nợ hoặc giãn nợ.
Nhiều khoản nợ người vay không có khả năng hoàn trả có thể được đảo nợ làm giảm nợ quá hạn so với thực tế. Để che
dấu đối với ngân hàng cấp trên,hoặc để không phải chịu lãi phạt,người vay và nhân viên ngân hàng thoả thuận vay
khoản mới để trả nợ cũ.Nhân viên ngân hàng cũng có thể thực hiện giãn nợ đối với những khoản nợ mà người vay
chắc chắn không trả được.Những hành vi này làm chỉ tiêu nợ quá hạn và nợ khó đòi không phản ánh đầy đủ RRTD.
Thứ ba,do chính sách cho vay.
Rất nhiều các khoản cho vay khó đòi không thể thu hồi bằng phát mại tài sản(Doanh nghiệp nhà nước,người nghèo,tài
sản không rõ ràng…).Những khoản cho vay này phần lớn là cho vay theo chỉ thị của chính phủ.Khi Chính phủ chưa có

biện pháp giải quyết,chúng vẫn tồn tại trên bảng cân đối của ngân hàng,trở thành tài sản “ảo”.Xử lí khoản nợ này rất
phức tạp.Nhiều ngân hàng loại chúng ra khỏi chỉ tiêu nợ quá hạn và nợ khó đòi ,xếp vào nợ khoanh (khi được chính
phủ đồng ý).Tuy nhiên ,chúng thực sựđe doạ thu nhập của các ngân hàng nếu Chính phủ không tìm được nguồn bù
đắp.
3.2.Các chỉ tiêu khác:
Bên cạnh nợ quá hạn và nợ khó đòi,nhà quản lí ngân hàng còn sử dụng các hình thức đo RRTD khác gắn liền với
chiến lược đa dạng hoá tài sản,lập hồ sơ khách hàng,trích lập quỹ dự phòng, đạt giá đối với các khoản cho vay…
 Điểm của khách hàng
Thông qua phân tích tình hình tài chính,năng lực sản xuất kinh doanh,hiệu quả thực hiện dự án,mối quan hệ và tính
sòng phẳng…ngân hàng lập hồ sơ về khách hàng,xếp loại và cho điểm.Khách hàng loại A hoặc điểm cao,RRTD
thấp,khách hàng loại C hoăc điểm thấp,RRTD cao.Cỉ tiêu này được xây dựng dựa trên các dấu hiệu rủi ro mà ngân
hàng xây dựng. Điểm của khách hàng cho thấy rủi ro “tiềm ẩn”.
 Các khoản cho vay có vấn đề
Mặc dù chưa và chưa được coi là nợ quá hạn,song trong quá trình theo dõi,nhân viên ngân hàng nhận thấy nhiều khoản
tài trợ đang có dấu hiệu kém lành mạnh,có nguy cơ trở thành nợ quá hạn.Khoản cho vay có vấn đề được xây dựng dựa
trên quy định của ngân hàng.
 Tính kém đa dạng của tín dụng.
Đa dạng hoá là biện pháp hạn chế ruỉ ro.Những thay đổi trong chu kì của người vay là khó tránh khỏi.Nếu ngân hàng
tập trung tài trợ cho 1 nhóm khách hàng của 1 ngành hoặc 1 vùng hẹp thì rủi ro sẽ cao hơn đa dạng hoá.
 Mất ổn định vĩ mô
Chính sách thường xuyên thay đổi,lạm phát cao,tình hình chính trị mất ổn định,vùng hay bị thiên tai…đều tạo nên mất
ổn định vĩ mô,tác động xấu đến người vay.Do vậy,mất ổn định vĩ mô được ngân hàng xem là 1 nội dung phản ánh
RRTD.
________________________________________________________________________
7
Rủi ro và quản lý rủi ro
4.Những thiệt hại từ rủi do tín dụng.
• Đối với nền kinh tế:
Hoạt động ngân hàng liên quan đến hoạt động doanh nghiệp, các ngân hàng,các cá nhân, vì vậy khi một ngân hàng gặp phải rủi
ro tín dụng hay bị phá sản thì người gửi tiền ở các ngân hàng khác hoang mang lo sợ kéo nhau ồ ạt đến rút tiền,làm

cho hệ thống ngân hàng gặp khó khăn.Ngân hàng phá sản sẽ ảnh hưởng đến tình hình sản xuất của doanh nghiệp
Sự khủng hoảng của ngân hàng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế.Nó làm cho nền kinh tế bị suy thoái, giá cả gia
tăng,sức mua giảm, thất nghiệp tăng,giá cả mất ổn định.
Nền kinh tế thế giới cũng chụi tác động rất lớn khi rủi ro tín dụng xảy ra.Do ngày nay nền kinh tế mỗi quốc gia đều phụ thuộc
vào nền kinh tế thế giới, là nhân tố của nền kinh tế thế giới.Kinh nghiệm cho thấy cuộc khủng hoảng tài chính châu Á
(1997),cuộc khủng hoảng tài chính Nam Mỹ(2001-2002)… đã làm rung chuyển toàn cầu.Mặt khác mối liên hệ về tiền
tệ, đầu tư giữa các nươc rất nhanh neenruir ro tín dụng ở một nước ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế các nước có
liên quan.
• Đối với ngân hàng:
Rủi ro tín dụng xảy ra ngân hàng không thu hồi vốn cho vay, nhưng phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy động khi đến hạn,
điều này làm cho ngân hàng mất cân đối trong việc thu chi.Khi không thu hồi được nợ thì vòng quay vốn tín dụng
giảm ngân hàng konh doanh không có hiệu quả.Khi gặp phải rủi ro tín dụng ngân hàng thường gặp phải ro thanh
khoản, làm mất lòng tin gửi tiền, ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng.
Rủi ro tín dụng của một ngân hàng xảy ra ở mức độ khác nhau, nhẹ nhất là ngân hàng bị giảm lợi nhuận, nặng nhất không thu
hồi được vốn và lãi, nợ thất thu thu với tỷ lệ cao dẫn đến ngân hàng bị lỗ mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài không
khắc phục được , ngân hàng sẽ bị phá sản, gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng
nói riêng.
5. Thực trạng rủi ro tín dụng tại các ngân hàng Việt Nam :
Như ta đã biết, rủi ro tín dụng là loại rủi ro lớn nhất, thường xuyên xảy ra và thường gây ra hậu quả nặng nề nhất. Tuy
nhiên, hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại là tín dụng và đầu tư. Thông thường, trên thế giới, hoạt động này
mang lại khoảng 6% thu nhập, còn ở Việt Nam, hoạt động này mang lại trên 90% tổng thu nhập của mỗi ngân hàng.
Do nguồn thu nhập cao từ hoạt động tín dụng và đầu tư mang lại, các ngân hàng đã bất chấp rủi ro. Thực trạng tình
hình tín dụng ở các ngân hàng thương mại Việt Nam có thể khái quát như sau :

5.1. Thực trạng rủi ro tín dụng tại các ngân hàng:
5.1.1Vấn đề sử dụng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn :
Theo báo cáo của Vụ chiến lược phát triển ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho thấy: Các ngân hàng
thương mại Nhà nước chiếm 76% tổng nguồn vốn huy động và 73,5% tổng dư nợ cho vay của toàn bộ hệ thống các tổ
chức tín dụng Việt Nam nhưng chỉ đạt tỷ lệ vốn tự có so với tổng tài sản rủi ro trung bình là 3,05% (tỷ lệ an toàn vốn
tối thiểu) trong khi thông lệ quốc tế yêu cầu tối thiểu phải đạt là 8%.

Một ví dụ điển hình về tình hình kỳ hạn của nguồn vốn tại ngân hàng thương mại Việt Nam là: trong năm 2005, dự kiến tổng
vốn đầu tư phát triển trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh là 53.000 tỷ đồng. Trong số này, chỉ riêng nguồn vốn trung
và dài hạn chiếm khoảng 46.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, việc huy động từ ngân hàng và các tổ chức tín dụng đang là mối
lo lớn của thành phố. Theo các ngân hàng trên địa bàn thành phố, hiện tại hầu hết vốn các ngân hàng thương mại là
nguồn vốn ngắn hạn. Nếu lấy vốn ngắn hạn đầu tư cho dài hạn, tiềm ẩn nguy cơ bất ổn, thậm chí có thể dẫn tới lạm
phát, khủng hoảng tài chính như các nước Đông Nam Á vào những năm cuối thập kỷ 90 của thế kỷ trước.
________________________________________________________________________
8
T? tr?ng các lo?i k? h?n c?a
ngu?n v?n trung và dài h?n
K? h?n 5 năm tr? lên K? h?n 1-2 năm
Rủi ro và quản lý rủi ro
Tuy nhiên, cơ cấu vốn huy động của ngân hàng thương mại đã được thay đổi theo hướng tích cực, cơ cấu vốn huy động từ dân
cư tương đối ổn định, chiếm khoảng 50 - 52%. Đây là nguồn vốn ổn định tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng trong
việc đưa ra các quyết định cho vay, đầu tư và đảm bảo được khả năng thanh khoản về kỳ hạn vốn huy động đã có sự
thay đổi, nguồn vốn trung và dài hạn tăng dần: năm 2000 là 26.7%, năm 2004 là 38%, năm 2005 là 40%. Tuy nhiên,
trong tổng nguồn vốn huy động trung và dài hạn chủ yếu là kỳ hạn loại 1 – 2 năm, loại kỳ hạn từ 5 năm trở lên tăng chỉ
chiếm trên 7%.
Các ngân hàng
thương mại được sử dụng tối đa 40% tổng nguồn vốn ngắn
hạn của mình để cho vay trung, dài hạn. Tỷ lệ này ở các tổ tức tín dụng khác là 30%. Đó là một trong những nội dung
quan trọng trong quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn hoạt động của tổ chức tín dụng, ban hành kèm theo Quyết định
số 457 ngày 19/4/2005 của Ngân hàng Nhà nước.
Theo quy định này, nguồn vốn ngắn hạn được phép sử dụng để cho vay dài hạn gồm tiền gửi và tiền gửi tiết
kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn dưới 12 tháng của tổ chức, cá nhân; nguồn vốn huy động dưới hình thức phát hành giấy
tờ có giá ngắn hạn; phần chênh lệch lớn hơn giữa số tiền vay của tổ chức tín dụng khác và tiền cho tổ chức tín dụng đó
vay có kỳ hạn dưới 12 tháng.
Trường hợp tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung hạn, dài hạn cao hơn tỷ lệ quy định phải có văn bản
đề nghị Ngân hàng Nhà nước chấp thuận, trong đó nêu rõ lý do, tỷ lệ tối đa và các biện pháp quản lý đáp ứng khả năng
chi trả. Ngân hàng Nhà nước chỉ có thể xem xét, chấp thuận đề nghị nói trên của tổ chức tín dụng đã tuân thủ các tỷ lệ

khác về bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng, có tỷ lệ nợ xấu dưới 3% tổng dư nợ và có thể thống quản lý tài
sản tốt. Điều này cho thấy sự thiếu hụt trầm trọng nguồn vốn dài hạn của các ngân hàng hiện nay so với thực tế cho
vay chênh lệch về thời gian đáo hạn giữa nguồn đi vay ngân hàng và các khoản cho vay dài hạn và hệ thống ngân hàng
tạo nên rủi ro rất lớn đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Mặt khác, vừa qua ngân hàng nhà nước và chính phủ, Bộ tài chính đã đưa ra hàng loạt các chính sách nhằm kiềm chế lạm phát,
điều này cũng dẫn tới một số ảnh hưởng quan trọng tới nguồn vốn và tình hình tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân
hàng thương mại Việt Nam. Thông tin NHNN rút về 52,7 nghìn tỉ đồng - đây là số tiền được các NHNN gửi ở các
ngân hàng thương mại quốc doanh cách đây 10 năm - đang dấy lên lo ngại ngân hàng thương mại nhà nước sẽ căng
thẳng vốn khả dụng, ảnh hưởng đến khả năng cho vay nền kinh tế và giảm cho vay trên thị trường liên NH khiến các
ngân hàng thương mại cổ phần sẽ bị ảnh hưởng.
Bên cạnh đó, việc NHNN thực hiện việc tăng lãi suất chiết khấu nhằm làm giảm lạm phát trong 3 tháng đầu năm 2008, hiệu
ứng của sự gia tăng lãi suất chiết khấu chính là: khi ngân hàng trung ương tăng lãi suất chiết khấu, việc này sẽ không
tác động ngay lập tức lên thị trường chứng khoán. Thay vì vậy, lãi suất chiết khấu lại có những tác động trực tiếp theo
cách của riêng nó. Nó khiến cho việc vay tiền của ngân hàng thương mại từ ngân hàng trung ương trở nên đắt hơn.
Tuy nhiên, sự gia tăng lãi suất chiết khấu không chỉ dừng lại ở đó, nó còn tạo nên tác động lan truyền ảnh hưởng đến
hầu hết các cá nhân và doanh nghiệp.
________________________________________________________________________
9
26.7
38 40
0
10
20
30
40
Năm 2000 Năm 2004 Năm 2005
T? tr?ng ngu?n v?n trung và dài h?n
Rủi ro và quản lý rủi ro
Tác động gián tiếp đầu tiên của việc gia tăng lãi suất chiết khấu: các ngân hàng sẽ tăng lãi suất cho vay đối với khách hàng.
Khách hàng cá nhân bị ảnh hưởng thông qua việc lãi suất tăng đối với thẻ tín dụng và các khoản vay ngắn hạn khác.

Song song đó, các cá nhân cũng có thể sẽ hạn chế mức vay nợ xuống, do vậy lúc này người tiêu dùng sẽ có ít tiền hơn
để chi tiêu. Sau cùng, mỗi tháng mọi người đêù phải trả tiền cho các hoá đơn và khi các hoá đơn này trở nên đắt hơn
thì khoản thu nhập dự phòng của mỗi gia đình sẽ trở nên ít hơn. Lãi suất chiết khấu tác động đến các khách hàng tiêu
dùng cá nhân, đến lượt mình sự thay đổi trong hành vi của người tiêu dùng cá nhân lại ảnh hưởng đến các doanh
nghiệp, tuy nhiên với doanh nghiệp ảnh hưởng của sự tăng lãi suất chiết khấu không chỉ có thế, họ còn chịu tác động
nhiều hơn. Dễ thấy, chính bản thân các doanh nghiệp cũng cần vay tiền từ ngân hàng thương mại để duy trì hoạt động
và mở rộng sản xuất. Một khi các khoản vay từ ngân hàng trở nên đắt hơn thì các doanh nghiệp sẽ có tâm lý ngại vay
tiền và thực tế thì họ phải trả lãi suất cao hơn cho các khoản vay. Với một doanh nghiệp trong thời kỳ tăng trưởng thì
điều này có thể tác động nghiêm trọng, doanh nghiệp phải thu hẹp phạm vi hoạt động và kết quả là lợi nhuận bị giảm
sút.
Không chỉ dừng lại ở đó, Việc các chính sách của nhà nước thực hiện nhằm thu một lượng tiền lớn trong lưu thông về làm cho
các ngân hàng thương mại thiếu hụt nguồn tiền lớn. Chính vì vậy, các ngân hàng thương mại đã thực hiện tăng lãi suất
tiền gửi có lúc lên đến 12 – 14% để huy động vốn từ trong dân cư. Tuy nhiên, một số nhận định cho rằng việc đua tăng
lãi suất của các ngân hàng thương mại chẳng qua dẫn đến việc dòng tiền dịch chuyển từ ngân hàng này tới ngân hàng
khác chứ không huy động được thêm dòng tiền nhàn rỗi trong dân cư. Chính vì việc tăng lãi suất huy động tiền gửi
nên các ngân hàng cũng phải thực hiện tăng lãi suất cho vay để bù trừ chi phí. Thời gian gần đây, nhu cầu vay vốn của
người dân và doanh nghiệp rất lớn, trong khi nguồn vốn huy động của các ngân hàng có hạn, đã đẩy lãi suất cho vay
vốn tại các ngân hàng nhích lên. Trước đây lãi suất cho vay của ngân hàng quốc doanh thường thấp hơn ngân hàng cổ
phần, nay tình hình đã khác... Người đang vay vốn ngân hàng rất lo vì lãi suất cao ngất ngưởng: 1,7%/tháng (tức trên
20%/năm). Thậm chí, có người phải vay với lãi suất 1,9% hoặc với thấp hơn nhưng phải “tốn thêm” để có mức 1,6 -
1,7%/tháng. Ngoài việc tăng lãi suất, một số ngân hàng còn hạn chế tín dụng bằng cách dừng hẳn việc cho vay tín
chấp hoặc nâng cao lãi suất cho vay. Lãi suất tăng gây bất lợi cho hoạt động tín dụng, làm giảm lượng khách hàng vay
và có thể khiến chất lượng tín dụng xấu đi. Việc tăng lãi suất cho vay khiến cho các doanh nghiệp càng khó tiếp cận
với nguồn vốn hơn, khiến cho các dự án bế tắc, các doanh nghiệp không vay được vốn khiến cho tăng trưởng kinh tế
giảm. Đồng thời các ngân hàng thương mại vì khan hiếm nguồn vốn, cũng khó khăn hơn trong việc thực hiện cho vay,
khiến cho tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại giảm và đe dọa tới thu nhập của ngân hàng.
5.1.2. Nợ xấu của các ngân hàng thương mại Việt Nam :
Tính rủi ro cao và đa dạng là một trong những đặc thù của hoạt động của ngân hàng. Việc giảm thiểu rủi ro đến mức
tối đa luôn là mối quan tâm hàng đầu của các ngân hàng thương mại từ trước tới nay (bởi lẽ rủi ro trong các ngân hàng
thương mại ngày càng đa dạng và phức tạp, nhất là rủi ro tín dụng). Không giống như các doanh nghiệp SX-KD thông

thường, với các ngân hàng thương mại thì chỉ một vài khoản cho vay tồi, không thu hồi được vốn thì lợi nhuận cả năm
của ngân hàng đó khó có thể bù đắp được, đó là chưa nói đến ngay lập tức còn có thể gây mất khả năng thanh toán của
ngân hàng đó. Đặc biệt ở Việt Nam vẫn là hoạt động tín dụng (lãi thu được từ hoạt động tín dụng chiếm tới gần 80%
trong tổng số lợi nhuận).
Thực tế đã cho thấy, việc giảm thiểu rủi ro tín dụng là nhân tố quyết định sự thành bại trong hoạt động của các ngân
hàng thương mại. Đặc biệt ở nước ta hiện nay khi các ngân hàng thương mại đang hoạt động trong thị trường có nhiều
biến động và cạnh tranh ngày càng quyết liệt với quá trình tự do hóa tài chính ngày càng cao trong bối cảnh thực hiện
hội nhập quốc tế, vấn đề quản lý rủi ro trong hoạt động của các ngân hàng thương mại đang cần được quan tâm nghiên
cứu.
________________________________________________________________________
10

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×