Tải bản đầy đủ (.doc) (134 trang)

chính sách và pháp luật nông nghiệp việt nam và hiệp định nông nghiệp của tổ chức thương mại thế giới (wto)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (567.63 KB, 134 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Về mặt lý luận
Trước sự phát triển của nền kinh tế quốc tế, các quốc gia trên thế giới
luôn tự thích nghi và điều chỉnh hệ thống chính sách, pháp luật của nước
mình phù hợp với pháp luật quốc tế.
WTO là một tổ chức thương mại lớn nhất hành tinh, gồm các Hiệp
định và quy tắc về kinh tế, thương mại v.v , trong đó các quy định về tổ
chức và thực hiện các quan hệ kinh tế quốc tế chiếm một số lượng lớn. Đặc
biệt các quy tắc về nông nghiệp đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử
phát triển của WTO, có thế nói rằng, nông nghiệp là một trong các trụ cột
chính của WTO do tích phức tạp ảnh hưởng đến hàng tỷ nông dân và người
tiêu dùng trên toàn thế giới. Việc đưa ra các nghiên cứu Hiệp định nông
nghiệp cũng như các đáng giá thực hiện Hiệp định này trong nước đóng vai
trò đặc biệt quan trọng trong việc ban hành chính sách pháp luật nông
nghiệp quốc gia.
Để thực hiện được Hiệp định và các nguyên tắc này, nhằm đem lại
hiệu quả cao cho sự phát triển của quốc gia, rất cần có một nghiên cứu về
Hiệp định và nguyên tắc về nông nghiệp của WTO, nhằm:
1. Tìm hiểu thực tiễn áp dụng các quy định về nông nghiệp của Hiệp
định nông nghiệp trong WTO ở một số quốc gia.
2. Nhằm hiểu biết sâu sắc các quy định trong Hiệp định nông nghiệp;
3. Trên cơ sở đó vận dụng vào thực tiễn quản lý đối với nền kinh tế
trong nước và các hoạt động chuyên ngành;
1
4. Đưa ra các giải pháp về sửa đổi, bổ sung những thiếu sót trong hệ
thống pháp luật.
Với các mục đích trên, đề tài "Chính sách và pháp luật nông
nghiệp Việt Nam và Hiệp định nông nghiệp của Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO)" sẽ giải quyết được một số vấn đề cơ bản như:
1. Các kiến thức cơ bản về WTO.


2. Đưa ra các nghiên cứu, phân tích về Hiệp định nông nghiệp của
WTO.
3. Hệ thống chính sách, pháp luật hiện tại về nông nghiệp của Việt
Nam.
4. Các đề xuất nhằm nội địa hóa Hiệp định này, thông qua việc xây
dựng các chính sách, pháp luật phù hợp với sự phát triển của Việt Nam
Về mặt thực tiễn
Hợp tác kinh tế quốc tế hiện nay đang là một vấn đề đã được Đảng
và Nhà nước Việt Nam quan tâm sâu sắc. Kể từ Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VI (năm 1986), Đảng và Nhà nước ta đã coi hợp tác kinh tế quốc tế là
nhiệm vụ hàng đầu. Nhưng mãi gần 10 năm sau, năm 1995, Nhà nước Việt
Nam mới chính thức nộp đơn gia nhập WTO. Năm 1997, Việt Nam đã trở
thành nước thành viên của ASEAN-Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á,
năm 1998 trở thành thành viên của APEC (Hợp tác kinh tế châu Á - Thái
Bình Dương), và đến nay, qua hơn 10 năm đàm phán gia nhập WTO, Việt
Nam đang đứng trước vận hội mới trở thành quốc gia thành viên của tổ chức
thương mại lớn nhất hành tinh này.
WTO là một tổ chức thương mại lớn nhất thế giới, với sự góp mặt
của 149 quốc gia và lãnh thổ trên toàn cầu, tiền thân của WTO là GATT -
một hiệp định về thương mại và thuế quan được các quốc gia thiết lập năm
2
1947 nhằm thúc đầy thương mại kinh tế giữa các quốc gia sau thế chiến thế
giới thứ II. Sau này, do GATT không đủ khả năng điều chỉnh sự phát triển
kinh tế của các quốc gia, WTO đã được thành lập với phạm vi và mục đích
rộng hơn rất nhiều. Tham gia vào WTO sẽ tạo điều kiện thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội thông qua các hình thức đầu tư, thuế quan, tài chính, ngân
hàng v.v tạo điều kiện cho pháp luật quốc gia hội nhập vào pháp luật quốc
tế.
Việt Nam là một trong các quốc gia đang phát triển với nền kinh tế
chuyển đổi sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với dân

số trên 80 triệu dân, trong đó hơn 80% dân số sống ở khu vực nông thôn và
hơn 70% lực lượng lao động làm việc trong các lĩnh vực liên quan đến sản
xuất nông nghiệp. Do đó, sản xuất nông nghiệp có ảnh hưởng lớn đến sự
phát triển kinh tế xã hội của quốc gia. Tuy nhiên, nông nghiệp là một lĩnh
vực rất nhậy cảm đối với các tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Vào năm 2010, khi các rào cản thuế quan và phi quan thuế bị loại bỏ, nền
nông nghiệp Việt Nam, với quy mô sản xuất nhỏ lẻ và tư liệu sản xuất lạc
hậu sẽ phải đối mặt với cạnh tranh tự do gay gắt của nền kinh tế thị trường
quốc tế.
Một trong các hiệp định chính của WTO là Hiệp định nông nghiệp.
Hiệp định nông nghiệp điều chỉnh các vấn đề liên quan đến các chính sách,
luật pháp của các quốc gia thành viên như: Các quy định về tiếp cận thị
trường, hỗ trợ trong nước, và trợ cấp xuất khẩu. Các quy định trong Hiệp
định này tương đối phức tạp và cũng rất khó trong việc thực hiện vì nó liên
quan trực tiếp đến việc sửa đổi luật pháp trong nước trong lĩnh vực nông
nghiệp. Chính vì thế, các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam
đang tiến hành nhiều nghiên cứu, và đưa ra các biện pháp, giải pháp để làm
hài hoà chính sách, luật pháp trong nước phù hợp với Hiệp định này. Tuy
nhiên, đây là vấn đề không đơn giản không chỉ với các quốc gia đang phát
3
triển mà ngay cả đối với các quốc gia phát triển, làm thế nào để thực hiện
được Hiệp định này cũng là điều hết sức phức tạp. Phức tạp ở chỗ phải tiến
hành sửa đổi luật pháp trong nước theo hướng phù hợp với các quy định
trong Hiệp định, nhưng ngược lại, việc sửa đổi này cũng nhằm bảo vệ thị
trường nông sản trong nước, đảm bảo an ninh lương thực, đồng thời cũng
đảm bảo quyền lợi của người nông dân trong quá trình hội nhập.
Cơ hội đối với ngành nông nghiệp khi tham gia WTO
Minh bạch hoá chính sách pháp luật: Trước hết phải nói rằng việc
tham gia vào Hiệp định Nông nghiệp buộc các nước thành viên phải tiến
hành cải cách chính sách pháp luật trong nước của mình phù hợp với các

quy định của Hiệp định. Các vấn đề cải cách chính sách pháp luật tập trung
vào chính sách luật pháp về thuế quan, phi thuế quan, bảo hộ, cạnh tranh
v.v… do đó, pháp luật về nông nghiệp Việt Nam có cơ hội lớn đối với việc
sửa đổi chính sách phù hợp với quốc tế và trong nước.
Khả năng mở rộng thị trường: Gia nhập WTO, Việt Nam sẽ được
các nước thành viên khác dành cho quy chế tối huệ quốc quy chế không
phân biệt đối xử có mức thuế nhập khẩu ưu đãi hơn. Việc cắt giảm thuế nhập
khẩu nông sản, mở rộng hạn ngạch thuế quan, giảm dần thuế đối với hàng
nông sản chế biến và xoá bỏ các rào cản phi thuế khác sẽ tạo điều kiện cho
hàng nông sản của các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam thâm
nhập vào thị trường các nước phát triển. Thị trường tiêu thụ được mở rộng
không những trong khu vực mà cả trên thế giới.
Về đầu tư: Môi trường kinh tế - xã hội ổn định, kết hợp với triển
vọng hội nhập quốc tế đã có tác động tích cực tới đầu tư nước ngoài trong
lĩnh vực nông nghiệp. Nhiều nước đã đầu tư lớn vào Việt Nam như: Đài
Loan, Hồng Kông, Pháp, Trung Quốc. Gia nhập WTO, hệ thống pháp lý sẽ
được điều chỉnh theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo ra môi trường
4
kinh doanh trong nước bình đẳng, khuyến khích được mọi thành phần kinh
tế, nhất là các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ tham gia đầu tư vào ngành
nông nghiệp. Thị trường tiêu thụ nông sản được mở rộng cũng là điều kiện
hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam hơn.
Về khoa học công nghệ: Hoạt động hợp tác khoa học kỹ thuật, công
nghệ và xây dựng năng lực là nội dung bao trùm tất cả các lĩnh vực của WTO.
Các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam hy vọng được tham gia nhiều
hơn các chương trình hợp tác về khoa học công nghệ cũng như tăng thêm các
nguồn hỗ trợ kỹ thuật, tăng cường năng lực khi gia nhập WTO. Nông nghiệp
Việt Nam sẽ có cơ hội tiếp cận nhiều nguồn công nghệ mới, góp phần nâng cao
năng suất, chất lượng nông sản hàng hoá và khả năng cạng tranh của hàng
nông sản.

Nâng cao khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong nước:
Gia nhập WTO, Việt Nam không những được hưởng quyền lợi mà các nước
thành viên dành cho nhau, ngược lại, Việt Nam cũng phải thực hiện đầy đủ
các nghĩa vụ dành ưu đãi cho các nước thành viên khác. Việt Nam cũng phải
mở cửa thị trường hàng nông sản nhiều hơn, chính sách pháp luật minh bạch
và bình đẳng hơn, các chính sách, pháp luật trợ cấp hoặc hỗ trợ cho nông
nghiệp không phù hợp với WTO phải dần bị loại bỏ. Như vậy, các doanh
nghiệp Việt Nam, nhất là các doanh nghiệp Nhà nước không còn ỷ lại vào sự
hỗ trợ của nhà nước được nữa. Các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển
phải chấp nhận cạnh tranh. Áp lực này buộc các doanh nghiệp Việt Nam
phải tự vươn lên nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm và các doanh
nghiệp.
Thách thức
Xuất phát điểm khi gia nhập WTO của Việt Nam nói chung và nền
nông nghiệp nói riêng là quá thấp, lại thêm những quy định của WTO đòi
5
hỏi ngày càng khắt khe hơn, chắc chắn sẽ đem lại cho nông nghiệp Việt
Nam những thách thức lớn, cụ thể:
- Khả năng cạnh tranh của một số mặt hàng nông sản nước ta còn
thấp do năng suất, chất lượng thấp, thiết bị và công nghệ chế biến lạc hậu
nên giá thành sản phẩm cao như mía đường, ngô, đậu tương… khi giảm thuế
nhập khẩu và bỏ các rào cản phi thuế sẽ phải cạnh tranh nhiều hơn với hàng
nông sản nhập khẩu.
- Mặc dù nước ta đã đạt được khá nhiều thành tựu về nâng cao năng
suất cây trồng, vật nuôi, nhưng do quy mô sản xuất quá nhỏ bé (bình quân cả
nước là 0,8 ha đất nông nghiệp/hộ gia đình) nên năng suất lao động rất thấp.
Thu nhập của hộ gia đình nông dân thấp dẫn đến nông dân không có vốn tái
đầu tư mở rộng và áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất. Chất lượng
nông sản hàng hoá nhìn chung còn thấp và không đồng đều cũng là một
thách thức rất lớn đối với cả thị trường trong nước và xuất khẩu.

- Song song với quá trình đàm phán gia nhập WTO, nước ta cũng
đang tham gia tích cực vào quá trình tự do hoá thương mại khu vực như Khu
vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-
Trung Quốc (AC-FTA) v.v… Các cam kết về mở cửa thị trường trong nước
sẽ đem lại nhiều thách thức cho nông lâm sản nói chung, nhất là đối với
ngành hàng có khả năng cạnh tranh yếu như ngành chăn nuôi (thịt, trứng,
sữa), mía đường, ngô, bông vv… Kể cả trong những ngành hàng có khả
năng cạnh tranh khá thì cũng có nhiều doanh nghiệp yếu kém, làm ăn thua lỗ
triền miên. Đây cũng là thách thức không nhỏ đối với ngành nông nghiệp.
Như đã đề cập ở trên, Việt Nam là một quốc gia nông nghiệp, từ chỗ
là một nước thiếu đói triền miên, Việt Nam đã trở thành quốc gia hàng đầu
trong khu vực về xuất khẩu các mặt hàng nông nghiệp như: gạo, cà phê, chè,
hồ tiêu cao su Đứng trước bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, ngành nông
6
nghiệp cũng đang tích cực triển khai thực hiện đường lối đổi mới phù hợp
với quá trình hội nhập chung của đất nước.
Xuất phát từ nhu cầu trên, cần thiết phải có các nghiên cứu, đề tài
về vấn đề thực hiện Hiệp định này, làm thế nào có thể hài hoà các chính
sách, luật pháp trong nông nghiệp với các quy định của Hiệp định theo
hướng có lợi cho Việt Nam, làm thế nào để điều tiết nền kinh tế nông
nghiệp Việt Nam đem lại nhiều lợi ích hơn cho nông dân, và các giải pháp
đưa ra nhằm giúp cho các nhà làm chính sách luật pháp tham khảo và áp
dụng, đề tài "Chính sách và pháp luật nông nghiệp Việt Nam và Hiệp định
nông nghiệp của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)" về cơ bản sẽ góp
phần giải quyết được vấn đề này.
2. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Mục đích của đề tài
1.Cung cấp các khái niệm cơ bản trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế. Các tác động của quá trình này đối với lĩnh vực nông nghiệp.
2. Nghiên cứu các nội dung chính của hiệp định nông nghiệp WTO

và việc thực hiện hiệp định này.
3. Nghiên cứu chính sách pháp luật nông nghiệp của Việt Nam trong
quá trình thực hiện Hiệp định này và đưa ra một số định hướng chính sách
xây dựng pháp luật nông nghiệp Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu
Hợp tác kinh tế quốc tế là một khái niệm rộng, do đó đề tài chỉ giải
quyết các vấn đề về:
1. Khái niệm cơ bản của quá trình hội nhập trong lĩnh vực nông
nghiệp
7
2. Áp dụng, thực hiện Hiệp định nông nghiệp.
3. Chính sách, pháp luật nông nghiệp của Việt Nam trong thực hiện,
áp dụng Hiệp định này và các giải pháp.
3. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện dựa trên một số tài liệu tham khảo của các Bộ,
ngành như Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Ngoại giao, Bộ
Thương mại, Ủy ban quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế, Trường Đại học
Ngoại thương, Đại học Quốc gia Hà Nội…, đồng thời trong quá trình nghiên
cứu, hệ thống pháp luật quốc gia về lĩnh vực hợp tác kinh tế quốc tế nói
chung, về chính sách pháp luật nông nghiệp nói riêng đã được sử dụng theo
phương pháp thông kê, phân tích, tổng hợp nhằm đưa ra những nhận xét cụ
thể về từng lĩnh vực.
Dựa trên những tài liệu có được từ việc thông kê, những nhận định
từ việc phân tích, tổng hợp, và thực tế của Việt Nam, đề tài đã đưa ra một số
khuyến nghị về việc xây dựng chính sách pháp luật nông nghiệp cho phù
hợp với các quy định trong Hiệp định nông nghiệp của Tổ chức thương mại
thế giới (WTO).
4. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Một số vấn đề chung về nông nghiệp trong Tổ chức
thương mại thế giới WTO.
Chương 2: Hiệp định nông nghiệp và việc thực thi tại một số nước.
Chương 3: Thực trạng bảo hộ nông nghiệp Việt Nam, định hướng
chính sách xây dựng pháp luật nông nghiệp trong khuôn khổ WTO.
8
9
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NÔNG NGHIỆP
TRONG TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI WTO
1.1. LỊCH SỬ RA ĐỜI, HÌNH THÀNH PHÁT TRIỂN CỦA WTO
1.1.1. WTO có nguồn gốc từ sự ra đời của GATT
WTO ra đời dựa trên sự kế thừa GATT và tiếp tục phát triển ở mức
cao hơn với hàng loạt các quy định mới và tiên tiến hơn [15].
Sau hơn 8 năm đàm phán, ngày 15/4/1994, tại Marrakesh, các Bộ
trưởng đại diện cho tất cả các bên ký hiệp định chung về thuế quan và
thương mại - gọi tắt là GATT 1947, đã nhất trí ký kết văn kiện cuối cùng với
500 trang văn bản và 26.000 trang danh mục, cam kết thừa nhận kết quả của
vòng đàm phán Urugoay. Đó là Hiệp định thành lập WTO. WTO chính thức
hoạt động từ ngày 1/1/1995 [17].
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc với nhiều tàn dư nặng nề đề lại
cho nền kinh tế - thương mại của các nước trên thế giới, để khắc phục hậu
quả chiến tranh, các nước đã có sáng kiến về việc tạo ra cơ chế hợp tác đa
phương, nhằm kết hợp và phát huy tối đa các nguồn lực, cũng như khả năng
của các nước trong những vấn đề đòi hỏi có sự hợp tác chung của các quốc
gia. Ý tưởng ban đầu là các nước muốn thành lập một tổ chức thương mại
quốc tế (ITO) làm cột trụ thứ ba trong hệ thống "Bretton Wood" cùng với
hai thiết chế tài chính khác là Ngân hàng thế giới (WB) và quỹ tiền tệ quốc
tế (IMF). Hơn 50 nước tham dự hội nghị của Ủy ban kinh tế - Xã hội Liên
hợp quốc vào tháng 6/1946 đã đề ra Dự thảo Hiến chương ITO bao trùm

không chỉ các nguyên tắc thương mại mà còn cả những lĩnh vực khác như
lao động, thực tiễn hạn chế kinh doanh, đầu tư quốc tế và dịch vụ.
10
Ngay trước khi Hiến chương này được phê chuẩn, 23 trong số 50
nước trên vào năm 1947 đã quyết định cùng đàm phán để cắt giảm hàng
rào thuế quan, nhằm nhanh chóng thúc đẩy tự do hoá mậu dịch và điều
chỉnh lại những biện pháp bảo hộ được duy trì từ đầu những năm 1930. Kết
quả của vòng đàm phán đầu tiên này là 45.000 nhượng bộ về thuế quan ảnh
hưởng đến thương mại trị giá 10 tỷ USD, tức là gần 1/5 tổng thương mại
trên toàn thế giới. Tổng hợp những quy định và cam kết đã thoả thuận được
đưa vào một văn kiện pháp lý quốc tế có giá trị ràng buộc đối với các nước.
Văn kiện pháp lý đó chính là Hiệp định chung về thuế quan và thương mại
(GATT). GATT đã được 23 nước chính thức ký vào ngày 23/10/1947 và có
hiệu lực vào ngày 1/1/1948, trong khi Hiến chương của ITO vẫn đang được
các nước đàm phán. 23 nước ký GATT sau này đã trở thành những thành
viên sáng lập của WTO, vì GATT không phải là một tổ chức mà chỉ là một
Hiệp định, nên các nước lúc đó tham gia GATT được gọi là các bên ký kết
(Contracting parties) [17].
Mặc dầu, ITO cuối cùng được thông qua tại Hội nghị Liên hợp quốc
về thương mại và làm việc tại Havana tháng 3/1948, Quốc hội một số nước,
đặc biệt là Quốc hội Mỹ đã không thông qua Hiến chương này, và vì vậy, tổ
chức ITO đã không tồn tại. GATT, mặc dù chỉ mang tính tạm thời đã trở
thành công cụ pháp lý duy nhất mang tính đa biên, điều tiết thương mại thế
giới kể từ năm 1948 cho đến khi WTO được thành lập vào năm 1945.
Đặc điểm nổi bật của GATT: Trải qua 48 năm tồn tại, GATT đã tổ
chức được 8 vòng đàm phán. Nội dung chủ yếu của các vòng đàm phán là
vấn đề thuế. Ở 6 vòng đầu, giảm thuế là vòng đàm phán duy nhất, sở dĩ như
vậy là do thuế là công cụ trực tiếp nhất để nhà nước tác động lên hoạt động
trao đổi thương mại với bên ngoài, là rào cản đáng kể nhất đối với tiến trình
11

t do hoỏ v n nh mụi trng thng mi quc t. Ni dung ca cỏc vũng
m phỏn ny cú th túm tt c nh sau [17]:
Cỏc vũng m phỏn ca GATT
Nm a im
S
quc gia
Hng mc
gim thu
Cỏc kt qu khỏc
1947 Geneve 23 45.000
nh hởng đến 10 tỉ USD hàng hoá
buôn bán, bằng 1/5 giá trị thơng mại
thế giới
1949 Annecy 32 5.000
Thuế suất giảm trung bình 35%, số
hàng đợc giảm thuế chiếm 5,6% giá
trị hàng hoá buôn bán của thế giới
1950-1951 Torquay 38 8.700
Thuế suất giảm trung bình 26%
1956 Geneve 26 3.000
Thuế suất giảm trung bình 15%, ảnh
hởng tới 2,5 tỉ USD kim ngạch thơng
mại thế giới
1960-1961 Geneve
(vũng Dillon)
26 4.400
Thuế suất giảm trung bình 20%, ảnh
hởng tới 4,5 tỉ USD kim ngạch thơng
mại thế giới
1964-1967 Geneve

(vũng Kennedy)
62 30.300
Giảm trung bình 35%, ảnh hởng tới
40 tỉ USD kim ngạch thơng mại thế giới
1973-1979 Geneve
(vũng Tokyo)
102 33.000
Thuế suất bình quân sản phẩm chế
biến giảm xuống còn 4,7% (so với
mức 40% khi thành lập GATT)
1986-1994 Geneve
(vũng Urugoay)
123
Các nớc phát triển đa số hạng mục
hàng hoá cam kết giảm thuế từ 78%
lên 99%, các nớc đang phát triển: từ
21% lên 73%
Ngun: Ti liu Ban Th ký WTO chun b cho chng trỡnh o to
v WTO cỏc nc thuc khu vc Chõu - Thỏi Bỡnh Dng (4/1997).
Qua bng cú th thy, ti 2 vũng m phỏn sau ny do s hỡnh thnh
ca cỏc nc ang phỏt trin v cng vi mong mun phỏt trin thng mi
quc t, nhiu nc ang phỏt trin ó gia nhp GATT, nõng s lng
GATT lờn 102 (nm 1979) v 123 nc (1994), cỏc nc ang phỏt trin vi
t cỏch l cỏc nc tham gia GATT, cng ó cam kt a hng mc hng
12
hoá cam kết giảm thuế từ 21-73%. Tại Vòng đàm phán Tokyo, (1973-1979),
do tình hình thương mại thế giới có nhiều thay đổi, nên một số lĩnh vực mới
được bổ sung và đưa vào chương trình nghị sự của các cuộc đàm phán tại
vòng Tokyo rồi tiếp đến là vòng Urugoay diễn ra trong bối cảnh của các
cuộc khủng hoảng, khủng hoảng chu kỳ gắn liền hoặc liên tiếp xen kẽ khủng

hoảng cơ cấu, đưa nền kinh tế vào suy thoái trầm trọng. Trong tình hình khó
khăn như vậy, xung đột thương mại giữa các trung tâm kinh tế lớn trở nên
gay gắt, rồi bùng nổ dưới hình thức các cuộc chiến tranh thương mại nhằm
tranh dành những khoản lợi nhuận đang càng trở nên khan hiếm. Các biện
pháp cạnh tranh không lành mạnh và các hàng rào phi thuế được dựng lên để
bảo hộ thị trường trong nước làm cho thương mại quốc tế xấu đi trông thấy.
Tình hình đó đặt ra cho các thành viên của GATT yêu cầu khách quan là
phải đưa những vấn đề liên quan đến phi thuế vào thương lượng để tìm ra
các lợi ích dung hoà cho nhau [17].
Bởi vậy, tại vòng đàm phán thứ 7, vòng Tokyo, với nỗ lực đầu tiên
nhằm cải tổ hệ thống, các nước đã đưa ra một loạt các Hiệp định mới với hệ
thống quy tắc về hàng rào phi thuế quan. Tuy nhiên, trong phần lớn trường
hợp chỉ có một số ít các thành viên của GATT (chủ yếu là các nước công
nghiệp phát triển) tham gia vào các hiệp định này. Cho đến vòng đàm phán
Urugoay, một số Hiệp định đã được điều chỉnh lại và trở thành các cam kết
mang tính nhiều bên. Đó là các Hiệp định về mua sắm chính phủ, về thịt bò,
về sản phẩm sữa và về máy bay dân dụng.
Các hệ thống quy tắc của vòng WTO
Trợ cấp và các biện pháp đối kháng (Điều 6, 16 và 23)
Các hàng rào kỹ thuật đối với thương mại
Các thủ tục cấp phép nhập khẩu
Mua sắm chính phủ
Định giá hải quan
13
Chống phá giá
Thoả thuận về sản phẩm thịt bò
Thoả thuận về các sản phẩm sữa quốc tế
Thoả thuận về mua bán máy bay dân dụng
Nguồn: Đại học Melbourne, Luật Quốc tế - Chương 7, tr. 7.
Tiếp tục phát huy các thành tựu đó, vòng đàm phán cuối cùng trong

khuôn khổ hiệp định GATT, vòng Urugoay đã đem đến một bước tiến dài
trong nỗ lực của các nước, nhằm cải tổ và mở rộng hệ thống thương mại đa
biên. Phạm vi các vấn đề thuộc chương trình nghị sự này rất lớn, bao trùm
tới 15 lĩnh vực khác nhau của thương mại quốc tế. Và đặc biệt hơn, chúng
mang tính cả gói, theo đó các nước thoả thuận rằng, nếu việc đàm phán
trong một lĩnh vực nào đó bị thất bại thì kết quả của tất cả các cuộc đàm
phán khác cũng sẽ bị huỷ bỏ. Điều này thể hiện quyết tâm của các nước là
muốn đi đến cùng trong việc thương lượng về những lĩnh vực đặc biệt nhạy
cảm như nông sản và hàng vải sợi may mặc, dù biết trước là sẽ có khó khăn.
Với phạm vi chương trình Nghị sự rộng lớn như vậy, việc nảy sinh
rất nhiều các mâu thuẫn giữa các bên trong quá trình đàm phán là tất yếu. Để
giàn xếp những bất đồng đó, các nước tham gia GATT đã mất gần 8 năm.
Trong thời gian đó, các nước đã phải lần lượt tháo gỡ những điểm khúc mắc
nghiêm trọng nhất như thương mại nông sản, thương mại dịch vụ, các quy
tắc chống bán phá giá và việc thành lập một tổ chức mới. Kết quả là vòng
đàm phán có quy mô lớn nhất lịch sử thương mại thế giới này cũng kết thúc
thắng lợi, với 28 văn kiện pháp lý được ký kết liên quan đến hầu hết các khía
cạnh pháp lý của lĩnh vực thương mại và đặc biệt WTO đã ra đời. Tuy nhiên
ghi nhận lại kết quả của 8 vòng đàm phán đều có những khó khăn trong tự
do hoá thương mại. Những kết quả của 8 vòng đàm phán cũng là những nội
dung mà WTO phải điều chỉnh [17].
Chủ đề đàm phán tại vòng Urugoay
14
1. Thuế quan
2. Hàng rào phi thuế quan
3. Sản phẩm tài nguyên thiên nhiên
4. Hàng dệt may
5. Nông sản
6. Sản phẩm nhiệt đới
7. Các điều khoản của GATT

8. Các hệ thống quy định của vòng đàm phán Tokyo
9. Chống phá giá
10. Trợ cấp
11. Sở hữu trí tuệ
12. Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại
13. Giải quyết tranh chấp
14. Thương mại dịch vụ
15. Thế chế hoá hệ thống hợp tác thương mại toàn cầu
1.1.2. Sự khác nhau giữa GATT và WTO
Từ GATT đến WTO là một bước tiến dài của xu hướng quốc tế hoá
và toàn cầu hoá nền thương mại thế giới do đó, WTO không phải là sự thay
thế giản đơn của GATT mà là sự kế thừa và hoàn thiện ở một trình độ cao
hơn, có sự biến đổi về chất. Sự khác biệt giữa hai hệ thống này có thể tóm
tắt như sau:
Thứ nhất: Sự biến đổi về chất trong mục tiêu hoạt động của WTO.
Như đã nêu ở những dòng đầu tiên của Hiệp định thành lập, WTO sẽ kế thừa
tôn chỉ mục đích của GATT đó là "nâng cao mức sống, đảm bảo đầy đủ
công ăn việc làm, thúc đẩy tăng thu nhập thực tế và nhu cầu thực sự của
người dân, mở rộng sản xuất và trao đổi hàng hoá, dịch vụ, tận dụng được
15
các nguồn tài nguyên của thế giới sao cho phù hợp với mục tiêu tăng trưởng
bền vững và cuối cùng là bảo vệ môi trường đi đôi với phát triển kinh tế".
Hơn thế nữa, WTO còn phát triển ở mức cao hơn bằng việc đưa vào phương
hướng hành động của mình những điểm rất tiến bộ mà trước đây GATT
chưa chính thức tuyên bố, đó là "nỗ lực tích cực để đảm bảo rằng các quốc
gia đang phát triển, đặc biệt là các quốc gia kém phát triển nhất duy trì được
tỷ phần tăng trưởng trong thương mại quốc tế tương xứng với nhu cầu phát
triển của quốc gia đó. Đây là những thành tựu đặc biệt có ý nghĩa là kết quả
của cuộc đấu tranh lâu dài của các quốc gia nhỏ và yếu thuộc thế giới thứ ba
trong việc xây dựng từng bước một "Trật tự kinh tế thế giới mới-New World

Order" dân chủ và công bằng hơn, đảm bảo quyền lợi cho những nước đang
phát triển [17].
Thứ hai: GATT chỉ là tập hợp các nguyên tắc được thực hiện bởi các
bên ký kết hoặc có thể được sửa đổi để hoạt động như một tổ chức nếu tổ
chức đó ra đời. Trong khi đó, WTO và các hiệp định của nó mang tính
thường trực lâu dài. Với tư cách là một tổ chức quốc tế, WTO có nền tảng
vững chắc bởi vì muốn gia nhập WTO, các thành viên phải thông qua cả gói
Hiệp định, hàm chứa các nguyên tắc vừa có tính thể chế, vừa có tính cụ thể
tạo thành một cơ chế pháp lý đặc thù của WTO và chính các cơ chế pháp lý
này đã quy định phương thức vận hành, hoạt động và phát triển của tồ chức
này.
Thứ ba: WTO là một tổ chức chặt chẽ có các nước thành viên
(members) còn GATT chỉ có các bên ký kết tham gia (contracting parties).
WTO có tư cách pháp nhân. Điều này có nghĩa WTO có các quyền, nghĩa vụ
và năng lực pháp lý đầy đủ khi tham gia vào các mối quan hệ pháp lý thương
mại quốc tế.
Thứ tư: GATT chỉ giải quyết các vấn đề của thương mại hàng hoá,
còn lĩnh vực thuộc diện điều chỉnh của WTO rộng hơn nhiều, bao gồm cả
16
thương mại dịch vụ, thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ, thương
mại trong đầu tư.
Thứ năm: cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO, về mặt pháp lý
mang tính chặt chẽ, tự động và nhanh hơn so với cơ chế của GATT, do vậy
mà giảm nguy cơ bế tắc so với hệ thống của GATT. Các phán quyết của
WTO cũng có giá trị hiệu lực cao hơn và việc thi hành được đảm bảo hơn.
Tóm lại, sự khác nhau cơ bản giữa GATT và WTO chính là tính
hoàn thiện của hệ thống pháp lý hàm chứa trong WTO nhằm điều chỉnh
thương mại trong phạm vi toàn cầu. GATT mang tính chất là những thoả
thuận tự nguyện giữa các quốc gia, còn WTO là thiết chế pháp lý của hệ
thống thương mại thế giới với mục tiêu là thiết lập cơ chế pháp lý, ở quy mô

toàn cầu, cho lĩnh vực thương mại quốc tế, trong đó có những ràng buộc liên
quan đến trách nhiệm và cả việc xử lý vi phạm của các nước thành viên
WTO.
1.1.3. Chức năng, nhiệm vụ các nguyên tắc cơ bản của WTO
Nhiệm vụ của WTO là từng bước xây dựng một môi trường thương
mại thế giới tự do và lành mạnh, tạo điều kiện tối đa cho các hoạt động
thương mại phát triển, đóng góp vào sự tăng trưởng và thịnh vượng chung
của kinh tế toàn cầu. Đồng thời phối hợp với các tổ chức quốc tế khác thúc
đẩy nhanh hơn quá trình tự do hoá thương mại và hội nhập toàn diện của nền
kinh tế thế giới. Để thực hiện được nhiệm vụ này, WTO có 6 chức năng sau
[15]:
1. Tổ chức các cuộc đàm phán đa biên.
2. Xây dựng mới, sửa đổi các nguyên tắc, quy tắc pháp lý quốc tế
3. Giải quyết các tranh chấp về thương mại quốc tế.
4. Đánh giá định kỳ về chính sách thương mại của các nước nhằm
thúc đẩy phát triển kinh tế thị trường.
17
5. Giám sát việc thực hiện các Hiệp định đa phương của WTO.
6. Phối hợp với các tổ chức quốc tế khác trong việc tham gia hoạch
định những chính sách thương mại toàn cầu.
Sáu chức năng này cũng đã được quy định rất rõ tại Hiệp định
Marrakesh về thành lập WTO.
Các nguyên tắc cơ bản của WTO
WTO hoạt động và vận hành theo 6 nguyên tắc cơ bản sau đây:
Nguyên tắc không phân biệt đối xử
Đây là nguyên tắc quan trọng nhất của WTO kế thừa từ GATT.
Nguyên tắc này sử dụng hai công cụ pháp lý song song để điều chỉnh mối
quan hệ thương mại giữa các thành viên là chế độ Đãi ngộ tối hệ quốc
(MFN) và chế độ đãi ngộ quốc gia (NT).
Nguyên tắc Đãi ngộ tối huệ quốc (MFN)

Theo chế độ này, mỗi thành viên của WTO phải dành, ngay lập tức
và không điều kiện cho hàng hoá, dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ hay nhà đầu
tư của các nước thành viên khác sự đãi ngộ không kém phần thuận lợi hơn
sự đãi ngộ mà mỗi nước thành viên đó đã dành cho hàng hoá, dịch vụ có
xuất xứ từ hay được giao tới bất kỳ một nước thành viên nào khác. Nói cách
khác, chế độ này dẫn đến kết quả là hàng hoá có xuất xứ từ các nước thành
viên được đãi ngộ như nhau trên thị trường tất cả các thành viên khác của
WTO. Chế độ MFN là chế độ pháp lý quốc tế hướng vào mục tiêu tạo sự
bình đẳng giữa tất cả các nước thành viên của WTtO trong thương mại quốc
tế.
Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia (NT)
Theo chế độ này, mỗi thành viên của WTO phải dành cho hàng hoá,
dịch vụ hay quyền sở hữu trí tuệ, nhà đầu tư… của các nước thành viên khác
18
sự đãi ngộ trên thị trường nội địa nước mình (tức là không có những quy
định bảo hộ đối với sản phẩm, dịch vụ của nước nhập khẩu so với dịch vụ,
sản phẩm của nước xuất khẩu) sau khi hàng đã được nhập khẩu, không kém
phần thuận lợi hơn sự đãi ngộ đã được dành cho hàng hoá, dịch vụ hay
quyền sở hữu trí tuệ, hay nhà đầu tư …của chính nước mình.
Nếu như chế độ MFN hướng về sự không phân biệt đối xử giữa hàng
hoá, dịch vụ của một thành viên của WTO với hàng hoá, dịch vụ …của tất
cả các thành viên khác của WTO thì chế độ NT hướng về sự không phân
biệt đối xử giữa sản phẩm, dịch vụ của nước nhập khẩu …
Nguyên tắc tự do hoá thương mại
Tất cả các nước, kể cả nước nghèo nhất đều có lợi khi tham gia vào
thương mại quốc tế vì mỗi nước đều có lợi thế so sánh tương đối trong việc sản
xuất một số loại hàng hoá, dịch vụ. Đó chính là thuyết lợi thế so sánh do nhà
kinh tế học Keynes tìm ra từ thế kỷ 19 nền tảng cơ bản của kinh tế học hiện đại.
WTO phát triển tư tưởng này lên, không chỉ khuyến khích tham gia mà còn tìm
cách tối đa hoá hiệu quả của việc tham gia này thông qua tự do hoá thương

mại.
Để tự do hoá thương mại, Chính phủ các nước có thể sử dụng thuế
quan để làm công cụ bảo hộ thị trường trong nước, nhưng đòi hỏi phải cắt
giảm các hàng rào thuế quan theo một khuôn khổ đã quy định tại GATT
1994 và họ cũng cần xoá bỏ các biện pháp phi thuế quan như cấm nhập
khẩu, ấn định hạn ngạch hoặc các chính sách đối ngoại hỗ trợ xuất khẩu…
Nguyên tắc cạnh tranh
Trên thương trường, các yếu tố nội tại của hàng hoá là điều kiện
quyết định khả năng và sức sống của nó. Cơ chế cạnh tranh cho phép nhà
sản xuất có được đầu vào đáp ứng đúng yêu cầu của sản xuất, với giá cạnh
19
tranh, người tiêu dùng được hưởng những sản phẩm giá thấp nhất, qua đó
nâng cao đời sống nhân dân và nền sản xuất phân bổ nguồn lực một cách có
hiệu quả. WTO có định chế điều chỉnh các biện pháp chống bán phá giá hay
đánh thuế đối kháng nhằm triệt tiêu tác dụng của việc hàng hoá bị bán phá
giá hay được trợ cấp trực tiếp nhằm mục đích hoặc có tác dụng cạnh tranh
không lành mạnh. Tuy nhiên để tránh những sự thực hành thương mại không
lành mạnh, cá lớn nuốc cá bé qua bán phá giá và trợ cấp hoặc ngược lại lạm
dụng các quy định chống bán phá giá và thuế đối kháng để gây trở ngại trá
hình cho thương mại, WTO đã thoả thuận về những quy tắc chặt chẽ điều
chỉnh lĩnh vực này.
Nguyên tắc công nhận đa biên về tiêu chuẩn chất lượng
Các nước được khuyến khích công nhận đa biên về tiêu chuẩn chất
lượng. Có nghĩa là khi doanh nghiệp chứng minh được hàng hoá, dịch vụ họ
đạt được những tiêu chuẩn nội địa tương đương với tiêu chuẩn của nước
nhập khẩu thì nước này phải chấp nhận hàng hoá, dịch vụ đó. Tuy nhiên
WTO vẫn cho phép các nước được đưa ra những nguyên tắc riêng của mình
với điều kiện những nguyên tắc đó phải: Dựa trên cơ sở khoa học, không
được gây cản trở lớn cho hoạt động thương mại và không được phân biệt đối
xử.

Nguyên tắc minh bạch hoá chính sách
Để thuận lợi hoá cho các cá nhân, tổ chức nước ngoài hoạt động
thương mại, các nước thành viên phải thực hiện minh bạch hoá chính sách.
WTO yêu cầu các nước thành viên phải thiết lập những đầu mối cung cấp
thông tin ở hai cấp: Chính phủ và doanh nghiệp. Các đầu mối ở cấp chính
phủ đưa ra thông tin về luật lệ, quy tắc điều chỉnh thương mại. Các đầu mối
ở cấp doanh nghiệp trực tiếp liên lạc với các nhà kinh doanh, cho họ biết về
những khía cạnh thương mại và kỹ thuật trong việc cung cấp hàng hoá, dịch
20
vụ, tình hình thị trường, các yêu cầu về chất lượng cần có…khi thực thi các
biện pháp có ảnh hưởng đến hoạt động thương mại. Các chính phủ phải
thông báo công khai ở trong nước và ngoài nước.
Nguyên tắc khuyến khích cải cách hội nhập
Mục tiêu của WTO là đem lại sự phát triển kinh tế cho các nước
thành viên. Tuy nhiên nếu tất cả các nước đều tiến hành mở cửa thị trường,
cho phép tự do cạnh tranh ngay thì kết quả tất yếu sẽ là sự sụp đổ của các
nền kinh tế còn yếu kém. Vì vậy, với các nước đang ở giai đoạn đầu của sự
phát triển cần có sự bảo hộ hợp lý và WTO đưa ra những quy định ưu đãi
đáng kể đối với những nước này. Ví dụ miễn giảm bớt nghĩa vụ trong việc
thực hiện TRIMS, TRIPS và GATS, thu hẹp phạm vi thực hiện các thoả
thuận về thuế quan, được phép áp dụng nguyên tắc về trợ cấp xuất khẩu bị
cấm, cho phép áp dụng dài hơn; được phép giới hạn hàng nhập khẩu; đưa ra
tổng hạn ngạch cho phép nhập khẩu với từng nước.
1.2 LỊCH SỬ RA ĐỜI HIỆP ĐỊNH NÔNG NGHIỆP TRONG WTO
1.2.1. Vòng đàm phán Uruguay (1986-1994)
Nông nghiệp là một lĩnh vực quan trọng và gây ra nhiều tranh cãi
trong vòng đàm phán Uruguay. Trong lĩnh vực tồn tại ba quan điểm của ba
nhóm nước gồm nhóm các nước xuất khẩu, nhóm các nước nhập khẩu và nhóm
trung gian là những nước tự túc được lương thực và tuỳ theo từng hoàn cảnh có
thể trở thành nước xuất khẩu hoặc nhập khẩu đối với một loại nông sản nhất

định. Hàng nông sản trong phần này tập trung vào bốn nhóm chính: ngũ cốc
gồm lúa mạch, mỳ, gạo, hạt thô (ngô); hạt có dầu và sản phẩm từ hạt có dầu;
sữa và các sản phẩm của sữa; thịt và các sản phẩm thịt; và đường. Đây cũng
là những mặt hàng nông sản có khối lượng thương mại lớn trên thế giới. Hầu
hết các nước đang phát triển đều thuộc nhóm nước nhập khẩu nông sản hoặc
21
thuộc nhóm thứ ba là những nước tự túc được lương thực và tham gia xuất
khẩu một vài mặt hàng nông sản nhất định. Có rất ít các nước đang phát
triển là nước xuất khẩu chính tất cả 4 nhóm hàng nông sản trên. Mặc dù ít
nước đang phát triển có thể là những nước xuất khẩu chính về tất cả bốn
nhóm hàng nông sản nói trên, những mặt hàng nông sản có thế mạnh của
từng nước đang phát triển được xuất khẩu đều là những mặt hàng có tính
sống còn với họ [8].
Những nhân tố chính thúc đẩy đàm phán Hiệp định nông nghiệp
Gánh nặng tài chính ngày càng gia tăng đối với các chính sách hỗ trợ
nông nghiệp ở các nước phát triển khiến nước này muốn thúc đẩy nhanh tiến
trình hoàn thiện Hiệp định nông nghiệp. Cung vượt quá cầu trong nông
nghiệp đã làm cho giá cả nông sản trên thế giới sụt giảm, gây sức ép ngày
càng lớn với việc tăng cường sự hỗ trợ trong nước cho nông dân các nước
phát triển [2].
Về cầu: Có bốn yếu tố chính cần phải tính đến gồm: tốc độ tăng dân
số, mức độ mà các nước có thể tự túc sản xuất được lương thực, mức sống
của người dân thể hiện qua thu nhập và điều kiện khí hậu tự nhiên. Tốc độ
tăng dân số cao, thu nhập đầu người thấp cộng với điều kiện tự nhiên khắc
nghiệt sẽ khiến một quốc gia không thể tự túc được lương thực và buộc phải
nhập khẩu và ngược lại. Đối với thị trường nhập khẩu của các nước phát
triển, nếu xét theo trên cả bốn yếu tố trên sẽ thấy thị trường nhập khẩu nông
sản của những nước này có xu hướng giảm. Theo lý thuyết của các nước
phát triển, yếu tố thu nhập có ảnh hưởng nhiều hơn tới mức cầu trong nước,
hay còn gọi là quy luật biến đổi theo thu nhập. Những biến động trước mắt

về thu nhập sẽ khiến cầu biến động theo một cách tương đối. Tuy nhiên,
trong lâu dài thì quy luật này không có tác dụng. Trong nhiều trường hợp,
đặc biệt là đối với các nông sản như lương thực, đồ uống và đặc biệt nông
22
sản thô thì dù thu nhập của dân chúng có tăng lên đáng kể thì mức cầu cũng
không tăng nhanh và thâm chí còn chậm hơn thu nhập. Thêm vào đó, nhờ
các yếu tố kỹ thuật tiên tiến, các nước phát triển có thể có những sản phẩm
thay thế làm giảm thêm nữa lượng cầu về nông sản thô từ các nước đang
phát triển. Do đó, nhìn chung nhu cầu nhập khẩu của các nước đang phát
triển về nông sản có xu hướng tăng chậm nếu xét theo các yếu tố trên.
Ngược lại, đối với thị trường nhập khẩu của các nước đang phát triển, nếu
xét trên bốn yếu tố này sẽ thấy trong thời gian tới họ vẫn sẽ là nước nhập
khẩu nông sản chính, đặc biệt nếu xét theo góc độ tăng trưởng dân số. Với
tốc độ tăng trưởng dân số nhanh hơn tốc độ sản xuất thì ngay cả các nước
đang phát triển xuất khẩu lương thực hiện nay như Thái Lan, Trung Quốc,
Ấn Độ và thậm chí là Việt Nam trong mười năm tới sẽ biến thành các nước
nhập khẩu lương thực [2].
Về cung: Hai yếu tố chính ảnh hưởng tới cung trong nông nghiệp là
chính sách nông nghiệp và khoa học kỹ thuật. Cả hai yếu tố này đều quan
trọng như nhau và các nước phát triển đều có đủ hai yếu tố này. Nhờ những
tiến bộ khoa học kỹ thuật, cộng với chính sách hỗ trợ nội địa và trợ cấp xuất
khẩu, các nước phát triển từ chỗ là các nước nhập khẩu lương thực đã nhanh
chóng trở thành các nước xuất khẩu lương thực. Tuy nhiên, do lượng cầu
trong nước không lớn nhưng lại có lượng cung lớn nên buộc các nước phát
triển phải xuất khẩu nông sản và một phần được xuất khẩu theo hình thức
viện trợ lương thực sang các nước đang phát triển. Lượng cung trên thế giới
lại càng lớn khi số lượng các nước đang phát triển tham gia xuất khẩu nông
nghiệp ngày càng tăng dẫn đến sự mất cân đối nghiêm trọng trong lĩnh vực
nông nghiệp và giá nông sản nhìn chung sụt giảm nhanh chóng. Để đáp ứng
với sự sụt giá nông sản, các nước phát triển ngày càng phải tăng sự hỗ trợ

cho nông dân trong nước và đến lúc sự hỗ trợ này trở thành gánh nặng đối
23
với họ. Hơn nữa, về thực chất, gánh nặng tài chính này phần lớn lại đổ lên
vai người tiêu dùng của chính các nước phát triển do phải trả giá tiêu thụ cao
hơn nhiều so với giá thế giới. Vì vậy, làn sóng phản đối chính sách bảo hộ
nông nghiệp cũng gia tăng ở các nước phát triển [2].
Một yếu tố khác thúc đẩy quá trình đàm phán Hiệp định về nông
nghiệp cũng cần phải nhắc đến là sự gia tăng của các nước đang phát triển
trong suất khẩu nông sản. Sự phát triển này, cộng thêm với sự bất mãn vốn
có của các nước đang phát triển về sự bất lực của GATT trong lĩnh vực nông
nghiệp đã tạo ra sức ép mạnh mẽ buộc các nước phát triển phải mở cửa lĩnh
vực nông nghiệp.
Những vấn đề trong vòng đàm phán Uruguay
Xuất phát từ thực tế là quy luật cung cầu trong thương mại nông nghiệp
đã bị bóp méo trong suốt thời gian tồn tại của GATT, những vấn đề chính
đặt ra đối với lĩnh vực nông nghiệp trong vòng đàm phán Uruguay gồm:
- Sự mất cân đối lớn giữa cung và cầu đối với các sản phẩm nông nghiệp
cộng với sự chênh lệch lớn về giá cả giữa thị trường thế giới và trong nước.
- Chủ nghĩa bảo hộ thông qua các chính sách hỗ trợ nội địa và trợ
cấp xuất khẩu và những tác động tiêu cực của nó đối với các nước đang phát
triển.
- Sự thiếu hiệu quả của GATT và phản ứng của các nước đối với việc
mở của thị trường nông nghiệp.
- Gánh nặng tài chính ngày càng tăng đối với các nước phát triển
trong các chính sách hỗ trợ nông nghiệp khiến các nước này muốn thúc đẩy
nhanh quá trình đàm phán nông nghiệp.
Quan điểm của các nhóm nước trong vòng đàm phán Uruguay
24
EU phản ứng tiêu cực với việc tự do hoá lĩnh vực nông nghiệp và
cho rằng nguyên nhân của các vấn đề trên chính là sự phát triển vượt bậc của

khoa học kỹ thuật chứ không phải do chính sách hỗ trợ của chính phủ. Sự
gia tăng nhanh chóng của sản lượng nông sản khiến cung vượt quá cầu đi
đôi với sự phát triển vượt bậc của sinh học trong việc tạo ra những giống vật
nuôi và cây trồng mới và đã tăng cường khả năng tự cung, tự cấp của các
quốc gia. Trong hoàn cảnh đó, thương mại trong nông nghiệp không những
sẽ bị hạn chế như hiện nay mà còn tiếp tục bị hạn chế trong tương lai do
lượng cung tiếp tục tăng. Thậm chí không có sự hỗ trợ của nhà nước, khoa
học kỹ thuật sẽ tiếp tục làm cho sản lượng nông nghiệp tăng vọt trong tương
lai. EU đề nghị quá trình tự do hoá trong nông nghiệp phải được tiến hàng
theo giai đoạn và tuỳ theo thị trường của từng loại nông sản khác nhau. Tại
hội nghị bộ trưởng Brussel tháng 12/1990. EU nhận ra rằng nếu không có sự
nhân nhượng với những nước đòi tự do hoá lĩnh vực nông nghiệp thì khó có
thể đi đến một Hiệp định cụ thể. Tuy nhiên, nếu EU nhân nhượng trước khi
cải tổ chương trình nông nghiệp chung (CAP) của mình thì sẽ vấp phải sự
phản kháng trong nội bộ. Do đó, EU quyết định sẽ cải tổ phần nào CAP từ
năm 1991 trước khi đi đến nhân nhượng cụ thể [24].
Mỹ và nhóm Cairns: ủng hộ đẩy mạnh tự do hoá trong nông nghiệp
và cho rằng các chính sách như hỗ trợ nội địa, trợ cấp xuất khẩu, hạn chế
nhập khẩu là những nguyên nhân chính bóp méo thương mại, gây ra sự mất
cân đối giữa cung và cầu trong nông nghiệp. Mỹ đề nghị xoá toàn bộ trợ cấp
nông nghiệp và các chính sách nhập khẩu trong vòng 10 năm, đồng thời hoà
hợp các tiêu chuẩn sức khoẻ và vệ sinh dịch tễ [24].
Các nước đang phát triển nhập khẩu nông sản cho rằng cung vượt
quá cầu chỉ xảy ra đối với một số nông sản ở một số nước phát triển. Xét
trên toàn cầu, cung vẫn thấp hơn cầu. Trong một vài trường hợp, do các
chính sách trong nước, đặc biệt ở các nước phát triển đã khiến những nước
25

×