Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Đề tài:" TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA GIỚI NHO HỌC TRUNG QUỐC MẤY NĂM NAY " pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285.93 KB, 15 trang )

Nghiên cứu triết học
Đề tài:" TÌNH HÌNH NGHIÊN
CỨU VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA GIỚI
NHO HỌC TRUNG QUỐC MẤY
NĂM NAY "


TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA GIỚI NHO HỌC
TRUNG QUỐC MẤY NĂM NAY

NGUYỄN TÀI THƯ(*)

Từ cuối năm 2004 đến nay, ở Trung Quốc, xuất hiện một hiện tượng học
thuật chưa từng có, đó là nghiên cứu, phục hưng và truyền bá Nho học.
Tháng 10 năm 2004, ở Bắc Kinh đã diễn ra lễ kỷ niệm 2555 năm năm sinh
Khổng Tử và tổ chức một cuộc hội thảo quốc tế lớn về Nho học. Dự hội
thảo có khoảng 300 học giả Trung Quốc và thế giới với hơn 200 bản luận
văn khoa học về Nho học được trình bày. Sau hội thảo này, Trung Quốc
còn liên tiếp tổ chức nhiều hội thảo chuyên đề về Nho học với thế giới hiện
đại và các hoạt động Nho học khác. Nhiều phương diện tư tưởng và vấn đề
của Nho học đã được đề cập. Dưới đây, tôi chỉ giới thiệu một số nội dung
cơ bản và có ý nghĩa thiết thực đối với hiện nay của các hoạt động trên.
1. Vai trò của Nho giáo trong nền văn minh đương đại ở thế kỷ XXI
Trên cơ sở nhận định của Huntington về những yếu tố cấu thành của các
nền văn minh thế giới hiện đại là văn minh Âu - Mỹ với trụ cột là Kitô
giáo, văn minh Á Đông với trụ cột là Nho giáo, văn minh Trung Cận Đông
với trụ cột là Islam giáo (Hồi giáo) xung đột với nhau và tạo nên cục diện
của thế giới đương đại, các học giả đã bàn tới đặc điểm chung của thế giới
hiện nay và sự cần thiết phải xây dựng tư tưởng làm cơ sở cho việc giải
quyết những mâu thuẫn của nó.
Mọi người đều có nhận định chung là thế giới ngày nay đang đi theo xu


hướng toàn cầu hoá, tạo nên cục diện văn minh thế giới đương đại khác với


các thế kỷ trước. Nhưng, nội dung và tính chất của văn minh đương đại là
gì thì có nhiều quan điểm khác nhau. Có người cho rằng, đặc điểm của văn
minh đương đại là kinh tế nhất thể hố, chính trị nhất thể hố, xã hội nhất
thể hố. Có người lại cho rằng, đó là kinh tế tồn cầu hố, văn minh vật
chất tồn cầu hố, nhưng văn minh tinh thần thì đa ngun hố, dân tộc
hố, nên phải thực hiện phương châm “cầu đồng tồn dị” (coi trọng cái
giống nhau, bảo tồn những cái khác nhau).
Cịn về tính chất của nền văn minh đương đại, văn minh của thế kỷ XXI là
gì, thì theo các học giả, đây là vấn đề khó; vì nền văn minh này mới bắt
đầu, cịn đang trong q trình hình thành, chưa có cơ sở đầy đủ để quyết
đoán. Luận điểm của Huntington đã được một số học giả lấy đó làm căn cứ
để phân tích. Năm 1993, Huntington có bài viết với nhan đề Sự xung đột
của các nền văn minh. Đến năm 1999, ơng lại có chun khảo Sự xung đột
của các nền văn minh và việc xây dựng lại trật tự thế giới, trong đó có dự
đốn rằng, thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ của xung đột văn minh. Có người cho
rằng, ý kiến của Huntington như một loại thần chú đã trở thành hiện thực
sau sự kiện 11/9/2001 (nước Mỹ bị bọn khủng bố quốc tế dội bom xuống
thành phố Niuoóc và Oasinhtơn) và tiếp theo đó là “chiến tranh
Ápganítxtan”, “chiến tranh Irắc”, làm cho cả thế giới phải lo ngại (Trương
Tiễn, Đại học Nhân dân Trung Quốc). Từ đây, có người nêu lên rằng, nếu sự
xung đột giữa các nền văn minh cứ tiếp diễn và người ta dùng bom hạt nhân
để giải quyết thì nhân loại sẽ đi đến chỗ bị huỷ diệt. Và, vấn đề đặt ra là, thế giới
phải chấp nhận tư tưởng gì và hành xử ra sao để mới có thể tránh được thảm
hoạ có thể xảy ra như dự báo trên.
Có người nhắc lại ý tưởng đã từng xuất hiện ở Mỹ vào đầu những năm 90
của thế kỷ XX. Đó là ý tưởng của một giáo sư người Mỹ gốc Hoa - Khổng
Hán Tư đề xuất ý đồ xây dựng “Luân lý phổ biến” cho thế giới. Ý tưởng

này được giới học thuật và thế giới tồn cầu lúc đó hưởng ứng nhiệt liệt và


trên cơ sở này, vào năm 1997, Tổ chức Văn hoá Khoa học giáo dục của
Liên hiệp quốc (UNESCO), trong hội nghị Tôn giáo thế giới họp ở
Chicagô (Mỹ) đã đề xuất Tuyên ngôn luân lý thế giới. Trong Tuyên ngơn
này, có đoạn văn như sau: “Cái gọi là ln lý thế giới khơng phải là chỉ một
hình thái ý thức mang tính thế giới, hoặc là một tơn giáo thống nhất đơn
nhất, vượt khỏi mọi tơn giáo hiện có, càng khơng phải là một tơn giáo
trong đó giữ vai trị khống chế hết thảy các tơn giáo khác. Ln lý thế giới,
trong con mắt của chúng tôi, là ý thức chung làm cơ sở mang giá trị có sức
ràng buộc, mang tiêu chuẩn không thể thủ tiêu, cùng với tơn trọng thái độ
cá nhân. Khơng có ý thức chung cơ sở đó đối với ln lý thế giới thì chóng
hay chầy mỗi một tập đồn xã hội sẽ bị hỗn loạn hoặc bị chuyên chế uy
hiếp và cá nhân cũng sẽ bị tuyệt vọng”. Một số học giả tham dự hội thảo,
hoặc là công khai, hoặc là gián tiếp trong bài viết của mình, tán thành quan
điểm này và đề xuất chủ trương để đáp ứng.
Phát biểu xoay quanh quan điểm trên, trước hết là các học giả người Hoa ở
hải ngoại. Giáo sư Đỗ Duy Minh (Đại học Harvard, Mỹ) cho rằng, giữa các
nền văn minh cần phải đối thoại, chứ không phải đối đầu và xung đột. Và,
muốn đối thoại được thì chỉ có thể dùng tư tưởng “nhân” của Khổng Tử, vì
đó là “giá trị hạt nhân của văn minh Nho gia”, vì “Thơng qua nhân, các loại
giá trị đều có thể được ni dưỡng và phát triển”, “Nhân cũng là giá trị
tổng hợp, mỗi một giá trị đặc thù đều có thể làm phong phú và sâu sắc nội
hàm của Nhân”. Giáo sư Thành Trung Anh (Đại học Honolulu, Mỹ) thì cho
rằng, với văn minh nhân loại của thế kỷ XXI, không thể dùng chủ nghĩa lý
tính phương Tây. Bởi tuy chủ nghĩa này đã tạo ra sự phát triển của khoa
học - kỹ thuật, của kinh tế và của dân chủ, pháp chế, nhưng nó cũng đưa lại
sự khủng bố, bá quyền và chủ nghĩa thực dân mới. Ngược lại, nếu thực
hiện phương châm tu dưỡng của nhà Nho mà Khổng Tử đã nêu ra là “chí ư

đạo, cứ ư đức, y ư nhân, du ư nghệ” (mục tiêu ở đạo, căn cứ ở đức, chỗ dựa


ở nhân và vui chơi ở trong lục nghệ) và noi theo cách xử thế “vô ý, vô tất,
vô cố, vô ngã” (không cố ý, không tuyệt đối khẳng định, khơng cố chấp,
khơng cho mình là duy nhất đúng) đã có trong Luận ngữ thì thế giới tuy có
bất đồng, nhưng vẫn giữ được cục diện hoà hợp, vẫn bảo đảm được bộ mặt
“hoà nhi bất đồng” mà thời xưa Khổng Tử đã nói. Giáo sư Lý Thuỵ Trí
(Úc) cho rằng, sự sản xuất của các xí nghiệp phương Tây khiến người ta
chỉ chú ý đến lợi ích vật chất, mà không từ bất cứ một thủ đoạn nào, đã phá
hoại văn minh, phá hoại tinh thần nhân văn thì Nho giáo, với tính chất đạo
đức và văn minh của mình, rất cần thiết phát huy tác dụng để ngăn chặn xu
hướng công lợi của văn minh phương Tây. Ý kiến của các giáo sư trên
nhận được sự hưởng ứng của nhiều người, do họ sống và công tác ở Mỹ,
Úc, được trực tiếp tiếp xúc với nền văn hoá phương Tây và suy nghĩ nhiều
về nền văn hố đó.
Trung Quốc ngày càng có quan hệ rộng mở, lượng thơng tin từ ngoài
truyền vào nhiều, giới học thuật trong nước cũng có điều kiện xem xét và
so sánh văn minh Nho giáo và văn minh phương Tây. Giáo sư Trương Tiễn
(Đại học Nhân dân Trung Quốc) cho rằng, tư tưởng “trung thứ” của Nho
giáo có thể dùng làm cơ sở cho việc giải quyết các bất đồng của thế giới
hiện đại, vì nguyên tắc của “trung thứ” là “cái mình muốn thì làm cho
người” (“Kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân”), “cái mình
khơng muốn thì đừng làm cho người” (“Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân”) sẽ
hoá giải được các bất đồng và xung đột. Hơn nữa, theo ơng, tư tưởng trên
cũng có trong Kinh Thánh của Kitô giáo, như “cần yêu người như mình”
và cũng có trong “thuyết lương tri” của đạo Islam, nên các bên dễ thừa
nhận nhau. Giáo sư Trịnh Gia Đống thì đề xuất khái niệm “hồ” của nhà
Nho; cho rằng, “hoà” dễ đi tới chấp nhận sự khác biệt và vượt qua sự khác
biệt. Ơng dựa vào câu nói của Trương Tải đời Tống: “Thù hận tất phải lấy

hoà để giải quyết” (“hận tất hồ nhi giải”) và nói: Khơng phải là lấy ốn trả


oán, anh chết tôi sống, cũng không phải là một mực thối nhượng, nhẫn
nại, mà là dốc sức để tìm lấy một con đường hợp lý bao hàm tính khác biệt
và vượt qua khác biệt. Giáo sư Ngô Quang (Viện Khoa học xã hội tỉnh
Triết Giang) cho rằng, các tư tưởng: nhân ái, hài hồ, thành tín, trung dung
của Nho giáo có thể trở thành cơ sở để giải quyết các xung đột hiện nay
trên thế giới. Ơng nói: quan niệm giá trị hạt nhân của Nho gia là bốn phạm
trù lớn: nhân ái, hài hồ, thành tín, trung dung. Những quan niệm giá trị hạt
nhân này có tính phổ quát, đang phát huy tác dụng thực tế trong tiến trình
tồn cầu hố, hiện đại hố và trở thành quan niệm giá trị cơ bản mà tồn
nhân loại có thể thừa nhận. Ý kiến của các học giả trên, tuy khác nhau về
nội dung cơ bản của Nho gia, song đều cho thấy sự thống nhất là có thể
dùng tư tưởng Nho gia để giải quyết các xung đột, các mâu thuẫn của thế
giới ngày nay.
Nhưng, có một thực tế là, Nho giáo đã tồn tại hơn 2000 năm lịch sử, có lúc
nó tạo được xã hội hài hồ, thống nhất; nhưng cũng có lúc nó bất lực trước
những xung đột và mâu thuẫn của xã hội. Chính quyền xây dựng trên cơ sở
tư tưởng Nho giáo phải dùng đến biện pháp bạo lực để giải quyết hoặc phải
dùng tư tưởng Phật giáo và Lão – Trang để hỗ trợ. Do đó, trong thế giới
ngày nay, với phạm vi rộng lớn hơn và phức tạp hơn bất cứ một xã hội nào
trước đó, thì việc sử dụng Nho giáo làm cơng cụ tinh thần duy nhất của thế
giới liệu có hiệu lực thực tế khơng? Đó là vấn đề cịn phải tiếp tục đi sâu
tìm hiểu và biện minh.
2. Nho học và luân lý môi trường hiện đại
Trong xã hội hiện đại, luân lý môi trường ngày càng trở nên quan trọng.
Theo các học giả Nho gia, để xây dựng được luân lý môi trường, cần thiết
phải mở rộng nội hàm của khái niệm luân lý từ môi trường xã hội sang môi
trường tự nhiên, phải khắc phục sự cách biệt và đối lập giữa con người và tự

nhiên, giữa chủ thể và khách thể và phải trở về với triết học phương Đông cổ


đại, trong đó có triết học Đạo gia và đặc biệt là triết học Nho gia. Dưới đây
là một số quan điểm tiêu biểu.
Trương Lập Văn (Đại học Nhân dân Trung Quốc), trong bài Nho học và
luân lý mạng, sinh mệnh, hoàn cảnh, cho rằng, xã hội hiện đại đang bị chi
phối bởi năm loại xung đột: xung đột giữa giá trị con người và tự nhiên
cùng nguy cơ sinh thái của nó, xung đột giữa giá trị con người và xã hội
cùng với nguy cơ nhân văn của nó, xung đột giữa giá trị con người và tâm
linh cùng với nguy cơ tinh thần của nó, xung đột giữa giá trị con người và
văn minh cùng với nguy cơ trí năng của nó. Để khắc phục những xung đột
trên, ông cho rằng cần phải hành động theo quan điểm của nhà Nho là “thiên
nhân hợp nhất”, xem dân là đồng bào, xem vật là cùng sống với mình, mình
trưởng thành vật cũng trưởng thành (“thành kỷ thành vật”).
Trong bài viết của mình: Nho học và xây dựng hồn cảnh sinh thái đương
đại, Từ Nghi Minh (Đại học học báo Hà Nam), cho rằng, “thế kỷ XXI là
thời đại văn minh sinh thái, hoặc thời đại cuối cùng đi đến văn minh sinh
thái”. Với thời đại này, cần phải phê phán các quan điểm “thiên nhân tương
phân”, “nhân định thắng thiên”, “người là chúa tể của tự nhiên”, “người là
chủ nhân của đại tự nhiên”, “chinh phục tự nhiên”, “chiến thắng tự nhiên”,
v.v., vì với các quan điểm đó, con người đã bóc lột và huỷ hoại giới tự
nhiên một cách vơ tội vạ. Ơng cho rằng, vấn đề đặt ra hiện nay là cần phải
vận dụng và phát huy các tư tưởng của nhà Nho, như “nhân dân nhi ái vật”
(có nhân với dân và yêu mến các vật) của Mạnh Tử; tôn trọng sự sinh của
trời đất “thiên chi đại đức viết sinh” (đức lớn của trời là sinh) của Dịch
truyện; cho ngồi u dân, có u chim, thú, côn trùng mới thực là yêu của
Đổng Trọng Thư; như cho trời đất, sinh vật đều có “sinh ý” của Tống Nho,
v.v.. Tóm lại, con người cần chuyển từ quan điểm “thiên nhân đối lập” sang
quan điểm “thiên nhân hài hoà”, quan điểm “trung hoà chi vi dụng” (suy

nghĩ và hành động theo phương pháp trung hoà) của nhà Nho.


Chu Hiểu Bằng (Viện Kinh tế học chính trị, Học viện Sư phạm Hàng
Châu) với luận văn Bàn về vấn đề chuyển hướng sang phương Đông của
luân lý học sinh thái phương Tây, cho rằng, luân lý phương Tây trong thế
giới đương đại, do hoàn cảnh đặt ra và do kế thừa văn hố phương Đơng,
đã từ lĩnh vực xã hội mở rộng ra cả lĩnh vực tự nhiên. Ông cho rằng, để giải
quyết nguy cơ của hoàn cảnh sinh thái, cần phải thay đổi quan niệm về thế
giới quan, sinh hoạt quan, giá trị quan, phát triển quan của nhân loại, cần
phải nâng cao trình độ chỉnh thể của đạo đức nhân loại và phổ cập quan
điểm của đạo đức sinh thái, làm cho chúng vượt ra khỏi phạm vi luân lý
học đối với người, biến các “giá trị” và “quyền lợi” vốn chỉ dùng để chỉ thế
giới con người, sang cả thế giới của hết thảy các vật tồn tại.
Trương Học Trí (Khoa Triết học, Đại học Bắc Kinh), trong bài Từ hoàn
cảnh nhân sinh đến ý thức sinh thái (tập trung vào điều mục của tự nhiên
trong thuyết “Lương tri” của Vương Dương Minh thời Minh), cho rằng,
hoàn cảnh sống của loài người hiện nay đang xấu đi, nguy cơ sinh thái có
thực. Tác giả cho mâu thuẫn của sinh thái học hiện đại tập trung thể hiện
trên vấn đề thừa nhận hay không thừa nhận chủ nghĩa duy tâm nhân loại.
Nếu thừa nhận chủ nghĩa này thì có nghĩa là xem con người là trung tâm
của vũ trụ, là chúa tể của trời đất, có quyền hy sinh lợi ích của vạn vật để
phục vụ cho bản thân mình; nếu khơng thừa nhận thì có nghĩa rằng mỗi vật
tồn tại trong vũ trụ đều có giá trị nội tại của nó, cần phải đưa vào tầm nhìn
của đạo đức hồn cảnh của con người và do đó, khơng thể lấy giá trị thoả
mãn nhu cầu của loài người làm thước đo giá trị của các vật và con người
muốn làm gì thì làm. Ơng cho rằng, để bảo đảm được lợi ích lâu dài, con
người phải lựa chọn quan điểm thứ hai. Đối chiếu hai nền văn hố Tây Đơng, ơng thấy văn hố truyền thống phương Tây có cơ sở ở đạo Kitơ là kẻ
ủng hộ tích cực cho chủ nghĩa trung tâm nhân loại, nhất là từ Đêcáctơ trở
đi thì quan điểm này càng phát triển lan tràn, làm nguy hại đến sự cân bằng



sinh thái, đến nỗi ngày nay họ phải thực hiện cuộc vận động trở về với màu
xanh. Còn Trung Quốc vốn có quan điểm “Thiên nhân hợp nhất” khiến cho
hành động con người không phương hại đến môi trường, nhưng nhiều năm
gần đây, do ra sức phát triển công thương nghiệp một cách ồ ạt mà quên đi
tư tưởng vốn có của mình, khiến cho sinh thái xấu đi; do vậy đã đến lúc
phải xem “vạn vật là một thể thống nhất”, phải nhìn nhận tự nhiên theo
quan điểm “lương tri” của Vương Dương Minh, nghĩa là phải biết yêu vạn
vật và lấy của vạn vật một cách hợp lý. Tác giả kết luận: từ hoàn cảnh nhân
sinh đi vào ý thức sinh thái, khắc phục những ý kiến lệch lạc và phản nhân
đạo trong lý luận sinh thái hiện đại, cần phải xem ý kiến của Vương Dương
Minh là có ý nghĩa.
Từ các góc độ khác nhau, các tác giả đều thấy nguy cơ của môi trường sinh
thái hiện nay và cho rằng, phải khắc phục nguy cơ đó bằng cách quay về
với lý thuyết của phương Đông, nhất là lý thuyết của Nho học về quan hệ
giữa con người với tự nhiên.
Nhưng, ra đời trong điều kiện quan hệ giữa con người với tự nhiên còn đơn
giản, bản thân triết lý phương Đông lúc đương thời cũng tự nhiên và đơn
giản, khó đáp ứng được yêu cầu của quan hệ đã phức tạp hơn nhiều của
ngày nay; vì vậy, cần phải có một bước tiếp theo là đi sâu và lý giải về
những điều kiện để cho một lý thuyết truyền thống có thể phát huy được ở
một xã hội hiện đại mà không phải là phục cổ hay gán ghép.
3. Vai trò của luân lý đạo đức Nho gia đối với con người và xã hội hiện
nay
Nhìn vào đất nước Trung Quốc hiện nay, nhiều nhà nghiên cứu Nho học
thấy rằng, đạo đức xã hội ngày một sa sút: con cháu bất hiếu với cha mẹ,
ông bà; nhiều người xem đồng tiền cao hơn đạo nghĩa; nạn cửa quyền,
tham nhũng tràn lan, gian dối trong thi cử, v.v.. Họ cho rằng, cứ như thế



này thì lịng người và xã hội sẽ khơng n, vì ở đó tiềm ẩn nguy cơ làm bại
hoại một đất nước vốn có truyền thống coi trọng đạo đức, làm biến chất
một nền văn minh tinh thần đang được xây dựng. Trong các hội thảo khoa
học, trong các lần gặp gỡ giao lưu, trên các phương tiện truyền thông đại
chúng, những người có lương tri ln có lời lẽ phàn nàn, ln có những
phát biểu địi hỏi chấn chỉnh.
Ngồi ra, người ta thấy, trong xu thế tồn cầu hố, quan hệ và giao tiếp
giữa con người với con người, giữa tập đoàn với tập đoàn, giữa dân tộc với
dân tộc ngày càng mở rộng trên nhiều lĩnh vực, không những trên lĩnh vực
kinh tế, chính trị mà cả trong lĩnh vực văn hố - tư tưởng, khơng những ở
trong nước, mà cịn ở cả quốc tế. Ở đó, việc xử lý các mối quan hệ không
những phải dựa vào điều khoản của các hợp đồng, của các văn bản đã ký
kết, mà còn phải dựa vào các nguyên tắc của ứng xử, nghĩa là cần có một
đạo đức mà các bên đều có thể chấp nhận. Để xây dựng đạo đức đó, người
ta nhìn vào việc kế thừa và phát huy đạo đức truyền thống.
Nhiều nhà nghiên cứu thấy rằng, Trung Quốc có một truyền thống đạo đức
phong phú. Cả ba đạo Nho, Phật, Lão đều có cơng đóng góp của mình vào
truyền thống này, trong đó chủ yếu là đạo Nho. Nhưng mọi người cũng
thấy rằng, ra đời trong xã hội phong kiến và phục vụ cho xã hội phong
kiến, đạo đức Nho gia hiển nhiên không thể phục vụ tốt cho xã hội hiện đại.
Vấn đề đặt ra là, cần phải có sự thẩm định, xem ở đó, cái gì là tích cực, cái gì
là tiêu cực và trong ngay cái tích cực của truyền thống, thì cái gì cịn phù
hợp, cái gì đã q thời. Trên cơ sở đó, thấy cần phải kế thừa cái gì và gạt bỏ
cái gì, đồng thời cũng phải xem ưu điểm và hạn chế của đạo đức Nho học để
có điều kiện phát huy hoặc phải sửa chữa, bổ sung.
Nguồn tư liệu truyền thống nói về đạo đức Nho gia thì có nhiều, song các
tác giả gần như tập trung nhắc tới các cuốn Luận ngữ, Mạnh Tử, Hiếu kinh,
Trung dung, Nhị thập tứ hiếu, v.v.. Cứ liệu dựa vào thì như vậy, song khi



nêu những nội dung cơ bản của đạo đức Nho gia thì lại khác nhau. Có
người nhấn mạnh giá trị đạo đức Nho gia qua các khái niệm “trung”,
“hiếu” (Nhậm Kế Dũ – Viện Nghiên cứu Tôn giáo thế giới, Viện Khoa học
xã hội Trung Quốc); có người nhấn mạnh tư tưởng “thành”, “tín” trong
Luận ngữ và Trung dung (Tiêu Sĩ Bình - Đại học Tập Mỹ, Hạ Mơn); có
người nhấn mạnh tư tưởng “nhân”, “lễ” trong Luận ngữ (Khổng Lệnh
Hồng - Đại học Triết Giang); có người nhấn mạnh tư tưởng “Hoà nhi bất
đồng” của Khổng Tử (Trang Tố Phương, Nho thương học quốc tế), v.v.. Sở
dĩ có sự khác nhau đó, một phần vì phương pháp tiếp cận khác nhau, phần
khác vì trọng tâm hướng tới của các nhà nghiên cứu là phát hiện những giá
trị vốn có của truyền thống để đáp ứng được nhu cầu nhiều mặt của cuộc
sống đạo đức hiện tại, chứ không phải là để xác định giá trị nào đó là chủ
yếu, thứ yếu.
Phục hưng, truyền bá, phát huy đạo đức Nho gia vào xã hội hiện đại, đối
với mọi người là việc cần thiết, song khơng phải khơng gặp những khó
khăn. Có người nói rằng, các khái niệm, các nguyên tắc đạo đức Nho gia
đã tồn tại mấy nghìn năm và đã có lúc phát huy tác dụng tích cực, nhưng
do gần một trăm năm nay chúng liên tục bị đả kích vì các lý do chống
phong kiến, chống bảo thủ, chống cổ hủ, khiến người dân đã thành kiến với
chúng, quên mất chúng, nay để người dân tiếp nhận không phải dễ. Ngoài
ra, phương pháp kế thừa cũng thành vấn đề, vì đem cái truyền thống phổ
biến vào thế giới hiện đại là vấn đề không giản đơn, không khéo sẽ phục
cổ, nệ cổ, đi đến phản tác dụng.
Nhìn nhận về truyền thống đạo đức Nho gia, nhiều nhà nghiên cứu mang
quan điểm giản đơn, siêu hình. Họ tự hào về truyền thống này, cho rằng
các khái niệm, các phạm trù của nó đều có “ý nghĩa hiện đại”, “tính hiện
đại” và như một sự hiển nhiên, chúng đều có thể vận dụng vào xã hội hiện
đại.



Nhưng, có một số nhà nghiên cứu khác mang quan điểm biện chứng, thực
tế. Họ thấy rằng, các khái niệm đạo đức đó, dù có giá trị tích cực, chúng
vẫn là sản phẩm của xã hội phong kiến, mang tính chất phong kiến. Nếu
giữ nguyên và truyền bá chúng vào xã hội hiện đại sẽ có điều khơng phù
hợp, sẽ không ăn nhập được tư tưởng chung của thời đại, thậm chí cản trở
sự phát triển của thời đại. Vì vậy, họ thấy cần có sự đổi mới chúng, cải tạo
chúng. Ở đây, có thể nêu lên một số ý kiến tiêu biểu.
Giáo sư Nhậm Kế Dũ (nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu Tôn giáo thế
giới, Viện Khoa học xã hội Trung Quốc) nói: trong truyền thống văn hố
Nho gia có tinh hoa, nhưng phải tiến hành thanh lý tổng kết, phải có sự giải
thích mới. Ơng cịn nói: căn cứ vào đặc điểm thời đại mà đưa ra sự giải
thích mới, làm cho nghiên cứu Nho học bước sang một giai đoạn mới. Giáo
sư Trương Lợi Dân (Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Trung Quốc)
nói: dù được cho là quy phạm hoặc tư tưởng của mỹ đức truyền thống thì
cũng phải đưa lại quy định mới, phải hướng về thời đại để khơng ngừng
phong phú nó, phát triển nội hàm của nó, chứ khơng phải là giản đơn
chuyển một hệ thống tư tưởng này sang một hệ thống tư tưởng khác. Giáo
sư Vương Điện Khanh (Viện Nghiên cứu đạo đức phương Đơng, Bắc
Kinh) cũng nói: đối với giá trị chính trị của luân lý Nho gia cùng với sự
diễn biến của nội hàm chủ yếu tư tưởng trị quốc của nó, cần tiến hành phát
hiện mới, chuyển hố, đổi mới và lợi dụng… Phải nói đây là quan điểm
thức thời và khoa học vì có như thế mới phù hợp với chủ trương xây dựng
hệ thống đạo đức tư tưởng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với kinh tế thị trường
xã hội chủ nghĩa, nhịp nhàng với các quy phạm pháp luật xã hội chủ nghĩa
và tiếp nối được mỹ đức truyền thống Trung Hoa như Báo cáo Đại hội lần
thứ XVI Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đề ra, và có như thế thì mới thực
hiện được quy luật tất yếu mới thay thế cũ mà có người đã nêu lên.
Tiến thêm một bước nữa, có người đặt vấn đề phải tìm hiểu xem đạo đức



Nho gia truyền thống với tính chất là đạo đức xã hội có hạn chế nào
khơng? Và, những biểu hiện tiêu cực của đạo đức hiện đại có liên quan gì
với đạo đức Nho gia truyền thống?
Nhìn vào bộ mặt đạo đức hiện đại Trung Quốc, người ta thấy bộc lộ hai
hạn chế trầm trọng. Một là, ở một số người, việc làm điều ác đã mang tính
chất tự nhiên (tham nhũng, gian dối, ngang nhiên hãm hại người khác, cá
nhân chủ nghĩa, bỏ rơi cha mẹ già, trộm cắp các kiểu,…). Hai là, ở một số
người khác, thì có sự bàng quan trước các điều ác đó (thái độ dửng dưng,
vô cảm, cho là không phải trách nhiệm của mình, v.v.). Cả hai hiện tượng
đó đều được xem là nghiêm trọng như nhau, tác hại như nhau. Có người
thấy được ngun nhân của tình trạng trên có phần trách nhiệm của Nho
gia truyền thống. Có người nêu Nho gia tuy nói nhiều đến đạo đức, nhưng
đó là “tư đức”, chứ không phải “công đức”. Họ viện dẫn từ đầu thế kỷ XX,
Lương Khải Siêu đã nói: đạo đức của Nho gia chỉ là “tư đức”, là đạo đức
của gia tộc, chứ không phải là đạo đức xã hội. Một số nhà nghiên cứu hiện
đại khác của Trung Quốc cũng tán đồng quan điểm trên. Trương Lợi Dân
(Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Trung Quốc), trong bài Không
ngừng phong phú, phát triển nội hàm mỹ đức truyền thống dân tộc Trung
Hoa nói rằng, người Trung Quốc trong quá khứ coi trọng tư đức thái quá,
nhưng làm thế nào để phục vụ cho cơng cộng thì khơng nói tới. Phương
Nhĩ Gia (Khoa Triết học, Đại học Chính Pháp Trung Quốc), trong bài Tính
cơng cộng, cũng nói: Nho gia là đại biểu của văn hoá chủ lưu Trung Quốc,
sự thiếu sót về tính cơng cộng là nhược điểm trí mạng trong ý thức đạo đức
của nó. Từ sự phân tích như vậy, họ cho rằng nguyên nhân trượt dốc của
đạo đức xã hội Trung Quốc hiện nay có phần liên quan tới việc thiếu những
ý thức công cộng của đạo đức truyền thống.
Từ những ưu điểm và nhược điểm của đạo đức Nho gia truyền thống đã
được nêu ra và bàn luận, giới Nho học Trung Quốc tiến thêm một bước



nữa. Đó là, tổ chức diễn đàn “Luận bàn luân lý Nho gia và giáo dục đạo
đức công dân khu vực Đông Á” nhằm đi sâu hơn vào nội dung đạo đức
Nho gia và phát huy những giá trị của lý luận đạo đức đó vào việc xây
dựng đạo đức công dân trong giai đoạn hiện tại. Họ đã tổ chức được hai
cuộc hội thảo. Kỳ hội thảo thứ nhất được tổ chức vào tháng 11 năm 2003 ở
tỉnh Tứ Xuyên, kỳ thứ hai vào tháng 10 năm 2006 ở tỉnh Hà Nam. Thành
phần hội thảo bao gồm nhiều giáo sư nghiên cứu và giảng dạy đạo đức học,
lịch sử triết học ở các cơ quan nghiên cứu và các trường đại học. Ngồi ra,
cịn có các cán bộ tun giáo của một số tỉnh, thành ở Trung Quốc cùng với
một số hiệu trưởng các trường trung học, tiểu học được mời dự với tư cách
là những người đảm đương công việc giáo dục luân lý đạo đức cho thế hệ
trẻ. Hội thảo đã tập trung trao đổi 5 vấn đề: 1. Suy nghĩ về vận mệnh lịch
sử của luân lý Nho gia ở thời cận hiện đại và triển vọng giá trị lịch sử của
nó trong tương lai; 2. Công năng và giá trị của luân lý Nho gia trong việc
giáo dục đạo đức công dân hiện đại và xây dựng xã hội hài hoà; 3. Phát hiện
và đổi mới trí tuệ đạo đức phương Đơng với ln lý Nho gia là chủ đạo; 4.
Thành quả mới của nghiên cứu lý luận “công dân và đạo đức” ở Đông Á và
khu vực; 5. So sánh luân lý phương Đông và luân lý phương Tây cùng giá trị
của chúng trong việc giáo dục đạo đức công dân.
Nhiều chuyên gia một lần nữa trình bày giá trị đương đại của luân lý Nho
gia, như nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, khắc kỷ phục lễ, nhân cách quân tử, và
phân tích các chuyên đề như hiếu, thành, sỉ, trung, v.v.. Đặc biệt, ở cuộc
hội thảo lần thứ hai ở Hà Nam, giáo sư Từ Hoài Thành (Tổng Biên tập Đại
bách khoa toàn thư Trung Quốc và Viện trưởng Viện Nghiên cứu Khoa học
đạo đức, Đại học Nhân dân Trung Quốc) đã có bài phát biểu quan trọng,
nêu lên rằng, nghiên cứu luân lý Nho gia phải có sự đột phá mới, một là
phải nghiên cứu quy luật giáo hoá đạo đức truyền thống Trung Quốc; hai là
phải nghiên cứu bồi dưỡng cảm quan vinh nhục và tìm lấy điểm đóng mở



của đạo đức. Bản thân ông cùng với một số nhà nghiên cứu khác thấy rằng,
truyền thống Nho học đã rất chú ý đến cảm quan vinh nhục cần thiết cho
việc giáo dục con người, như Mạnh Tử đã nhấn mạnh “lòng trắc ẩn”, “lòng
biết hổ thẹn” ở con người và Khổng Tử nêu lên cảm giác sỉ nhục khi con
người làm trái “lễ”. Từ đây, nhiều người thấy rằng cần phải xây dựng quan
điểm vinh nhục cho con người hiện đại.r(Còn nữa)

(*) Giáo sư, tiến sĩ triết học. Uỷ viên Ban cố vấn, Hội Liên hợp Nho học quốc
tế Trung Quốc (khoá 2004 -



×