Môn: KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
Khoa Kinh tế đối ngoại – K09402A
Đề tài:
HIỆP ĐỊNH NÔNG NGHIỆP-AOA
GVHD: TS. TRẦN VĂN ĐỨC
Nhóm 7
TPHCM, tháng 10 năm 2011
1. Hoàng Thị Hạnh K084020126
2. Nguyễn Thị Thu Hà K094020140
3. Trần Thị Hạnh Hoa K094020153
4. Nguyễn Thị Ngọc Lan K094020169
5. Dương Nữ Trà My K094020188
6. Lê Thị Hồng Nhân K094020198
7. Trần Thị Cẩm Vân K094020247
Mục lục
Lời mở đầu
I. Tổng quan về hiệp định Nông nghiệp
1. Hoàn cảnh ra đời:
2. Phạm vi điều chỉnh
3. Mục tiêu hoạt động
II. Nội dung của AOA:
1. Giải thích thuật ngữ
2. Cam kết, quy tắc của AOA
2.1. Tiếp cận thị trường:
2.2. Cam kết hỗ trợ trong nước
2.3. Cam kết hỗ trợ xuất nhập khẩu:
III.Tình hình Nông nghiệp của Việt Nam
1. Thành tựu:
2. Cơ hội:
3. Thách thức
LỜI NÓI ĐẦU
Nhiều người đều biết sản xuất và thương mại hàng nông sản của các nước thành
viên WTO, nhất là tại các nước phát triển và đang phát triển không chỉ mang tính kinh tế
mà còn mang tính chính trị và xã hội. Do đó nông nghiệp đã và đang chiếm một vị trí
quan trọng trong chiến lược phát triển của các quốc gia này. Từ khi các Hiệp định về tự
do thương mại của WTO được kí kết để giúp cho việc thông thương các loại hàng hóa và
dịch vụ trở nên dễ dàng hơn, Hiệp định về Nông nghiệp (AOA) vẫn đang giữ một vai trò
chủ chốt trong việc làm cho thương mại hàng nông sản công bằng hơn trên toàn thế giới.
Việt Nam là một trong những nước có tỉ lệ xuất khẩu nông sản lớn và có tới gần ¾ lực
lượng lao động sống bằng nghề nông, vì vậy việc tìm hiểu thấu đáo các nguyên tắc và quy
định trong Hiệp định Nông nghiệp của WTO là hết sức cần thiết.
Hiệp định AOA không chỉ xúc tiến tốt hơn thị trường nông sản của các nước thành
viên WTO mở rộng ra thị trường thế giới mà còn giúp các quốc gia phát triển kinh tế tốt
hơn. Không thể phủ nhận những lợi thế mà việc gia nhập WTO mang lại cho Việt Nam
nhưng đồng thời mở ra nhiều thách thức đối với một nước mới có nền kinh tế còn nhiều
hạn chế như nước ta. Bài tiểu luận sau sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn và có cái nhìn tổng
quan về Hiệp định AOA và những tác động của nó đến nền sản xuất - xuất khẩu nông
nghiệp Việt Nam.
Mặc dù đã tận lực cố gắng nhưng chắc chắn không thể tránh được các sai xót, vì lẽ
đó nhóm chúng tôi xin được lượng thứ nếu như bài tiểu luận này gây bất cứ khó khăn nào
cho việc tiếp cận vấn đề của người đọc.
I. Tổng quan về hiệp định Nông nghiệp
1. Hoàn cảnh ra đời:
Nông nghiệp là một lĩnh vực nhạy cảm trong cơ cấu kinh tế của mỗi nước bởi đây
không chỉ là lĩnh vực sử dụng nhiều lao động, nhất là ở các nước đang phát triển mà còn
là lực lượng đáng kể tác động đến sự ổn định chính trị - xã hội của từng quốc gia. Do vậy
hầu hết các nước đều có khuynh hướng bảo hộ nền sản xuất nông nghiệp của nước mình
bằng cách dựng hàng rào thuế quan thật cao, đề ra những tiêu chuẩn khắt khe, đồng thời
tăng cường trợ cấp cho nông dân trong nước. Vì lẽ đó nông sản thường là loại hàng hóa
gặp nhiều trở ngại nhất trong thương mại quốc tế và là chủ đề của những cuộc tranh cãi
quyết liệt tại các diễn đàn thương mại.
Trước đây tiền thân của tổ chức WTO là hiệp định GATT vốn được ra đời được áp
dụng cho cả các sản phẩm của nông nghiệp nhưng hiệp định này còn có nhiều hạn chế,
thương mại trong lĩnh vực nông nghiệp do đó đã bị bóp méo, đặc biệt là do trợ cấp xuất
khẩu. Để có thể thúc đẩy giao lưu thương mại hàng hoá, dịch vụ và hợp tác thương mại
nói chung và về lĩnh lực nông nghiệp nói niêng ngày càng sâu rộng, hiệu quả hơn, WTO
được thành lập và tại thời điểm kết thúc Vòng đàm phán Uruguay (1986-1994), Hiệp
định nông nghiệp (AOA), một trong các hiệp định được kí kết của WTO đã được thông
qua. Mọi kết quả của Vòng đàm phán Uruguay trở thành văn kiện chính thức của WTO
mà bất kỳ một thành viên WTO nào cũng phải tham gia.
Chính thức có hiệu lực vào ngày 1 tháng 1 năm 1995, Hiệp định AOA ra đời để cải
cách thương mại nông sản và làm cho các chính sách nông nghiệp có định hướng thị
trường hơn. Không những vậy, Hiệp định còn nhằm nâng cao khả năng dự báo và an ninh
về nông nghiệp cho các quốc gia nhập khẩu và xuất khẩu. Hiệp định Nông nghiệp (AoA)
đã đánh dấu một bước phát triển đáng kể, hướng tới lập lại trật tự và cạnh tranh lành
mạnh trong lĩnh vực nông nghiệp.
2. Mục tiêu hoạt động:
- Thiết lập hệ thống thương mại hàng nông sản công bằng;
- Phát triển theo định hướng thị trường;
- Cải cách hệ thống thương mại Nông sản thông qua đàm phán và cam kết về trợ
cấp và bảo hộ.
Hiệp định về nông nghiệp có mục tiêu cải cách thương mại trong lĩnh vực này và
củng cố vai trò của thị trường là yếu tố định hướng cho việc thực thi chính sách. Điều này
sẽ giúp nâng cao khả năng phán đoán và mức độ an toàn cho các nước nhập khẩu cũng
như cho các nước xuất khẩu.
Các cam kết và quy định mới tập trung vào các vấn đề sau:
− Tiếp cận thị trường – các hạn chế nhập khẩu
− Hỗ trợ trong nước - trợ cấp và các chương trình khác, kể cả những chương
trình nhằm tăng hoặc đảm bảo giá cả sản xuất và thu nhập cho người làm nông
nghiệp.
− Trợ cấp cho xuất khẩu và các phương pháp khác nhằm đảm bảo một cách giả
tạo khả năng cạnh tranh cho hàng xuất khẩu.
− Các mục tiêu cụ thể đối với nông nghiệp
Tại vòng đàm phán Uruguay, các nước đã thoả thuận được về mức độ giảm trợ cấp
và bảo hộ đối với sản phẩm nông nghiệp như sau (Hiệp định về nông nghiệp chỉ nêu các
con số cụ thể về giảm trợ cấp xuất khẩu):
Các nước phát triển
6 năm (1995-2000)
Các nước đang phát
triển
10 năm (1995-2004)
Thuế quan
Mức giảm trung bình đối
với tất cả các sản phẩm
nông nghiệp
-36% -24%
Mức giảm tối thiểu đối
với mỗi sản phẩm
-15% -10%
Hỗ trợ trong nước
Giảm tổng mức hỗ trợ
đối với toàn bộ lĩnh vực
(giai đoạn được tính làm
cơ sở: 1986-1990)
-20% -13%
Xuất khẩu
Giá trị trợ cấp -36% -24%
Khối lượng được
trợ cấp (giai đoạn được
tính làm cơ sở: 1986-
1990)
-21% -14%
Các nước kém phát triển không phải đưa ra cam kết nào về giảm thuế hoặc
giảm trợ cấp.
Cơ sở để tính mức độ giảm thuế là thuế suất trần trước ngày 1/1/1995 hoặc, đối
với những mức thuế chưa được cam kết, thì là thuế suất được áp dụng thực tế
vào tháng 9/1986, khi bắt đầu vòng đàm phán Uruguay.
Sản phẩm nông sản được xác định trong Hiệp định Nông nghệp bao gồm các loại
hàng hóa có nguồn gốc từ hoạt động nông nghiệp như:
(1) Các sản phẩm nông nghiệp cơ bản như lúa gạo, bột mỳ, sữa, động vật sống,
cà phê, hồ tiêu, hạt điều, chè, rau quả tươi,vv…
(2) Các sản phẩm phái sinh như bánh mỳ, bơ, dầu ăn, thịt,…
(3) Các sản phẩm được chế biến từ sản phẩm nông nghiệp như bánh kẹo, sản
phẩm từ sữa, xúc xích, rượu, thuốc lá, bông xơ, da động vật thô,…
Mục tiêu của Hiệp định về Nông nghiệp là tiến hành cải cách trong lĩnh vực nông
nghiệp và xây dựng các chính sách nông nghiệp có định hướng thị trường sâu rộng. Hiệp
định cũng nhằm nâng cao khả năng dự đoán trước các thay đổi và đảm bảo an ninh lương
thực cho các nước xuất khẩu cũng như nhập khẩu. Mục tiêu trên xuất phát từ việc Nông
sản là mặt hàng “nhạy cảm” trong thương mại do thương mại Nông sản đụng chạm đến
lợi ích của một bộ phận đông đảo dân cư vốn có thu nhập thấp ở các nước phát triển và
các nước đang phát triển. Mỗi nước đều có nhu cầu đảm bảo nguồn cung lương thực ổn
định trong hoàn cảnh thế giới thường xuyên có biến động về thu hoạch và các nguy cơ
nạn đói rình rập
II. Nội dung của AOA:
1.Giải thích thuật ngữ:
− “Lượng hỗ trợ tính gộp” và “ AMS” có nghĩa là mức hỗ trợ hàng năm tính
bằng tiền cho một sản phẩm nông nghiệp dành cho các nhà sản xuất một loại
hàng hóa cơ bản hoặc là mức hỗ trợ không cho một sản phẩm cụ thể dành
cho cá nhà sản xuất nông nghiệp nói chung, khác với hỗ trợ theo các chương
trình có đủ tiêu chuẩn được miễn giảm tại phụ lục 2 của Hiệp định này. Bao
gồm:
+ Hỗ trợ trong giai đoạn cơ sở nêu cụ thể tại các bảng liên quan được
hợp thành và dẫn chiếu tại phần danh mục của một thành viên.
+ Hỗ trợ được cung cấp trong bất kỳ năm nào trong giai đoạn thực hiện
và các năm sau đó được tính toán phù hợp với quy định tại Phụ lục 3
của Hiệp định này và có tính đến số liệu hợp thành và phương pháp
được sử dụng tại các bảng hỗ trợ liên quan được dẫn chiếu tại Phần IV
của Danh mục của một Thành viên.
− “ Sản phẩm công nghiệp cơ bản” có liên quan đến các cam kết về hỗ trợ
trong nước được định nghĩa là sản phẩm gần nhất với điểm bán đầu tiên
được nêu cụ thể tại Danh mục của một Thành viên và tài liệu hỗ trợ có liên
quan;
− “Chi tiêu ngân sách” hay “chi tiêu” bao gồm các khoản đáng lẽ phải chi
nhưng lại bỏ qua.
− “Lượng hỗ trợ tương đương” có nghĩa là mức hỗ trợ hàng năm tính bằng
tiền dành cho các nhà sản xuất một sản phẩm nông nghiệp cơ bản thông qua
việc áp dụng một hoặc nhiều biện pháp mà mức trợ cấp này không thể tính
được theo phương pháp AMS, khác với trợ cấp trong các chương trình có đủ
tiêu chuẩn được miễn trừ cắt giảm tại Phụ lục 2 của Hiệp định này, bao
gồm:
+ Hỗ trợ được cung cấp trong giai đoạn cơ sở nêu cụ thể tại các bảng tài
liệu hõ trợ liên quan được hợp thành và dẫn chiếu tại Phần IV của
Danh mục của một Thành viên.
+ Hỗ trợ được cung cấp trong bất kỳ năm nào trong giai đoạn thực hiện
và các năm sau đó được tính toán phù hợp với quy định tại Phụ lục 4
của Hiệp định này và có tính đến số liệu hợp thành và phương pháp
được sử dụng tại các bảng hỗ trợ liên quan được dẫn chiếu tại Phần IV
của Danh mục của một Thành viên.
− “ Trợ cấp xuất khẩu” là những trợ cấp xuất hiện trên kết quả thực hiện xuất
khẩu, kể cả các loại trợ cấp xuất khẩu trong danh mục tại điều 9 của Hiệp
định này.
− “Giai đoạn thực hiện” có nghĩa là giai đoạn 6 năm từ 1995, ngoại trừ, vì
mục đích của Điều 13, là giai đoạn 9 năm kể từ năm 1995;
− “Các nhượng bộ tiếp cận thị trường” bao gồm toàn bộ các cam kết tiếp cận
thị trường bao gồm toàn bộ các cam kết tiếp cân thị trường được thực hiện
theo hiệp định này.
− “ Tổng lượng hỗ trợ tính gộp” và “tổng AMS” có nghĩa là tổng tất cả hỗ
trợ trong nước dành cho các nhà sản xuất nông nghiệp, được tính bằng tổng
lượng hỗ trợ tính gộp cho các sản phẩm nông nghiệp cơ bản, tổng lượng hỗ
trợ tính gộp không cho các sản phẩm cụ thể và tổng lượng hỗ trợ tương
đương cho sản phẩm nông nghiệp, và bao gồm:
+ Hỗ trợ được cung cấp trong giai đoạn cơ sở (gọi là Tổng AMS cơ sở)
và hỗ trợ tối đa được phép cung cấp tại bất kỳ năm nào trong giai đoạn
thực hiện và sau đó (gọi là”các mức cam kết cuối cùng và hàng năm”),
như quy định tại Phần IV của Danh mục của một Thành viên.
+ Mức hỗ trợ thực tế tại bất kỳ năm nào trong giai đoạn thực hiện và sau
đó (gọi là "Tổng AMS hiện hành"); được tính theo quy định của Hiệp
định này, kể cả Điều 6, và với số liệu hợp thành và phương pháp sử
dụng tại các bảng hỗ trợ trong tài liệu được dẫn chiếu tại Phần IV
trong Danh mục của một Thành viên.
− “Năm” tại khoản (f) trên đây và có liên quan đến các cam kết cụ thể của
một Thành viên là năm dương lịch, tài chính hoặc năm tiếp thị được quy
định tại Danh mục liên quan đến Thành viên đó.
2.Cam kết, quy tắc của AOA:
2.1. Tiếp cận thị trường:
Bao gồm loại bỏ các hàng rào phi thuế quan bằng cách thuế hóa các biện pháp phi
thuế và đàm phán cam kết thuế.
Hiệp định yêu cầu các nước phát triển phải giảm bình quân 38% mức thuế nhập
khẩu trong vòng 5 năm (đến năm 2000); các nước đang phát triển phải giảm 24% trong
vòng 9 năm (đến năm 2004); các nước chậm phát triển được miễn trừ cam kết giảm thuế
hóa các biện pháp phi thuế và cam kết mức thuế trần để đảm bảo trong tương lai không
tăng thuế lên quá mức trần cam kết đó. Nguyên tắc của Hiệp định là chỉ bảo hộ bằng thuế
quan để đảm bảo tính minh bạch, có thể lường trước được. Yêu cầu các nước thuế hóa các
biện pháp phi thuế và cam kết thuế đối với 100% số dòng thuế nông sản. Hiệp định cung
cấp hai biện pháp quan trọng nhằm hỗ trợ cho các nước trong quá trình thuế hóa và cam
kết thuế. Đó là quyền tự vệ đặc biệt (SSG-Special Safegarard) và hạn nghạch thuế quan
(TRQ-Tariff Rate Quota).
Quyền tự vệ đặc biệt (SSG): là quyền được áp dụng tạm thời mức thuế cao hơn
mức đã cam kết đối với 1 sản phẩm nào đó khi lượng nhập khẩu tăng lên đột ngột làm tổn
thương tới sản xuất trong nước. Biện pháp này có thể được áp dụng trước khi thông báo
cho các đối tác nhập khẩu chính và không phải “bồi thường” nếu sự áp dụng đó là chính
đáng. Tuy nhiên chỉ 1 số ít mặt hàng được phép áp dụng biện pháp này, đó là những sản
phẩm đã thuế hóa các biện pháp phi thuế và đạt được thỏa thuận với các nước khác trong
quá trình đàm phán.
Hạn nghạch thuế quan (TRQ): Thực chất TRQ là biện pháp bảo vệ quyền lợi cho
các nước xuất khẩu để đảm bảo rằng việc xuất khẩu nông sản khó bị gián đoạn sau khi
thuế hóa các biện pháp phi thuế. Tuy nhiên, biện pháp này cũng có tác dụng hỗ trợ các
nước nhập khẩu hạn chế bớt lượng nhập khẩu tăng quá mức sau cam kết. Tương tự SSG,
rất ít mặt hàng được áp dụng biện pháp này do phải đàm phán với các nước thành viên
khác để đạt thỏa thuận về: diện mặt hàng được phép áp dụng, mức hạn nghạch ban đầu,
mức thuế trong và ngoài hạn nghạch, mức tăng trưởng hạn nghạch hàng năm.
Bảng: Cam kết mở cửa thị trường nông sản
2.2.Cam kết hỗ trợ trong nước:
Khái niệm: Trợ cấp trong nước về nông nghiệp là hình thức hỗ trợ của chính phủ
cho việc sản xuất, tiêu thụ nông sản, các sản phẩm về nông nghiệp ở các vùng miền
trong nước mà không tính đến yếu tố xuất khẩu
Các loại trợ cấp
Loại trợ cấp Tính chất - Nội dung Cơ chế áp dụng
Trợ cấp “hộp xanh
lá cây”
Phải là các trợ cấp:
- Hầu như là không có tác động bóp
méo thương mại.
- Không phải là hình thức trợ giá
Được phép áp dụng
không bị hạn chế
Trợ cấp “hộp xanh
lơ”
Hỗ trợ trực tiếp trong khuôn khổ
các chương trình hạn chế sản xuất
Đây là các hình thức trợ
cấp mà các nước phát
triển đã áp dụng. -
Và dường như chỉ những
nước này được phép áp
dụng nhưng có điều kiện.
Trợ cấp “hộp hổ
phách”
Các loại trợ cấp nội địa không
thuộc hộp xanh lá cây và xanh lơ
-Được phép áp dụng
trong mức nhất định gọi
là "Mức tối Được phép
(trợ cấp bóp méo thương mại) áp dụng trong mức nhất
định gọi là "Mức tối
thiểu".
Phải cam kết cắt giảm
cho phần vượt trên mức
tối thiểu.
Nhóm trợ cấp trong
chương trình “hỗ
trợ phát triển sản
xuất”
Ví dụ:
- Trợ cấp đầu tư.
- Hỗ trợ “đầu vào” cho sản xuất
nông nghiệp cho nông dân nghèo.
Đây là sự ưu đãi đặc biệt
và khác biệt dành cho các
nước đang phát triển. Chỉ
có các nước đang phát
triển mới được quyền áp
dụng biện pháp này mà
không bị cấm.
- Trợ cấp hộp xanh lá cây
Trợ cấp “Hộp xanh lá cây” bao gồm các biện pháp trợ cấp thuộc một trong
05 nhóm xác định và phải đáp ứng đủ 03 điều kiện cụ thể.
Là thành viên WTO, Việt Nam có thể tuỳ ý thực hiện các loại trợ cấp nông
nghiệp nội địa thuộc hộp xanh lá cây, không phải cam kết cắt giảm, không
bị các thành viên khác khiếu kiện.
Doanh nghiệp cần đặc biệt chú ý đến nhóm trợ cấp “hộp xanh lá cây” này
bởi đây là các hình thức hỗ trợ mà doanh nghiệp có thể đề xuất Nhà nước
áp dụng mà không vi phạm cam kết trong khuôn khổ WTO.
Năm nhóm trợ cấp có thể được xem là “trợ cấp hộp xanh lá cây”
Nhóm 1 - Trợ cấp cho các Dịch vụ chung
Ví dụ: Trợ cấp cho nghiên cứu khoa học; kiểm soát dịch bệnh; đào tạo;
khuyến nông, tư vấn; kiểm tra sản phẩm vì mục đích sức khoẻ con người; tiếp thị,
thông tin thị trường, tư vấn; kết cấu hạ tầng nông nghiệp (điện, đường, thuỷ lợi…)
Nhóm 2 - Trợ cấp nhằm mục tiêu dự trữ an ninh lương thực quốc gia
Điều kiện: Khối lượng lương thực dự trữ phải phù hợp với các tiêu chí định
trước, việc thu mua để dự trữ và thanh lý khi hết hạn dự trữ phải thực hiện theo giá
thị trường.
Nhóm 3 - Trợ cấp lương thực trong nước
Điều kiện: Tiêu chí để cho hưởng trợ cấp lương thực phải rõ ràng, có liên
quan đến mục tiêu dinh dưỡng.
Nhóm 4 - Hỗ trợ giảm nhẹ thiên tai
Ví dụ: Các khoản chi phí hỗ trợ nhằm phục hồi sản xuất nông nghiệp cho
những vùng bị thiên tai như giống, thuốc BVTV, thuốc thú y, san ủi lại đồng
ruộng…
Nhóm 5 - Hỗ trợ trực tiếp cho người sản xuất
Hỗ trợ thu nhập (không được gắn với yêu cầu về sản xuất)
• Hỗ trợ tài chính của Nhà nước vào chương trình an toàn và bảo hiểm thu
nhập cho nông dân (khi mất mùa hoặc mất giá);
• Hỗ trợ bù đắp thiệt hại do thiên tai gây ra;
• Hỗ trợ hưu trí cho người sản xuất nông nghiệp;
• Hỗ trợ điều chỉnh cơ cấu thông qua chương trình chuyển các nguồn lực
(đất đai, vật nuôi…) khỏi mục đích sản xuất thương mại;
• Hỗ trợ điều chỉnh cơ cấu thông qua chương trình trợ cấp đầu tư (đầu tư
nhằm khắc phục các bất lợi về cơ cấu);
• Hỗ trợ theo các chương trình môi trường (bù đắp chi phí sản xuất phải
tăng thêm hoặc sản lượng giảm đi do thực hiện các yêu cầu về môi
trường);
• Hỗ trợ theo các chương trình trợ giúp vùng (vùng có vị trí hoặc điều kiện
bất lợi).
Các loại trợ cấp thuộc một trong năm nhóm này đáp ứng đủ 03 điều kiện sau
để được xem là “trợ cấp hộp xanh lá cây”.
Là các biện pháp không hoặc rất ít tác động bóp méo thương mại;
Thông qua chương trình do Chính phủ tài trợ (kể cả các khoản đáng ra phải
thu nhưng được để lại);
Không có tác dụng trợ giá cho người sản xuất
− Trợ cấp hộp xanh lơ
Những hình thức trợ cấp trực tiếp cho người sản xuất trong chương trình
hạn chế sản xuất nông nghiệp cũng được miễn trừ cam kết cắt giảm với các
điều kiện:
• Những trợ cấp dựa trên diện tích hoặc năng suất cố định.
• Trợ cấp tối đa bằng 85% hoặc ít hơn mức sản xuất cơ sở
• Trợ cấp trong chăn nuôi dựa trên số đầu con cố định.
Đây là hình thức trợ cấp mà nhiều nước phát triển áp dụng trong chương
trình hạn chế bớt sản xuất nông nghiệp. Tất cả các nước đang phát triển đều
không có hình thức trợ cấp này. Nên, mặc nhiên, loại trợ cấp này dành cho
các nước phát triển. Tại vòng đàm phán Doha, các nước cũng đang yêu cầu
phải giảm nhiều và tiến đến loại bỏ hình thức trợ cấp này.
− Trợ cấp hộp hổ phách
Trợ cấp thuộc “hộp hổ phách” là tất cả các trợ cấp trong nước không thuộc
nhóm “hộp xanh lá cây” và “hộp xanh lơ” hoặc “chương trình hỗ trợ phát
triển sản xuất”. Đây là hầu hết là các loại trợ cấp có tác động làm biến
dạng thương mại.
Trên thực tế, hình thức trợ cấp “hộp hổ phách” thông dụng nhất ở các
nước là các chương trình thu mua nông sản của Chính phủ để can thiệp
vào thị trường.
Theo quy định tại Hiệp định Nông nghiệp, thành viên WTO vẫn có thể
thực hiện các trợ cấp thuộc “hộp hổ phách” nhưng mức trợ cấp phải đảm
bảo 1 trong 2 điều kiện dưới đây:
• Trong mức tối thiểu (mức tối thiểu được tính bằng 5% trị giá sản
phẩm hoặc 5% tổng trị giá sản lượng ngành nông nghiệp đối với
nước phát triển và bằng 10% đối với nước đang phát triển như Việt
Nam);
• Không vượt mức trần cam kết (cam kết giảm tổng trị giá trợ cấp tính
gộp – AMS).
Với những loại trợ cấp “hộp hổ phách”, mặc dù điều kiện áp dụng khó
khăn hơn nhưng đây là những trợ cấp trực tiếp và mang lại nhiều lợi ích
cho nông dân và doanh nghiệp liên quan, vì thế doanh nghiệp cũng cần
chú ý để đề xuất các cơ quan liên quan trong điều kiện có thể.
2.3.Cam kết hỗ trợ xuất khẩu:
Ta cam kết sẽ không áp dụng trợ cấp xuất khẩu đối với nông sản từ thời điểm gia
nhập. Tuy nhiên ta bảo lưu quyền được hưởng một số quy định riêng của WTO dành cho
nước đang phát triển trong lĩnh vực này. Đối với loại hỗ trợ mà WTO quy định phải cắt
giảm nhìn chung ta duy trì được ở mức không quá 10% giá trị sản lượng. Ngoài mức này,
ta còn bảo lưu thêm một số khoản hỗ trợ nữa vào khoảng 4.000 tỷ đồng mỗi năm.
Có thể nói, trong nhiều năm tới, ngân sách của nước ta cũng chưa đủ sức để hỗ trợ
cho nông nghiệp ở mức này. Các loại trợ cấp mang tính chất khuyến nông (như hỗ trợ
thủy lợi) là trợ cấp "xanh" hay trợ cấp phục vụ phát triển nông nghiệp được WTO cho
phép nên ta được áp dụng không hạn chế.
Trước đây, một số nước cũng yêu cầu Việt Nam cam kết “giữ nguyên trạng”, tức là
sau khi gia nhập WTO sẽ không tăng trợ cấp so với mức hiện hành. Đây là một khó khăn
trong bối cảnh chúng ta đang trong quá trình xây dựng chính sách hỗ trợ xuất khẩu. Trước
đây, do điều kiện hạn hẹp của nền kinh tế, chúng ta không thể hỗ trợ tài chính cho sản
xuất và chế biến nông sản do vậy mức trợ cấp rất thấp.
Ví dụ: chương trình thưởng xuất khẩu của Chính phủ theo đó doanh nghiệp được
thưởng 100 đồng cho mỗi sản phẩm xuất khẩu được.
Hình thức trợ cấp:
Đối với sản phẩm gạo: Hỗ trợ lãi suất thu mua lúa gạo trong vụ thu hoạch, hỗ
trợ lãi suất cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo, hỗ trợ lãi suất xuất khẩu gạo trả
chậm, bù lỗ cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo, thưởng xuất khẩu.
Đối với mặt hàng cà phê: Hoàn phụ thu, bù lỗ cho tạm trữ cà phê xuất khẩu, bù
lỗ cho doanh nghiệp xuất khẩu cà phê, hỗ trợ lãi suất tạm trữ, thưởng xuất
khẩu.
Đối với rau quả hộp: Hỗ trợ xuất khẩu cho dưa chuột, dứa hộp, thưởng xuất
khẩu.
Đối với thịt lợn: Hỗ trợ lãi suất mua thịt lơn, bù lỗ xuất khẩu thịt lợn, thưởng
xuất khẩu.
Đường: Hỗ trợ giá, hỗ trợ giống mía, giảm thuế VAT 50%, hỗ trợ lãi suất sau
đầu tư, bù chênh lệch tỷ giá, hỗ trợ lãi suất thu mua mía trong vụ thu hoạch, hỗ
trợ phát triển vùng mía nguyên liệu.
Chè, lạc nhân, thịt gia súc, gia cầm các loại, hạt tiêu, hạt điều: Thưởng theo
kim ngạch xuất khẩu.
Vai trò của trợ cấp xuất khẩu:
Hàng xuất khẩu được bán trên thị trường nước ngoài với giá thấp hơn trên thị
trường nội địa của nước xuất khẩu.
Chính phủ có thể trợ cấp trực tiếp cho nhà sản xuất hoặc trợ cấp gián tiếp
thông qua đầu vào cho nhà sản xuất. Với mọi hình thức trợ cấp, lợi thế và khả
năng cạnh tranh của sản phẩm trong những ngành được trợ cấp luôn được cải
thiện và nâng cao.
Trợ cấp góp phần duy trì ổn định công ăn việc làm, hạn chế thất nghiệp,
bảo đảm trật tự và ổn định xã hội, đặc biệt là những khoản trợ cấp dành
cho các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, đứng trước nguy cơ bị đóng cửa, phá
sản.
Phát triển xuất khẩu theo hướng bền vững đang được nhiều nước quan tâm, tuy
nhiên do áp lực của hội nhập nên việc thực hiện điều đó không dễ dàng, nhất là các nước
xuất khẩu dựa vào lợi thế tài nguyên thiên nhiên và lao động rẻ. Theo quan điểm phát
triển bền vững, xuất khẩu nông sản ở nước ta đang chứa đựng nhiều yếu tố thiếu bền
vững, đòi hỏi phải sớm có giải pháp khắc phục.
III. Tình hình Nông nghiệp của Việt Nam
1.Thành tựu:
Tư duy hội nhập bước đầu đã lan tỏa từ trung ương đến địa phương; nhận thức cán
bộ, doanh nghiệp, nông dân về cơ hội và thách thức của WTO nâng lên rõ rệt;
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật đều phải tuân thủ thông lệ quốc tế và cam
kết;
Hệ thống quản lý chất lượng được hình thành, công tác kiểm tra, kiểm dịch được
tăng cường; các quy trình thanh kiểm tra, cấp giấy chứng nhận, kiểm dịch được cải thiện
hơn, rút ngắn thời gian;
Nhiều địa phương ban hành chính sách hỗ trợ nông nghiệp đã so sánh với quy định
WTO;
Kết quả xuất khẩu: năm 2007 đạt 13,5 tỷ USD; 2008 đạt 16,7 tỷ USD; 6 mặt hàng
có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD (vượt chỉ tiêu năm 2010);
Tốc độ tăng trưởng GDP của nông nghiệp năm 2006 đạt 3,4%, năm 2007 đạt 3,69%;
Vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm thực sự được quan tâm;
Các hình thức liên kết, hợp tác dọc, ngang phát triển trong các ngành hàng nông sản;
Năm 2006 - 2010 là giai đoạn phát triển tốt đẹp nhất trong lịch của ngành Hồ tiêu
Việt Nam:
− Sản lượng từ 80.000 tấn/2006 lên 110.000 tấn/2010, tăng 37,5%.
Số lượng xuất khẩu bình quân 108.000 tấn/năm, tăng 26% so với cùng kỳ
trước đó.
− Kim ngạch xuất khẩu từ 187 triệu đô la/2006 lên 421 triệu đô la/2010, tăng
125%.
− Giá xuất khẩu bình quân từ 1.624 đô la/tấn/2006 lên 3.629 đô la/tấn/2010, tăng
123%.
2.Cơ hội:
Điều chỉnh hệ thống chính sách trong nước: rà soát lại hệ thống quy phạm pháp luật
phù hợp với WTO, thông lệ quốc tế tạo ra các cơ hội:
Thu hút đầu tư, công nghệ hiện đại, đào tạo nguồn nhân lực;
Môi trường kinh doanh trong nước bình đẳng: không phân biệt đối xử;
Tạo ra tính minh bạch trong hệ thống chính sách và điều hành;
Chính phủ quan tâm nhiều hơn và tăng đầu tư cho nông nghiệp.
Mở rộng thị trường: xâm nhập thị trường trên 150 nước thành viên, chiếm trên 90%
khối lượng và giá trị thương mại thế giới.
Giải quyết bất công trong thương mại thông qua WTO, đặc biệt là giải quyết tranh
chấp (xuất khẩu càng lớn thỉ tranh chấp càng nhiều).
Nền sản xuất trong nước tự điều chỉnh phù hợp với thị trường: đảm bảo chất lượng
an toàn vệ sinh thực phẩm.
Tạo sức ép khá lớn cho sản xuất, kinh doanh nông sản trong nước.
3.Thách thức:
Nông nghiệp là ngành gặp khó khăn nhất khi gia nhập WTO. Việt Nam xuất khẩu
nhất nhì thế giới về gạo, cà phê, hồ tiêu, điều nhân… nhưng chỉ mới là xuất thô, hàm
lượng chất xám trong nông sản xuất khẩu chưa nhiều.
Những ngành có ít lợi thế so sánh sẽ bị sức ép nhiều hơn: mía, đường, sữa bông
,chăn nuôi…
Giá thành cao, chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm chưa đáp ứng yêu cầu hội
nhập. Hai mặt hàng chiến lược là thịt heo và bò, dù năng suất được cải thiện nhưng so với
hệ thống chăn nuôi hiện đại, hiệu quả như Australia, New Zealand, do ngành căn nuôi cơ
bản vẫn còn phân tán, chưa tập trung, trình độ vẫn còn thấp.
Giá thành nguyên liệu đầu vào cao, sản xuất manh mún là yếu tố nhiều mặt hàng
nông sản của ta hiện nay giá cao hơn nước ngoài, chất lượng không bảo đảm. Khả năng
chuyển từ xuất khẩu thô lên chế biến với thương hiệu riêng để tăng giá trị gia tăng của các
doanh nghiệp đòi hỏi cả một quá trình.
Hiện nay trình độ sản xuất của nông dân còn thấp, bộc lộ rõ nhất là ở khâu giống cây
trồng, vật nuôi chưa được kiểm soát chặt chẽ nguồn gốc; chưa kiểm soát tốt chất lượng
phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, thức ăn chăn nuôi; công tác bảo quản sau
thu hoạch, bao bì, nhãn hiệu hàng hoá, thương hiệu vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu trong
quá trình hội nhập
Doanh ngiệp trong nước phải cạnh tranh gay gắt với các doanh nghiệp nước ngoài
Doanh nghiệp của chúng ta thiếu thông tin về các thị trường, thiếu hiểu biết về pháp
luật thương mại quốc tế. Khi gặp những vấn đề liên quan đến pháp lý, doanh nghiệp phải
dựa vào Hiệp hội nhưng trên thực tế, Hiệp hội lại chưa đủ mạnh để bảo vệ doanh nghiệp.
Tuy nhiên, vẫn có nhiều chính sách không bị cấm lại chưa được sử dụng như trợ cấp
điều chỉnh cơ cấu thông qua chương trình rút các nguồn lực khỏi sản xuất nông nghiệp,
chi trả trực tiếp cho người sản xuất thay vì cho người xuất khẩu. Bên cạnh đó, chúng ta
vẫn chưa có những hỗ trợ riêng cho thu nhập như chương trình bảo hiểm thu nhập và
mạng lưới an sinh thu nhập cho nông dân Về xuất khẩu nông sản, chúng ta chưa tận
dụng được trợ cấp chi phí tiếp thị, chi phí chuyên chở trong nước và quốc tế, quỹ xúc tiến
xuất khẩu cho vay tín dụng để xuất khẩu. Nguyên nhân là do ngân sách dành cho nông
nghiệp còn thấp. “Nhưng không phải nông dân nào cũng được hưởng lợi. Nông dân sản
xuất trong lĩnh vực đầu vào thay thế xuất khẩu như mía đường, hoặc trồng những loại cây
không có chức năng cung cấp hàng hóa cho thị trường mà mang tính tự cung tự cấp là
chính, hoặc nông dân ở vùng xa xôi hẻo lánh sẽ hưởng lợi ít nhất, thậm chí là thiệt hại
từ việc thực hiện các cam kết WTO” - bà Hồng nhấn mạnh.
Theo ông Antonia Cordella, chuyên gia của Mutrap 2, để những chính sách mới có
lợi cho nông dân và nông nghiệp, cần các biện pháp hướng về mở rộng tiếp cận thị
trường, cải thiện hệ thống tiếp thị và quan trọng hơn cả là hệ thống thông tin thị trường.
“Khi người nông dân chỉ biết quan tâm đến phát triển sản phẩm và phó thác khâu phân
phối, tiếp thị cho người môi giới, trung gian thì việc cần làm đối với cơ quan quản lý là
phải cung cấp thông tin thị trường càng nhiều càng tốt” - ông Cordella nói.
KẾT LUẬN
Nông nghiệp là một yếu tố hết sức quan trọng trong nền kinh tế. Nó đóng vai trò
quan trọng trong việc ổn định an ninh lương thực thế giới và cũng góp phần trong việc ổn
định chính trị và xã hội của các nước. Hiệp định AOA của WTO ra đời đã đem lại nhiều
lợi ích cho các nước xuất khẩu nông sản thông qua mở rộng thị trường và tháo bỏ các rào
cản thương mại. Thông qua việc cắt giảm những mức trợ cấp trong nước và trợ cấp xuất
khẩu của các nước phát triển và dành nhiều ưu đãi cho những nước còn đang phát triển,
AOA đã giúp cho việc phát triển nền nông nghiệp của các quốc gia tốt hơn và công bằng
hơn.
Xu hướng toàn cầu hóa đang diễn ra hết sức mạnh mẽ trên thế giới. Việc mở cửa thị
trường và hội nhập quốc tế đã trở thành 1 điều tất yếu, nhất là trong công cuộc xây dựng
nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN của nước ta hiện nay. Kể từ khi gia nhập
WTO, bên cạnh việc đạt được những lợi ích và những cơ hội tốt cho phát triển,
Việt Nam cũng đồng thời chịu nhiều tác động trái chiều và thách thức cần phải vượt
qua. Để có thể làm được điều đó, không chỉ cần chuyển đổi trong tư duy xây dựng chính
sách, nghiên cứu phát triển tư duy sản xuất, tăng đầu tư hỗ trợ cho nông nghiệp mà còn
cần tận dụng triệt để các ưu điểm mà AOA mang lại cho Việt Nam, từ đó có thể xúc tiến
tốt hơn thương mại nông sản Việt Nam ra thị trường thế giới và giúp cho nền kinh tế của
nước nhà phát triển tốt hơn.
Hiệp định AOA ra đời đánh dấu một bước chuyển mới trong thương mại nông
nghiệp trên toàn thế giới. Mặc dù mang lại nhiều mặt tích cực cho thương mại toàn cầu,
vẫn còn có những vấn đề mới nảy sinh cũng như những nhượng bộ đối xử đặc biết đối với
nông nghiệp tại vòng đàm phán Uruguay, đòi hỏi nhu cầu bức xúc cho nhiều nước phải
tiến hành vòng đàm phán mới về nông nghiệp. Nhất là những nước có xu hướng xuất
khẩu nông sản và nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào nông nghiệp đòi hỏi cần phải có những
cải cách mạnh mẽ hơn nữa trong các qui định của WTO đối với thương mại nông nghiệp
thế giới.
Tài liệu tham khảo
/> />option=2&Menu=356&sub=357&chitiet=1560
/> thach-thuc-va-hanh-dong-cua-
chung-ta.html
Hiệp định nông nghiệp và ngành nông nghiệp Việt Nam, Th.s Trần Văn Công-trưởng
phòng Hội nhập và đầu tư Vụ hợp tác quốc tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.