Tải bản đầy đủ (.pdf) (2 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học " Học thuyết Mặc Gia " pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (64.56 KB, 2 trang )

Học thuyết Mặc Gia.
81



hính vào lúc Nho học hng
thịnh, học thuyết Mặc gia cũng
có ảnh hởng khá lớn. Đến thời
Chiến Quốc, Mặc học và Nho học đợc coi
là hai trờng phái Hiển học lớn. Ngời
sáng lập Mặc học là Mặc Tử. Mặc Tử tên
là Địch (sống khoảng vào những năm từ
468 đến 376 TCN), ngời nớc Lỗ, xuất
thân bình dân, từng làm nghề thợ mộc.
Nghe nói, Mặc Tử có thời theo học Khổng
Tử, sau do bất mãn với Nho học mà lập
học phái khác. Mặc Tử cũng từng đi giảng
học ở các nớc, môn đồ rất đông, có tổ chức
chặt chẽ. Tác phẩm Mặc Tử chủ yếu do
những đệ tử của ông biên soạn thành, và là
trớc tác đại diện cho học thuyết Mặc gia.
T tởng Mặc gia chủ yếu phản ánh lợi
ích và yêu cầu của lớp ngời lao động bình
dân, với mời chủ trơng lớn là : Kiêm
ái, Phi công, Thợng hiền, Thợng
đồng, Tiết táng, Tiết dụng, Phi lạc,
Phi mệnh, Tôn thiên và Minh quỷ.
Giống với Nho gia, Mặc gia cũng đề cập
đến Nhân ái, nhng khác với Nho gia, họ
chú trọng đến Kiêm ái, tức không phân
biệt thân sơ, xa gần mà bác ái với mọi


ngời. Mặc Tử cho rằng, Kiêm ái thì cần
phải Làm lợi cho nhau (Giao tơng lợi),
cần phải hng lợi, trừ hại cho thiên hạ.
Xuất phát từ Kiêm ái, Mạnh Tử cho rằng
chiến tranh là mối nguy hại lớn nhất đối
với ngời dân, do đó ông chủ trơng Phi
công, phản đối mọi cuộc chiến tranh phi
nghĩa. Chủ trơng Thợng hiền của Mặc
gia cũng lấy Kiêm ái làm tiêu chuẩn. Chỉ
cần ngời nào có khả năng kiêm ái thì vô
luận nguồn gốc xuất thân thế nào, ngời
đó có thể làm quan. Bởi vậy, Quan không
nhất thiết phải quyền quý, mà dân chẳng
phải hạng chung thân hèn kém, ngời có
khả năng thì làm quan, ngời vô năng thì
bãi miễn (Quan vô thờng quý, nhi dân vô
chung tiện, hữu năng tắc cử chi, vô năng
tắc hạ chi). Đó chính là thái độ phản đối
công khai đối với chế độ thế tập của quý
tộc chủ nô, có ý thức bình đẳng giai cấp.
Thợng đồng của Mặc gia chủ yếu chú
trọng t tởng và chính lệnh thống nhất
giữa thiên tử với bách tính trong thiên hạ.
Mặc gia chủ trơng tiết kiệm của cải, tiết
chế dục vọng của con ngời, vì thế phản
đối chủ trơng tang lễ kéo dài, tốn kém
(Cửu tang hậu táng) của Nho gia ; phản
đối sự lãng phí tiền bạc và thời gian của
dân chúng, đề xớng việc Tiết táng, Tiết
dụng và Phi lạc. Phi mệnh mà Mặc gia

đề cao, trên thực tế chính là khuyến khích
mọi ngời dựa vào nỗ lực của bản thân để
cải tạo hoàn cảnh sống, không khuất phục
số phận. Hai chủ trơng Tôn thiên và
Minh quỷ khẳng định sự tồn tại của ý
trời (Thiên chí) và Quỷ thần, một mặt là
sự phản ánh tính hạn chế của t tởng
Mặc gia, mặt khác cũng là yêu cầu cần có
tính tôn giáo của học phái này, nhằm mục
đích răn đe, cảnh báo giai tầng thống trị.
Cống hiến của học thuyết Mặc gia
không chỉ ở phơng diện lý luận t tởng,
mà trên phơng diện logic hình thức và
khoa học tự nhiên cũng có những thành
tựu đột xuất. Ví nh, ở thời kỳ cuối, Mặc
học đã đề xuất ba hình thức t duy căn
bản là Danh (tức khái niệm), Từ (tức
phán đoán) và Thuyết (tức suy lý), thậm
C

nghiên cứu trung quốc số 1(59) - 2005
82

chí học phái này còn nêu lên bốn hình thức
suy lý. Với bộ môn hình học, Mặc gia đã
bàn đến mối quan hệ giữa điểm, đờng
thẳng và mặt phẳng ; ở bộ môn lực học, họ
lại bàn đến nguyên lý đòn bẩy, đến mối
quan hệ giữa lực với sự vận động và trọng
lợng, v.v

Những thành tựu và cống hiến trên của
học thuyết Mặc gia đã chứng tỏ một cách
thuyết phục tài trí của dân tộc Trung Hoa
thời Chiến Quốc.
Tổng tập trớc tác của học phái Mặc gia
là tác phẩm Mặc Tử. Theo ghi chép trong
Hán th - Nghệ văn chí, Mặc Tử vốn có 71
thiên, nhng đến nay chỉ còn 33 thiên. Về
đại thể, sách Mặc Tử có thể chia làm bốn
phần. Trong đó, mời thiên: Thợng
hiền, Thợng đồng, Kiêm ái, Phi
công, Tiết dụng, Tiết táng, Thiên chí,
Minh quỷ, Phi lạc và Phi mệnh phản
ánh t tởng chủ yếu của Mặc Tử, và là t
liệu chủ yếu để nghiên cứu học thuyết này;
năm thiên Canh trụ, Quý nghĩa, Công
mạnh, Lỗ vấn và Công du là phần hai,
chủ yếu ghi chép những lời nói và việc làm
của Mặc Tử, nội dung cũng rất phong phú
; mời một thiên sau thiên Bị thành môn
là phần ba, chuyên bàn về kỹ thuật phòng
ngự và chế tác khí giới, ít có liên quan với
t tởng triết học Mặc Tử. Nội dung của
ba phần trên, nói chung đợc giới học giả
coi là những trớc thuật của Mặc Tử và
những nhà Mặc học thời kỳ đầu.
Bộ phận cuối cùng cấu thành nên nội
dung tác phẩm Mặc Tử chính là Mặc kinh.
Mặc kinh là trớc tác phát triển t tởng
Mặc Tử của các nhà Mặc học cuối thời

Chiến quốc. Tên gọi Mặc kinh thấy xuất
hiện lần đầu trong sách Trang Tử (phần
Tạp thiên, mục Thiên hạ). Theo đó, thì
vào thời kỳ cuối, ba phái Mặc gia đều đọc
Mặc kinh (Câu tụng Mặc kinh). Về sau,
Mặc kinh còn đợc gọi là Mặc biện, bao
gồm có sáu thiên là Kinh thợng, Kinh
hạ, Kinh thuyết thợng, Kinh thuyết
hạ, Đại thủ và Tiểu thủ. Nội dung chủ
yếu của phần này là vấn đề nhận thức
luận và logic học, ngoài ra, còn đề cập đến
các phơng diện số học, quang học, lực học,
tâm lý học và kinh tế học. Đây chính là tài
liệu quan trọng, ghi chép về những thành
tựu khoa học thời kỳ Tiên Tần, có giá trị
sử liệu vô cùng quý báu. Đáng tiếc là, do
văn bản Mặc Kinh có quá nhiều lầm lẫn,
sai sót nên trong một thời gian dài, hiếm
có ngời đọc hiểu. Mãi đến thời Thanh,
nhờ nhóm học giả Tất Nguyên, Trơng
Huệ Ngôn và Tôn Di Nhợng tiến hành
chỉnh lý, hiệu đính, chú thích nên trớc
tác này mới trở nên quen thuộc đối với giới
t tởng Trung Quốc.
Hơng Thảo
(biên khảo)
Sách tham khảo

1. Tần Nhan Sĩ: Mặc học đích đơng
đại giá trị, Trung Quốc th điếm xuất bản,

Bắc Kinh, 1997.
2. Vơng Thế Thuấn: Trang Tử chú
dịch, Tề Lỗ th xã, Sơn Đông, 1998.
3. Nhiều tác giả: Trung Quốc triết học
tam bách đề, Thợng Hải Cổ tịch xuất bản
xã, 1988.


×