Nghiên cứu triết học
Đề tài:" ĐÁNH GIÁ VIỆC NGHIÊN
CỨU CHỦ NGHĨA MÁC TỪ GÓC ĐỘ
CHÚ GIẢI HỌC (tiếp theo) "
ĐÁNH GIÁ VIỆC NGHIÊN CỨU CHỦ NGHĨA MÁC TỪ GÓC ĐỘ CHÚ
GIẢI HỌC
(Bình luận về hai trường phái học thuật trong việc “đọc lại
Mác”)
(*)
DƯƠNG HỌC CÔNG
(Tiếp theo kỳ trước)
Bài viết hướng vào hai vấn đề: 1/ Làm thế nào để lý giải tính khách
quan trong ý nghĩa văn bản và tính hợp lý trong việc chú giải; 2/
Mục đích nghiên cứu văn bản của Mác là gì? Đối với vấn đề thứ
nhất, theo tác giả, cần thiết phải có những tiêu chuẩn nhất định. Đối
với vấn đề thứ hai, tác giả cho rằng, không ngừng thúc đẩy những
sáng tạo lý luận mới cho chủ nghĩa Mác chính là mục đích cơ bản
của chúng ta khi nghiên cứu văn bản Mác; việc “quay lại Mác”, làm
rõ thực chất tư tưởng của Mác chỉ là một bộ phận cấu thành của
mục đích đó.
2. Làm thế nào để lý giải tính khách quan trong ý nghĩa văn bản
và tính hợp lý trong việc chú giải
Xem xét hướng nghiên cứu “lấy văn bản làm chuẩn” thì ý nghĩa văn
bản và tính khách quan trong việc chú giải là một tiền đề cơ bản. Thế
nhưng, chúng ta cũng phải thấy rằng, vấn đề này còn phức tạp hơn
nhiều so với tưởng tượng.
Trước tiên là vấn đề tính khách quan trong ý nghĩa văn bản. Như
trên đã bàn, trong chú giải học cổ điển, tính khách quan trong ý
nghĩa văn bản được bảo đảm nhờ hai giả định: “tính có trước của ý
nghĩa văn bản” và “chuẩn tác giả”. Các khái niệm tương tự khái
niệm “nghĩa gốc” mà hiện nay một số học giả khăng khăng giữ là để
chỉ “hàm ý nguyên sơ” mà tác giả đã xác định khi viết tác phẩm.
Nhưng, cùng với sự phát triển của chú giải học, vấn đề này đã trở
nên ngày càng phức tạp. Một vài nhân tố sau buộc chúng ta giờ đây
phải suy tư đến: thứ nhất, Gadamer cho rằng ý nghĩa của văn bản
không phải do tác giả định đoạt trước, “tư tưởng của tác giả không
phải là thước đo có thể dùng để đánh giá ý nghĩa của một tác phẩm;
thậm chí một tác phẩm, nếu thoát khỏi cái thực tại bị kinh nghiệm
không ngừng làm thay đổi và chỉ để ý tới chính bản thân tác phẩm
đó thôi thì cũng sẽ bao hàm một tính trừu tượng nào đó”(1). Thứ hai,
Paul Ricoeur phân “ý nghĩa” của văn bản (“văn bản là bất cứ câu nói
nào được cố định lại bằng cách viết ra”) thành nội dung của hai
phương diện khách quan và chủ quan. Nội dung khách quan là
những sự việc mà câu nói “ý vị” (bao chứa – ND), nội dung chủ
quan là sự việc mà người nói muốn “ý chỉ” (chỉ đến – ND). Ông
nhấn mạnh nên tách biệt “hàm ý” của từ ngữ khỏi “cách gọi”. Hàm ý
là những điều vốn có sẵn trong nội tại lời nói, còn cách gọi thì vượt
ra khỏi bản thân ngôn ngữ, gắn liền ngôn ngữ với thế giới. Paul
Ricoeur còn cho rằng, quan hệ giữa người đọc với văn bản, về cơ
bản, giống với quan hệ “ngữ cảnh” mà văn bản thể hiện. Lý giải
không phải là đem cái bóng của bản thân mình vào trong văn bản,
mà là để tiếp nhận một sự phóng đại về chính bản thân từ trong sự lý
giải ngữ cảnh của đối tượng chú giải. Thứ ba, Umberto Eco cho
rằng, “ý đồ tiền văn bản” (pre-textual intention) của tác giả - tức là ý
đồ dẫn tới khả năng sinh ra một tác phẩm - không thể trở thành tiêu
chuẩn có hiệu quả cho chú giải, thậm chí nó có thể không liên quan
gì tới ý nghĩa của văn bản hoặc có thể nảy sinh sự hiểu lầm trong
việc giải thích ý nghĩa văn bản.
Với những điều được tổng hợp trên đây, tôi cho rằng, phải có sự
phân biệt thích đáng giữa “ý nghĩa” hay “hàm ý” của văn bản với “ý
vị” hay “giá trị” (significance) của văn bản. Cái trước là cái vốn có
nội tại, ít nhất cũng là cái mà văn bản “cấp cho”. Cái sau là để nói về
người chú giải, là thứ được hình thành trong quan hệ với người chú
giải. Khi chưa phân biệt rõ ràng hai “ý nghĩa” không giống nhau này
người ta dễ rơi vào những hiểu lầm không đáng có về vấn đề tính
khách quan của ý nghĩa. Trong phần “ý nghĩa” đầu tiên, tôi vẫn thừa
nhận và bảo lưu khái niệm “nghĩa gốc”, nhưng phản đối việc “suy
diễn vô hạn” từ “ý đồ của tác giả”. Trong “ý nghĩa” thứ hai, tôi cho
rằng không nên quá cố chấp với “nghĩa gốc”, không nên có trạng
thái sợ hãi đối với sự “biến dạng” nghĩa, mà nên mở ra không gian
đọc rộng rãi cho việc nối dài tính đương đại của ý nghĩa văn bản.
Trên thực tế, nhìn từ góc độ chú giải học, trong bất cứ quá trình lý
giải hay chú giải nào đều tất yếu nảy sinh “sự biến dạng” hay “biến
hình”, cho dù chúng ta chỉ dịch tác phẩm của Mác sang tiếng Trung
thì tình trạng “biến hình” này cũng đã nảy sinh rồi. Bởi lẽ, “cho dù
bản dịch có trung thực với nguyên tác thế nào cũng vẫn cách xa với
tác phẩm, vẫn rất khác biệt với tác phẩm. Nhưng điều này cũng rất
thú vị ở chỗ, một thân thể mới, một văn hoá mới từ bản dịch sẽ mở
ra một lịch sử hoàn toàn mới cho văn bản”(2).
Tiếp đến là về tính hợp lý của sự chú giải. Do “bối cảnh chú giải
học” thể hiện rất rõ tính chủ thể và tính mở của hoạt động giải thích,
chúng ta rất khó từ chính diện để xác định đâu là sự giải thích hợp lý
và tiêu chuẩn phán đoán sự hợp lý ấy; nhưng, chúng ta có thể từ mặt
ngược lại, tức là từ mặt hạn chế của sự giải thích tuỳ tiện để chứng
minh được cái gì là cách chú giải hợp lý. Gadamer đã từ hai ý nghĩa
dưới đây để phủ nhận tính tuỳ ý chủ quan trong giải thích: thứ nhất,
người giải thích chịu sự chế ước của tiền lý giải và điều kiện lịch sử
đương thời trong việc giải thích ý nghĩa văn bản; thứ hai, việc lý giải
buộc phải tuân thủ quy tắc của “trò chơi ngôn ngữ”, mà những quy
tắc đó lại không chuyển dịch theo tính chủ quan của người chơi.
Chúng ta có thể mượn một số thuật ngữ của Ecco và Culler để chứng
minh cho vấn đề này(3). Khái niệm “suy diễn vô hạn” (unlimited
semiosis) là chỉ tính tuỳ ý, không bị bó buộc, chế ước trong quá trình
phê bình giải thích, sự chú giải tuỳ hứng này thuộc loại “giải thích
quá đà” (overinterpretation). Mặc dù chúng ta khó chứng minh được
sự chú giải nào là “hợp lệ”, cũng không thể xác định được đâu là sự
chú giải chính xác “duy nhất”, song thực ra vẫn có thể phân biệt sự
chú giải nào bị “quá đà”. Ví dụ, trong việc nghiên cứu văn bản của
Mác, chỉ cần nắm lấy một điểm để suy diễn và phát huy tới vô hạn là
sẽ rơi ngay vào “giải thích quá đà”, nó đi ra khỏi biên giới của sự
“giải thích hợp lệ”. Ngược lại, việc “giải thích quá đà” là lối “giải
thích không đầy đủ” (underinerpretation) mà Jonathan Culler đã chỉ
ra. Khái niệm này cũng rất giàu tính chỉ dẫn. Ví dụ, dùng trình độ
thấp hơn Mác để đọc và giải thích Mác thì sẽ rơi vào “chú giải
không đầy đủ”, “giải thích quá đà” hay “giải thích không đầy đủ”
đều thuộc sự giải thích không hợp lý. Còn sự giải thích hợp lý đang
chờ đợi “độc giả lý tưởng” của nó, tức là những người đọc hiểu tác
phẩm theo đúng yêu cầu của văn bản và đúng phương pháp mà tác
phẩm cần được hiểu như vậy. Cách giải thích của người “độc giả lý
tưởng” là sự giải thích hợp lý có được nhờ cách hiểu sáng tỏ, hợp lý,
có sức thuyết phục và có thể chấp nhận được, dẫu rằng không thể
loại bỏ được tính đa dạng trong sự giải thích, nhưng tính đa dạng đó
cũng không thể đồng nhất với sự tuỳ ý chủ quan(4).
Từ sau khi văn bản Mác được viết ra, luôn có rất nhiều cách để giải
thích nó. Ở đây, tồn tại quan hệ phức tạp giữa “một” và “nhiều”,
giữa “nguyên” (nguồn – ND) và “lưu” (chảy - ND). Văn bản triết
học Mác là do Mác viết ra, là thứ vốn có trong triết học Mác và được
hình thành một cách tự nhiên trong quá trình sáng tạo triết học này,
nhìn một cách tổng thể, nó là “một”; còn sự giải thích đối với văn
bản triết học Mác lại không giống thế, nó do những người khác thực
hiện (bao gồm cả những người trong cùng một thời đại hay những
người của thế hệ sau), do vậy nó có thể là “nhiều”. Nhìn chung, giải
thích văn bản phải lấy chính văn bản đó làm cơ sở, làm ngọn nguồn,
phải cố gắng hết sức để đạt được sự thống nhất với nội dung thực
chất của văn bản. Thế nhưng, sự “thống nhất” này là quá trình “đối
thoại” vô hạn không có điểm dừng. Trong quá trình ấy, các hình thái
phát sinh thêm trong hệ thống giải thích văn bản tất nhiên trở nên đa
dạng hoá(5). Giữa các hình thái đa dạng hoá này có thể hình thành
những quan hệ bổ sung lẫn nhau, hoặc cạnh tranh lẫn nhau. Sự chú
giải văn bản lại tạo nên một văn bản mới, chúng ta gọi nó là văn bản
phái sinh. Mối quan hệ giữa văn bản gốc được giải thích với văn bản
phái sinh được hình thành khi chú giải văn bản là mối quan hệ giữa
“nguyên” và “lưu” (chảy), giữa “một” và “nhiều”. Kiểu quan hệ này
không phải là quan hệ đơn giản giữa cái nảy sinh và được nảy sinh,
mà là kiểu quan hệ tuần hoàn. Một mặt, văn bản và ý nghĩa của nó
tồn tại trong sự giải thích về nó, “đa” và “lưu” là sự bổ sung phát
huy đối với “nhất” và “nguyên” (đương nhiên cũng bao gồm cả sự
sai lệch), hiện thực chỉ có thể thông qua “đa” và “lưu” để đạt đến
“nhất” và “nguyên”, đây chính là tính chế ước đối với việc chú giải ý
nghĩa văn bản. Mặt khác, văn bản lại chế ước sự giải thích về nó,
đồng thời đưa ra thước đo nào đó làm tiêu chuẩn cho việc đánh giá
các kiểu chú giải. Đương nhiên, sự đánh giá này được thực hiện
thông qua sự cạnh tranh và so sánh giữa các kiểu giải thích.
Nhìn từ góc độ chú giải học, có thể khẳng định tính đa dạng trong
giải thích và lý giải là hiện tượng không thể tránh khỏi. Nhưng, đối
với triết học Mác thì tính đa dạng trong giải thích này chắc chắn sẽ
không tương đồng với kết luận sau đây: mỗi một kiểu giải thích đều
là hợp lý tự nhiên, đều có giá trị tồn tại ngang nhau. Tình hình thực
tế hoàn toàn ngược lại điều ấy, các kiểu giải thích không giống nhau,
thậm chí đối lập nhau phản ánh sự chia rẽ tư tưởng gay gắt. Chúng ta
không giữ mãi quan điểm giải thích nhất nguyên, nhưng cũng không
thể coi việc giải thích là sự tô vẽ tuỳ ý hoàn toàn chủ quan, không
thể muốn trang điểm thế nào cho đối tượng giải thích cũng được.
Trong thư viết gửi Ban biên tập Tạp chí Ký sự Tổ quốc, C.Mác đã
phê bình cách làm của Mikhailovsky, đem những khái quát của mình
về lịch sử phát triển chủ nghĩa tư bản ở Tây Âu tổng quát triệt để
thành thứ triết học lịch sử theo con đường phát triển nói chung là “sự
giải thích sai lầm” đối với “thuyết tư bản”, là “sự lăng nhục” đối với
ông. Cuối những năm 70 của thế kỷ XIX, khi phê phán khuynh
hướng chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa bè phái tồn tại trong
“trường phái Mác” ở nước Pháp, C.Mác đã nói: “Tôi chỉ biết rằng
bản thân tôi không phải là người theo chủ nghĩa Mác”. V.I.Lênin
cũng đã từng phê phán sự hiểu lầm tồn tại lâu dài trong chủ nghĩa
Mác và nói một cách thâm thuý rằng, “trong nửa thế kỷ gần đây,
không có một người theo chủ nghĩa Mác nào lý giải Mác!!!”. Sự giải
thích một tài liệu hay tư tưởng nào đó, đặc biệt là sự lý giải của các
nhà tư tưởng đối với những tư tưởng phức tạp như tư tưởng của Mác
thì tình huống sẽ phức tạp hơn nhiều, rất khó định luận và cũng
không thể cố thống nhất chúng làm một, bởi vì như vậy sẽ hạn chế
sự tự do phát triển tư tưởng. Nhưng, điều đó không có nghĩa việc
chú giải không có tiêu chuẩn hay chuẩn mực nào, mà chỉ là tiêu
chuẩn hay chuẩn mực này không được đặt định trước hay tiên
nghiệm. Chúng ta không thể nói rằng, “tư tưởng Mác trong ý nghĩa
thật sự của nó” là một vấn đề không có thật, nhưng nếu có ai tự cho
mình là người nắm được “tư tưởng Mác trong ý nghĩa thật sự của
nó” thì lại càng mắc sai lầm lớn hơn.
3. Mục đích nghiên cứu văn bản của Mác nằm ở đâu
Phương hướng nghiên cứu khác nhau không chỉ có chỗ đứng, cương
lĩnh hay phương pháp nghiên cứu khác nhau, mà còn có những yêu
cầu mục tiêu không giống nhau. Trong quá trình “tìm hiểu lại Mác”,
đòi hỏi nghiên cứu Mác trên cơ sở tài liệu đầy đủ, từ đó ngày càng
có thêm những sự hô hào mang tính học thuật, thậm chí hình thành
nên một “phong trào nghiên cứu văn bản Mác”. Cùng lúc này,
nghiên cứu về “giá trị đương đại chủ nghĩa Mác” cũng phát triển với
tốc độ nhanh chóng. Chúng đại diện cho hai khuynh hướng học thuật
khác nhau làm sâu sắc hơn việc nghiên cứu chủ nghĩa Mác: trường
phái thứ nhất muốn thông qua văn bản để đọc hiểu, khôi phục lại
hoàn cảnh đặc biệt thời điểm mà Mác suy tư; làm rõ trạng thái ban
đầu và thực chất tư tưởng, nắm bắt một cách khách quan tư tưởng
của chính C.Mác, tiếp cận với thế giới tinh thần phức tạp của ông.
Trường phái thứ hai tuy cũng lấy việc nghiên cứu văn bản làm cơ sở,
song nó quan tâm nhiều hơn đến sự phát triển đương đại của chủ
nghĩa Mác, tức là thông qua việc giải thích lại chủ nghĩa Mác để
nắm bắt các vấn đề thời đại, và vận dụng phương pháp tư tưởng của
Mác vào đương đại(6). Sự khác biệt trong hai khuynh hướng này
nằm ở khẩu hiệu mang tính cương lĩnh, trong đó nêu rõ: một bên là
“thể hiện diện mạo chân thực và trạng thái nguyên sơ của tư tưởng
Mác” và một bên là “làm sao để Mác đi tới đương đại”.
Sự khác biệt giữa hai con đường trên đây là rất rõ ràng, đồng thời đã
mở ra cao trào cạnh tranh và tranh luận về học thuật.
Đối mặt với sự chia rẽ, cho dù chúng ta có cố tình gây ra sự đối lập
nhị nguyên kiểu không phải là cái này thì phải là cái kia, thì vẫn còn
thiếu sự phân tích hướng về “biện chứng thống nhất”, mà đều là giản
đơn hoá. Chúng ta cần phải dựa trên cơ sở nắm bắt đầy đủ sự khác
biệt giữa hai cách tư duy này để tìm hướng giải quyết sự chia rẽ đó.
Cũng phải thừa nhận rằng, “phong trào nghiên cứu văn bản Mác”
nổi lên, song đó không phải là “nhắm mắt làm bừa”. Trước tiên, nó
có quan hệ mật thiết với lần biên tập xuất bản bản khảo chứng lịch
sử “Toàn tập C.Mác – Ph.Ăngghen” (MEGA2) trên thế giới.
MEGA2 không chỉ cung cấp một lượng lớn các tư liệu lịch sử mà
trước đây chúng ta chưa hề được thấy; hơn nữa, thông qua khảo sát,
chúng ta còn phát hiện thấy những tư liệu trong bản tiếng Trung và
bản tiếng Nga được thu thập trước đây trong “Toàn tập C.Mác –
Ph.Ăngghen” có những sai sót, tức coi những tác phẩm không phải
của Mác là của Mác. Công việc phân biệt thật giả và cung cấp những
tư liệu lịch sử mới mà MEGA2 làm, đã mở ra không gian học thuật
mới cho việc nghiên cứu Mác, là nguồn chất liệu cho sự hưng khởi
phong trào nghiên cứu văn bản. Cũng phải thấy rằng, việc khảo sát
văn bản, đối chiếu tài liệu cố nhiên chỉ là một bộ phận của nghiên
cứu văn bản Mác chứ không phải là tất cả, nhưng lại chỉ ra sự khác
biệt giữa “nghiên cứu văn bản” ngày nay với cái “đặc sắc” trong
“nghiên cứu nguyên tác” trước đây. Thứ nữa, trong nghiên cứu văn
bản có đề ra “quay trở lại với Mác”, tuy đã phải chịu không ít sự phê
bình và hiểu lầm, nhưng tôi cho rằng vẫn cần giữ thái độ “cảm thông
hiểu biết”. Bởi lẽ cái mà họ gọi là “quay trở lại với Mác” nhằm chỉ
việc phải vượt qua sự hiểu sai và đọc sai Mác trước đây, bằng cách
đọc lại, hiểu lại, “quay về” với tinh thần chân thực của Mác vốn bị
“che khuất” trong tiến trình lịch sử (đặc biệt là trong sự giải thích
sau này), chứ không phải “trở về” với tất cả những kết luận có sẵn,
đồng thời giữ khư khư những kết luận có sẵn đó một cách giáo
điều(7). Thứ ba, trong nghiên cứu văn bản, có học giả đề xuất phải
“quay về tầng thứ học thuật” để tiến hành nghiên cứu, vì nhìn vào rất
nhiều hậu quả do việc quá nhấn mạnh tới tính chính trị trước đây
mang lại, thì ý nghĩa tích cực của chủ trương này là điều dễ hiểu.
Vấn đề là ở chỗ, không được bỏ qua “tầm nhìn chú giải” trong
nghiên cứu văn bản, đó phải là điều kiện tiên quyết. Nếu cố ý lẩn
tránh hay làm phai nhạt đi “tầm nhìn chú giải” của bản thân, hay coi
phương pháp trong “Biên soạn lịch sử khách quan” - đã từng bị
Hêghen và Mác phê bình - làm khuôn mẫu, biến việc nghiên cứu văn
bản Mác trở thành giống với các học vấn như “tri thức khảo cổ học”
hay “tinh thần cổ sinh vật học”, thì ý nghĩa của kiểu nghiên cứu này
không những bị giảm nhiều, mà chúng ta cũng sẽ biến thành “kẻ
nhàn rỗi mệt mỏi trong vườn tri thức” Mác (câu nói của Nietzsche).
Trên thực tế, kinh nghiệm trong lịch sử học thuật đã chứng minh
rằng, chỉ có đề xuất những vấn đề mới hoặc lựa chọn góc độ nghiên
cứu và phương pháp nghiên cứu mới, thì mới có thể có phát hiện
mới. Đương nhiên, cũng có một số môn khoa học, như khảo cổ học
hay văn bản học, đặc biệt dựa nhiều vào những tư liệu mới, nhưng
chính những môn khoa học này nếu muốn thực sự đạt được những
thành tựu mới, cũng không thể tách rời khỏi việc lựa chọn góc độ
nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu mới đối với những tài liệu
mới phát hiện.
“Tầm nhìn chú giải” được đặc biệt thể hiện rõ trong chú giải học
chính là “ý thức vấn đề” mà chúng ta vẫn thường nói đến. “Ý thức
vấn đề” là sự ý thức ra vấn đề của người giải thích, là “tiền kiến” hay
“tiên kiến” có sẵn khi người giải thích lý giải hay giải thích văn bản;
quá trình giải thích là quá trình người giải thích vận dụng “ý thức
vấn đề” của mình để đọc hiểu văn bản, đạt đến “sự hoà hợp tầm
nhìn” trong quá trình đối thoại với văn bản, từ đó phát hiện và làm
sáng tỏ ý nghĩa của văn bản. “Ý thức vấn đề” chỉ có thể là ý thức của
bản thân người giải thích, từ đó buộc phải là ý thức trong thời đại mà
người giải thích đang sinh sống, tức ý thức được nảy sinh để giải đáp
cho những vấn đề đương đại. Ý nghĩa văn bản được phát hiện mang
những “ý thức vấn đề” như vậy cũng chính là ý nghĩa đương đại của
nó. Từ ý nghĩa đó, với những tiền đề lý giải thích đáng, “việc nghiên
cứu văn bản Mác” và “việc nghiên cứu giá trị đương đại chủ nghĩa
Mác” không hề tạo nên quan hệ đối địch lẫn nhau, chỉ khi nào chúng
phát sinh sự sai lệch trong “ý thức vấn đề” thì mới xuất hiện “sự
căng thẳng” bề ngoài nào đó. Ví dụ về tính đương đại trong triết học
Mác, mấy năm gần đây đã dần hình thành điểm nóng nghiên cứu
trong giới học thuật. Nhưng, nghiên cứu tính đương đại của triết học
Mác không giống như một số người hiểu lầm là phải “dán” vào triết
học Mác cái mác “đương đại” để tự mình nâng cao giá trị đương đại
của nó. Do triết học Mác được sinh ra từ bước ngoặt của triết học
phương Tây thời cận đại tới thời hiện đại, đồng thời là một sức mạnh
quan trọng mở ra triết học hiện đại, tính đương đại của nó là không
thể nghi ngờ, nên về cơ bản, chúng ta không cần “dán thêm” hay
“tặng thêm” cho nó thứ nhãn mác kiểu ấy. Nhưng, điều này không
có nghĩa là bất kỳ sự giải thích nào của chúng ta về triết học Mác
đều tất yếu mang tính đương đại. Trên thực tế, người ta đã phát hiện
thấy, trước đây do giải thích triết học Mác theo mô hình triết học
nhận thức luận cận đại nên ý nghĩa đương đại của triết học Mác bị
“che khuất” đi, hoặc chỉ là một phương thức giống như khẳng định
những ngôn từ trừu tượng và trống rỗng nhất, tuyên bố một cách bề
ngoài, mà chưa hẳn có thể chỉ ra một cách kiên quyết và củng cố nội
tại về mặt triết học(8). Triết học Mác vốn có đầy đủ tính đương đại,
tại sao lại bị “che khuất” đi do chính sự giải thích về nó? Đó là bởi
người giải thích đã thiếu đi “ý thức vấn đề” tương thích và hài hoà
với “tính đương đại” của triết học này. (Xem tiếp>>>)
ĐÁNH GIÁ VIỆC NGHIÊN CỨU CHỦ NGHĨA MÁC TỪ GÓC
ĐỘ CHÚ GIẢI HỌC (Tiếp theo)
DƯƠNG HỌC CÔNG
Trên thực tế, việc nghiên cứu về “giá trị đương đại của chủ nghĩa
Mác” có những cơ sở hiện thực sâu sắc. Sau khi chiến tranh lạnh kết
thúc, trên thế giới hay trong nước đều có không ít những lời bàn
luận về tiền đồ cũng như vận mệnh của chủ nghĩa Mác. Cho dù ảnh
hưởng của lời kêu gọi “cáo biệt” Mác có âm vang thế nào thì những
người quan sát một cách bình tĩnh cũng đều thấy rõ ràng là, cùng
với sự lan toả của toàn cầu hoá tư bản, chúng ta đang từng ngày
bước vào thế giới của những tư tưởng của Mác. Khoảng cách giữa
chúng ta với hình bóng Mác càng xa, thì thế giới ý nghĩa học thuyết
của ông lại càng gần chúng ta hơn. Đây cũng chính là cơ sở hiện
thực để khiến việc “tìm hiểu lại Mác” trở thành chủ đề nhận được
sự quan tâm của mọi người trong thời đại ngày nay(9). Nhìn từ góc
độ chú giải học, ý nghĩa của bất kỳ lý luận hay học thuyết nào cũng
đều không cô lập, không tồn tại bất động chỉ trong văn bản; trái lại,
còn tồn tại trong sự giải thích chúng sau này. Do vậy, ý nghĩa của
văn bản là mãi mãi chưa hoàn thiện, việc giải thích thêm sẽ mở ra
con đường để ý nghĩa văn bản hướng tới tương lai. Cần phải thông
qua sự giải thích không ngừng đổi mới để từ ý nghĩa “vốn có” của
văn bản tìm ra những ý nghĩa mới mà văn bản “cần có”; có như vậy,
giá trị của một học thuyết mới có thể phát huy rộng rãi. Phạm vi
ngữ cảnh có ý đồ muốn hạn chế việc sinh thành ý nghĩa hay cách
làm dừng lại ở quá trình mang tính không xác định của sự suy diễn
không ngừng nghỉ, không ngừng sinh sôi bị chú giải học chỉ trích là
“chủ nghĩa chuyên chế”. Tôi đã từng mượn dùng những từ ngữ Tân
Nho gia thời hiện tại, đem mục tiêu của hai trường phái nghiên cứu
không giống nhau kể trên phân tích lần lượt khái quát thành “phản
bản” (quay về cội nguồn) và “khai tân” (hướng tới điều mới)(10).
Xét từ góc độ chú giải học, “phản bản” và “khai tân” không phải là
quan hệ đối lập nhị nguyên, mà là một kiểu quan hệ “tuần hoàn”.
Nói về nghiên cứu văn bản Mác, “phản bản” tức là đọc chọn lọc và
nghiên cứu sâu từ chính nguyên tác nhằm nắm bắt được đúng tinh
thần của học thuyết Mác. Nhưng, tinh thần thật sự của học thuyết
Mác không phải là những thứ được bày biện sẵn ra để cứ với tay lấy
là được, nó phải thông qua sự giải thích hoặc lý giải của chúng ta
mới bộc lộ ra được. Sự thể hiện đó có thể phù hợp với tinh thần của
Mác, cũng có thể xa rời tinh thần đó. Nhưng việc chú giải và lý giải
lại là không thể thiếu, nếu không tinh thần của Mác sẽ bị che giấu
không được thể hiện và bộc lộ rõ. Ta sẽ giải quyết mâu thuẫn này ra
sao? Tôi cho rằng, ở đây, không có những khó khăn không thể giải
quyết, bởi tinh thần thật sự tồn tại trong chính nguyên tác của Mác,
thông qua sự nỗ lực nghiên cứu của mình, chúng ta có thể làm rõ
nó. Hơn nữa, nếu kiểu nghiên cứu này càng thể hiện được nguyên
tắc “giải thích mang tính sáng tạo” thì càng phù hợp với tinh thần
thật sự của Mác. Nói cách khác, tinh thần thật sự của Mác vẫn đang
đợi chúng ta lý giải và phát hiện, mà điều này thì chỉ có khả năng
đạt được trong sự giải thích và nghiên cứu mang tính sáng tạo. Giải
thích mang tính sáng tạo là yêu cầu bắt buộc của tinh thần học
thuyết Mác, nếu thiếu điều này thì không những không thấy được
“sự phát triển” của học thuyết Mác, mà còn không thể bàn đến “sự
trung thực” trong học thuyết Mác. Bản thân Mác đã đôi lần coi
những người không để ý đến sự thay đổi điều kiện lịch sử, chỉ biết
đơn giản “thuật lại” “lời nói” của ông là những người giáo điều. Có
thể thấy rằng, yêu cầu nội tại của “phản bản” bao hàm cả “khai tân”.
Nhưng “khai tân” muốn trở thành sự phát triển và giàu sáng tạo thì
không thể tách rời việc luôn nắm bắt một cách sâu sắc thực chất tinh
thần của học thuyết Mác, tức là yêu cầu không ngừng “phản bản”.
Nếu không như vậy, “khai tân” sẽ mất đi nền tảng và tiền đề phải có
của nó. Hiển nhiên, đây là một quá trình không ngừng đi lên trong
quỹ đạo tuần hoàn, lặp đi lặp lại một cách vô hạn.
Nếu lấy tình hình của Trung Quốc để so sánh thì sự khác biệt của
hai trường phái nghiên cứu kể trên giống như cái gọi là sự cạnh
tranh giữa “Hán học” và “Tống học”. Mọi người đều biết rằng, các
học giả thời nhà Thanh đã phát động phong trào “quay trở lại thời
nhà Hán”, ý muốn quay trở lại với những sự chú thích của các học
giả thời Hán đối với kinh điển thời Tiên Tần. Đây chính là cái gọi là
“Hán học”. Họ gọi thuyết Tân Nho gia là “Tống học”, bởi vì học
phái Tân Nho gia chủ yếu được thịnh hành ở thời Tống. Phùng Hữu
Lan bình luận rằng, “sự tranh chấp giữa Tống học và Hán học trong
Nho giáo thời nhà Thanh là một trong những tranh luận lớn nhất
trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc. Xuất phát từ quan điểm của
chúng ta ngày nay, trên thực tế nó chính là sự tranh luận giữa việc
tiến hành những chú giải triết học và việc tiến hành chú giải từng
câu chữ đối với những tư liệu thời cổ. Sự giải thích câu chữ chú
trọng vào ý nghĩa vốn có sẵn của văn bản mà nó tin tưởng. Chú giải
triết học chú trọng vào ý nghĩa cần có của văn bản mà nó tin
tưởng”(11). Có lẽ chúng ta cũng không cần bàn luận về sự phân biệt
đó của ông đã thoả đáng hay chưa. Nhưng, đối với nghiên cứu kể
trên mà nói, cho dù là “quay lại Mác” hay khai thác “giá trị đương
đại của chủ nghĩa Mác” cũng đều thuộc về “sự chú giải triết học”,
chứ không phải chỉ là “sự chú giải câu chữ”. Điểm khác biệt là ở
chỗ, hai kiểu chú giải này căn cứ vào những phạm vi triết học khác
nhau nên kết quả chú giải cũng không giống nhau.
Sự tuần hoàn giữa “phản bản” và “khai tân” được thực hiện thông
qua sự tác động qua lại giữa hình thái nguyên sinh và hình thái diễn
sinh của triết học Mác (tức các kiểu hình thái chú giải nó). Văn bản
của Mác từ sau khi được viết ra, trải qua sự chú giải của nhiều thời
đại, đã hình thành nên những hệ thống chú giải khác biệt. Một số hệ
thống chú giải cấu thành nên các hình thái diễn sinh của học thuyết
Mác dưới cái tên “chủ nghĩa Mác”. Về cơ bản, ngày nay chúng ta
nghiên cứu văn bản Mác không phải là để lặp lại hay giương lên
kiểu chú giải nào đó trong lịch sử một cách đơn giản, cũng không
phải đơn thuần là chỉ muốn thêm vào trong nhiều kiểu giải thích đã
có đó một nhãn hiệu hay một chủng loại giải thích mới. Điều chúng
ta muốn là đem “ý thức vấn đề” đương đại thông qua loại hình chú
giải mới để phát hiện làm sáng tỏ giá trị và ý nghĩa đương đại của
chủ nghĩa Mác. Chủ nghĩa Mác không phải là một hệ thống đóng,
nó mang tính khai phóng đồng bộ với bước phát triển của thực tiễn
và thời đại. Do vậy, để đọc hiểu văn bản Mác, chúng ta không nên
chỉ cố định ở một hình thức lịch sử nào đó của nó, mà nên đặt nó
trong sự đáp ứng lại những thách thức, từ những việc chúng ta đang
tiến hành, không ngừng thúc đẩy những sáng tạo lý luận mới cho
chủ nghĩa Mác. Có thể nói, đây mới chính là mục đích cơ bản của
chúng ta khi triển khai nghiên cứu văn bản Mác, còn “quay lại
Mác”, làm rõ thực chất tư tưởng của Mác chỉ là một móc xích hoặc
một bộ phận cấu thành của mục đích cơ bản đó.r
Người dịch: ThS. TRẦN THUÝ NGỌC
(Khoa Triết học, Trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội)
(*) Bài đăng trên tạp chí Nghiên cứu Học thuật, số 9, 2001 (tiếng
Trung).
(1) Xem: H.Gadamer. Chân lý và phương pháp, quyển thượng
(Hồng Hán Đỉnh dịch). Nxb Dịch thuật, Thượng Hải, 1999, tr.6.
(2) Xem: Derria. Viết và sự sai khác (Trương Ninh dịch). Tam Liên
thư điếm, 2001, tr. 25.
(3) Xem: Ecco. Giải thích và giải thích quá đà (Vương Vũ Căn
dịch). Tam Liên thư điếm, 1997.
(4) Tính tương đối trong việc chú giải tài liệu lịch sử một cách
phiến diện hoặc tuỳ tiện sẽ làm nảy sinh tình trạng giống như trong
nghiên cứu lịch sử triết học Trung Quốc mà Trần Dần Cách đã phê
bình: “Những người bàn về triết học Trung Quốc cổ đại ngày nay
cũng chính là những nhà triết học đang bàn tới chính triết học của
họ bây giờ. Những người viết về Lịch sử triết học Trung Quốc,
cũng tức là những nhà triết học sử đương đại. Những lập luận của
họ càng chặt chẽ, hệ thống bao nhiêu thì lại càng rời xa thực chất
của học thuyết cổ nhân bấy nhiêu” (Trần Dần Cách. “Báo cáo thẩm
tra” về “Lịch sử triết học Trung Quốc”, xem: Phùng Hữu Lan. Lịch
sử triết học Trung Quốc, quyển hạ. Trung Hoa thư cục, bản mới
1962).
(5) Về tính đa dạng này, Fredric Jameson, khi đề cập đến tính đa
dạng trong ngôn ngữ lý luận, đã từng nói: chúng ta không nên quên
rằng chủ nghĩa Mác ngày nay không phải chỉ có một mà không có
phân nhánh. Thực ra, ngôn ngữ lý luận chủ nghĩa Mác có muôn
hình vạn trạng, do đó cách nói “chủ nghĩa Mác là một trường phái
độc tôn” không thể đứng vững. (Lôgíc văn hoá chủ nghĩa tư bản
thời kỳ cuối. Tam Liên thư điếm, 1997, tr. 19).
(6) Xem: Trương Nhất Binh và Hồ Đại Bình. Từ tính chân thực đến
bản sắc Trung Quốc: sự chuyển hướng “chú giải học” trong nghiên
cứu triết học Mác. Tập san Giang Hải học, số 1, 2003.
(7) Trương Nhất Binh - người đi đầu trong cương lĩnh nghiên cứu
“Quay trở lại với chủ nghĩa Mác” đã nhằm vào những “hiểu lầm”
của người phê bình để phê bình rằng, đối với một số học giả, ý
hướng lý luận của “quay trở lại với chủ nghĩa Mác” bị hiểu theo
nghĩa hẹp trở thành “phong trào chính thống”, dẫn dắt những người
đọc hình thành lối lý giải sai lầm, dường như “quay trở lại với chủ
nghĩa Mác” không phải là xây dựng lại tầm nhìn lịch sử hoàn toàn
mới (giải nghĩa văn bản) mà chúng ta chưa từng đạt tới, để cho
chúng ta thật sự có khả năng xây dựng lại tính chất khai phóng và
tính đương đại cho tư tưởng của Mác, mà lại xúi giục chúng ta thoát
ly khỏi thực tế của thời đại ngày nay, coi nhẹ sự phát triển mới nhất
của chủ nghĩa tư bản và cải cách mở cửa của Trung Quốc, quay trở
về với những sách vở ngày trước, chỉ dừng lại ở việc tiến hành chú
thích khảo cổ học thông thường đối với văn bản, biến triết học Mác
trở thành sự thao tác giấy tờ trong “chủ nghĩa thực thể lý luận”.
(Xem: Trương Nhất Binh. Ngữ cảnh lý luận nguyên sơ của “Quay
trở lại với chủ nghĩa Mác”. Khoa học xã hội Trung Quốc, kỳ 3,
2001).
(8) Xem: Ngô Hiểu Minh. Luận bàn về tính đương đại trong triết
học Mác.Khoa học xã hội, số 6, 1999.
(9) Xem: Chúng ta đối mặt thế nào với Chủ nghĩa Mác thời đương
đại? Đông Nhạc Luận Tùng, số 5, 2004.
(10) Xem: “Phản bản” và “Khai tân” - Đánh giá sự phát triển của
chủ nghĩa Mác trong thời đương đại từ góc độ triết học. Báo Trường
Đảng thành phố Tế Nam, số 4, 2000.
(11) Phùng Hữu Lan. Giản sử Triết học Trung Quốc. Nxb Đại học
Bắc Kinh, 1985, tr.368