Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

CHUONG 2 - KE TOAN VA BAO CAO VE DAU TU docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (344.81 KB, 41 trang )

Chapter 2 – Stock Investments – Investor Accounting and Reporting
ĐẦU TƯ CỔ PHIẾU
KẾ TOÁN VÀ BÁO CÁO VỀ ĐẦU TƯ
Chương 1 đã minh hoạ các liên kết doanh nghiệp trong đó một công ty tồn tại nhận
tài sản ròng của những công ty thành viên kia. Tài sản ròng và hoạt động của các
công ty thành viên được hợp nhất thành tài sản ròng và hoạt động của một đơn vị kế
toán với một hệ thống giữ hồ sơ. Khi một tài khoản đầu tư được sử dụng để vào sổ
việc liên kết như ở Chương 1,thì bảng cân đối của nó lập tức bị triệt tiêu do phân về
các tài khỏan tài sản và nợ cá nhân.
Chương 2 xem xét các đầu tư cổ phiếu trong đó các tài khoản đầu tư được
duy trì trên một nền tảng liên tục (continuos basis). Nó gồm kế toán cho đầu tư theo
phương pháp giá trị công bằng / phí tổn ( fair value / cost method) (tức phương pháp
về giá trị công bằng cho các chứng khoán có giá và phí tổn cho chứng khoán không
lưu thông), theo phương pháp nầy công ty đầu tư không thể ảnh hưởng đến các
hoạt động của công ty/xí nghiệp được đầu tư, và cũng gồm kế toán theo cách tính
giá theo giá trị ròng (equity method), theo đó công ty đầu tư có thể hành sử tầm ảnh
hưởng lớn đối với các hoạt động của công ty được đầu tư. Chương nầy cũng gồm
kế toán theo cách tính giá theo giá trị ròng (equity method) trong đó công ty đầu tư
có thể kiểm soát hoạt động của công ty được đầu tư nhờ quyền sở hữu cổ phiếu
( stock ownership). Tình huống sau đòi hỏi phải sở hữu trên 50% số cổ phiếu bầu cử
của công ty được đầu tư và là kết quả của liên kết doanh nghiệp trong đó “một hay
nhiều công ty trở thành công ty con”( one or more companies become subsidiaries).
Chương nầu cũng gồm kế toán của công ty mẹ (parent company) cho các
công ty con theo cách liên kết mua (purchase method), nhưng nó không gồm báo
cáo về hợp nhất hay hợp lãi. Các báo cáo tài chánh hợp nhất cho các công ty mẹ-
con sẽ có ở Chương 3 và các chương tiếp theo.
KẾ TOÁN VỀ ĐẦU TƯ CHƯNG KHOÁN ( Accounting for stock Investments)
Các nguyên tắc kế toán thường được chấp nhận GAAP (Generally Accepted
Accounting Principles) cho ghi vào sổ sách các việc mua cổ phần thường, đòi hỏi
rằng đầu tư phải được ghi theo phí tổn của nó.Phương châm cơ bản lượng định phí
tổn mua cổ phiếu trong liên kết thaeo cách mua cũng áp dụng cho đầu tư cổ phiếu ít


hơn 50% cổ phiếu bầu cử của một công ty khác. Phí đầu tư gồm tiền giải ngân
(disbursed); giá trị công bằng của tài sản thêm khác hay phát hành cổ phiếu; và phí
tổn trực tiếp thêm để đạt được đầu tư, khác hơn là phí tổn đăng ký và phát ành cổ
phiếu, phí nầy tính cho vốn góp bổ sung.
Một trong 2 phương pháp cơ bản về kế toán về đầu tư cổ phiếu thường ,
không hiện hành , thường được áp dụng – phưong pháp tính giá trị công bằng hay
phương pháp tính giá theo giá trị
ròng (equity method). Nếu phương pháp tính giá trị công bằng được dùng, thì đầu tư
được coi như theo các điều khoản của FASB Statement No 115 “Kế toán về Đầu tư
cố định (certain investments) vào cổ phiếu và trái phiếu” (Debt and Equity
Securities). Nếu áp dụng phương pháp tính giá theo giá trị ròng, thì đầu tư được coi
như theo các điều khoản của APB Opinion No 18,” Phương pháp tính giá theo giá
trị ròng của kế toán về đầu tư cổ phiếu”, được sửa đổi bởi FASB Stement No
94,”Hợp nhất tất cả các công ty con do đa số làm chủ” ( majority-owned
subsidiaries).
Quan điểm chủ đạo của phương pháp tính giá trị công bằng / phí tôn và
phương pháp tính giá theo giá trị ròng ( Consepts underlying Fair Value / Cost
and Equity Methods )
Theo phương pháp tính giá trị công bằng / phí tổn ( cũng gọi là phương pháp
tính phí tổn ), các đầu tư vào cổ phiếu thường được vào sổ là phí tổn, và
cổ tức từ doanh lợi tiếp sau (subsequent earnings) được báo cáo là lợi tức
cổ tức ( divident income). Ở đây có một ngoại lệ. Cổ tức nhận được trong
phần vượt của phần doanh lợi của nhà đầu tư sau khi mua cổ phiếu được
coi như các món hoàn vốn ( returns of capital) (hay thanh toán cổ tức,
liquidating dividents) và được vào sổ như những món giảm trong tài
khoản đầu tư. Cổ phiếu nào đã hiện xác định được giá trị công bằng được
xếp vào hoặc là cổ phiếu thương mại (trading securities) (cổ phiếu mua và
giữ để bán lại trong kỳ hạn gần ) hay cổ phiếu sẳn sàng bán (available-for-
sale securities) (những đầu tư không xếp vào cổ phiếu thương mại) theo
các điều khoản của FASB Statement No 115 “Kế toán cho Đầu tư cố dịnh

trong cổ và trái phiếu”. Hai phân loại về cổ phiếu nầy nầy được kết chuyển
theo giá trị công bằng của chúng và báo cáo các lợi nhuận, lỗ, vá cổ tức
như là doanh lợi. Tuy nhiên, các lợi nhuận và lỗ chưa thực hiện
(unrealized gains and losses) do phân loại cổ phiếu-thương mại (trading-
securities classification) thì được gồm trong doanh lợi. Còn các lợi nhuận
và lỗ chưa thực hiện do phân loại cổ phiếu-sẳn sàng bán thì dược báo cáo
theo một tài khoản ròng như là hạng mục riêng biệt là lợi tức tổng hợp
khác (comprehensive income). FASB Statement 130 cho phép lợi tức tổng
hợp khác được báo cáo hoặc là trên báo cáo lợi tức, như là một báo cáo
riêng rẻ về lợi tức tổng hợp, hay trong một báo cáo về mọi thay đổi trong
cổ phần. Các con số nầy được tích luỹ trong đoạn về cổ phần trong bảng
cân đối ở trong mục tài khoản tựa là lợi tức tổng hợp khác tích luỹ
( accumulated other comprehensive income). FASB Statement No 115
không áp dụng cho đầu tư cổ phiếu theo phương pháp tính giá theo giá trị
ròng (equity method) hay cho đầu tư trong các công ty con hợp nhất
Phương pháp kế toán tính giá theo giá trị ròng thực ra là loại kế toán
tính trước (accrual accounting) về đầu tư cổ phiếu khiến cho nhà đầu tư có thể
có ảnh hưởng mạnh đối với hảng xưởng được đầu tư. Theo phương pháp tính
giá theo giá trị ròng nầy, các vụ đầu tư được vào sổ tại phần phí tổn và điều
chỉnh đối với doanh lợi, lỗ lã, và cổ tức. Công ty đầu tư báo cáo cổ phần đầu
tư thuộc doanh lợi của bên bị đầu tư như là lợi tức đầu tư còn cổ phần lỗ của
bên bị đầu tư như lỗ của đầu tư. Tài khoản đầu tư gia tăng đối với lợi tức đầu
tư và giảm đối với lỗ đầu tư. Cổ tức nhận từ các xí nghiệp được đầu tư được
coi như là giảm đàu tư (disinvestments) theo phương pháp tính giá theo giá trị
ròng, và được vào sổ như là khoản giảm trong tài khoản đầu tư. Do đó, lợi tức
đầu tư theo phương pháp tính giá theo gía trị ròng phản ánh cổ phần của bên
đầu tư về lãi ròng của bên được đầu tư và tài khoản đầu tư phản ánh cổ phần
bên đầu tư về tài sản ròng của bên được đầu tư.
Một cuộc đầu tư vào cổ phần được bầu cử nào mà khiến cho bên đầu
tư có được ảnh hưởng lớn đối với chánh sách hoạt động và tài chánh của bên

được đầu tư thì được coi áp dụng phương pháp kế toán tính giá theo giá tri
ròng. Điều nầy được giải thích trong đoạn 17 của APB Opinion No 18:
Ban Nguyên tắc Kế toán (APB) kết luân rằng phương pháp kế toán tính giá
theo giá trị ròng áp dụng cho đầu tư vào cổ phiếu thường nên được tuân
theo bởi nhà đầu tư vào cổ phiếu bầu cử , cuộc đầu tư nầy khiến cho bên
đầu tư có ảnh hưởng lớn đối với các chánh sách hoạt động và tài chánh của
bên được đầu tư cho dù nhà đầu tư chỉ giữ 50% hay ít hơn cổ phiếu bầu cử.
Cái khả năng khiến có được ảnh hưởng lớn dựa vào kiểm nghiệm quyền sở
hữu 20% (a 20% ownership test) như một khoản trong APB :
Một cuộc đầu tư (trực tiếp hay gián tiếp) 20% hay hơn của cổ phiếu bầu cử
của bên được đầu tư nên hướng đến một giả định rằng bên đầu tư có khả
năng sử dụng ảnh hưởng lớn đối với bên được đầu tư mà không một điều
nào nói nghịch lại. Đổi lại, một đầu tư ít hơn 20%số cổ phiếu bầu cử của bên
được đầu tư nên hướng đến một giả định rằng bên đầu tư không có được
khả năng ảnh hưởng mạnh trừ phi chứng minh có được khả năng nầy.
Một nhà đầu tư có thể có ảnh hưởng mạnh đối với bên được đầu tư của
mình với một lợi nhuận đầu tư ít hơn 20%, theo Opinion No 18. Đoạn ghi sau đây
trích từ Báo cáo hàng năm của công ty Ameritech năm 1994 (trang 41) là một thí dụ
về ngoại lệ:
Vào ngày 22-12-1993, công ty đầu tư $437.5 triệu cho 15% cổ phần trong
công ty điện thoại Hungaria MATAV. Đầu tư của công ty được coi như thep
phương pháp kế toán tính giá theo giá trị ròng, vì lẽ công ty được hành sử
ảnh hưởng mạnh các hoạt đông của công ty điện thoại. Tài sản vô thể ước
luợng là $210 triệu dược khấu trừ theo phương pháp đường thẳng trong
vòng 40 năm.
Phương pháp tính giá theo giá trị ròng không đựoc áp dụng nếu khả năng
ảnh hưởng của bên đầu tư là tạm thời hay khi bên được đầu tư là các công ty nước
ngoài hoạt động dưới các kiểm soát và hạn chế hối đoái nghiêm nhặt ( severe
exchange restrictions). Một đoạn trong Báo cáo hàng năm của công ty Ameritech
năm1994 (trang 40) tiết lộ như sau:

Vào ngày 12-9-1990, công ty Ameritech và công ty Bell Atlantic mua tất cả cổ
phiếu của công ty Telecom Corporation của New Zealand (gọi là New Zealand
Telecom),đây là một công ty sở hữu nhà nước với giá lối $2.5 tỷ.
Sau cổ phiếu bán ra do chính phủ NewZealand đòi hỏi trong một thảo hiệp
mua hoàn tất vào tháng 9 năm 1993, công ty sở hữu 24.8%. Cổ phiếu bán
ra của New Zealan Telecom năm 1993đưa đến kết quả lợi sau thuế là $61.7
triệu .
Việc đầu tư dài hản của công ty vào New Zealand Telecom được coi như theo
phương pháp tính giá theo giá trị ròng. Tài sản vô thể lối $290 triệu kết hợp với
đầu tư được khấu trừ theo phương pháp đường thẳng trong vòng 40 năm . Cá
phần đầu tư của công ty theo yêu cầu để bán thì được tính theo phương pháp
định giá tổn phí (cost method)
FASB Interpretation No 35 kể:
(1) phản đối của bên được đầu tư thách thức ảnh hưởng của bên đầu tư
(2) nhường lại quyền cổ đông do thoả thuâncủa bên đầu tư và bên được đầu tư
(3) tập trung hoá quyền cổ đông đa số (majority ownership)
(4) những thông tin không thích hợp và không kịp thời để áp dụng phương pháp kế
toán tính giá theo giá trị ròng và
(5) thất bại không đoạt được quyền đại diện ban quản lý của bên được đầu tư như
là dấu hiệu không có khả năng hành xử được quyền gây ảnh hưởng.
Áp dụng phương pháp tính giá theo giá trị ròng nên gián đoạn khi trái phiếu (share of
losses) của bên đầu tư làm giảm khoản tồn trử (carrying amount) của đầu tư xuống
mức số 0.
Phương pháp tính giá theo giá trị ròng và bảng báo cáo của FASB No 94
( The Equity Method and FASB Stament No 94 )
Một công ty mẹ có thể sử dụng Cách tính giá theo giá trị ròng hay còn gọi là Phương
pháp làm cho tương đương để tính toán đầu tư công ty con của nó, cho dù các báo
cáo tài chánh của các công ty con lần lượt có trong các bảng báo cáo tài chánh hợp
nhất co côn ty mẹ và các công ty con. Nói cách khác, công ty mẹ duy trì “đầu tư
trong tài khoản công ty con” bằng cách lấy đi phần lợi nhuận của công ty con và

giảm đi tài khoản đầu tư phần cổ tức đã khai của công ty con. Theophương pháp
làm cho tương đương nầy, thì lợi nhuận của công ty mẹ và lợi tức ròng hợp nhất
bằng nhau. Chúng phản ánh lợi nhuận của công ty mẹ và các công ty con như là
một đơn vị kinh tế duy nhất.
Trước khi phát hành bảng Statement No 94 vào năm 1987, các công ty mẹ
có thể định các chính sách hợp nhất của riêng chúng, và chúng tuỳ nghi ( discretion)
rộng rãi trong quyết định hợp nhất các công ty con đặc biệt hay không.Các công ty
con không hợp nhất (unconsolidated subsidiaries) ( nói cách khác, những công ty
con mà tài sản và nợ không hợp nhất với tài sản và nợ công ty mẹ) thì tính theo
phương pháp làm tương dương và báo cáo (reported) trong các báo cáo tài chánh
của công ty mẹ như là các đầu tư cổ phiếu. Tuy nhiên, Các điều khoản của
Statement No 94yêu cầutất cả các các công ty con có cổ quyền quá bán (majority-
owned subsidiaries) phải được hợp nhất, ngoạt trừ nơi nào mà sự kiểm soát có vẽ
tạm thời hay nơi nào sự kiểm soát không do cổ quyền đa số nắm. Các thí dụ về kiểm
soát một công ty con không dựa vào công ty mẹ (not resting with the parent) gồm có
một công ty con đã tái tổ chức hợp pháp hay bị vở nợ, hay môt công ty con hoạt
động dưới những hạn chế về hối xuất ngặt nghèo ( under severe foreign exchange
restrictions) hay dưới những bất ổn khác do chánh phủ áp đặc (under other
governmentally imposed uncertainties). Một cuộc đầu tư vào một công ty con không
hợp nhất được báo cáo trong các báo cá tài chánh của công ty mẹ hặc bằng
phương pháp định giá phí tổn (cost method) hoặc bằng phương định giá theo giá trị
ròng (equity method) , tuỳ theo các điều khoản về tầm ảnh hưởng trong APB
Opinion No 18 . Chương 3 sẽ thảo luận những tỉnh huống (situations) mà có số công
ty con không nên hợp nhất.
Các phương thức kế toán theo phương pháp tính phí tổn / giá trị công bằng

phương pháp tính giá theo giá trị ròng.
( Accounting Procedures under the Fair Value / Cost and Equity Methods)
Cho rằng công ty Pilzner mua 2.000 trong số 10.000 cổ phiếu chưa thanh toán của
công ty Sud với giá $50 mỗi cổ phiếu vào ngày 1-7, bằng với giá trị trên sổ sách và

giá trị công bằng của tài sản ròng của Sud. lợi nhuận ròng của Sud cho trọn năm là
$50.000, và cổ tức $20.000 trả vào ngày 1-11. Nếu có chứng cứ không khả năng
hành sử quyền ảnh hưởng thì Pilzner nên áp dụng phương pháp tính phí tổn / giá trị
công bằng , dể tái đánh giá tài khoản đầu tư theo giá trị thị trường công bằng vào
cuối thời kỳ kết toán .Ngược lại, thì phải tính theo phương pháp tính giá trị theo giá
trị ròng . Kế toán do công ty Pilzner sử dụng theo 2 phương pháp như sau:
Bút toán vào ngày 1-7 vào sổ cuộc đầu tư
Phương pháp tính phí tổn Phương pháp tính theo giá trị ròng
Đầu tư vào Sud $100.000 Đầu tư vào Sud $100.000
Tiền $100.000 Tiền $100.000
Bút toán ngày 31-12 vào sổ cổ tức
Phương pháp tính phí tổn Phương pháp tính theo giá trị ròng
Tiền $ 4.000 Tiền $ 4.000
Lợi nhuận cổ tức $ 4.000 Đầu tư vào Sud $ 4.000
Bút toán ngày 31-12 công nhận doanh lợi (earnings)
Phương pháp tính phí tổn Phương pháp tính theo giá trị ròng
Không ( cho rằng cổ phiếu hoặc là Đầu tư vào Sud $ 5.000
không bán được hoặc là có giá thị trường Lợi tức từ Sud $ 5.000
= $50 mỗi cổ phiếu để khỏi tái định giá ) ( $50.000 x ½ năm x 20% )
Theo phương pháp giá trị công bằng / phí tổn, công ty Pilzner nhìn nhận có lợi tức là
$4.000 và báo cáo đầu tư của nó vào Sud với phí tổn $100.000. Theo cách tính giá
theo giá trị ròng, Pilzner nhìn nhận có lợi tức $5.000 và báo cáo đầu tư vào Sud với
phí tổn $101.000 ( bằng $100.000 phí tổn công $5.000 lợi tức trừ đi $4.00 cổ tức
phải nhận.
Các bút toán minh hoạ phương pháp tính giá trị công bằng / phí tổn phản ánh
tình hình thông thường trong đó bên đầu tư vào sổ lợi tức cổ tức ( dividend income)
bằng với các cổ tức thật sự đã nhận.Có một ngoại lệ xảy ra đối với tình hình thông
thường của phương pháp tính giá trị công bằng / phí tổn khi cổ tức vượt trội của
doanh lợi do bên đầu tư được sau khi đầu tư.Từ quan điểm của nhà đầu tư , cổ tức
vượt trổi của doanh lợi bên đầu tư được kể từ khi đầu tư là một hoàn vốn (a return of

capital) hay tyanh lý cổ tức (liquidation of dividends). Thí dụ như, nếu lợi tức ròngcủa
Sud trọn năm đã từng là $30.000. phần của Pilzner ắt phải là $3.000 ($30.000 x ½
year x 20%). $4.000 cổ tức nhận được vượt hơn $3.000 vốn trong lợi tức của Sud,
vậy $1.000 vượt sẽ được coi như một sự hoàn vốn và ghi vào bên có (credited) đầu
tư vào tài khoản của Sud. Cho rằng Pilzner vào sổ số tiền $4.000 nhận vào ngày 1-
11 như là món lợi tức cổ tức, thì cần phải có một bút toán cuối năm để điều chỉnh lợi
tức cổ tức và tài khoản đầu tư. Bút toán như thế vào sổ như sau:
Lợi tức cổ tức $ 1.000
Đầu tư vào Sud $ 1.000
Để điều chỉnh lợi tức cổ tức và tài khoản đầu tư
Dành cho cổ tức đã nhận vượt doanh lợi
Bút toán nầy giảm lợi tứccổ tức còn $3.000 phần lợi tức của Pilzner được
sau 1-7 và giảm đầu tư vào Sud xuống còn $99.000, căn bản mới về giá trị ròng / phí
tổn cho cuộc đầu tư. Nếu , sau kỳ thanh toán cổ tức, cổ phiếu có giá trị $120.000, thì
một bút toán khác rất cần để gia tăng đầu tư theo giá công bằng của nó.
Cấp khoản để điều chỉnh cổ phiếu sẳn sàn bán theo giá thị trường $21.000
Lợi tức tổng hợp khác $21.000
Hậu quả kinh tế của việc sử dụng phương pháp giá trị công bằng / phí tổn và
phương pháp tính theo giá trị ròng (Economic Consequences of Using the
Fair value / Cost and Equity Methods)
Các phương pháp kế toán khác nhau ( giá trị công bằng / phí tổn và giá trị ròng ) đưa
đến các tài khoản đầu tư khác nhau trong bảng cân bàng của công ty đầu tư và đưa
đến các tài khoản lợi tức khác nhau trong bảng báo cáo lợi tức. Khi nhà đầu tư có
thể gây quyền ảnh hưởng hay kiểm soát hoạt đông của bên được đầu tư, kể cả các
bảng khai lợi tức, phương pháp giá trị công bằng / phí tổn không được chấp nhận.
Bằng cách gây ảnh hưởng hay kiểm soátcác quyết định về cổ tức bên được đầu tư,
công ty đầu tư có thể thao túng ( manipulate) lợi tức đầu tư của chính nó. Cái khả
năng thao túng lợi nhuận nầy sẽ không có khi khi các báo cáo tài chánh của công ty
mẹ / đầu tư được hợp nhất với các báo cáo tài chánh của một công ty con / được
đầu tư bởi vì các báo cáo hợp nhất giống nhau không cần biết đã sử dụng phương

pháp kế toán nào.
Mặc dù phương pháp tính giá theo giá trị ròng không phải là thay thế cho sự
hợp nhất , lợi nhuận báo cáo bởi một công ty mẹ / đầu tư trong bảng báo cáo lợi tức
riêng rẻ của nó theo phương pháp kế toán tính giá trị ròng thì thường giống như lợi
tức báo cáo trên các bảng báo cáo tài chánh hợp nhất cho công ty mẹ và các công
ty con.
PHƯƠNG PHÁP KẾ TOÁN TÍNH GIÁ THEO GIÁ TRỊ RÒNG - HỢP NHẤT MỘT
HÀNG
( Equity Method of Accounting – A One-Line Consolidation)
Phương pháp kế toán tính giá theo giá trị ròng thường được gọi là sự hợp nhất một
hàng( a one-line consolidation). Ấy bởi vì sự đầu tư được báo cáo theo một số đơn
trên một hàng của bảng cân đối của công ty đầu tư, và lợi tức đầu tư được báo cáo
trên một số đơn trên một hàng của bảng báo cáo lợi tức của công ty đầu tư (ngoại
trừ khi bên được đầu tư có những mục khác thường hay “bên-dưới-hàng” (below-
the-line) khác cần công khai riêng rẻ) “Hợp nhất một hàng” cũng có nghĩa là lợi tức
của công ty mẹ / đầu tư và vốn cổ đông giống nhau khi một công ty con / được đầu
tư được cho là theo một áp dụng đúng và đầy đủ của phương pháp tính giá theo giá
trị ròng như khi các báo cáo tài chánh của công ty mẹ và công ty con hợp nhất. Các
báo cáo tài chánh hợp nhất cho thấy lợi tức giống nhauvà tài sản ròng giống nhau
nhưng lại gồm những chi tiết lợi nhuận và chi phí , tài sản và nợ.
Phương pháp tính giá theo giá trị ròng cũng có bao điều rắc rối
(complexities); thật vậy,nó có những rối rắm tính toán giống nhau khi soạn thảo các
bảng báo cáo tài chánh. Vì lý do nầy phương pháp tính giá theo giá trị ròng là kế
toán chuẩn của công ty mẹ đối với các công ty con, và “hợp nhất một hàng” được
được nhất quán qua các chương nói về hợp nhất của quyển sách nầy.Cái song hành
“hợp nhất một hàng / vùng dữ liệu hợp nhất’(one-line consolidation / consolidation
coverage) giúp cho sinh viên và các nhà thực hành kiểm tra công việc của mình qua
các tính toán lựa chọn của các mẩu báo cáo tài chánh quan trọng như báo cáo về lợi
tức hợp nhất ròng và doanh lợi giữ lại hợp nhất.
Các phương thức kế toán cơ bản để áp dụng phương pháp tính giá theo giá

trị ròng đều giống nhau dù nhà đầu tư có hành sử được quyền ảnh hưởng đối với
bên được đầu tư (20% hay 50% quyền sở hữu) hay có quyền kiểm soát bên được
đầu tư ( hơn 50% quyền sở hữu). Điều nầy rất quan trọng vì vì đầu tư trên 50%là
liên kết doanh nghiệp và là đối tượng của các điều khoản của APB Opinion No 16.
(chương 1- lời người dịch). Do đó Các nguyên tắc kế toán áp dụng cho liên kết
doanh nghiệp theo cách mua cũng có thể áp dụng cho kế toán đầu tư từ 20% đến
100% theo cách tính giá theo giá trị ròng. Sự khác biệt giữa cái cách các điều khoản
của Opinion No 16 được áp dụng ở chương nầy và cái cách chúng được áp dụng ở
chương 1 nổi rõ là vì:
1 Cà công ty đầu tư và công ty được đầu tư tiếp tục tồn tại như là những
đơn vị pháp nhân với hệ thống kế toán
riêng.
2 Phương pháp tính giá theo giátrị ròng áp dụng cho chỉ một trong những
đơn vị đó – công ty đầu tư.
3 Cổ quyền (equity interest) của công ty đầu tư có thể từ 20% đến 100%
Đầu tư vốn cổ phần trả tiền mặt (Equity Investments at Acquisition)
Đầu tư vào cổ phần bầu cử của các công ty khác là đối tượng của các điều khoản
của APB Opinion
No 16 vì vậy phí tổn đầu tư đượng lượng định bằng tiền xuất trả , hay bằng giá trị
công bằng của tài sản được phân phối khác hay bằng cổ hiê`1u phát hành. Tương
tự như vậy, phí tổn trực tiếp đăng ký và phát hành cổ phiếu được tính cho vốn góp
bổ sung, và những phí tổn khác của việc sang mua thì được thêm vào phí tổn sang
mua chung.Tổng phí tổn đầu tư được đưa vào tài khoản đầu tư theo quan niệm hợp
nhất một hàng (one-line consolidation).
Cho rằng công ty Payne mua 30% của cổ phiếu thường bầu cử của công ty
Sloan vào ngày 1-1-20X2 từ các cổ đông hiện hữu trả $2.000.000 tiền mặt công
thêm 200.000 cổ phần của công ty Payne mệnh giá $10 với giá thị trường $15. Các
phí tổn về cổ quyền thêm bằng tiền gồm $50.000 để đăng ký cổ phiếu và $100.000
cho các phí về tư vấn,cố vấn. Những việc nầy được vào sổ của công ty Payne theo
nhật ký bút toán sau:

1-1-20X2
Đầu tư vào Sloan $5.000.000
Cổ phiếu thường $2.000.000
Vốn góp bổ sung 1.000.000
Tiền mặt 2.000.000
Vào sổ việc mua 30% cổ quyền trong công ty Sloan
1-1-20X2
Đầu tư vàoSloan $ 100.000
Vốn góp bổ sung 50.000
Tiền mặt $ 150.000
Vào sổ các phí tổn trực tiếp bổ sung của việc mua 30% cổ quyền ở Sloan
Theo cách hợp nhất một hàng , những bút toán có thể thực hiện không cần biết giá
trị trên sổ sách hay giá trị công bằng của tài sản và nợ của công ty Sloan.
Giao phí tổn vượt trội trên cổ phiếu cơ bản ( Assignment of Excess cost Over
Underlying Equity)
Những chi tiết liên quan tài sản và nợ cá nhân của công ty Sloan vào thời điểm sang
mua rất là quan trọng bởi vì tiếp theo là kế toán theo phương pháp tính giá theo giá
trị ròng kế thừa kế toán về mọi khác biệt giữa phí tổn đầu tư và cổ phiếu căn bản
trong tài sản ròng của công ty được đầu tư.
Cho rằng giá trị trên sổ sách và chi tiết về giá trị công bằng sau đây cho công
ty Sloan vào ngày 31-12-20X2 :
Giá trị sổ sách Giá trị hợp lý

Tiền mặt $ 1.500.000 $ 1.500.000
Nợ phải đòi – ròng 2.200.000 2.200.000
Hàng tồn kho 3.000.000 4.000.000
Tài sản hiện hành khác 3.300.000 3.100.000

Tổng tài sản $15.000.000 $18.800.000
========= =========

Tài khoản phải trả $ 1.000.000 $ 1.000.000
Kỳ phiếu phải trả, đáo hạn 1-1-20X7 2.000.000 1.800.000
Cổ phiếu thường 10.000.000
Doanh lợi giữ lại 2.000.000

Tổng cổ phiếu và nợ $15.000.000
=========

Cổ phần căn bản (underlying equity) trong tài sản ròng của công ty Sloan là
$3.600.000 (m 30% $12.000.000 giá trị trên sổ sách của tài sản ròng công ty Sloan),
và sự khác biệt giữa phí tổn đầu tư và cổ phần căn bản là $1.500.000. Sự khác biệt
nầy phải được giao về tài sản và nợ theo giá trị công bằng của chúng, và bất cứ
khác biệt nào còn lại thì giao về tài sản vô thể. Exhibit 2-1 minh hoạ sự giao về tài
sản ròng và tài sản vô thể.
Chi tiết về tài sản và nợ cho trong bảng Exhibit 2-1 thì không ghi riêng rẻ trên
sổ sách của công ty Payne . Thay vào đó, $1.500.000 phí tổn vượt trên cổ phần căn
bản được gồm trong đầu tư của Payne vào tài khoản của Sloan. Theo phương pháp
kế toán tính giá theo giá trị ròng, thì sự khác biệt nầy do các khoản có (credits) và
nợ vay tuần hoàn chu kỳ ( nợ) (periodic charges (debits) trừ đi từ lợi nhuận do đầu
tư hay do có và nợ bằng nhau trừ đi từ tài khoản đầu tư. Do đó, khác biệt ban đầu
giữa phí tổn đầu tư và giá trị trên sách vở mua được đó sẽ biến mất qua những niên
hạn còn lại của tài sản và nợ hay qua thời hạn tối đa là 40 năm ( nhiên hạn hữu hiệu
tối đa có thể giao cho tài sản vô thể). Chỉ một ngoại lệ là các tài khoản giao cho đất
đai, là không khấu trừ .


CÔNG TY PAYLE VÀ 30% CỔ QUYỀN CỦA NÓ TRONG CÔNG TY ĐƯỢC ĐẦU TƯ SLOAN
Đầu tư trong Công ty Sloan $5.100.000
Giá trị sổ sách của cổ quyền mua được
(30% X $12.000.000 cổ phần của Sloan) $3.600.000

Tổng vượt của phí tổn trên giá trị sổ sách mua được $1.500.000
========
Giao về Tài sản ròng và tài sản vô thể đã kiểm
Giá tri Giá trị %cổ quyền Số
công bằng - sổ sách x mua được = giao

Hàng tồn kho $4.000.000 $3.000.000 30% $ 300.000
Tài sản hiện hành khác 3.100.000 3.300.000 30 (60.000)
Trang thiết bị 8.000.000 5.000.000 30 900.000
Kỳ phiếu phải trả 1.800.000 2.000.000 30 60.000

Tổng giao về tài sản ròng 1.200.000
Phần còn lại giao về cho tài sản vô thể 300.000

Tổng vượt của phí tổn trên giá trị sổ sách mua được $1.500.000
========
Exhibit 2-1 Lịch trình về phân phối phần vượt của phí tổn đầu tư trên giá trị sổ sách của cổ
quyền mua được
$300.000 giao về cho tài sản vô thể trong Exhit 2-1 được xác định như là phần dư
của tổng vượt trên số giao cho tải sản và nợ. Tuy nhiên , số nầy ắt đã phải tính toán
trực tiếp như là phần vượt của phí tổn đầu tư $5.100.000 trên $4.800.000 giá trị
công bằng tài sản ròng của Sloan (30% X $16.000.000). Nếu số khác biệt giữa phí
tổn và giá trị sổ sách của cổ phần cơ bản không liên quan đến tài sản và nợ , thì nó
được coi như là tài sản vô thể (hay tài sản vô thể âm (negative goodwill).
Kế Toán cho phần vượt của phí tổn đầu tư trên giá trị sổ sách của cổ phần
mua được
( Accounting for Excess of Investment Cost over Book Value Acquired )
Cho rằng công ty Sloan trả cổ tức $1.000.000 vào ngày 1-7-20X2 và báo cáo lợi tức
ròng $3.000.000 cho trọn năm. Phí tổn vượt trên giá trị trên sổ sách của cổ phiếu
mua được được khấu trừ như sau:

Tỷ suất khấu trừ cho năm 20X2

Phần vượt phân phối về:
Hàng tồn kho-bán năm 20X2 100%
Tài sản hiện hành khác-chuyển nhượng năm 20X2 100%
Trang thiết bị-khấu hao trên 20 năm 5%
Kỳ phiếu phải trả-kỳ hạn 5 năm 20%
Tài sản vô thể - 40 năm tối đa 2.5%
Công ty Payne ghi những bút toán sau đây theo cách hợp nhất một hàng để
vào sổ lợi tức và cổ tức của nó từ đầu tư vào Sloan:
1-7-20X2
Tiền mặt $300.000
Đầu tư vào Sloan $300.000
Vào sổ cổ tức nhận từ Sloan
($1.000 x 30%)

31-12-20X2
Đầu tư vào Sloan $900.000
Lợi tức từ Sloan $900.000
Vào sổ cổ phần trong lợi tức của Sloan
($3.000.000 x 30%)
31-12-20X2
Lợi tức từ Sloan $300.000
Đầu tư vào Sloan $300.000
Vào sổ việc xoá sổ vì đã thanh toán phần vượt phân về cho
các mục hàng tồn kho đã bán trong năm 20X2
31-12-20X2
Đầu tư vào Sloan $ 60.000
Lợi tức từ Sloan $ 60.000
Vào sổ tín dụng lợi tức cho các tài sản hiện hành khác được đánh

giá quá cao chuyển nhượng trong năm 20X2
31-12-20X2
Lợi tức từ Sloan $ 45.000
Đầu tư vào Sloan $ 45.000
Vào sổ khấu hao về phần vượt phân về những thiết bị định giá quá
cao với một niên hạnhữu dụng còn lại là 20 năm ( $900.000 -:- 20 năm)
31-12-20X2
Lợi tức từ Sloan $ 12.000
Đầu tư vào Sloan $ 12.000
Khấu trừ phần vượt phân về kỳ phiếu phải trả định giá quá cao trên
niên hạn còn lại của kỳ phiếu ($60.000 -:- 5 năm)
31-12-20X2
Lợi tức từ Sloan $ 7.500
Đầu tư vào Sloan $ 7.500
Khấu trừ phần vượt phân về tài sản vô thể
($300.000 -:- 40 năm)
Sáu bút toán cuối tất cả gồm lợi tức và tài khoản đầu tư, vì thế Payne có thể
ghi vào sổ lợi tức của nó từ Sloan co năm 20X2 trong một bút toán độc nhất vào
ngày 31-12-20X2 như sau:
Đầu tư vào Sloan $595.500
Lợi tức từ Sloan $595.500
Vào sổ lợi tức cổ phần từ 30% đầu tư vào Sloan như sau:
Cổ phần trong lợi tức được báo cáo của Sloan ($3.000.000 x 30%) $900.000
Khấu trừ phí tổn vượt trên giá trị sổ sách:
Hàng tồn kho bán trong 20X2 ($300.000 x 100%) (300.000)
Tài sản hiện hành khác bán trong 20X2 ($60.000 x 100%) 60.000
Trang thiết bị ($900.000 x 5% tỷ suất khấu hao) (45.000)
Kỳ phiếu phải trả ($60.000 x 20% tỷy suất khấu trừ ) (12.000)
Tài sản vô thể ($300.000 x 2.5% tỷ suất khấu trừ) (7.500)
-


Tổng lợi tức đầu tư từ Sloan $595.000
========
Công ty Payne báo cáo cuộc đầu tư của nó vào công ty Sloan vào ngày 31-
12-20X2 trên một hàng của bảng cân đối của nó $5.395.000 ($5.000.000 phí tổn+
$595.000 lợi tức - $300.000 cổ tức ), và lợi tức của nó từ Sloan cho năm 20X2 là
$595.000 trên một hàng của báo cáo lợi tức của nó. Tài sản ròng của Sloan (vốn cổ
đông, stockholders’equity) tăng $2.000.000 trong năm 20X2 lên $14.000.000, và cổ
phần của Payne của vốn căn bản nầy là 30%, hay $4.200.000. Số $1.195.500 khác
biệt giữa bản cân đối đầu tư và vốn căn bản vào ngày 31-12-20X2 tượng trưng cho
phần vượt không khấu trừ của phí tổn đầu tư trên giá trị sổ sách của cổ phiếu mua
được. Con số nầy có thể được xác nhận bằng cách lấy $304.000 món khấu trừ ròng
cho năm 20X2 trừ cho phần vượt đầu tiên $1.500.000.
Khi con số vượt đầy đủ $1.500.000 đã được khấu trừ , bảng cân đối sẽ bằng
giá trị sổ sách căn bản của nó –30% vốn cổ đông của Sloan. Tóm tắt các nhận xét
như sau:
Vốn căn bản Bảng cân đối Khác biệt
Vốn tịnh (30% vốn của tài khoản đầu tư Phí tổn không
cổ đông của Sloan của Sloan vào Sloan khấu trừ
/Giá trị sổ sách
A B C C – B

1-1-20X2 $12.000.000 $3.600.000 $5.100.000 $1.500.000
Cổ tức,
Tháng 7-20X2 (1.000.000) (300.000) (300.000)
Lợi tức, 20X2 3.000.000 900.000 900.000
Khấu trừ, 20X2 (304.500) (304.500)

31-12-20X2 $14.000.000 $4.200.000 $5.395.500
$1.195.500

========= ======== ======== ========
Vượt trội của giá trị sổ sách cổ phiếu mua được trên (hơn) phí tổn đầu tư
( Excess of Book Value Acquired Over Investment Cost )
Giá trị sổ sách của cổ phần mua được ở công ty được đầu tư có thể lớn hơn phí tổn
đầu tư. Tình hình nầy cho thấy rằng tài sản ròng xác định được của công ty được
đầu tư được đánh giá quá cao (overvalued) hoặc là cổ phần mua được theo một giá
thoả thuận (a bargain price). Nếu tổng phần vượt liên quan đến tài sản đánh giá quá
cao (nói cách khác, phí đầu tư bằng giá trị công bằng), thì phần vượt được phân
phối (assigned) để giảm tài sản đặc biệt nào mà được đánh giá quá cao.Tuy nhiên,
nếu tài sản ròng được vào sổ theo giá trị công bằng của chúng,thì phần vượt của giá
trị công bằng (và giá trị sổ sách) của cổ phần mua được trên (hơn) phí tổn đầu tư là
tài sản vô thể âm (negative goodwill). Tài sản vô thể âm được phân phối để giảm tài
sản không hiện hành hơn là làm giảm cổ phiếu bán được, như đã giải thích ở
chương 1.
Các số được phân phối để giảm tài sản đặc biệt được khấu trừ dần trong
khoảng niên hạn hữu dụng còn lại của tài sản. Ảnh hưởng thu nhập (income
effect)của loại khấu trừ như thế theo cách hợp nhất một hàng là sự đảo ngược
(reverse)tình hình tài sản vô thể làm giảm cân đối các tài khỏan lợi tức và đầu tư.
Có nghĩa là, cả 2 loại tài khỏan đầu tư và lợi tức đầu tư của công ty đầu tư gia tăng
khi một số vượt của giá trị sổ sách trên (hơn) phí tổn được khấu trừ
Để minh hoạ, cho rằng công ty Post mua 50% cổ phiếu thường được quyền
bầu cử chưa thanh toán của công ty Taylor vào ngày 1-1-20X6 với giá $40.000.
Bảng kết toán trao đổi ở vốn cổ đông công ty Taylor trong năm 20X6 như sau:
Vốn cổ đông, 1-1-20X6 $100.000
Thêm: lợi tức cho năm 20X6 20.000
Bớt:trả cổ tức, 1-7 (5.000)
Vốn cổ đông, 31-12-20X6 $115.000
=======
Số $10.000 vượt của giá trị sổ sách cổ phần mua được trên (hơn) phí tổn
đầu tư

($100.000 x 50% - $40.000) là do các hạng mục tồn kho và thiết bị đã định giá quá
cao trên sổ sách của Taylor. Hàng tồn kho vào ngày 1-1-20X6 của Taylor đã định giá
cao hơn $2.000 và đã bán tháng 12, 20X6. Số $18.000 do định giá cao còn lại liên
quan đến các thiết bị còn 10 năm hữu dụng tính từ 1-1-20X6. Không có kết quả nào
về tài sản vô thể hay tài sản vô thể âm vì $40.000 phí tổn bằng giá trị công bằng cổ
phần mua được (50% X $80.000)
Phân phối sai biệt giữa giá trị sổ sách cổ phần mua và phí tổn đầu tư là như
sau:
Phí tổn đầu tư vào Taylor $ 40.000
Trừ: Giá trị sổ sách tiềm tàng của lợi tức 50% của
Post đầu tư vào Taylor ($100.000 vốn cổ đông X 50%) (50.000)
Vượt của giá trị sổ sách hơn phí tổn $(10.000)
=======
Phần vượt phân phối về:
Hàng tồn kho ($2.000 đánh giá cao x 50% sở hữu) $ (1.000)
Trang thiết bị ($18.000 đánh giá cao x 50% sở hữu) (9.000)
Phần vượt của giá trị sổ sách hơn phí tổn $(10.000)
=======
Nhật ký bút toán cho cuộc đầu tư của công ty Post vào công ty Taylor trong
năm 20X6 như sau:
1-1-20X6
Đầu tư vào Taylor $40.000
Tiền mặt $40.000
Vào sổ mua 50% cổ phần bầu cử chưa thanh toán của Taylor
1-7-20X6
Tiền mặt $ 2.500
Đầu tư vào Taylor $ 2.500
Vào sổ cổ tức nhận được ($5.000 x 50%)
31-12-20X6
Đầu tư vào Taylor $10.000

Lợi tức từ Taylor $10.000
Công nhận vốn cổ phần trong lợi tức của Taylor
($20.000 x 50%)
31-12-20X6
Đầu tư vào Taylor $ 1.900
Lợi tức từ Taylor $ 1.900

Khấu trừ dần phần vượt của giá trị sổ sách hơn phí đầu tư được
phân phối cho:
Hàng tồn kho ($1.000 x 100% ) $ 1.000
Trang thiết bị ($9.000 x 10%) 900


Tổng $ 1.900
======
Bởi vì tài sản được mua thấp hơn giá trị sổ sách, nên công ty Post báo cáo
lợi tức đầu tư từ Taylor cho năm 20X6 là $11.900 ($10.000 + $1.900), và một đầu tư
trong bảng cân đối của Taylor vào ngày 31-12-20X6 là $49.400 ($40.000 + $11.900 -
$2.500). Khấu trừ dần phần vượt của giá trị sổ sách hơn phí tổn đầu tư làm tăng sự
đầu tư của công ty Post trong bảng cân đối của Taylor là $1.900 trong năm 20X6.
Tài sản vô thể âm ( Negative Goodwill)
Cho rằng công ty Post cũng mua món 25% cổ phiếu trong công ty Saxon với giá
$110.000 vào ngày 1-1-20X6, vào ngày nầy tài sản ròng của công ty Saxon gồm như
sau:
Vượt của giá trị
Giá tri sổ sách Giá trị công bằng công bằng
Hàng tồn kho $240.000 $260.000 $20.000
Tài sản hiện hành khác 100.000 100.000
Trang thiết bị - ròng 50.000 50.000
Nhà cửa – ròng 140.000 200.000 60.000


530.000 610.000
Trừ: Nợ 130.000 130.000

Tài sản ròng $400.000 $480.000 $80.000
Tài sản ròng của Saxon và cổ tức cho năm 20X6 lần lượt là $60.000 và
$40.000, Các mục tồn kho đánh giá thấp được bán trong năm 20X6 và nhà cửa,
thiết bị mỗi loại còn 4 năm hữu dụng khi công ty Post mua 25% cổ phiếu của nó.
Bảng Exhibit 2-2 minh hoạ sự phân phối phần vượt của phí tổn hơn giá trị sổ sách.
Khi xem lại Exhibit 2-2 , nên lưu ý phần vượt của phí tỏn hơn giá trị sổ sách ban đầu
phân phối cho giá trị công bằng của tài sản ròng , sau đó tài sản vô thể âm sẽ được
tái phân phối để làm giảm tài sản không hiện hành hơn lả giảm cổ phiếu bán được
Nhật ký bút toán cho công ty Post để vào sổ đầu tư của nó vào công ty
Saxon trong năm 20X6 như sau:
1-1-20X6
Đầu tư vào Saxon $110.000
Tiền mặt $110.000
Vào sổ việc mua 25% cổ phiếu trong công ty Saxon
20X6
Tiền mạt $ 10.000
Đầu tư vào Saxon $ 10.000
Vào sổ cổ tức nhận được ($40.000 x 25%)
31-12-20X6
Đầu tư vào Saxon $ 8.750
Lợi tức từ Saxon $ 8.750
Nhìn nhận lợi tức do đầu từ Saxon được tónh toán như sau:
25% của lợi ròng $60.000 của Saxon $ 15.000
Số vượt phân về hàng tồn kho (5.000)
Số vượt phân về thiết bị ($2.000 -:- 4 năm) 500
Số vượt phân về nhà cửa ($7.000 -:- 4 năm) (1.750)

$ 8.750
======
Đầu tư của công ty Post vào bảng cân đối của Saxon vào ngày 31-12-20X6
là $108.750, và giá trị sổ sách cơ bản của đầu tư là $105.000 ($420.000 x 25%). Sai
biệt $3.750 gồm $5.250phần vượt không khấu trừ dần phân về nhà cửa trừ ra
$1.500 tài sản vô thể a^m không khấu trừ dần được phân phối về thiết bị.
Exhibit 2-2 Kế hoạch phân phối Tài sản vô thể âm
MUA GIỮA KỲ LÃI CỔ PHẦN ĐẦU TƯ(Interim Acquisitions of an Investment
Interest)
Chi tiết của kế toán dành cho đầu tư cổ phần phải thêm nhiều khi vi6ẹc sang mua
được thực hiện trong kỳ kế toán (accounting period) (sang mua giữa kỳ, interim
acquisitions). Các tính toán thêm rất cần trong xác định số cổ phần căn bản vào thời
điểm mua và xác định lợi tức đầu tư trong năm dó. Vốn cổ đông của công ty được
đầu tưđược tính toán bằng cách cộng lợi tức thu được kể từ ngày báo cáo cuối cùng
cho đếng ngày bắt đầu có vốn cổ đông và trừ đi cổ tức khai đến ngày mua.Trong kế
toán cho các món mua giữa kỳ, cho rằng lợi tức của bên được đầu tư được hưởng
tỷ lệ sốut năm, trừ phi có chứng cớ cho thấy ngược lại.
Cho rằng công ty Petron mua 40% cổ phiếu thường bầu cử của công ty
Fairview giá $80.000 vào ngày 1-10-20X8. Tài sản ròng (vốn sở hữu) của công ty
Fairviewvào ngày 1-1-20X8 là $150.000, và nó báo cáo lợi tức ròng năm 20X8 là
$25.000 và công bố $15.000 cổ tức vào ngày 1-7. Giá trị sổ sách tài sản và nợ của
Fairviewthì bằng giá trị công bằng vào ngày 1-10-20X8 ngoại trừ một ngôi nhà đáng
giá $60.000 và vào sổ với giá $40.000. Ngôi nhà còn 20 niên hạn hữu dụng kể từ
ngày 1-10, và bất cứtài sản vô thể nào cũng được khấu trừ dần trong vòng 5 năm.
Những nguyên tắc kế toán được chấp nhận rộng rãi đòi hỏi phải áp dụng phương
pháp tính giá theo giá trị ròng và phải phân phối bất cứ sai biệt nào giữa phí tổn đầu
tư và giá trị sổ sách cổ phiếu mua được đầu tiên về cho tài sản và nợ và sau đó là
về tài sản vô thể.
CÔNG TY POST VÀ 25% CỔ PHIẾU SỞ HỮU TRONG CÔNG TY ĐƯỢC ĐẦU TƯ SAXON
(Post Corporation and its 25%-owned equity Investee, Saxon Corporation)

Phí tổn đầu tư $110.000
Giá trị sổ sách mua được ($400.000 x 25%) (100.000)
Vượt của phí tổn hơn giá trị sổ sách mua được $ 10.000
=======
Phân phối cho Tái phân phối
Giá trị sổ sách tài sản vô thể âm Phân phối cuối
cùng
Hàng tồn kho ($20.000 x 25%) $ 5.000 $ 5.000
Thiết bị - ròng $92.000)* (2.000)
Nhà cửa – ròng ($60.000 x 25%) 15.000 (8.000)* 7.000
Tài sản vô thể âm (10.000) 10.000

Vượt của phí tổn hơn giá sổ sách mua được $10.000 0 $10.000
====== ===== ======
* Căn cứ trên giá trị công bằng: $50.000 / $250.000 phân phối cho thiết bị
$200.000 / $250.000 phân phối cho nhà cửa
Phần vượt của phí tổn đầu tư của công ty Petron hơn giá trị sổ sách của 40%
cổ phiếu nó mua được trong Fairview thì được tính toán vàphân phối vềtài sản xác
định và tài sản vô thể, như cho thấy trong bảng Exhibit 2-3.
Các nhật ký bút toán trên sổ sách của Petron để ghi nhận đầu tư 40% cổ
phiếu của Fairview cho năm 20X8 như sau:
1-10-20X8
Đầu tư vào Fairview $80.000
Tiền mặt $80.000
Vào sổ việc mua 40% cổ phiếu của Fairview
1-12-20X8
Đầu tư vào Fairview $ 2.500
Lợi tức từ Fairview $ 2.500
Vào sổ vốn trong lợi tức của Fairview
(40% x $25.000 x ¼ năm)

31-12-20X8
Lợi tức từ Fairview $ 100
Đầu tư vào Fairview $ 1000
Vào sổ khấu trừ dần số vượt của phí tổn hơn
giá trị sổ sách phân phối về nhà cử định giá quá thấp
($8.000 -:- 20 năm) x ¼ năm
Lợi tức từ Fairview $ 525
Đầu tư vào Fairview $ 525
Vào sổ khấu trừ dần phần vượt của phí tổn hơn
giá trị sổ sách phân phối về tài sản vô thể
($10.500 -:- 5 năm) x ¼ năm
Vào ngày 31-12-20X8, sau khi các bút toán được ghi vào sổ cái (posted), đầu
tư của Petron vào tài khoản của Fairview sẽ có một bản cân đối của $81.875
($80.000 + $1.875 lợi tức). Bản cân đối tài khoản đầu tư nầy là $17.875 nhiều hơn
$64.000 giá trị sổ sách vốn căn bản của Petron nằm trong Fairviewvào ngày đó (40%
x $160.000) Số $17.875 gồm số vượt của phí tổn thoạt tiên hơn giá trị sổ sách cổ
phần mua được $18.500 trừ ra $625 khấu trừ trong năm 20X8.
Exhibit 2-3 Kế hoạch phân phối phần vượt của phí tổn đầu tư hơn giá trị sổ sách cổ
phiếu mua được
ĐẦU TƯ VÀO MỘT SANG MUA TỪNG BƯỚC (Investment in a step-by-step
Acquisition)
Nhà đầu tư có thể đạt quyền ảnh hưởng quan trọng trên chánh sách tài chánh và
hoạt động của công ty được đầu tư theo một loạt sang mua hơn là mua một lần. Thí
dụ như, một nhà đầu tư có thể mua 10 cổ phiếu của một công ty được đầu tư,và sau
đó mua thêm 10% nữa. Cái 10% cổ phiếu ban đầu nên được vào sổ theo phương
pháp giá trị công bằng / phí tổn cho đến khi đạt được 20% cổ phiếu. Khi cổ phiếu đạt
được 20%,thì, phải theo phương pháp tính giá theo giá trị ròng, và các tài khoản đầu
tư và doanh lợi giữ lại sẽ được điều chỉnh ngược lại về trước (retroactively
adjusted).
Cho rằng công ty Hop mua 10% cổ phiếu trong công ty Skip với giá $750.000

vào ngày 2-1-20X2 và 10% nữ giá $850.000 vào ngày 2-1-20X3. Vốn cổ phần của
công ty Skip vào những ngày sang mua trên như sau:
2-1-20X2 2-1-20X3

Vốn cổ phần $5.000.000 $5.000.000
Doanh lợi giữ lại 2.000.000 2.500.000
Tổng vốn cổ đông $7.000.000 $7.500.000
======== ========
CÔNG TY PETRON VÀ 40% SỞ HỮU CỔ PHẦN TRONG CÔNG TY ĐƯỢC ĐẦU TƯ FAIRVIEW
( Petron Corporation and its 40%-Owned Equity Investee, Fairview Corporation )
Phí tổn đầu tư $80.000
Trừ : Cổ phần do Fairview còn giữ vào ngày 1-10
Vốn bắt đầu $150.000
Công: Lợi tức tới ngày 1-10 18.750
Trừ: Cổ tức (15.000)

153.750
Kỳ hạn: Lãi do cổ phần mua 40% (61.500)

Vượt của phí tổn hơn giá trị sổ sách $18.500
======
Số vượt phân phối về:
Nhà cửa [ ($60.000 - $40.000) x 40% ] $ 8.000
Tài sản vô thể (phần còn lại) 10.500

Phần vượt của phí tổn hơn giá trị sổ sách $18.000
=======
Công ty Hop không thể liên kết số vượt của phí tổn hơn giá trị sổ sách cổ
phiếu mua được với tài sản ròng xác định được. Do đó, phần vượt của phí tổn hơn
giá trị sổ sách củua từng lần mua sẽ là tài sản vô thể với 10 niên hạn khấu trừ dần.

Vào ngày 2-1-20X3 khi mua lần nhì, công ty Hop áp dụng phương pháp tính
giá theo giá trị ròng để kế toán 20% cổ phần mua được. Điều nầy gồm sự chuyển
đổi giá trị tồn trử (carrying value) của 10% cổ phiếu mua ban đầu từ $750.000 tổn
phí nầy sang giá trị tồn trử đúng của nó trên một .cơ bản công bằng. Bút toán điều
chỉnh tài khoản đầu tư của công ty Hop là:
2-1-20X3
Đầu tư vào Sip $45.000
Doanh lợi giữ lại $45.000
Điều chỉnh tào tài khoản của công ty Skip từ
một phí tổn đến một cơ bản công bằng như sau:
Doanh lợi giữ lại của cổ phần của Skip tăng trong
năm 20X222 là $50.000 [$500.000 x 10% cổ phần
giữ trong năm] trừ đi $5.000 tài sản vô thể khấu trừ
dần cho năm 20X2 [ ($750.000 phí tổn – 700.00 giá trị
sổ sách của cổ phiếu mua) -:- 10 năm ] thì bằng con số
điều chỉnh ngược lại về trước do thay đổi cách kế toán
là $45.000

Lợi tức giữ lại $500.000 của Skip tăng cho năm 20X2 tượng trưng cho lợi tức
của nó trử đi cổ tức cho năm 20X2.Hop báo cáo phần cổ tức của nó nhận từ Skip
như là lợi tức theo phương pháp định giá phí tổn (cost method), do đó, lợi tức của
Hop trong năm 20X2 theo phương pháp tính giá theo giá trị ròng thì lớn hơn nhiều
do 10% doanh lợi giữ lại của Skip tăng trong năm 20X2 và nếu tính theo phương
pháp giá trị công bằng / phí tổn thì lại kém hơn do $5.000 khấu trừ dần tài sản vô thể
mà không tính cho lợi tức.
Các thay đổi của các phương pháp kế toán định giá phí tổn, định giá theo giá
trị ròng, hợp nhất áp dụng cho các công ty con và các cuộc đầu tư là những thay đổi
trong đơn vị báo cáo , những thay đổi đòi hỏi sự tái xác nhận các báo cáo tài chánh
trước kỳ hạn nếu hậu quả là quan trọng.
BÁN CỔ QUYỀN (Sale of an Equity Interest)

Khi một nhà đầu tư bán một phần cổ quyền khiến giảm cổ phần của nó trong công ty
được đầu tư xuống dưới 20%hay thấp hơn mức cần thiết để giữ được quyền ảnh
hưởng, thì phương pháp tính giá theo giá trị ròng không thích hợp nữa với cổ phần
còn lại. Cuộc đầu tư từ thời điểm nầy trở đi sẽ ghi theo phương pháp tính phí tổn,
bản cân đối tài khoảnđầu tư sau khi bán trở nên cơ sở phí tổn mới ( new cost basis).
Không cần phải có các điều chỉnh thêm, và nhà đầu tư ghi sự đầu tư theo phương
pháp giá trị công bằng / phí tổn theo cách thông thường. Lời và lỗ do sự bán cổ
quyền là sai biệt giữa giá bán và giá trị sổ sách của cổ quyền ngay trước khi bán.
Để minh hoạ, Xưởng Leighton mua 320.000 cổ phần ( 40% cổ quyền) trong
công ty Sergio vào ngày 1-2-20X1 với giá $580.000. Vốn cổ đông của Sergio là
$1.200.000, và giá trị sổ sách của tài sản và nợ của nó bằng giá trị công bằng của
chúng. Tài sản vô thể $100.000 sẽ khấu trừ dần trong vòng 10 năm với tỷ suất
$10.000 một năm. Leighton ghi cuộc đầu tư của nó vào Sergio theo phương pháp
tính giá theo giá trị ròng trong những năm từ 20X1 đến 20X3 và vào ngày 31-12-
20X3, bản cân đối của tài khỏn đầu tư là $670.000, bằng 40% vốn cổ phần
$1.500.000 của Sergio công $70.000tài sản vô thể không khấu trừ.
Vào ngày 1-1-20X4, Leighton bán 80% của cổ quyền của nó trong Sergio
(256.000 cổ phần) để lấy $600.000, làm giảm cổ phần của nó trong Sergio xuống 8%
(40% x 20%). Giá trị sổ sách của cổ phần bán là $536.000, hay 80% bảng cân đối
$670.000 đầu tư vào Sergio. Leighton nhìn nhận có món lời trong sự bán cổ quyền
của nó trong Sergio là $64.000 ($600.000 giá bán trừ đi $536.000giá trị sổ sách của
cổ phàn bán) Bảng cân đối đầu tư vào Sergiosau khi bán là $134.000 ($670.000 trừ
đi $536.000 tiền bán cổ phần). Leighton xác định rằng nó không còn quyền ảnh
hưởng mạnh đối với Sergio nữa, và do đó, nó chuyển sang áp dụng phương pháp
giá trị công bằng / phí tổn và ghi vào sổ cuộc đầu tư của nó theo các điều khoản của
FASB Statement No 115, với bảng cân đối $134.000 trở nên cơ bản phí tổn mới của
đầu tư.
MUA CỔ PHIẾU TRỰC TIẾP TỪ CÔNG TY ĐƯỢC ĐẦU TƯ
( Stoc purchases directly from the Investee)
Những minh hoạ trước đây đã cho rằng công ty đầu tư mua cổ phần từ cổ đông hiện

tại của công ty được đầu tư. Trong trường hợp nầy, cổ quyền mua được thì bằng cổ
phần mua được chia cho cổ phần chưa thanh toán của công ty được đầu tư. Nếu cổ
phần mua trực tiếp từ công ty phát hành, thì cổ quyền của nhà đầu tư ( investor’s
interest) được xác định bằng cách lấy cổ phần mua được chia cho cổ phần chưa
thanh toán sau khi công ty được đầu tư phát hành cổ phiếu mới.
Cho rằng công ty Karl mua 20.000 cổ phần của số cổ phần thường không
phát hành trước đây của công ty Master giá $450.000 vào ngày 1-1-20X8. Vốn cổ
đông của Master vào ngày 31-12-20X7 gồm $200.000 mệnh giá $10 mỗi cổ phần và
$150.000 doanh lợi giữ lại.
Cổ quyền của Karl trong công ty Master là 50%, được tính như sau:
A Cổ phần Karl mua 20.000 cổ phần
B Cổ phần tồn động sau khi phát hành cổ phần mới:
Tồn động ngày 31-12-20X7 20.000
Phát hành cho Karl 20.000 40.000 cổ phần
Cổ quyền của Karl trong Master : A / B = 50%
Giá trị sổ sách của cổ quyền Karl mua được là $400.000, xác định được
bằng lấy 50% cổ quyền mua được nhơn cho $800.000 vốn cổ đông của Master ngay
sau khi phát hành thêm 20.000 cổ phần . Tính toán như sau:
Vốn cổ đông của Master trước khi phát hành ($200.000
vốn cổ phần + $150.000 doanh lợi giữ lại) $350.000
Bán 20.000 cổ phần cho Karl 450.000
Vốn cổ đông của Master sau khi phát hành 800.000
Phần trăm cổ quyền của Karl 50%

Giá trị sồ sách Karl mua được $400.000
CÔNG TY ĐƯỢC ĐẦU TƯ VỚI CỔ PHẦN ƯU TIÊN
( Investee Corporation with Preferred Stock)
Phương pháp tính giá theo giá trị ròng (equity method) áp dụng cho đầu tư trong cổ
phần thường, và cũng cần thiết có vài điều chỉnh trong khi áp dụng phương pháp
nầy khi công ty được đầu tư có cổ phiếu ưu tiên cũng như cổ phiếu thừong. Những

điều chỉnh nầy đòi hỏi:
1 Phân bổ vốn cổ đông của công ty được đầu tư vào các bộ phận cổ phần
thường và ưu tiên ngay khi mua để định
giá trị sổ sách của đầu tư cổ phiếu thường
2 Phân bổ lợi tức ròng của công ty được đầu tư vào các bộ phận lợi tức
thường và ưu tiên để định phần của nhà đầu
tư hưởng trong lợi tức của bên được đầu tư trả cho cổ đông thường.
Cho rằng vốn cổ đông của công ty Tech là $6.000.000 vào đầu năm 20X3 và
$6.500.000 vào cuối năm 20X3. Lợi tức ròng và cổ tức cho năm 20X3 lần lượt là
$700.000 và $200.000
1-1-20X3 31-12-20X3

10% cổ phần ưu tiên tích luỹ, mệnh giá $100 $ 1.000.000 $ 1.000.000
Cổ phần thường, mệnh giá $10 3.000.000 3.000.000
Vốn góp khác 500.000 500.000
Doanh lợi giữ lợi 1.500.000 2.000.000
$6.000.000 $6.500.000
======== ========
Nếu công ty Mornet trả $2.500.000 vào ngày 2-1-20X3 để lấy 40% cổ phiếu
thường của Tech, thì đầu tư được lượng giá như sau:
Phí tổn của 40% cổ quyền trong Tech $2.500.000
Giá trị sổ sách (và giá trị công bằng) mua được:
Vốn cổ đông của Tech $6.000.000
Trừ: Vốn cổ đông ưu tiên 1.000.000
Vốn cổ đông thường 5.000.000
Phần trăm mua được 40% 2.000.000

Tài sản vô thể $ 500.000
========
Vốn cổ đông ưu tiên bằng mệnh giá của cổ phần ưu tiên chưa thanh toán, gia

tăng do gọi vốn cao hơn hay thanh lý mức chênh lệch hay do cổ tức ưu tiên còn tồn
động (in arrears)
Lợi tức của Mornet từ Tech cho na9m 20X3 từ 40% cổ quyền được tính:
Lợi tức ròng của Tech cho năm 20X3 $700.000
Trừ: Lợi tức ưu tiên ($1.000.000 x 10%) 100.000
Lợi tức trả cho cổ phần thường (Income to common) $600.000
=======
Lợi tức thường do phần đầu tư trong Tech ($600.000 x 40%) $240.000
Trừ: Tài sản vô thể khấu trừ ($500.000 -:- 40 năm) (12.000)

Lợi tức từ Tech cho năm 20X3 $227.000
=======
APB Opinion No 18 , đoạn 9k, dự trù rằng khi công ty được đầu tư có cổ
phần ưu tiên tích luỹ tồn động,thì công ty đầu tư cổ phần thường tính toán phần lời
hay lỗ của nó sau khi trừ cổ tức ưu tiên , có hoặc không cổ tức ưu tiên được khai
báo. Có thêm các vấn đề kế toán đề cập đến công ty được đầu tư với cổ phần ưu
tiên tồn đông được dự trù trong Chương 10.
KHOẢN MỤC ĐẶC BIỆT, ĐIỀU CHỈNH HÌNH THỨC TÁC DỤNG TÍCH LUỸ, VÀ
CÁC XEM XÉT KHÁC
(Extraordinary Items, Cumulative-Effect-Type Adjustments, and Other
Considerations)
Trong kế toán dành cho đầu tư cổ phần theo phương pháp tính giá theo giá trị ròng,
công ty đầu tư báo cáo phần của nó hưởng từ lãi thường của công ty được đầu tư
trên một hàng của báo cáo lợi tức của chính nó. Tuy nhiên, hợp nhất một hàng
không áp dụng để báo cáo lợi tức do đầu tư khi lợi tức của công ty được đầu tư gồm
cáckhoản mục đặc biệt hay có những điều chỉnh hình thức tác dụng tích luỹ. Trong
trường hợp nầy, lợi tức do đầu tư phải được tách ra thành các bộ phận bình thường,
đặcbiệt, và
tác dụng tích lũy và như vậy phải được báo cáo một cách phù hợp.
Cho rằng công ty Carl giữ 40% cổ phần tồn động của công ty Homer và lợi

tức của Homer trong năm 20X5 gồm các thứ:
Lợi tức do các hoạt động liên tục trước
khỏan mục đặc biệt $500.000
Khoản mục đặc biệt- tổn thất tai nạn
(trừ mức thuế lợi tức thích hợp $25.000) (50.000)
Lợi tức ròng $450.000
=======
Carl vào sổ lợi tức do đầu tư vào Homer như sau:
Đầu tư vào Homer $180.000
Tổn thất tai nạn – Bên được đầu tư 20.000
Lợi tức từ Homer $200.000
Vào sổ lợi tức đầu tư từ Homer
Số $200.000 lợi tức từ Homer được Carl báo cáo như là lợi tức đầu tư, và
$20.000 tổn thất tai nạn được báo cáo cùng với các khoản mục đặc biệt mà Carl có
thể đã gặp trong năm. Nếu Homer có một điều chỉnh về hình thức tác dụng tích luỹ,
thì nó sẽ được báo cáo theo kiểu giống nhau và báo cáo cùng với các điều chỉnh
hình thức tác dụng tích luỹ của công ty Carl, nếu có. Một món lời hay lỗ do chuyển
nhượng của bên được đầu tư về một bộ phận nào của doanh nghiệp cũng sẽ được
sử lý tương tự như vậy.
NHỮNG YÊU CẦU KHÁC CỦA PHƯƠNG PHÁP TÍNH GIÁ THEO GIÁ TRỊ RÒNG
(Other Requirements of the Equity Method)

Khi báo cáo phần mình có trong lời và lỗ của một công ty mà mình đầu tư theo
phương pháp tính giá theo giá trị ròng, công ty đầu tư phải loại trừ cái tác dụng (hậu
quả) của việc lời và lỗ do những giao dịch giữa các công ty đầu tư và được đầu tư
cho đến khi chúng (lời lỗ) được phát hiện. Điều nầy gồm việc điều chỉnh các tài
khoản đầu tư và lợi tức do đầu tư theo cách giống nhưcách đã minh hoạ trước đây
cho các tài sản ròng xác định và tài sản vô thể.Các giao dịch của của một công ty
được đầu tư mà làm thay đổi phần của nhà đầu tư trong tài sản ròng của nhà được
đầu tư cũng gồm các điều chỉnh theo phương pháp tính giá theo giá trị ròng của kế

toán. Những điều nầy và các điều phức tạp khác của phương pháp tính giá theo giá
trị ròng sẽ được trình bày trong các chương kế tiếp, cùng với các phương thức củng
cố liên quan. Chương 10 trình bày cổ phiếu ưu tiên , lợi tức mỗi phần, và xét về thuế
lợi tức (income tax considerations)
TIẾT LỘ CÔNG KHAI CHO CÁC CÔNG TY ĐƯỢC ĐẦU TƯ CỔ PHẦN
( Disclosures for Equity Investees )
Mức độ tới đâu của công khai tiết lộ riêng rẻ về các cuộc đầu tư cổ phần còn tuỳ
thuộc vào tầm quan trọng của đầu tư đối với vị trí tài chánh và hiệu quả hoạt đông
của công ty đầu tư. Nếu việc đầu tư cổ phiếu là quan trọng thì nhà đầu tư nên công
khai các chi tiết sau, xen vào giữa (đặt trong ngoặc đơn, parenthetically) hay trong
những ghi chú báo cáo tài chánh hay kế hoạch.
1 Tên của mỗi công ty được đầu tư và phần trăm cổ quyền
2 Các chế độ kế toán của công ty đầu tư liên quan tới đầu tư trong cổ phần
thường
3 Sự sai biệt, nếu có, giữa con số đầu tư và con số chỉ cổ phần ưu tiên
trong tài sản ròng, kể cả cách sử lý kế toán
sự sai biệt nầy.
Tiết lộ công khai thêm về các đầu tư cổ phần vật chất gồm giá trị tổng hợp của từng
cuộc đầu tư có ghi báo giá của sở giao dịch (quoted market prices) và tóm tắt thông
tin liên quan dến tài sản, nợ và hiệu quà hoạt động của các công ty được đầu tư.
Công ty, hảng xưởng nào thực hiện các tiết lộ công khai nầy cho các công ty con
không hợp nhất theo APB Opinion No 18 thì cũng được yêu cầu tiếp tục các tiết lộ
theo FASB Statement No 94, cho dù các các công ty con đó bây giờ hợp nhất.
Một bảng trích trong báo cáo hàng năm, năm 1997 của công ty Whirlpool
được trình bày trên Exhibit 2-4 để minh hoạ các yêu cầu về tiết lộ công khai.
Exhibit 2-4 Công khai báo cáo tài chánh cho đầu tư cổ phần
Thông tin tài chánh được tóm tắt cho các công ty được đầu tư cổ phần quan trọng
như là một nhóm. Phần của công ty Whirlpool trong tài sản ròng ưu tiên của các
công ty được đầu tư nầy thì được liệt kê là” đầu tư vào công ty phụ thuộc (con,
affiliated) trong bản tổng kết tài chánh, và phần của nó trong lợi tức ròng của các

công ty được đầu tư thì được gồm trong báo cáo lợi tức như là “cổ phần trong công
ty phụ thuộc” Cái đoạn về hoạt đông vận hành trên báo cáo hợp nhất lưu lượng tiền
mặt của công ty Whirlpool cho thấy “vốn cổ phần trong (lời) lỗ ròng của công ty phụ
thuộc, gồm có cổ tức đã nhận” như là một sự điều chỉnh về lợi tức ròng.
CÔNG TY WHIRLPOOL,BÁO CÁO HẰNG NĂM, NĂM 1997
CÁC GHI CHÚ TRÊN BÁO CÁO TÀI CHÁNH HỢP NHẤT
GHI CHÚ 5, CÁC CÔNG TY PHỤ THUỘC
Công ty có 49% cổ quyền trực tiếp trong công ty Mexican và cổ quyền bầu cử trực tiếp có từ 10% đến 40% trong
nhiều công ty quốc tế khácchính yếu là sản xuất và bán các hàng gia dụng và các bộ phận của các mặt hàng
nầy.Trước khi hợp nhất với công ty phụ thuộclà công ty Brazilian trong 2 tháng cuối của 1997 (Tham khảoGhi chú
1), kết quả được phản ánh như là lời do vốn của côn ty phụ thuộc.Phần chia của công ty từ kết quả của Brazilian
trong năm 1997 là $78 triệu phải bỏ ra chi phí hoạt đông và tái cấu trúc và $64 triệu gồm chi phí hoạt động và tái
cấu trúc.
Vốn cổ phần trong lời (lỗ) ròng của các công ty phụ thuộc , ròng của thuế liên quan, như sau:
(triệu đô la) 1997 1996 1995

Các công ty phụ thuộc Brazilian $ 60 $ 92 $ 70
Công ty phụ thuộc Mexican 5 (3)
Công ty khác 2 4 2
Tổng lời (lỗ) do cổ phần $ 67 $ 93 $ 72
Chi tiết tài chánh giản lược liên kết cho các công ty hoạt động phụ thuộc (không tính Brazi năm 1997) như
Sau:
31-12 ( triệu đô la) 1997 1996

Tài sản hiện hành $ 275 $1.365
Tài sản khác 372 1.090
$ 647 $2.455
Nợ hiện hành $ 303 $ 795
Nợ khác 160 380
Vốn cổ đông 184 1.280

$ 647 $2.455
Năm chấm dứt vào ngày 31-12
( triệu đô la ) 1997 1996 1995

Bán ròng $ 937 $3.112 $2.772
Phí tổn bán sản phẩm $ 596 $2.323 $2.122
Lợi ròng $ 17 $ 265 $ 192
Cổ tức và phí do các công ty phụ thuộc
trả cho Whirlpool $ 5 $ 20 $ 20

Giao dịch của các bên liên quan ( Related party transactions
FASB Statement No 57,” Công khai các bên liên quan ) giải thích rằng không có suy
đoán (presumption) về thương lượng ngay thẳng (arm’s length) giữa các bên liên
quan.Báo cáo giám định các giao dịch vật chất giữa các công ty phụ thuộc như là
các giao dịch của các bên liên quan đều đòi hỏi công khai trong báo cáo tài chánh.
Những điểm cần công khai:
1Tính chất mối liên hệ
2 Một bản mô tả sự giao dịch
3 số tiền đô la của giao dịch và mọi thay đổi từ thời gian trước trng phương
pháp sử dụng để lập các điều khoản
của giao dịch cho mỗi bản báo cáo lợi tức trình ra.
4 Nợ thiêu, hay người ta thiếu trong các bên liên quan vào ngày tổng kết tài
chánh cho mỗi bản tổng kết tài chánh t trình ra.
Công khai của các bên liên quan cho các công ty phụ thuộc được minh hoạ trong
Exhibit 2-5 lấy thí dụ là công ty Chevron. Báo cáo hàng năm, năm 1997 của Chevron
xác nhận nhóm công ty Caltex như là phụ thuộc lớn nhất của Chevron.
Exhibit 2-5 Công khai các bên liên quan cho các công ty phụ thuộc
TÓM TẮT
Có một sơ đồ dạng rủ xuống tóm tắt các phương thức kế toán cho đầu tư doanh
nghiệp trong bảng

CÔNG TY CHEVRON, BÁO CÁO HẰNG NĂM, 1997
GHI CHÚ 12. ĐẦU TƯ VÀ ỨNG TRƯỚC [ MỘT PHẦN]
( theo triệu đô la )
Các giao dịch của công ty với các công ty phụ thuộc trong bản dưới đây. Gồm mua dầu thô Indonesia từ CPI, bán
dầu thô và sản phẩm cho các công ty lọc dầu và tiếp thị CPC, bán khí đốt thiên nhiên cho NGC, và mua khí thiên
nhiên và khí hoá lỏng từ NGC.
“Tài khoản và kỳ phiếu phải đòi” trong bảng tổng kết tài chánh hợp nhất gồm $145 và $258 vào ngày 31-12-1997
và 1996, lần lược là các tài khoản các công ty phụ thuộc nợ.
“Tài khoản phải trả” gồm $57 và $39 vào ngày 31-12 1997 và 1996, lần lược là các tài khoản nợ với các công ty
phụ thuộc.
Năm chấm dứt vào ngày 31-12
1997 1996 1995

Bán cho nhóm Caltex $1.335 $1.708 $1.330
Bán cho NGC 1.822 676
Bán cho các phụ thuộc khác 8 18 10
Tổng bán cho phụ thuộc $3.165 $2.402 $1.340
Mua từ nhóm Caltex $ 932 $1.022 $ 934
Mua từ NGC 854 269
Mua từ các phụ thuộc khác 16 41 40
Tổng mua từ phụ thuộc $1.802 $1.332 $ 974
Exhibit 2-6. Đầu tư vào cổ phần thường bầu cử của một công ty được đầu tư sẽ
được tính toán theo phương pháp tính giá trị công bằng / phí tổn nếu đầu tư nầy
không cho bên đầu tư quyền anh hưởng quan trọng đối với bên được đầu tư. Nếu
không, thì phưong pháp tính giá theo giá trị ròng ( hợp nhất một hàng) thường được
sử dụng . Nếu không chứng cứ đảo ngược lại , thì một cuộc kiểm nghiệm coi có đủ
20% cổ quyền được sử dụng để xem coi nhà đầu tư có được quyền ảnh hưởng
quan trọng đối với bên được đầu tư hay không.
Phương pháp tính giá theo giá trị ròng được coi như là hợp nhất một hàng
bởi vì áp dụng của nó cũng đưa ra kết quả vốn cổ đông và lợi nhuận ròng cho bên

đầu tư cũng giống như kết quả do cách hợp nhất các báo cáo tài chánh của bên đầu
tư và bên được đầu tư đưa ra.Theo cách hợp nhất một hàng , cuộc đầu tư được
phản ánh trong một số tiền duy nhất trên một hàng của bảng tổng kết tài chánh của
bên đầu tư, và lợi tức của bên được đầu tư được từ bên được đầu tưđược báo cáo
trên một hàng của bảng báo cáo lợi tức bên đầu tư, trừ khilợi tức bên được đầu tư
gồm thêm các mục loại tác dụng tích luỹ hay bất thường. ( extraordinary or
cumulative-effect-type items)
Như chỉ trên sơ đồ hình rủ Exhibit 2-6, phương pháp tính giá theo giá trị ròng
(equity method) thường được áp dụng cho các đầu tư tính toán theo phương pháp
hợp lãi và phương pháp mua, cho dù lúc ban đầu ghi vào sổ cuộc đầu tư cổ phần
theo 2 phương pháp nầy thì khác nhau. Sơ đồ cũng cho thấy các báo cáo hợp nhất
thì thường cần cho các cuộc đầu tư vượt 50% cổ phần bầu cử của bên được đầu tư
và cách hợp nhất một hàng (phương pháp tính giá theo giá trị ròng, equity method)
được sử dụng để báo cáo các cuộc đầu tư từ 20% đến 50% trong các bảng báo cáo
tài chánh của bên đầu tư và trong các bảng báo cáo tài chánh hợp nhất.
GHI CHÚ CHO SINH VIÊN
Để giải quyết các vấn đề trong lãnh vực liên kết doanh nghiệp, đầu tư cổ phần, và
hợp nhất, thường thì rất cần các giả thuyết về tính chất của sai biệt giữa phí tổn đầu
tư và giá trị sổ sách của tài sàn ròng mua được, niên hạn khấu trừ tài sản vô thể,
sắp đặt thời gian để được lợi tức nằm trong tài khoá (accounting period), tài khoá
trong đó các hạng mục tồn kho có ảnh hưởng đến đầu tư liên công ty được đem ra
bán,và cái nguồn gốc từ đó mua được cổ quyền.Nếu không có gì cho thấy có điều
ngược lại,các bạn nên thực hiện các giả thiết sau đây:
1 Số vượt của phí tổn hơn giá trị sổ sách của tài sản ròng mua được như là
tài sản vô thể. (goodwill)
2 Tài sản vô thể được khấu trừ trên 40 năm (niên hạn khấu trừ cho phép tối
đa)
3 Lợi tức kiếm được ngang bằng nhau trong mỗi tài khoá.
4 Các hạng mục tồn kho có sẳn vào cuối tài khoáđược bán ngay đầu tài khoá
mới.

5 Cổ quyền mua từ cổ đông của công ty được đầu tư chứ không phải trực
tiếp từ công ty được đầu tư (có nghĩa là tổng cổ phần của công ty được đầu
tư không thay đổi.)
(Xem Exhibit 2-6 trang sau )

×