Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

hàng rào kĩ thuật và các biện pháp vệ sinh dịch tễ pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.19 KB, 12 trang )

HIỆP ĐỊNH VỀ
Hàng rào kĩ thuật (TBT)

các biện pháp vệ sinh dịch tễ
(SPS)
HIỆP ĐỊNH VỀ HÀNG RÀO KĨ THUẬT VÀ HIỆP ĐỊNH VỀ CÁC BIỆN PHÁP VỆ SINH
DỊCH TỄ.
A. Hiệp định về các rào cản về kỹ thuật đối với thương mại của tổ chức WTO.
1. Vài nét về hiệp định
Trong thương mại quốc tế nói chung và trong chính sách thương mại của các nước nói
riêng, vấn đề tự do hóa thương mại và bảo hộ thương mại luôn luôn đi liền với nhau. Nghịch
lý này được tất cả các nước chấp nhận như một thực tế khách quan, vì một mặt nước nào cũng
muốn tự do hoá thương mại, nhưng mặt khác bất cứ nước nào cũng có nhu cầu phải bảo hộ
một số ngành sản xuất trong nước của mình. Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) được
thành lập trên cơ sở kế thừa Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT 1947) đã
thúc đẩy sự tự do trong thương mại quốc tế và làm cho tiến trình tự do thương mại toàn cầu đi
đúng hướng. WTO yêu cầu các thành viên phải cắt giảm thuế quan và đều phải cam kết không
tăng thuế vượt mức đã cam kết đối với phần lớn các mặt hàng trong biểu thuế nhập khẩu.
Chính sức ép phải giảm thuế đó đã khiến các nước lợi dụng chính những định chế luật pháp
của WTO để đề ra các biện pháp bảo hộ thương mại tinh vi, hiện đại khác không phải là thuế,
đó là các biện pháp phi thuế quan hay gần đây chúng ta hay gọi đó là các rào cản thương mại
phi thuế quan
Khi một quốc gia muốn xuất khẩu sản phẩm của nước mình ra nước ngoài, ngoài việc sản
phẩm đó đáp ứng được các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật trong nước còn phải phù hợp với các
quy định và tiêu chuẩn kỹ thuật của các nước nhập khẩu. Đây mới chính là yếu tố quyết định
đến việc sản phẩm của quốc gia đó có xuất khẩu được hay không cũng như có thể được thị
trường nước nhập khẩu chấp nhận hay không. Điều đó yêu cầu nhà sản xuất phải chứng minh
được sản phẩm của mình đáp ứng được yêu cầu, quy định kỹ thuật của nước đối tác. Điều này
đòi hỏi chi phí rất lớn và trải qua nhiều thủ tục phức tạp. Để giải quyết khó khăn này, cũng
như mở rộng thêm mục đích áp dụng các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật cần phải có một văn
bản quốc tế chung về các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật. sau nhiều năm đàm phán, đến cuối


vòng đàm phán Tokyo năm 1979 (vòng đàm phán Tokyo đã kéo dài từ năm 1973 đến 1979),
hiệp định đa phương về các hàng rào kỹ thuật trong thương mại (Technical Barriers to Trade -
TBT) mới được ký kết.
Việc thông qua Hiệp định về các Rào cản Kỹ thuật đối với Thương mại (Hiệp định TBT-
Agreement on Technical Barriers to Trade) trong khuôn khổ WTO là nhằm thừa nhận sự cần
thiết của các biện pháp kỹ thuật đồng thời kiểm soát các biện pháp này sao cho chúng được
các nước thành viên WTO sử dụng đúng mục đích và không trở thành công cụ bảo hộ.
2. Nội dung:
2.1.Tóm tắt:
Hiệp định về Hàng rào kỹ thuật trong thương mại gồm 6 phần với 15 điều và 3 phụ lục,
nội dung tóm tắt như sau:
2.1.1.Các điều khoản chung:
Điều 1: Các quy định chung
- Thuật ngữ;- Phạm vi áp dụng: Tất cả các sản phẩm bao gồm sản phẩm công nghiệp và
nông nghiệp- Trừ các đối tượng thuộc Hiệp định về mua sắm của Chính phủ đã được loại trừ
Trừ các đối tượng nêu tại phụ lục A của Hiệp định áp dụng các biện pháp vệ sinh động vật và
thực vật (SPS)
2.1.2.Các quy chuẩn kỹ thuật (QCKT) và tiêu chuẩn:
Điều 2: Soạn thảo, ban hành và áp dụng các QCKT của các cơ quan Chính phủ trung
ương
- Không tạo ra những trở ngại không cần thiết đối với thương mại quốc tế Phải tham gia
tích cực xây dựng tiêu chuẩn quốc tế Thông báo và cung cấp các bản dự thảo QCKT, tạo
điều kiện để các thành viên khác góp ý kiến Công bố kịp thời các QCKT Đưa ra một
khoảng thời gian hợp lý để có thể thi hành.
Điều 3: Xây dựng, ban hành và áp dụng các quy chuẩn kỹ thuật bởi cơ quan địa phương
và tổ chức phi Chính phủ.
- Các QCKT của các cơ quan địa phương phải phù hợp với các QCKT của cơ quan trung
ương.
- Các cơ quan địa phương phải tuân thủ các quy định của Điều 2.
Điều 4: Xây dựng, ban hành và áp dụng tiêu chuẩn

Tuân thủ Quy chế thủ tục xây dựng, ban hành và áp dụng tiêu chuẩn quy định, kể cả ở
Trung ương và địa phương, bao gồm
- Sử dụng tiêu chuẩn quốc tế khi xây dựng tiêu chuẩn quốc gia;
- Hài hoà tiêu chuẩn quốc gia với tiêu chuẩn quốc tế;- Tham gia tích cực vào hoạt động
xây dựng tiêu chuẩn quốc tế (TCQT);
- Tránh áp dụng nhiều tiêu chuẩn cho cùng một đối tượng;
- Nguyên tắc đồng thuận (consensus) trong xây dựng tiêu chuẩn;
- Cho phép các bên có liên quan góp ý kiến trong thời gian 2 tháng (60 ngày) trước khi
ban hành;
- Có thời gian hợp lý cho phép các đối tượng áp dụng tiêu chuẩn điều chỉnh hoạt động
cho phù hợp trước khi tiêu chuẩn có hiệu lực.
2.1.3.Các quy trình đánh giá sự phù hợp:
Điều 5: Các quy trình đánh giá sự phù hợp do các cơ quan Chính phủ ban hành
- Đảm bảo nguyên tắc tối huệ quốc MFN
- Việc đánh giá sự phù hợp phải được hoàn thành càng nhanh càng tốt.
- Thời hạn đánh giá sự phù hợp phải được thông báo cho khách hàng biết.
- Giải thích khi có sai sót hoặc chậm trễ.
- Bảo mật các thông tin về sản phẩm của khách hàng.
- Không phân biệt đối xử về phí đánh giá sự phù hợp.
Điều 6: Thừa nhận kết quả đánh giá sự phù hợp bởi các cơ quan Chính phủ
- Thẩm định năng lực của các cơ quan chứng nhận
- Ký kết các hiệp định thừa nhận lẫn nhau các kết quả đánh giá sự phù hợp của nhau
(MRA)
- Cho phép các cơ quan đánh giá sự phù hợp nước ngoài hoạt động ở nước mình.
Điều 7: Quy trình đánh giá sự phù hợp do các cơ quan địa phương tiến hành
- Quy trình ở địa phương phải thống nhất với trung ương
- Các cơ quan địa phương phải tuân thủ các điều 5 và 6
Điều 8: Các quy trình đánh giá sự phù hợp do các tổ chức phi chính phủ thực hiện
Thành viên phải đảm bảo các tổ chức phi chính phủ thực hiện các thủ tục đánh giá sự phù
hợp tuân thủ điều 5 và 6 của Hiệp định

Điều 9: Các hệ thống quốc tế và khu vực về đánh giá sự phù hợp (ĐGSPH)
- Chấp nhận các hệ thống quốc tế về ĐGSPH và tham gia vào các hệ thống đó.
- Khi tham gia vào các hệ thống quốc tế và khu vực về ĐGSPH phải tuân thủ điều 5 và 6
của Hiệp định.
- Các cơ quan nhà nước trung ương chỉ chấp nhận các hệ thống đánh giá sự phù hợp nếu
các hệ thống này tuân thủ các điều khoản của điều 5 và 6.
2.1.4.Thông tin và trợ giúp kỹ thuật:
Điều 10: Các thông tin về các QCKT, tiêu chuẩn và quy trình ĐGSPH
- Có một Đầu mối liên lạc (điểm hỏi đáp) có khả năng trả lời tất cả các yêu cầu hợp lý từ
các Thành viên khác và cung cấp các tài liệu liên quan đến các QCKT, các tiêu chuẩn và các
quy trình ĐGSPH đã ban hành hoặc dự kiến ban hành.
- Thông tin được cung cấp với giá cả hợp lý- Các thông báo về biện pháp kỹ thuật gửi
đến Ban Thư ký phải bằng một trong 3 thứ tiếng Anh, Pháp hoặc Tây Ban Nha.
Điều 11: Trợ giúp kỹ thuật
- Giúp cho các thành viên khác, đặc biệt là các thành viên là nước đang phát triển về việc
soạn thảo các quy chuẩn kỹ thuật.
- Trợ giúp kỹ thuật cho các nước đang phát triển hình thành các cơ quan tiêu chuẩn hoá
quốc gia và tham gia vào các cơ quan tiêu chuẩn hoá quốc tế.
- Ưu tiên trợ giúp kỹ thuật cho các nước kém phát triển.
Điều 12: Đối xử đặc biệt và khác biệt đối với các nước thành viên đang phát triển
- Đối xử khác biệt và ưu đãi hơn đối với các Thành viên là nước đang phát triển
- Các Thành viên phải lưu ý đến quyền lợi, nghĩa vụ của các Thành viên là nước đang
phát triển và phải xem xét đến những nhu cầu phát triển tài chính, thương mại cụ thể của các
nước này.
2.1.5.Thể chế, tham vấn và giải quyết tranh chấp:
Điều 13: Ủy ban về hàng rào kỹ thuật trong thương mại
- Ủy ban TBT gồm các đại diện của tất cả các nước thành viên.
- Ủy ban sẽ chọn một Chủ tịch Ủy ban và nhóm họp khi cần thiết nhưng không ít hơn
một lần một năm.
- Nội dung hội nghị của Ủy ban là bàn về thực thi Hiệp định, tư vấn về các vấn đề liên

quan, mở rộng mục tiêu Hiệp định nếu cần thiết.
Điều 14. Bàn bạc và giải quyết tranh chấp
- Do cơ quan giải quyết tranh chấp giám sát và trong trường hợp cần thiết phải tuân thủ
các điều khoản của các điều 22 và 23 của Hiệp định GATT năm 1994 và Nghị định thư về giải
quyết tranh chấp.
2.1.6.Điều khoản cuối cùng
Điều 15: Điều khoản cuối cùng
- Không bảo lưu đối với bất kỳ điều khoản nào của Hiệp định này nếu không được sự
nhất trí của các thành viên khác.
- Khi Hiệp định WTO có hiệu lực, các thành viên phải thông báo cho Ủy ban TBT về các
biện pháp hiện hành hoặc sẽ áp dụng để đảm bảo Hiệp định này được thực hiện.
- Hàng năm Ủy ban TBT sẽ xem xét việc thực hiện và điều hành Hiệp định này dựa trên
những mục tiêu đã đề ra.
- Theo chu kỳ 3 năm một lần, vào thời gian cuối của năm thứ ba, Ủy ban phải rà soát việc
triển khai và thực hiện Hiệp định này.
- Các phụ lục của Hiệp định này là một phần thống nhất của Hiệp định
2.2. Sáu nguyên tắc cơ bản:
Nguyên tắc 1: Không đưa ra những cản trở không cần thiết đến hoạt động thương mại.
Khi gia nhập WTO, các thành viên đều hướng đến một mục đích chung, là thúc đẩy thương
mại, phá bỏ các rào cản giao lưu kinh tế, xây dựng một môi trường cạnh tranh lành mạnh.
Hiệp định TBT được đưa ra và thống nhất với mọi thành viên WTO như một trong số những
phương pháp hiệu quả nhất để đạt được các mục tiêu trên. Thế nhưng, khi áp dụng những điều
khoản của một hiệp định, không thể không tránh khỏi những bất cập. Một trong số những bất
cập thường thấy nhất ở các hiệp định kinh tế là tạo ra các cản trở không cần thiết lên hoạt động
thương mại.
Hiệp định TBT ngay khi được kí kết đã nhìn thấy được bất cập này và đã tìm cách khắc
phục. Bằng cách đưa vào nhiều điều khoản, trong đó ghi rõ mục đích hạn chế những rào cản
ảnh hưởng đến hoạt động thương mại.
Các điều khoản về chuẩn bị, thông qua các quy định kỹ thuật được quy định trong các mục
của Điều 2 hiệp định đã đảm bảo những yêu cầu cần thiết của một quy định kỹ thuật trước khi

ban hành. Chính phủ trước khi ban hành một yêu cầu kỹ thuật cần cân nhắc những yêu cầu đó
phục vụ cho mục đích chính đá, như bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng, bảo vệ môi trường hoặc
bảo tồn đa dạng sinh học. Ngoài ra, Điều 2.5 và 2.9 cũng quy định những động thái cần thiết
mà chính phủ cần thực hiện khi đưa ra một quy định kỹ thuật được cho là tạo ra rào cản
thương mại không cần thiết đến các Thành viên khác.
Trong quá trình đánh giá tính đạt chuẩn của sản phẩm, điều 5.1.2 đã quy định rõ những biện
pháp kiểm tra chất lượng sản phẩm không được quá ngặt nghèo đến mức gây ra cản trở không
cần thiết đến hoạt động thương mại. Ngoài ra, các quy định về chất lượng sản phẩm cần tạo
niềm tin cho nước nhập khẩu và đảm bảo các tiêu chuẩn cần thiết, và địa điểm tiến hành kiểm
định chất lượng sản phẩm cũng được quy định phải tránh các phiền phức không cần thiết cho
bên xuất khẩu.
Cũng như mọi hiệp định khác của WTO, TBT cũng có những ngoại lệ dành cho các thành
viên đang phát triển, được quy định tại điều 12. Áp dụng nguyên tắc không tạo ra các rào cản
thương mại không cần thiết, các điều 12.3 và 12.7 khuyến khích các thành viên khi áp dụng
các quy định về kỹ thuật cần cân nhắc đến các điều kiện về trình độ phát triển, trình độ kỹ
thuật và khả năng tài chính của nước xuất khẩu, đảm bảo quyền lợi và không cản trở hoạt động
xuất khẩu của nước đang phát triển. Ngoài ra, các thành viên sẽ tạo mọi điều kiện trong giới
hạn cho phép để hỗ trợ các thành viên đang phát triển hoàn thành các thủ tục đánh giá phù hợp
và không ảnh hưởng đến tiến trình đa dạng hóa xuất khẩu của thành viên đang phát triển.
Nhìn chung, hiệp định TBT đã đạt được thành tựu nhất định trong việc đảm bảo các quy
định về hàng rào kỹ thuật không tạo ra các rào cản không cần thiết cho hoạt động thương
mại.Trên cơ sở các quy định này, hoạt động thương mại được đảm bảo tính khách quan, công
bằng và cạnh tranh lành mạnh.
Nguyên tắc 2: Không phân biệt đối xử.
Giống như các hiệp định khác của WTO, nguyên tắc không phân biệt đối xử của hiệp định
TBT được thể hiện qua hai nguyên tắc là nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (MFN) và nguyên tắc
đãi ngộ quốc gia (NT). MFN và NT được áp dụng cho cả các quy định kỹ thuật và các thủ tục
đánh giá sự hợp chuẩn.
Dựa trên quy tắc MFN một quốc gia không phân biệt đối xử đối với hàng hóa nhập khẩu từ
giữa các quốc gia thành viên khác, điều đó được thể hiện rõ ràng trong hiệp định TBT ở các

điều sau:
Các Thành viên phải đảm bảo rằng theo các văn bản pháp quy kỹ thuật, các sản phẩm
nhập khẩu từ một lãnh thổ của bất cứ Thành viên nào được đối xử không ít thuận lợi hơn các
sản phẩm nội địa hay từ bất cứ nước nào khác.
Bên cạnh đó thì sự góp ý về văn bản không phân biệt đối xử dành cho các nước thành viên
khác cũng là một điều thể hiện sự không phân biệt đối xử trong hiệp định TBT. Chúng ta có
thể thấy rõ ý này thong qua điều 2.7; 2.9.4 và 2.10.3.
Về phía những nước đang phát triển thì hiệp định TBT cũng có một số điều thể hiện một số
ngoại lệ đựoc nêu rõ trong quy tắc MFN ví dụ như Các Thành viên phải dành sự đối xử khác
biệt và ưu đãi hơn đối với các Thành viên là nước đang phát triển ( thể hiện tại điều 12.1); các
Thành viên phải dành sự quan tâm đặc biệt đến những nhu cầu phát triển, tài chính, thương
mại đặc biệt của các nước đang phát triển (thể hiện tại điều 12.2). Và lien quan đến ngoại lệ
trong việc góp ý văn bản ta thấy ở điểm sau trong quá trình soạn thảo, áp dụng các văn bản
pháp quy kỹ thuật tiêu chuẩn và các thủ tục, các thành viên phải có sự đánh giá phù hợp, để
đảm bảo các pháp quy kỹ thuật, tiêu chuẩn và các thủ tục này không tạo ra những cản trở
không cần thiết đối với hàng xuất khẩu từ những Thành viên là nước đang phát triển (thể hiện
tại điều 12.3)
Và bên cạnh đó hiệp định TBT cũng đã cho thấy rõ sự tuân thủ quy tắc NT, ví dụ điển hình
là ở quy tắc 5.1 Các quy định đánh giá sự phù hợp phải được xây dựng, ban hành và áp dụng
cho phép các nhà cung cấp các sản phẩm tương tự có xuất xứ từ lãnh thổ của các Thành viên
khác tiếp cận với các điều kiện không kém thuận lợi hơn các điều kiện dành cho các nhà cung
cấp sản phẩm có xuất xứ nội địa
Nguyên tắc 3: Hài hòa hóa
Hài hòa hóa là trong hiệp định TBT là quá trình các nước thành viên đi đến thống nhất,
chọn ra một tiêu chuẩn chung tối ưu để giảm bớt những khó khăn, bất tiện như trên và góp
phần tạo thuận lợi cho lưu thông hàng hóa. Hiệp định TBT khuyến khích các thành viên cũng
như các cơ quan tiêu chuẩn hóa sẽ tích cực tham gia vào việc chuẩn bị những quy định, tiêu
chuẩn kĩ thuật cũng như những khuyến nghị của tổ chức tiêu chuẩn quốc tế, đảm bảo đạt được
sự hài hòa trên các mặt: quy định kỹ thuật, tiêu chuẩn kỹ thuật và các thủ tục đánh giá sự phù
hợp.

Ngoài ra, hài hòa hóa trong hiệp định TBT còn thể hiện ở quan điểm nếu các nước thành
viên ko có chung một “ tiêu chuẩn tối ưu” thì sẽ tích cực xem xét đến những điều kiện tương
đương với những điều kiện đang được áp dụng ở nước mình. Cụ thể:
+ Các thành viên sẽ tích cực xem xét để chấp nhận những quy định kỹ thuật tương
đương của các thành viên khác nếu quy định đó đáp ứng đầy đủ được những mục tiêu đặt ra
trong quy định của nước mình.
+ Các thành viên sẽ đảm bảo thủ tục đánh giá sự phù hợp của các thành viên khác được
chấp nhận nếu nước đó cảm thấy hài lòng rằng các thủ tụ đó phù hợp với các quy định và tiêu
chuẩn kỹ thuật tương đương áp dụng tại nước mình
Tuy nhiên, vì trình độ phát triển không đồng đều của các nước thành viên, nên hiệp định TBT
đã đề cập đến vấn đề các nước thành viên phát triển dành sự ưu đãi đặc biệt cho các nước
thành viên chậm và đang phát triển để đạt đến sự hài hòa trong quá trình xây dựng tiêu chuẩn
chung :
Các thành viên khi chuẩn bị và áp dụng những quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật và quy trình
đánh giá sự phù hợp sẽ xem xét đến nhu cầu phát triển tài chính, thương mại của các thành
viên đang phát triển, đảm bảo không tạo ra những trở ngại cho các thành viên đang phát triển.
Do các nhu cầu đặc biệt về phát triển và thương mại, cũng như các giai đoạn của công
nghệ, các thành viên nước đang phát triển có thể gặp khó khăn trong quá trình thực hiện các
nghĩa vụ của hiệp định, thì ủy ban sẽ có quyền dành những ngoại lệ về thời gian cho những
nước này, tạm thời ko phải thực hiện nghĩa vụ của hiệp định.
Các nước thàn viên công nhận rằng các nước đang phát triển sẽ không sẽ không bị yêu cầu
sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế làm cơ sở cho quy định và tiêu chuẩn của mình nếu không phù
hợp với nhu cầu tài chính, thương mại và phát triển của nước thành viên đang phát triển.
Khi tiến hành tham vấn và trợ giúp các nước đang phát triển, các thành viên phát triển phải
ghi nhận những khó khăn của các thành viên đó và xét đến trình độ phát triển và khả năng tài
chính của các nước ngày.
Nguyên tắc 4: Bình đẳng.
WTO khuyến khích các nước thành viên hợp tác để công nhận các quy định, tiêu chuẩn kỹ
thuật và thủ tục đánh giá sự hợp chuẩn của nhau.
Khi các nước công nhận các biên pháp kỹ thuật của nhau sẽ giúp làm giảm chi phí điều

chỉnh các tính năng của sản phẩm để phù hợp với tiêu chuẩn của các nước khác. Hơn nữa, do
khoảng cách về thời gian giữa thời điểm ban hành các tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế với thời
điểm tiến hành áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuâtn quốc tế đó vào hoạt động sản xuất của một
quốc gia có thể diễn ra trong một khoảng thời gian khá dài sẽ tạo điều kiện cho nước áp dụng
có cơ hội từ chối không áp dụng các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế. Việc tuân thủ
nguyên tắc bình đẳng sẽ góp phần làm cho các nhà sản xuất phải tuân thủ các quy định, tiêu
chuẩn kỹ thuật chặt chẽ hơn
Nguyên tắc 5: Công nhận lẫn nhau.
Trong tình hình số thành viên ngày càng gia tăng, và hoạt động thương mại diễn ra sôi
động với tần số dày đặc, phức tạp trên toàn thế giới, nếu mỗi quốc gia thành viên đạt ra một hệ
thống quy chuẩn riêng để kiểm tra chất lượng sản phẩm thì sẽ làm hao tổn thời gian, chi phí và
gây ra thất thoát lớn cho thương mại. Vì vậy, một nguyên tắc công nhận lẫn nhau được đặt ra
trong hiệp định TBT như một biện pháp hạn chế bất cập này.
Các quy định của TBT, cụ thể trong điều 2.7, 6.3, 15.2, đều khuyến khích các quốc gia
thành viên quan tâm xem xét các tiêu chuẩn kỹ thuật tương ứng của các thành viên khác, mặt
khác phải sẵn sàng đàm phán, tạo mọi điều kiện để ký kết các hiệp định đảm bảo thuận lợi cho
việc đáng giá chất lượng sản phẩm. Ngoài ra, cần xem xét trên tổng thể hiệp định, luôn nhấn
mạnh nghĩa vụ phải thông báo bằng cách này hay cách khác cho các thành viên khác về sự
thông qua, sửa đổi, điều chỉnh hay hủy bỏ các quy chuẩn chất lượng sản phẩm. Các thông báo
này được quy định phải rõ ràng về mọi mặt, thậm chí là ngôn ngữ, để tạo điều kiện cho các
thành viên khác nhau có thể áp dụng hiệu quả nhất.
Như vậy, để hoạt động thương mại diễn ra hiệu quả, ít tốn kém và mất thời gian, hiệp định
TBT đã xóa bỏ những bất cập trong việc kiểm định chất lượng sản phẩm nhập khẩu. Qua
những quy định về công nhận lẫn nhau, các nước thành viên có thể tiến hành các hoạt động
xuất nhập khẩu một cách tương đối tự do qua nhiều nước sau khi đã được kiểm tra chất lượng
tại một nước thành viên có uy tín.
Nguyên tắc 6: Minh bạch.
Quá trình soạn thảo, thông qua và áp dụng các văn bản pháp quy kỹ thuật; hoặc các quy
trình đánh giá sự phù hợp do các cơ quan nhà nước trung ương thực hiện. Nếu một thành viên
dự kiến ban hành một văn bản pháp quy kỹ thuật, thành viên đó phải: Thông báo một ấn phẩm

để các bên quan tâm biết rằng họ dự định ban hành một văn bản pháp quy kỹ thuật; Thông báo
cho các Thành viên khác thông qua Ban Thư ký về các sản phẩm sẽ được điều chỉnh; Khi có
yêu cầu, phải cung cấp cho các Thành viên khác văn bản dự kiến ban hành và chỉ rõ những
phần khác biệt nhiều với các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan; Đưa ra thời hạn để Thành viên
khác góp ý bằng văn bản.
Các Thành viên phải đảm bảo rằng tất cả các văn bản pháp quy kỹ thuật đã ban hành phải
được công bố kịp thời, tạo điều kiện cho các bên quan tâm biết về các văn bản pháp quy kỹ
thuật.
Mỗi thành viên phải có một đầu mối liên lạc có khả năng trả lời tất cả yêu cầu hợp lý từ các
thành viên khác, cung cấp các tài liệu về các văn bản pháp quy kỹ thuật, các tiêu chuẩn, các
quy trình đánh giá sự phù hợp trong phạm vi lãnh thổ của mình.
Tuy nhiên, nếu thành viên có nhiều đầu mối liên lạc, thì phải cung cấp cho các thành viên
khác thông tin cụ thể về phạm vi trách nhiệm của từng đầu mối liên lạc. Đảm bảo rằng các đầu
mối liên lạc đều có khả năng trả lời tất cả các yêu cầu thông tin hợp lý từ các Thành viên khác.
Nếu có yêu cầu, các Thành viên là nước phát triển phải cung cấp các bản dịch bằng tiếng
Anh, Pháp hoặc Tây Ban Nha của các tài liệu có liên quan hoặc nếu các tài liệu này nhiều
trang thì tóm tắt nội dung của chúng.
Khi một Thành viên đạt được thoả thuận với một hoặc nhiều nước khác về các vấn đề liên
quan tới các văn bản pháp quy kỹ thuật, tiêu chuẩn hoặc quy trình đánh giá sự phù hợp có ảnh
hưởng nhiều tới thương mại, thì ít nhất một Thành viên tham gia thoả thuận đó phải thông báo
cho các Thành viên khác thông qua Ban Thư ký về các sản phẩm được đề cập trong thoả thuận
này và kèm theo bản giới thiệu ngắn gọn về thoả thuận này.
2.3 Đặc điểm tiến bộ của Hiệp định hàng rào kĩ thuật:
Đặc điểm tiến bộ của Hiệp định được sửa đổi này còn thể hiện ở việc xem xét tới phương pháp
sản xuất và chế biến liên quan đến đặc tính của hàng hóa. Phạm vi của qui trình đánh giá sự
phù hợp được mở rộng và các nguyên tắc được chỉnh sửa chính xác hơn. Các điều khoản
thông báo áp dụng cho chính quyền địa phương và các tổ chức phi chính phủ được nêu chi tiết
hơn hiệp định của vòng đàm phán Tokyo. Qui tắc Thực hành đúng (Code of Good Practice) để
chuẩn bị, thông qua và áp dụng các tiêu chuẩn do cơ quan tiêu chuẩn hóa đề ra được thông qua
bởi các cơ quan, tổ chức của khu vực tư nhân và khu vực công được quy định tại phụ lục của

Hiệp định này.
B. Hiệp định về các biện pháp vệ sinh dịch tễ SPS ( Sanitary and Phytosanitary measures
)
1.Vài nét về hiệp định SPS
Trong bối cảnh thương mại toàn cầu ngày càng phát triển mạnh mẽ, nhu cầu trao đổi mua
bán giữa các quốc gia ngày càng cao, xu hướng chung của các quốc gia là mở rộng và tạo mọi
điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu. Trên thực tế, các rào cản lên thương mại
không cần thiết đã dần dần được dỡ bỏ. Tuy nhiên, vì sự mất cân xứng về mặt thông tin mà
các bên tham gia trao đổi luôn không thể nắm bắt hết thông tin về các sản phẩm của phía đối
tác. Do đó, trong trao đổi buôn bán không thể không có những quy định về chất lượng sản
phẩm, nhất là các sản phẩm ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của người tiêu dùng cũng như
đời sống của động thực vật. Hiệp định về các biện pháp vệ sinh dịch tễ (SPS) ra đời nhằm mục
đích định hướng cho các chính phủ trong việc ban hành các quy định về kiểm tra chất lượng
các sản phẩm thực phẩm, trên mục tiêu chính được đặt ra là bảo vệ sức khỏe con người và
động thực vật mà không tạo ra thêm các rào cản không cần thiết cho thương mại.
2 Tóm tắt nội dung
Những nội dung cơ bản, có tính nguyên tắc và các nghĩa vụ phải thực hiện của Hiệp định SPS
bao gồm :
2.1. Quyền và nghĩa vụ thành viên tham gia Hiệp định (Điều 2)
• Các biện pháp chỉ áp dụng ở mức cần thiết để bảo vệ cuộc sống và sức khoẻ của con người và
động thực vật dựa trên những nguyên tắc, cơ sở và chứng lý khoa học.
• Những biện pháp về SPS không phân biệt đối xử một cách tuỳ tiện hoặc vô căn cứ.
• Các biện pháp SPS phải áp dụng mà không tạo nên sự hạn chế trá hình đối với thương mại
quốc tế.
• Tuân thủ các quy định của GATT 1994 bao gồm ngoại lệ Điều XX (b) về SPS.
2.2. Hài hoà hoá các biện pháp về vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động thực vật (Điều 3)
• Xây dựng các tiêu chuẩn quốc gia và tiêu chuẩn ngành trên cơ sở tiêu chuẩn, hướng dẫn và
khuyến nghị của các tổ chức quốc tế như : Codex, OIE, IPPC, FAO… được coi là cần thiết để
bảo vệ cuộc sống hoặc sức khoẻ con người, động thực vật và được coi là phù hợp với các điều
khoản liên quan của Hiệp định này và của GATT 1994.

• Các thành viên có thể áp dụng hay duy trì các biện pháp SPS cao hơn các biện pháp dựa trên
các tiêu chuẩn hướng dẫn, khuyến nghị quốc tế có liên quan nếu có chứng minh khoa học,
hoặc do mức bảo vệ động thực vật mà một thành viên coi là phù hợp nhưng không được trái
với bất kỳ điều khoản nào khác của Hiệp định này.
2.3. Tính tương đương (Điều 4) :
• Các thành viên chấp nhận các biện pháp SPS tương đương của các thành viên khác.
• Tiến hành ký kết những hiệp định, thoả thuận, và ghi nhớ song phương và đa phương về công
nhận tính tương đương.
• Các thành viên khi đựợc yêu cầu sẽ tiến hành tham vấn với mục tiêu đạt được thỏa thuận song
phương và đa phương về công nhận tính tương đương của các biện pháp SPS.
2.4. Đánh giá rủi ro và xác định mức độ bảo vệ động thực vật phù hợp (Điều 5) :
• Phát triển cơ sở khoa học và thực hiện đành giá rủi ro đảm bảo các biện pháp dựa trên cơ sở
khoa học và chỉ áp dụng ở mức cần thiết để bảo vệ cuộc sống và sức khoẻ của con ngưòi và
động thựcvật.
• Cần tránh sự phân biệt đối xử tuỳ tiện hoặc vô căn cứ về mức bảo vệ hoặc hạn chế trá hình đối
với thương mại quốc tế.
• Trường hợp chứng cứ khoa hoạc liên quan chưa đủ, thành viên có thể tạm thời áp dụng các
biện pháp SPS trên cơ sở thông tin chuyên môn sẵn có, kể cả thông tin từ các tổ chức quốc tế
liên quan cũng như từ các biện pháp SPS do các thành viên khác áp dụng.
2.5. Thích ứng với các điều kiện khu vực không có sâu bệnh hoặc ít sâu bệnh (Điều 6) :
• Các biện pháp về SPS phải được áp dụng thích ứng với các đặc tính vệ sinh động thực vật của
khu vực sản xuất ra sản phẩm và khu vực sản phẩm được đưa đến.
• Xác định những khu vực không có sâu bệnh hoặc ít sâu bệnh phải dựa trên các yếu tố địa lý,
hệ sinh thái, giám sát kiểm dịch và tính đến hiệu quả của việc kiểm tra vệ sinh động thực vật.

• Khi công bố các khu vực không có sâu bệnh hoặc ít sâu bệnh cần cung cấp bằng chứng cần
thiết để chứng minh và thành viên nước nhập khẩu sẽ được tiếp cận hợp lý dể thanh tra, thử
nghiệm và tiến hành các thủ túc khác có liên quan.
2.6. Minh bạch chính sách – cơ quan thông báo và điểm hỏi đáp quốc gia (E.P) (Điều 7
và Phụ lục B) :

• Thông báo những thay đổi và cung cấp thông tin về SPS thông qua cơ quan thông báo (N.N.B)
và điểm hỏi đáp quốc gia (E.P) của mỗi nước thành viên.
• Các thủ tục thông báo nêu chi tiết tại Phụ lục B kèm theo Hiệp định.
2.7. Kiểm tra, thanh tra và thủ tục chấp nhận (Điều 8 và Phụ lục C):
• Các thủ tục kiểm tra, thanh tra và chấp nhận không gây chậm trễ và không kém phần thuận lợi
giữa sản phẩm nhập khẩu so với sản phẩm tương tự trong nước.
• Mức yêu cầu kiểm tra thanh tra và chấp thuận vật mẫu của sản phẩm chỉ hạn chế ở mức hợp lý
và cần thiết.
• Mọi khoản phí gắn với các thủ tục đối với một sản phẩm nhập khẩu đều công bằng như mọi
khoản phí đối với sản phẩm tương tự trong nước (không phân biệt đối xử).
2.8. Trợ giúp kỹ thuật và đối xử đặc biệt và khác biệt (các Điều 9, 10 và 14)
• Các nước thành viên nhất trí tạo điều kiện và giúp đỡ các thành viên đang phát triển và chậm
phát triển trong lĩnh vực công nghệ xử lý, nghiên cứu và cơ sở hạ tầng, đào tạo…
• Cho phép ngoại lệ về thời gian nhật định, cụ thể đối với toàn bộ hay một phần nghĩa vụ của
Hiệp định.
• Các thành viên kém phát triển nhất có thể hoãn áp dụng các điều khoản Hiệp định trong thời
gian 5 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực. Đối với các nước đang phát triển là 2 năm.
C. Sự khác biệt giữa Hiệp định hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT) và Hiệp định
về áp dụng các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch (SPS).
Hiệp định TBT quy định các quy tắc về xây dựng, chấp nhận và áp dụng các quy chuẩn
kỹ thuật, tiêu chuẩn và quy trình đánh giá sự phù hợp. Hiệp định quy định nghĩa vụ của các
thành viên nhằm đảm bảo rằng các quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn, thủ tục đánh giá sự phù
hợp mà không tạo ra những cản trở không cần thiết đối với thương mại.
Hiệp định SPS đưa ra các quy tắc cơ bản về tiêu chuẩn an toàn thực phẩm và sức khỏe
động, thực vật. Hiệp định cho phép các quốc gia tự thiết lập tiêu chuẩn riêng của mình. Nhưng
Hiệp định cũng yêu cầu rằng các quy định phải có căn cứ khoa học. Các quy định này nên chỉ
được áp dụng ở mức độ cần thiết để bảo vệ sức khoẻ hoặc tính mạng của con người, động vật
hoặc thực vật. Các quy định này cũng không được phân biệt đối xử một các tuỳ tiện hoặc vô lý
giữa quốc gia có điều kiện giống nhau hoặc tương tự nhau.
Từ Hiệp định TBT đến Hiệp định SPS

Trong vòng đàm phán về nông nghiệp, các nước đã nỗ lực để đạt được các rào cản thấp hơn
nhằm bảo vệ thị trường trong nước của họ. Tuy nhiên, một số quốc gia sợ rằng việc loại bỏ các
biện pháp phi thuế quan đặc trưng riêng cho nông nghiệp và việc cắt giảm thuế sẽ bị phá vỡ
bởi các biện pháp bảo hộ trá trình dưới dạng các quy định về vệ sinh và kiểm dịch. Điều này
đã tạo ra động lực chính dẫn các nhà đàm phán đến việc thiết lập Hiệp định SPS, song song
với các đàm phán thương mại nông nghiệp chính.
Hiệp định SPS và các Hiệp định nông nghiệp là bổ sung cho nhau. Các Hiệp định này trên
thực thế đều do cùng một bộ phận trong Ban THư ký WTO chịu trách nhiệm, đó là Bộ phận
Sản phẩm và Nông nghiệp.
Mặc dù Hiệp định TBT và Hiệp định SPS là bổ sung cho nhau, nhưng chúng khác nhau về
bố cục.
• Hiệp định SPS: Chỉ áp dụng cho các biện pháp ảnh hưởng trực tiếp tới sức khoẻ của
con người, động vật và thực vật.
• Hiệp định TBT: áp dụng cho tất cả các loại biện pháp với bất kỳ mục đích gì, bao gồm
cả mục đích bảo vệ sức khoẻ.
Hiệp định SPS giải quyết các vấn đề đặc trưng sau:
· Chất phụ gia trong thực phẩm hoặc đồ uống;
· Chất gây ô nhiễm trong thực phẩm hoặc đồ uống;
· Chất độc trong thực phẩm hoặc đồ uống;
· Dư lượng của thuốc thú y hoặc thuốc trừ sau trong thực phẩm hoặc đồ uống dược
phẩm
· Chứng nhận: an toàn thực phẩm, sức khoẻ động vật hoặc thực vật;
· Phương pháp chế biến với hàm ý an toàn thực phẩm;
· Yêu cầu về ghi nhãn liên quan trực tiếp đến an toàn thực phẩm;
· Kiểm dịch động/thực vật;
· Tuyên bố khu vực không nhiễm bệnh hoặc loài gây hại;
· Ngăn ngừa bệnh hoặc các loài gây hại lan rộng toàn quốc gia
· Các yêu cầu vệ sinh khác đối với hàng hoá nhập khẩu
Hiệp định TBT giải quyết các vấn đề đặc trưng sau:
· Quy định về các thiết bị điện;

· Quy định về điện thoại không dây, thiết bị vô tuyến….
· Ghi nhãn trong dệt may và quần áo
· Thử nghiệm xe cộ và phụ kiện
· Quy định về tầu thuyền và các thiết bị tầu thuyền
· Quy định an toàn cho đồ chơi
· Ghi nhãn thực phẩm, đồ uống và dược phẩm
· Các yêu cầu về chất lượng đối với thực phẩm tươi sống
· Các yêu cầu về đóng gói đối với thực phẩm tươi sống
· Đóng gói và ghi nhãn đối với chất độc và hoá chất nguy hiểm.
Tuy nhiên, tại sao phải cần cả hai hiệp định này? Vì những lí do sau:
- Cả 2 Hiệp định TBT và SPS đều nhằm mục đích ngăn chặn các rào cản thương mại
không công bằng.
- Một biện pháp giới hạn thương mại có thể được xem là một biện pháp TBT với mục tiêu
chung hoặc là một biện pháp SPS với mục tiêu cụ thể để bảo vệ sức khoẻ.
- Nếu mục tiêu là chung, thì biện pháp được đánh giá theo quy tắc có phần nghiêm ngặt
hơn và ít linh hoạt hơn theo Hiệp định TBT.
- Chỉ có các biện pháp giải quyết cụ thể một phạm vi giới hạn các vấn đề về sức khoẻ sẽ
mới được đánh giá theo các quy tắc ít khắt khe hơn theo Hiệp định SPS.
- Bằng cách chia các rào cản trong thương mại thành 2 loại này, WTO có thể đạt được sự
đồng thuận rằng các biện pháp không liên quan đến sức khỏ cần được xem xét kỹ lưỡng
tất cả các biện pháp đã có thể bị hạ thấp xuống ở một mức độ thấp hơn áp dụng cho các
biện pháp bảo vệ sức khỏe.

×