Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học " SỰ KỲ THỊ GIỚI TÍNH BIỂU HIỆN TRONG TỪ XƯNG HÔ TIẾNG HÁN " pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (318.95 KB, 8 trang )

lê quang sáng

Nghiên cứu trung Quốc
số 6(76)-2007

76




Lê Quang Sáng
NCS Thạc sĩ - Đại học Trung Sơn (Trung Quốc)



ự kỳ thị giới tính thực chất là
sự kỳ thị đối với phụ nữ. T
tởng trọng nam khinh nữ
trong xã hội phong kiến mấy ngàn năm
trớc đã ăn sâu vào tận gốc mỗi ngời
dân Trung Quốc. Chúng ta cũng thờng
nghe câu nói: Nhất nam viết nữ thập nữ
viết vô. Ngôn ngữ là phơng tiện chuyển
tải những t tởng đó, phản ánh một
cách tự nhiên trong từ ngữ tiếng Hán.
Trung Quốc có rất nhiều câu thành ngữ,
ngạn ngữ nói về sự miệt thị phụ nữ:
(phụ nữ và trẻ thơ đều biết, câu
thành ngữ có ý cho rằng nhận thức của
phụ nữ chỉ giống nh đứa trẻ),
(Nuôi con trai không nuôi


con gái, nuôi con gái phải chịu khổ),
(con gái bất tài chính là đức),
(gái lớn không thể giữ
đợc), (con gái
đi lấy chồng nh bát nớc đã hắt đi),
(lấy gà theo gà, lấy chó
theo chó, thuyền theo lái, gái theo chồng),
(ngựa tốt
không hầu hai chủ, gái tốt không lấy hai
chồng), (một gái
không ăn cơm hai nhà), ,
(tóc dài (chỉ phụ nữ), hiểu biết nông cạn),
(đàn ông tốt không đấu
với đàn bà), (thứ độc
nhất cũng không bằng tâm địa đàn bà),
(hồng nhan họa thủy). Sự
xuất hiện của những câu thành ngữ,
ngạn ngữ này chứng tỏ từ trong sâu
thẳm tâm hồn ngời Hán quá coi nhẹ địa
vị, thân phận ngời phụ nữ.
T tởng (nam tôn nữ ti,
trọng nam khinh nữ) đó cũng phản ánh
trong các từ xng hô, thể hiện ở các mặt
sau: Từ xng hô thân thuộc, xng hô
xã hội và sự khuyết thiếu từ xng hô.
1. Từ xng hô thân thuộc thể hiện t
tởng Nam tôn nữ ti
( )
1.1. Sự không cân xứng từ xng hô
thể hiện t tởng Nam tôn nữ ti

S

Sự kỳ thị giới tính biểu hiện trong
nghiÊn cứU trung quốC
số 6(76)-2007

77

Thông thờng, từ xng hô thân thuộc
trong tiếng Hán đối xứng với nhau, nh
ông-bà, anh trai-chị gái. Nhng trên thực
tế, từ xng hô chỉ nam giới thông thờng
tế nhị hơn từ xng hô chỉ nữ giới. Ví dụ:
nhóm từ xng hô: (bác
bác (bác trai), thúc thúc (chú ruột), cô cô
(cô ruột), đều là những từ xng hô chỉ
quan hệ thân thuộc ngang vai với bố mẹ
đẻ, nhng phía nam giới lại đợc phân
theo quan hệ tuổi tác lớn bé của ngời
cha: , , trong khi đó, nữ giới ít
phân theo tuổi tác mà đều gọi chung là
(cô cô). Sự phân biệt đó bắt nguồn
từ nguyên nhân cho rằng bác với chú là
ngời một nhà có liên hệ nhiều hơn nên
cần thiết phải chia nhỏ hơn, còn cô sớm
hay muộn cũng sẽ đi lấy chồng mà
, (cô gái đã đi lấy
chồng nh bát nớc đã hắt đi), trở thành
ngời nhà khác và đơng nhiên sự liên
hệ sẽ ít hơn, không cần thiết phải phân

nhỏ nh vậy. Anh em và chị em của bố
mẹ, chỉ gọi là (cậu và dì), không
có sự phân biệt tuổi tác. , và
(cậu) không cân xứng, anh em của
ngời cha có những từ xng hô chuyên
(bác, chú), còn anh em phía
ngời mẹ tại sao lại không phân theo
tuổi tác, mà cũng vẫn chỉ gọi chung
chung một từ (cậu)? Đây chính là
ví dụ điển hình cho việc ngời Hán coi
trọng bên nội, coi nhẹ bên ngoại và đó
cũng chính là sự phân biệt giữa chế độ
phụ hệ và chế độ mẫu hệ, sự bất bình
đẳng nam nữ trong gia đình, chế độ gia
trởng của nam giới. Việt Nam với
truyền thống văn hóa gốc nông nghiệp,
vốn có truyền thống coi trọng phụ nữ,
nhng sau này chịu ảnh hởng của văn
hóa Trung Hoa (Nho giáo), nên địa vị
ngời phụ nữ cũng bị ảnh hởng, và tất
nhiên mức độ ảnh hởng không nặng nề
nh ở Trung Quốc. Việt Nam cũng trọng
nam khinh nữ, nhng vai trò của ngời
phụ nữ có thể nói tơng đối bình đẳng
qua các từ xng hô tơng đối cân xứng:
Bên nội có bác (từ chỉ chung cả anh và
chị của bố), chú, cô, bên ngoại cũng có
bác (từ chỉ chung cả anh và chị của bố),
cậu, dì, có sự phân biệt tuổi tác dựa vào
tuổi tác của ngời cha (bên nội) và dựa

vào tuổi tác của ngời mẹ (bên ngoại).
Sự không cân xứng này còn thể hiện ở
mức độ phức tạp của từ xng hô: Xng hô
cho nam giới ngắn gọn còn cho nữ giới thì
dài dòng phức tạp. Ví dụ: Con trai của
anh em trai có thể gọi là (cháu), con
gái của anh em ruột không đợc gọi là
, chỉ đợc gọi là . Con trai của
con trai gọi là (cháu trai), con gái
của con trai gọi là , con trai của em
gái gọi là , con gái của em gái
bắt buộc phải gọi là . Cùng một
giới tính lẽ nào lại có sự khác biệt nh
vậy? Chẳng phải một là con trai, một là
con gái đó sao?
Sự mất cân xứng đôi khi còn thể hiện
ở chỗ xng hô cho nam giới có thể bao
trùm thay cho nữ giới, nhng xng hô
cho nữ giới lại không thể, chẳng hạn
(con cháu), chỉ thế hệ sau, nó có thể
bao gồm cả nam lẫn nữ, thế nhng từ
, chỉ để chỉ nữ (cháu gái). Chỉ có
(con (trai) cháu đầy nhà), nhng
không có (con (gái) cháu đầy
nhà), chỉ có (vợ con (trai) lớn
lê quang sáng

Nghiên cứu trung Quốc
số 6(76)-2007


78

bé), không có . Hay trong đại
từ nhân xng số nhiều ngôi thứ ba cũng
vậy: (họ). Khi dùng ,
tức ngời ta ngầm hiểu chỉ có nam giới,
hoặc có cả nam giới và nữ giới, nhng khi
dùng tức chỉ có nữ giới. Và một
điều rất bất bình đẳng là, trong số họ
không cần biết có bao nhiêu nữ, chỉ cần
có một nam giới ở đó, thì vẫn phải dùng
.
Trong ngôn ngữ, ngời ta gọi những
đơn vị ngôn ngữ ít phức tạp, phạm vi sử
dụng rộng, tần suất sử dụng nhiều gọi là
hiện tợng không có tiêu chí và ngợc lại.
Nh vậy, từ xng hô cho nam giới phần
lớn là không có tiêu chí và xng hô cho
nữ giới là có tiêu chí. Ông Hình Phúc
Nghĩa cũng đã từng chỉ ra: Một đặc điểm
chung của các ngôn ngữ trên thế giới là
dùng không tiêu chí biểu thị chủ, nhiều,
thờng dùng; dùng có tiêu chí biểu thị ít,
phục tùng, ít sử dụng
(1)
.
Hiện tợng không có tiêu chí là hiện
tợng chủ đạo trong cuộc sống và trong
ngôn ngữ. Sự khác nhau về tiêu chí xng
hô cho nam giới và nữ giới thực chất là sự

phản ánh địa vị xã hội khác nhau giữa
nam nữ và t tởng trọng nam khinh nữ
trong lịch sử.
1.2. Trật từ xng hô thể hiện Nam
tôn nữ ti
( )
Về trật tự từ xng hô, từ xng hô chỉ
nam giới thờng đứng trớc, còn từ xng
hô cho nữ giới thì ngợc lại. Một đặc
điểm quan trọng trong tiếng Hán là
(trc tôn hu ti), nh
(quân thần, phụ
tử, mẫu tử, tổ tôn), nếu nh đổi lại trật
tự thì ngời ta không thể chấp nhận
đợc.
Hai từ xng hô thân thuộc ghép lại,
trong điều kiện giống nhau, thì thờng
ngữ tố xng hô cho nam giới đứng trớc
ngữ tố xng hô cho nữ giới:
cha mẹ, bố mẹ, tía mạ, bố
chồng mẹ chồng, chồng vợ (khác với tiếng
Việt), anh trai chị dâu, anh chị, em trai
em gái, con cái, con cái và cũng không
nói ngợc lại. Tôn ti trật tự ( )
cũng là một t tởng đợc ngời Hán rất
coi trọng, nhng đôi khi t tởng này
cũng phải nhờng chỗ cho t tởng nam
tôn nữ ti. Chị dâu thông thờng lớn tuổi
hơn chú út, thậm chí còn có quan niệm
(dâu cả hơn cả mẹ), nhng khi

xng hô chị dâu và chú út ghép lại thì
vẫn là: , cũng chỉ bởi vì chú út là
nam giới.
Sự sắp xếp trật tự nh vậy phản ánh
quan niệm về giá trị xã hội. Ngời Hán
phân biệt tôn ti trật tự có xu hớng tôn
đứng trớc, ti đứng sau. Sự sắp xếp nam
trớc nữ sau thực chất là cách biểu đạt
khác của t tởng nam tôn nữ ti mà
thôi.
1.3. Họ tên chồng có thể thay họ tên vợ
ở Việt Nam, thế hệ ông bà, cha mẹ
chúng ta vẫn còn tồn tại hiện tợng này,
đặc biệt ở các vùng nông thôn. Ngời phụ
nữ khi đi lấy chồng gần nh mất tên.
Chính bản thân tôi cũng nghe mọi ngời
gọi mẹ tôi bằng tên của bố tôi. Cách gọi
đó bắt nguồn từ Trung Quốc.
ở Trung Quốc, nữ giới sau khi kết hôn
thờng phải đổi thành họ của chồng và
xng hô theo thân phận của ngời chồng,
nh Giả mẫu, Vơng phu nhân, Hình
Sự kỳ thị giới tính biểu hiện trong
nghiÊn cứU trung quốC
số 6(76)-2007

79

phu nhân, dì Triệu trong truyện Hồng
lâu mộng. Vì vậy, ngời ta thờng gọi

tên vợ bằng họ tên của ngời chồng. Ví
dụ khi ngời ta gọi: (ông
Trơng), thì đích thực họ ông ấy là
Trơng, nhng (bà Trơng), thì
cha chắc bà ấy họ Trơng. Bà ấy có họ
của mình nhng mọi ngời không hay
gọi, mà lại gọi bà ấy theo họ của chồng.
(phu nhân Trơng) là cách gọi
tôn xng, nhng cho dù là tôn xng thì
vẫn mang họ của chồng. Ví dụ khác nh
, không phải là họ Triệu, (chị
dâu Trơng), không phải họ Trơng,
(con dâu họ Lý), cũng không phải
là họ Lý. gọi là bà nội Châu,
nhng không phải bà ấy họ Châu, mà là
chồng bà ấy họ Châu. Đặc biệt là ở nông
thôn, vẫn tồn tại hiện tợng lấy họ tên
chồng ghép với một từ xng hô nữ tính để
xng hô ngời vợ: (Chị dâu
Bính Sinh), (Con dâu Đông
Căn), (vợ Thiết đán). Những
từ xng hô này là minh chứng cho địa vị
phụ thuộc của ngời phụ nữ.
Ngoài ra, chúng ta còn có thể căn cứ
vào cách xng hô đối với ngời vợ, đoán
tuổi của ngời chồng: (bác
gái, thím). Cách xng hô nh vậy không
phải căn cứ vào tuổi của họ, mà là căn cứ
vào tuổi chồng trong sự tơng đối với tuổi
của bố mẹ mình, rồi quyết định lựa chọn

từ xng hô. Vợ của bác trai chính là
, cho dù bác gái có kém tuổi bố mẹ
mình nhiều cũng vẫn phải gọi là bác
gái. Cũng tơng tự, vợ của chú gọi là
thím, bất luận tuổi thím có thể cao hơn
nhiều so với bố mẹ mình, nhng vẫn gọi
là thím. Bác gái, thím hoàn toàn phụ
thuộc vào bác trai, chú,
(chị dâu, em dâu) cũng là những từ xng
hô dựa gọi theo tuổi chồng.
Ngay cả một số vùng văn minh hiện
đại vẫn tồn tại dấu tích t tởng đó, nh
ở Hồng Kông. Ví dụ nh tên họ của viên
chức trong chính quyền Hồng Kông
(Trần Phơng An Sinh,
(Phạm Từ Lệ Thái), phóng viên thời sự
đài Phợng Hoàng (Lã Khâu
Lộ Vi), (Trần Lỗ Dự). Những họ
tên này khi nghe thấy hơi lạ tai, cũng chỉ
bởi vì họ lấy họ của chồng đặt trớc họ
tên của mình. Suy cho cùng, đây cũng là
một sự tiến bộ so với trớc đây, ngời
phụ nữ sau khi đi lấy chồng mất cả tên
lẫn họ.
1.4. ở nhiều vùng nông thôn và
vùng núi của Trung Quốc còn tồn tại
hiện tợng ngời phụ nữ đã đi lấy
chồng còn bị giáng đi một bậc, xng hô
lại căn cứ vào con cái để xng hô với
ngời bề trên hoặc ngời cùng vai

trong nội tộc
. Để biểu thị sự tôn kính,
con dâu đứng trên cơng vị của con cái
mình gọi bố mẹ chồng là , (ông
bà), hoặc (ông cháu, bà
cháu), gọi em trai chồng là (chú).
Trong truyện Thủy Hử, Phan Kim Liên,
chị dâu của Võ Tòng, cũng luôn miệng
gọi Võ Tòng là , cho dù vẫn cha
sinh con. Hay các từ xng hô hàng ngày:
(bác nó), (chú hai nó)
(cô, gọi em gái của chồng mình),
đều xng hô thay cho con cái.
1.5 Xng hô vợ chồng thể hiện t
tởng Nam tôn nữ ti
Những từ xng hô vợ chồng nh
(ông già), (bà lão),
lê quang sáng

Nghiên cứu trung Quốc
số 6(76)-2007

80

(bố thằng cu), (mẹ
thằng cu), (bà xã), (ông
xã) (vợ hoặc chồng), (chồng,
chỉ lịch sự, ngời Hồng Công hay dùng),
(vợ, chỉ lịch sự). Phân tích từ xng
hô giữa vợ và chồng, chúng ta cũng thấy

sự có mặt của t tởng Nam tôn nữ ti.
Khi ngời vợ giới thiệu về chồng mình
thờng nói: (chồng tôi, nghĩa
gốc là tiên sinh, bậc tiền bối),
(chồng tôi), (trụ cột trong nhà).
Thời xa, vợ gọi chồng bằng những từ
xng hô tôn kính: (quan nhân),
(tớng công), (lão gia).
Nhng khi chồng giới thiệu vợ lại dùng
những từ xng hô khá khiêm tốn:

(2)
(đờng khách, đờng là nơi lập bài
vị, thờ cúng tổ tiên và cũng là nơi trong
nhà quyết định chuyện lớn, nhng vì vợ
là ngời ngoài, họ ngoài, không cùng tổ
tiên, nên gọi là khách, vì khách ở
đờng, nên gọi là đờng khách, nếu
không đã gọi là (đờng chủ)), cách
gọi đó còn là tôn trọng vì họ coi nh
ngời trong nhà, nơi quan trọng nhất,
những từ xng hô dới đây còn thể hiện
rõ nét hơn: (ngời trong buồng),
(nội nhân của tôi), (cái
miệng đó), (ngời đun bếp),
(ngời đun nấu), (ngời
nhà tôi), (vợ), (mụ đàn bà),
(ngời nấu cơm), (nội
trợ) Thời xa, đa phần các ông chồng
gọi vợ là: (ngời nhà tôi),

(tiện nhân), (vợ đần), (vợ
quê mùa), (vợ vụng), (tiện
nội), (vợ gai góc) v.v
2. Từ xng hô xã hội thể hiện t
tởng Nam tôn nữ ti
2.1. Sắc thái biểu cảm nam nữ khác
nhau
Xng hô xã hội do giới tính khác nhau
nên ý nghĩa sắc thái biểu cảm khác nhau.
Nam giới thờng đợc thêm các từ ,
, sau đó thêm các từ nh , ,
biểu thị sự tôn kính. Thời xa thờng gọi
là (đại lão gia), (thái
lão gia), (Trơng công). Nữ giới thì
lại bị chụp cho chữ , hoặc những chữ
ý nghĩa tơng tự chữ (nhỏ):
(tiểu nha đầu), (con bé, con nhỏ,
con ranh), (con vợ),
(con nha đầu), (xa là chỉ
tiểu th, nay để chỉ gái nhà hàng),
(con nở).
Trong tiếng Hán, con gái nhiều tuổi
cha lấy chồng thờng bị chụp cho
những từ nh (gái già),
(gái trinh già), nhng con trai lại gọi là
(hảo hán độc thân). Hai từ
(chồng) và (vợ) là hai từ trung
tính. Nếu cho từ trớc chữ , ý
nghĩa khác hẳn, chỉ ngời chồng anh
hùng khẳng khái, nhng với từ ,

lại chỉ là một từ trung tính. Ngời phụ
nữ đi lấy chồng, nhng không may chồng
mất thì thờng bị gọi là (quả
phụ) đó là sự quan tâm đặc biệt đối với
tình trạng hôn nhân của phụ nữ, trong
khi đó, nam giới vợ mất dờng nh
không có can hệ gì, không có từ xng hô
chuyên để chỉ nam giới mất vợ. Từ
sử dụng trong một số trờng hợp làm
ngời ta thờng liên tởng đến tình dục,
nh ngạn ngữ có câu
(mời quả phụ chín ngời ngon),
(trớc nhà quả phụ lắm
chuyện thị phi).
Sự kỳ thị giới tính biểu hiện trong
nghiÊn cứU trung quốC
số 6(76)-2007

81

(anh em) và (các mẹ)
là những từ thờng dùng trong khẩu ngữ
(đặc biệt ở phơng bắc Trung Quốc).
Nam giới sử dụng từ , thể hiện
khẩu khí tự hào, dơng dơng tự đắc, và
họ cũng thờng tự gọi mình là
nh
(đây là việc của đấng mày râu chúng tôi,
các mẹ miễn quản). Khi nam giới nói
(các mẹ), (các mẹ già) là có

hàm ý khinh miệt:
! (mày làm việc thế nào mà nh các
mẹ thế hả?). Ngợc lại, nữ giới lại cha
bao giờ gọi mình là .
là một tiền tố cấu tạo nên từ
giàu tính biểu cảm trong truyền thống
văn hóa Trung Quốc, nhng ý nghĩa biểu
cảm của nó lại rất khác nhau khi đứng
trớc các từ chỉ giới tính nam và nữ. Nếu
nh đứng trớc các từ xng hô nam
giới, nó thể hiện sự trang trọng, kính
trọng: (lão gia), (lão
trợng nhân, chỉ ông già nhng tôn
kính), (lão đại nhân),
(ông chủ); khi kết hợp với từ xng hô chỉ
nữ giới thì hàm nghĩa hoàn toàn ngợc
lại, hàm nghĩa tuổi cao, châm chọc,
không tôn kính: (bà xã),
(mẹ sề), (mẹ già), (vợ già),
(gái già), (gái trinh
già) Trong tiếng Hán thờng dùng
+ , nh (Vơng lão) ,
(Lý lão), để chỉ những ngời già đức cao
vọng trọng, nhng cách dùng này thờng
dùng nhiều cho nam giới, rất ít dùng cho
nữ giới.
Những từ xng hô hiện nay nh
và , sắc thái biểu cảm không
còn cân xứng, xa nay vẫn là kính
ngữ, nhng lại có sự thăng trầm,

có tôn xng và cũng có sự khinh miệt,
thậm chí còn trở thành một danh từ
chuyên chỉ các dịch vụ đặc biệt.
2.2. Quan điểm nam quyền
Nam giới có những từ chỉ chung
chung, nhng nữ giới lại không có, có
chăng cũng chỉ là: , chỉ những
ngời có văn hóa, cao quý một chút.
Trong cuộc sống chúng ta thờng nghe
thấy (bà Trơng), (bà
Công), nhng họ Trơng, họ Công lại
không phải là họ của bà ấy, mà là họ của
chồng bà. Và ngợc lại, ngời chồng có vợ
họ Trơng, thì rõ ràng không thể gọi
ngời chồng là: (ông Trơng),
nếu gọi là ông Trơng, thì có nghĩa là
ông ấy họ Trơng. Đó là minh chứng rõ
nét cho chế độ nam quyền.
2.3. Nhận thức truyền thống
Sau khi Trung Quốc đợc giải phóng,
địa vị ngời phụ nữ đã đợc cải thiện
nhiều, nhng lễ giáo phong kiến mấy
ngàn năm không thể ngay trong thời
gian ngắn có thể loại bỏ hết. Chúng ta
cũng thờng nghe thấy những từ xng
hô: (tỉnh trởng), (thị
trởng), (hiệu trởng),
(giám đốc), (tiến sĩ), tuy báo chí,
ngời dân luôn đề cập bình đẳng nam nữ,
nhng ấn tợng đầu tiên khi nghe thấy

những từ này, ngời Trung Quốc vẫn
liên tởng ngay đó là nam giới. Bởi vì
trong nhận thức của mọi ngời, những
ngành nghề hoặc địa vị quyền cao chức
trọng thời xa nam giới chiếm đại đa số,
nên tâm lý đó đã hình thành. Trên báo
lê quang sáng

Nghiên cứu trung Quốc
số 6(76)-2007

82

chí và các phơng tiện truyền thông đại
chúng, xng hô cho nam giới có thể bỏ
chữ (nam), nhng nữ giới thì không
đợc, vẫn phải thêm ngữ tố (nữ).
Những từ chỉ nghề nghiệp có địa vị
xã hội thấp nh: (th ký),
(nhân viên phục vụ), (bảo
mẫu), (ngời bán hàng),
(ngời trực điện thoại), ngời ta lại
dễ dàng nghĩ ngay đến phụ nữ.
3. Hiện tợng khuyết thiếu từ xng hô
thể hiện t tởng Nam tôn nữ ti
Khuyết thiếu từ xng hô là hiện tợng
tìm không thấy từ xng hô phù hợp để
xng hô đối tợng giao tiếp. Từ xng hô
trọng nam nhiều hơn từ xng hô trọng
nữ. Theo thống kê của Lâm Hạnh Quang

và Bạch Phi trong cuốn từ điển
(từ điển tiếng Hán phân loại
theo ngữ nghĩa), trong mục từ cuộc sống
tình dục, có 7 từ dùng cho nữ giới, 3 từ
dùng cho nam giới, nam nữ dùng chung
có 8 từ. Trong mục từ nam giới, có 29 từ,
trong đó chỉ có một từ (bộc, trong nô
bộc), để biểu thị khiêm xng, còn lại 28
từ đều không có nghĩa xấu. Nhng trong
mục từ nữ giới, có đến 52 từ, trong đó
có ít nhất 27 từ nghĩa xấu. Cùng để biểu
thị ý nghĩa là mất chồng hay mất vợ, từ
cho nam giới chỉ có 5 từ, còn nữ giới lại có
đến 12 từ, nh (ngời một nửa),
(ngời cha chết),
(ngời quay đầu), (quả phụ chờ
cửa, (ngời vợ bị bỏ rơi),
(oan nữ)
3.1. Sự khuyết thiếu từ xng hô thân
thuộc
Xng hô giữa chị em gái và anh em
trai của cha và mẹ không thống nhất.
Chị em gái của cha đều gọi là
(cô). Anh trai em trai của mẹ đều gọi là
(cậu). Cô là huyết thống của cha,
con trai gọi cô của cha là gọi
chồng của là . là
huyết thống của mẹ, của cha tuy
gọi là , nhng không gọi chồng của
là , đó là sự khuyết thiếu từ

xng hô.
3.2. Sự khuyết thiếu từ xng hô
xã hội
Khi giảng trên lớp, thầy giáo có thể
dõng dạc gọi vợ mình là (s
nơng của các em), (s mẫu
của các em), nhng cô giáo lại chỉ có thể
miễn cỡng gọi chồng mình là
(chồng tôi). Thầy giáo đơng nhiên vẫn
có thể gọi vợ mình là (vợ tôi),
nhng cô giáo lại không thể gọi chồng
mình là (s phụ của các em)
hoặc (s tía của các em),
(s ba của các em). Vì vậy, học
sinh cũng không có từ để xng hô chồng
của cô giáo. Đó là một ví dụ điển hình
cho sự khuyết thiếu từ xng hô.
Trong tiếng Hán, một số chức vụ,
nghề nghiệp vốn cả nam nữ đều có thể
làm, nhng đều dùng để chỉ nam giới,
nếu nh nữ giới đảm nhận chức vụ hoặc
nghề nghiệp này thì phải thêm trớc đó
chữ , nh , , ,
, , (nữ tiến sĩ,
nữ giáo s, nữ nhà văn, nữ anh hùng, nữ
nhà khoa học, nữ tài xế). Hay trong
bóng đá, gọi một đội bóng nam giới của
Sự kỳ thị giới tính biểu hiện trong
nghiÊn cứU trung quốC
số 6(76)-2007


83

một nớc nào đó chỉ cần nói ,
có thể giản lợc đợc hai chữ ,
nhng nếu là đội bóng nữ thì nhất định
phải thêm hai chữ thành
.
Nguợc lại, cũng có những từ chỉ để
chuyên xng hô cho nhữ giới mà không
có từ chỉ cho nam tơng ứng. Ví dụ, khi
ngời chồng mất đi, ngời vợ bị gọi là
(góa chồng), nhng lại không có từ
xng hô cho ngời chồng sau khi vợ mất.
Ngời chồng sau khi vợ mất, đi bớc nữa
gọi là (tục huyền), vợ mới gọi là
(phòng thêm), nhng lại không có
từ xng hô nào để gọi quả phụ tái giá, và
cũng không có từ xng hô nào để gọi
ngời chồng của quả phụ đó. Tơng tự,
tiếng Hán cũng không có từ xng hô kiểu
gà trống nuôi con nh tiếng Việt, tơng
ứng với từ (thủ quả, thủ tiết). Hay
những từ (trinh), và (tiết), cũng
chỉ để dành riêng cho nữ giới. Vì vậy,
trong tiếng Hán có từ (trinh nữ),
(tiết phụ), mà lại không có
(trinh nam), (tiết nam). Chuyện
con gái (thất tiết), là chuyện tầy
đình: (đói chết

chuyện nhỏ, thất tiết mới là chuyện lớn),
nhng nam giới lại là chuyện bình
thờng: (không
bị nhục vì bị mất đồng trinh) .
Ngôn ngữ là tấm gơng phản chiếu
đời sống xã hội. Cùng với sự phát triển
của nó, ý nghĩa và quan niệm kỳ thị vốn
có trớc đây sẽ dần dần mất đi. Và cái gọi
là ngôn ngữ kỳ thị đối với phụ nữ cũng sẽ
dần dần không còn chỗ đứng trong giao
tiếp.

chú thích:
1.
275

2. Ngày nay ở Hồ Nam vẫn dùng là từ
xng hô trực tiếp giữa chồng với vợ, nếu gọi
vợ ngời khác thì thêm họ vào trớc nh
, , nếu không biết họ của cô ấy,
có thể lấy tên chồng cô ấy để gọi: ,
.

Tài liệu tham khảo
1. ,
, 20 3 2003
9 .
2
2006 2 ( 235 ).
3

2000
4
2004 2 19 .
5
, 2007 02 .
6

2006 12 16 5



×