Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Đề tài: " NHẬP MÔN LỊCH SỬ TRIẾT HỌC " potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (648.48 KB, 21 trang )






Nghiên cứu triết học

Đề tài: " NHẬP MÔN LỊCH SỬ TRIẾT
HỌC "




NHẬP MÔN LỊCH SỬ TRIẾT HỌC

V.V.XÔCÔLÔP(*)
Lời toà soạn:
“Nhập môn lịch sử triết học” của nhà nghiên cứu lịch sử triết học nổi tiếng,
Giáo sư, Tiến sĩ Khoa Triết học, Đại học Tổng hợp Quốc gia Mátxcơva mang
tên M.V.Lômônôxốp – V.V.Xôcôlốp - đã được sử dụng như một giáo trình cho
sinh viên khoa triết học của các trường đại học tổng hợp thuộc Liên bang Nga.
Trong cuốn sách này, Giáo sư, Tiến sĩ V.V.Xôcôlốp đã đưa ra một quan niệm
mới về triết học với tư cách lịch sử triết học mà có ý kiến cho là còn xuất sắc
hơn cả quan niệm của Cantơ và Hêghen. Không chỉ thế, trong cuốn sách này,
ông còn đưa ra quan điểm coi lịch sử triết học như là triết học trong quá trình
phát triển lịch sử của nó và nhiều tư tưởng độc đáo liên quan đến tính đặc thù
của tri thức triết học, đến nhận thức triết học và lịch sử của nó.
Ngay sau khi ra mắt độc giả, cuốn sách này đã nhận được nhiều ý kiến đánh
giá, nhận xét, phê bình của các học giả có tên tuổi. Tạp chí “Những vấn đề
triết học” (Nga) đã tổ chức một Hội thảo khoa học với tiêu đề “Triết học với tư
cách lịch sử triết học”. Nội dung của Hội thảo này đã được đăng tải trên một


loạt số Tạp chí Triết học trong năm 2007. Ban biên tập Tạp chí Triết học đã
nhận được nhiều ý kiến hoan nghênh và đề nghị cho đăng toàn văn nội dung
cuốn sách của Giáo sư, Tiến sĩ V.V.Xôcôlốp – “Nhập môn lịch sử triết học”.
Đáp ứng nguyện vọng này của đông đảo độc giả Việt Nam, bắt đầu từ số này,
Tạp chí Triết học sẽ cho đăng tải bản dịch toàn văn cuốn sách của Phó giáo
sư, Tiến sĩ Trần Nguyên Việt, Phó giáo sư, Tiến sĩ Đặng Hữu Toàn (hiệu đính)
như một tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu và giảng dạy triết
học, nhất là lịch sử triết học ở nước ta.
Toà soạn Tạp chí Triết học hy vọng nhận được nhiều ý kiến trao đổi của đông
đảo độc giả để có được bản dịch hoàn hảo và những ý kiến trao đổi về các vấn
đề đặt ra trong cuốn sách này.
THẾ GIỚI QUAN VÀ TRIẾT HỌC VỚI TƯ CÁCH NHỮNG HIỆN
TƯỢNG CHUNG NHẤT CỦA VĂN HÓA TINH THẦN
Triết học là một thành tố rất cổ của văn hóa tinh thần, là trí tuệ của loài người
và không dễ gì nhận thức được nó. Cái khó trong việc nắm bắt triết học trước
hết bị quy định bởi diện rộng tới mức tối đa các khái niệm triết học. Tính đa
nghĩa của phần lớn các khái niệm ấy luôn gây khó cho sự hiểu biết về nội dung
của chúng, về mối quan hệ qua lại giữa chúng với nhau và giiữa chúng với các
khái niệm triết học khác, cũng như vai trò của chúng đối với đời sống con
người. Phương pháp quan trọng nhất, nếu không nói đó là phương pháp cơ bản
về hiệu quả của việc nghiên cứu các khái niệm triết học, chính là việc nghiên
cứu lịch sử triết học từ khi nó mới phát sinh. Một khoa học càng chính xác bao
nhiêu và thêm nữa, nó lại được toán học hóa, thì đòi hỏi phải tìm hiểu sự phát
triển trước đó của nó càng nhẹ hơn. Ngược lại, việc nghiên cứu các khoa học
xã hội - nhân văn lại không thể thiếu những am hiểu căn bản về lịch sử trước
đó của chúng. Việc làm rõ chính các hệ vấn đề triết học trên thực tế đã cho
thấy, hoàn toàn không thể thiếu tri thức về toàn bộ lịch sử trước đây của nó.
Chúng ta đã có rất nhiều định nghĩa về triết học. Đó là những định nghĩa
chung, cụ thể và mang tính ẩn dụ. Các định nghĩa ấy đã định hình được sự đa
dạng về việc giải thích triết học mà các học giả đưa ra, trong đó có một số học

giả sẽ được chúng tôi dẫn ra trong cuốn sách này tùy theo văn cảnh trình bày.
Trước hết, chúng tôi xin nhắc lại rằng, triết học hoàn toàn mang tính khái quát,
kể cả trong trường hợp nó tác động qua lại với các thành tố khác của văn hóa
tinh thần - trí tuệ, tức là với tôn giáo và thần luận với tư cách phương diện “lý
luận” của nó, xuất hiện khi triết học còn chưa ra đời, với nghệ thuật và sự suy
ngẫm về nghệ thuật (xuất hiện trong chính triết học), với khoa học và những
thành tố khác. Sự tương đồng của các hình thái thế giới quan thể hiện tính đa
diện của đời sống con người đã gây khó khăn lớn cho việc định nghĩa triết học.
Sự tương đồng ấy có thể và cần phải hiểu với tư cách một khoa học phức tạp
nhất về con người (điều được đề cập tới bằng chính thuật ngữ Hy Lạp cổ là
“yêu mến sự thông thái”), với tư cách con người hành động và tư duy, còn khi
xét trong vô vàn các phương diện khác nhau thì đó là sinh thể có tinh thần và
thể xác.
Xuất phát từ điều nói trên, hoàn toàn có thể hiểu đối tượng của triết học như là
tổng hòa các mối quan hệ chủ - khách thể. Các thuật ngữ “chủ thể” và “khách
thể” bằng tiếng Latinh đã xuất hiện trong Triết học Kinh viện Tây Âu thời kỳ
Trung cổ và hiện nay, nghĩa của chúng đã được thừa nhận một cách phổ biến -
tối đa như các quan hệ nhận thức - thực tế của con người trong tính hiện thực
đối lập với nó là tự nhiên và xã hội, thể hiện những nhu cầu và hoạt động của
trí óc, của trái tim và của thân xác con người. Dĩ nhiên, một định nghĩa như
vậy về triết học có thể được coi là hoàn toàn thích hợp cho cả thế giới quan
vốn không thể tách rời triết học, bởi nó quá chung, quá rộng, song, như chúng
ta đã thấy, ngay từ khi xuất hiện các mối quan hệ nói trên thì những ý niệm của
các nhà triết học và thậm chí, của nhiều nhà tư tưởng vốn không cho mình là
những nhà triết học, về nguyên tắc, vẫn được hàm chứa trong công thức đó.
Chúng tôi không muốn đặt ra một góc nhìn cho trước đối với việc nghiên cứu
tiếp theo về hệ vấn đề triết học mà các nhà triết học đã trình bày. Ở đây, chúng
tôi muốn chỉ ra rằng, trong triết học cổ điển Đức thế kỷ XVIII - XIX, hệ vấn đề
đó đã được nghiên cứu với quy mô đặc biệt sâu rộng. Một trong những nhà
sáng lập nền triết học đó là Iôganơ Phíchtơ, người đã chú trọng đến việc suy

xét hệ vấn đề đạo đức - xã hội và luôn đặt đối lập chủ thể người - “cái Tôi” (và
cả “cái Tôi”) với tổng hòa các khách thể mâu thuẫn với nó - “cái Không - tôi”.
Khi chứng minh cho sự khẳng định dứt khoát của mình về xuất phát điểm là
“cái Tôi” và cũng là để hiểu cho đúng mọi “cái Không - tôi”, Phíchtơ đã xác
định lập trường của mình đứng về phía “chủ nghĩa duy tâm”, đối lập với lập
trường của “chủ nghĩa giáo điều” (hay là “chủ nghĩa duy vật”). C.Mác và
Ph.Ăngghen đã coi Phíchtơ là một trong những bậc tiền bối của mình, nhưng
các ông lại thay đổi thái độ đó, đồng thời khẳng định rằng, một lập trường
đúng đắn duy nhất, phù hợp với toàn bộ lịch sử thực tiễn và phát triển của loài
người về triết học và khoa học là chủ nghĩa duy vật, bởi nó giải thích tinh thần
con người như một hiện tượng phái sinh và thứ phát so với vật chất. Do vậy,
toàn bộ lịch sử triết học được chủ nghĩa Mác diễn tả như là sự đối lập và đấu
tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Thế nhưng, sự gián đoạn
mang tính nhị nguyên hóa đã quá nhấn mạnh “con người đang sống” như một
sinh thể tinh thần - thể xác và thể xác - tinh thần. Khác với tính phổ biến đến
tối đa của vật chất và tinh thần, được đặt đối lập với nhau trong “tính thứ nhất”
và “tính thứ hai”, mối quan hệ chủ - khách thể là sự thừa nhận sự thống nhất
giữa hai mặt của con người - tinh thần và thể xác như một sinh thể hiện thực có
nhận thức. Thật vậy, khi chú ý đến vai trò to lớn của các khoa học, đến sự tác
động qua lại của chúng với triết học để tạo nên yếu tố cấu thành quan trọng về
đối tượng nghiên cứu, chúng ta cần phải lưu ý rằng, để phân tích vai trò đó
trong nghiên cứu chuyên sâu của các khoa học về tự nhiên, trong việc nghiên
cứu theo lối quy giản về tự nhiên thì dường như, lại cần phải phân tách chủ thể
ra khỏi khách thể để không những nắm bắt được chúng trong sự thống nhất,
mà cả trong sự phân chia nữa. Đồng thời, khách thể tự nhiên cũng trở nên rõ
ràng hơn đối với con người, mở ra cho con người khả năng sử dụng một cách
có hiệu quả các yếu tố cấu thành hiện thực khách quan tồn tại không phụ thuộc
vào con người.
Trên trục đường chính ấy luôn xuất hiện và phát triển một hiện tượng đặc biệt
của nền văn minh - đó là cái trung gian giữa chủ thể và khách thể tự nhiên, là

khách thể mới và phức tạp hơn nhiều, là hiện thực chủ - khách thể. Cùng với
sự phát triển của nền văn minh, lĩnh vực tinh thần của chính con người và nền
văn hóa của nó cũng được phát triển, trong đó nhiều yếu tố cấu thành và bộ
phận hợp thành của nó có thể được luận giải như là những khía cạnh của triết
học.
Để cụ thể hóa tính chủ - khách thể của lĩnh vực tinh thần, về nguyên tắc, cần
phải nhấn mạnh rằng, triết học là một hệ thống khá phức tạp của tri tín (tín
ngưỡng và tri thức), luôn thể hiện bản chất nhận thức - chân thực của đời sống
con người mà ở đó, thường có sự đan xen giữa các yếu tố cấu thành tín ngưỡng
và tri thức trong các mối quan hệ qua lại khác nhau. Dĩ nhiên, ở đây không đề
cập đến riêng niềm tin tôn giáo - tín ngưỡng mà tính nhất quyết tuyệt đối trong
các giáo điều của niềm tin ấy đã đạt tới đỉnh điểm trong nguồn gốc thần luận
về thuyết đơn thần của Thiên Chúa giáo, Do Thái giáo, Hồi giáo và các tôn
giáo khác. Với nội dung đầy đủ và được suy ra từ các kinh thánh, những giáo
điều ấy đã có trước mọi “tri thức”, trước hết là đối với “tri thức” tôn giáo.
Béctơrăng Rátxen đã rất thành công khi xác định bản chất của triết học như là
tri tín trong phần Nhập môn “Lịch sử triết học phương Tây”, đồng thời giải
thích lĩnh vực trung gian như là “vùng đất hoang” nằm giữa thần học và khoa
học mà cả hai đều tấn công “mảnh đất ấy” từ hai phía đối lập nhau, nhưng
không bao giờ đụng độ nhau. Chỉ có niềm tin thế giới quan triết học mới được
đặc trưng bởi tính đầy đủ về mặt nhận thức luận, nhận thức - lý luận, song nếu
thiếu trình độ nhất định về tri thức, niềm tin đó cũng sẽ bị mất ý nghĩa về mặt
chức năng. Phương diện nhận thức khoa học của triết học lại đòi hỏi một định
nghĩa khác cho nó, đó là định nghĩa bổ sung chứ không phải là loại bỏ định
nghĩa trước đó.
Định nghĩa đó, theo tín niệm của tác giả, phải được coi là một định nghĩa về
thế giới quan đã được hệ thống hóa ở mức độ cao nhất, được duy lý hóa đến
tối đa trong thời đại của nó. Trong tổ hợp tri tín, chính khoa học lại quy định
nội dung của yếu tố cấu thành thứ hai. Ngoài ra, để làm rõ một định nghĩa đã
được hình thành, cần phải vạch ra ý nghĩa của cụm từ “thế giới quan” vốn đa

nghĩa và rất rộng trong tiếng Đức và tiếng Nga. Trong các tài liệu triết học
Đức, thuật ngữ “thế giới quan” (Weltanschauung) xuất hiện vào thế kỷ XVIII
(còn trong ngôn ngữ Nga, nó xuất hiện vào nửa cuối thế kỷ XIX). Trên phương
diện triết học, thế giới quan được đặc trưng bởi tính xác định và tính hệ thống
ở mức độ thấp hơn, khi nó được sử dụng trong các văn cảnh khác nhau. Người
ta thường nói đến các thế giới quan: tôn giáo, nghệ thuật, đạo đức, khoa học tự
nhiên theo nghĩa các thế giới quan này, xét về mặt hệ thống, thể hiện các tín
niệm ít được luận chứng (hoặc hoàn toàn không được luận chứng) và còn lâu,
mới dựa trên tính đầy đủ về sự kiện.
Ở đây, cả thuật ngữ “duy lý hóa” cũng cần phải được làm rõ. Trong những
điều kiện của nền văn minh Hy Lạp cổ đại, triết học đã xuất hiện đồng thời với
các khoa học khác. Vào thời kỳ Trung cổ, triết học thường được đồng nhất với
tổng hòa các khoa học (“các nền nghệ thuật tự do”), mặc dù ở giai đoạn Êlê
trong lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại, toán học, thiên văn học và thậm chí, cả
những nhận thức kinh nghiệm (vốn được xem là đặc thù của thời đó) về địa lý,
văn học, nhất là y học, đã phát triển ngoài văn cảnh triết học. Trong tư liệu triết
học phương Tây và của Nga, chúng ta cũng thường thấy những nhận định cho
rằng, trong quá trình phát triển của văn hóa trí tuệ đã có các khoa học cụ thể
khác nhau được tách ra từ triết học. Vả lại, triết học chưa bao giờ là cha đẻ của
khoa học cả, nhưng nó đã từng xuất hiện và được phát triển trong mối liên hệ
mật thiết với các khoa học. Triết học và các khoa học đã cùng nhau tạo nên
những bộ phận cấu thành quan trọng nhất của sự duy lý hóa.
Do vậy, cần phải nói rằng, về căn bản, chúng ta cần phải hiểu các khoa học
trong sự tác động qua lại của chúng với triết học thời cổ đại, kể cả các hình
thức tác động khác trong những thời đại tiếp theo, như toán học và các tri thức
khoa học tự nhiên. Vào thời cổ đại, các khoa học đã phát triển một cách riêng
lẻ, sự liên kết giữa chúng chúng chỉ diễn ra vào thời Cận đại, thời đại của
Galilê, Đêcáctơ và Niutơn, khi mà các khoa học đang ngày càng trở thành lực
lượng sản xuất. Trên cơ sở đó, nhiều nhà nghiên cứu khoa học, thậm chí cả
những nhà triết học, đã giải thích thời đại đó như là sự khởi đầu của riêng tri

thức khoa học. Song, đó là quan niệm giản đơn, không thể chấp nhận được đối
với nhà nghiên cứu lịch sử triết học. Trên thực tế, cần phải định nghĩa khoa
học vốn được hiểu trong tính chỉnh thể của nó như một tri thức đã được chuyên
môn hóa mà trước hết, công dụng của nó về mặt thực tiễn là sự thỏa mãn
những nhu cầu cụ thể của con người. Đồng thời, cần phải kết nối khoa học với
quá trình phát triển và tổ chức lao động trí óc trong sự tác động qua lại của nó
với lao động chân tay. Chỉ có trên cơ sở đó, mới có thể phát huy được tính
năng động của cả hai nhân tố này trong khoa học. Cùng với đó là phương pháp
kinh nghiệm thực tiễn - kinh nghiệm cảm tính mà chúng ta thường sử dụng
trong quá trình sáng tạo các tri thức thực tiễn vốn có và bền vững - các tri thức
đó được củng cố trong bộ nhớ của loài người. Nhân tố này là vốn có đối với
loài người ngay từ thời tiền sử, tiền văn minh. Về nguyên tắc, nó vẫn là nhân
tố quy định ngay cả trong những điều kiện của các nền văn minh cổ đại Ai Cập
và Babilon, nơi mà toán học, thiên văn học và y học rất phát triển (đó là khoa
học kinh nghiệm cảm tính trong số các khoa học tự nhiên, và như chúng ta đã
thấy, hiện vẫn còn tiếp tục phát triển). Song, như chúng ta đều biết, chỉ có ở
Hy Lạp cổ đại mới có sự xuất hiện và phát triển lý thuyết - diễn dịch của tri
thức khoa học trong các trường phái triết học. Do lệ thuộc trực tiếp vào nhân tố
này mà lôgíc học mới ra đời trong chính triết học Hy Lạp cổ đại. Thiếu lôgíc
học sẽ không thể có bất kỳ một sự duy lý hóa nào cả.
Mặc dù vậy, chúng ta vẫn không thể quy lôgíc học về sự tác động của nó tới
việc xuất hiện tri thức khoa học, cũng như tới sự phát triển tiếp theo của triết
học. Sự tiến bộ của đời sống kinh tế (đặc biệt là sự xuất hiện của tiền tệ), sự ra
đời của pháp luật nhằm điều chỉnh các mối quan hệ tài sản của con người cũng
như một số nhân tố khác của nền văn minh đã mở rộng và làm sâu sắc thêm
khuynh hướng duy lý hóa.
Tuy nhiên, khi nhấn mạnh nhân tố duy lý hóa, chúng ta không được phép bỏ
qua tính huyền diệu của vô vàn các hiện tượng tự nhiên và các khách thể của
tri thức, đặc biệt là trong thời kỳ Cổ đại – thời kỳ mà triết học xuất hiện, và
hơn thế nữa là tính huyền bí về sự xuất hiện của con người. Chúng ta cũng

không được phép bỏ qua tính vô cùng phức tạp của bản chất con người mà yếu
tố trí tuệ cấu thành của nó không phải bao giờ cũng mang tính chủ đạo.
Phương diện này của sinh thể người và hoạt động nhận thức của con người
được thể hiện rõ khi xác định triết học như một hệ thống tri tín. Như chúng ta
đều biết, triết học Hy Lạp cổ đại đã xuất hiện trong điều kiện mà ở đó, một tổ
hợp của sự duy lý hóa dường như đã trở nên đầy đủ cho quá trình này. Đó
trước hết là xuất hiện của các ý niệm về nhận thức luận, về bản thể luận, nhân
bản học và đạo đức - xã hội; sau đó là các hệ thống duy lý vĩ đại của Platôn và
Arixtốt vào thời kỳ được gọi là cổ điển ở trình độ cao của nền văn hóa Êlê. Và,
ngay cả ở một trong những trường phái triết học đầu tiên là Pitago, thì các nhà
triết học của trường phái này cũng vẫn vấp phải những khó khăn không thể
giải quyết được bằng lôgíc học khi xem xét một số yếu tố hình học (đó là điều
mà họ đã cố giấu đi). Về sau, vào thời kỳ hậu cổ điển, khuynh hướng nhà triết
học hoài nghi – Pirông đã phủ nhận hoàn toàn khả năng xuất hiện của tri thức
xác thực.
Các ý niệm phi duy lý không chỉ làm mất khả năng, mà còn thu hẹp quy mô
của triết học duy lý hóa, trước hết là về phương diện kiến giải hiện tượng con
người. Các ý niệm đó đã thâm nhập vào triết học, đặc biệt là từ phía niềm tin
tôn giáo, từ các tín niệm Hy Lạp cổ đại và sau đó, ngày càng nhiều hơn từ các
vùng Trung Cận Đông. Hệ thống đơn thần vĩ đại của Thiên Chúa giáo đã được
một số ý niệm sơ cấp của triết học Hy Lạp cổ đại tiếp thu và do vậy, các yếu tố
phi duy lý của nó đã xuất hiện ngày một mạnh mẽ. Ở đây, sự đối lập giữa phi
duy lý và duy lý đã có sự gia tăng đáng kể, trước hết là từ nhân tố ý chí – nơi
cấu thành lĩnh vực hoạt động cảm giác của con người và không lệ thuộc vào sự
chỉ đạo của trí óc với tư cách trung tâm của những năng lực và khả năng trí
tuệ. Một hình thức cực đoan của thuyết phi duy lý tôn giáo là thần học đã xuất
hiện, khi nhấn mạnh tính tuyệt đối không thể nhận thức được về phương diện
sinh thể của các vị thần mang nhân cách mà con người, khi đối thoại với các
thần này cũng trở nên huyền bí như vậy từ trong sâu thẳm của tâm hồn mình.
Những thành tựu công nghệ và những thành tựu khác của nền văn minh nhân

loại đã tìm cho bản thân mình sự phản ánh trong các ý niệm duy lý và trong
các hệ thống triết học Tây Âu thời Cận đại. Sự toàn diện nhất và vĩ đại nhất
trong số các ý niệm và hệ thống đó đã xuất hiện ở Đức vào thế kỷ XVIII –
XIX, trong các tác phẩm của Cantơ, Phíchtơ, Seling và Hêghen. Song hành với
điều đó là sự gia tăng các mặt đối lập của chính nền văn minh nhân loại. Đặc
biệt, nhận thức của một số nhà triết học Đức về tính phức tạp, đa dạng của đời
sống và tinh thần con người (và không chỉ riêng họ) đã làm nảy sinh các ý
niệm phi duy lý, đồng thời làm cho các hệ thống triết học phi duy lý phát triển.
Học thuyết có ảnh hưởng khá mạnh trong số đó là học thuyết của Sôpenhauơ
(1788 - 1860). Ngược lại với ý niệm căn bản của nhà phiếm lôgíc Hêghen về
lý tính thế giới vốn hướng sự phát triển của văn minh và văn hóa vừa tầm với
trình độ hiểu biết của các nhà triết học, Sôpenhauơ đã đưa ra ý niệm đối lập
với ý chí mù quáng và tự tại mà người ta vẫn thường sử dụng để biện luận cho
tính bí ẩn của tồn tại và tính phi duy lý của đời sống con người.
Toàn bộ khuynh hướng đó dường như là của nền triết học Đức vốn được mệnh
danh là “triết học đời sống” (thuật ngữ này đã từng xuất hiện vào thế kỷ
XVIII). Nhà tư tưởng lớn nhất và khá nổi tiếng của khuynh hướng đó là diễn
giả tài ba Nítsơ (1844 - 1900). Đặc điểm nổi bật của triết học đời sống là sự hạ
thấp bằng mọi cách năng lực trí tuệ và khả năng của con người, đồng thời nhấn
mạnh những thiếu sót về nhận thức của lý tính - cái dường như là sức mạnh
không gì lay chuyển nổi của lôgíc học. Nhà tư tưởng Pháp Bécxông (1859 -
1941) cũng đã phát triển triết lý khá mạnh mẽ đó theo khuynh hướng nói trên.
Một nhà lý luận nổi tiếng của “triết học đời sống” - nhà triết học Đức Vinhem
Đintây (1833 - 1911) đã được xem là học giả có trình độ hiểu biết nhiều về lịch
sử triết học, là tác giả của nhiều tác phẩm thơ ca và các công trình tâm lý học.
Ở một trong những tác phẩm lớn nhất của mình là Nhập môn tinh thần khoa
học (1883), ông đã đặt đối lập khoa học nhân văn với tư cách khoa học được
con người biết đến khá nhiều với các khoa học tự nhiên. Theo ông, con người,
với những mức độ xác tín khác nhau, cũng chỉ giải thích được những hiện
tượng rời rạc của tự nhiên mà thôi. Chủ thể trong sự nhận thức tự nhiên đã hội

tụ trong nó tất cả những điều mà ông quan tâm, lại được ông đặt đối lập với
chính khách thể tự nhiên bên ngoài. Trong hiện tượng đặc biệt của ý thức con
người, đối với ông, cái xác định không phải là quá trình nhận thức trong sự tác
động của nó với thế giới khách quan bên ngoài, mà là áp lực đối với sự trải
nghiệm tâm lý, ý chí, cảm xúc, bản năng, v.v Tính chỉnh thể của nhận thức
được thể hiện trong các nhân tố đa dạng của kinh nghiệm bên trong, được liên
kết bởi khái niệm “đời sống”, tức là khái niệm mà về căn bản, được hiểu bằng
trực giác.
Một khuynh hướng rất gần gũi với triết học đời sống và có uy tín là chủ nghĩa
hiện sinh - “triết học về sự hiện hữu”. Khuynh hướng này đã nhận được sự tán
thành của không ít học giả ở Nga vào thế kỷ XX (Berơđêép, Séctốp), ở Đức
(Giaxpe, Haiđơgơ), ở Pháp (Xáctơrơ, Mắcxen, Camuy) cũng như ở Mỹ, Tây
Ban Nha và các nước khác. Mục đích chủ yếu của chủ nghĩa hiện sinh là vạch
ra ý nghĩa bản thể luận về sự hiện hữu của cá nhân con người trước tính phức
tạp của tồn tại mang tính siêu nghiệm trong quan hệ với con người. Do vậy, nó
luôn phải giải quyết hệ vấn đề hết sức phức tạp về tự do (đặc biệt là khi đối
mặt với cái chết) mà con người không thể tránh được. Véctơ siêu nghiệm của
con người trong hoàn cảnh đó luôn hướng tới hoặc là Chúa, hoặc một cách
giản đơn, không tới cái gì cả.
Ngay cả trong một số khuynh hướng phi duy lý được cho là quan trọng, nếu
mô tả hoàn toàn bằng lược đồ, cũng dễ nhận thấy rằng, không thể có lý thuyết
phi duy lý “thuần túy”. Lý thuyết này chỉ có thể là sự thần bí hoá mà thôi.
Thuyết phi duy lý triết học ở trình độ này hay trình độ khác đều bao hàm các
yếu tố của thuyết duy lý. Các trường hợp triết học đối lập cũng gặp không ít
tình huống như vậy. Như chúng ta đều biết, trong sự đa dạng của các ý niệm
triết học và ngay cả các học thuyết triết học còn lâu mới có hiện tượng một nhà
triết học nào đó lấy tư tưởng của mình để phủ định hoàn toàn tư tưởng của các
nhà triết học khác. Đương nhiên, trong lịch sử triết học, cũng đã xuất hiện các
triết thuyết thuộc loại đó. Một trong số đó là chủ nghĩa Mác - Lênin - một học
thuyết từng tuyên bố chủ nghĩa duy vật biện chứng là duy nhất mang tính khoa

học và hoàn toàn bác bỏ các quan điểm triết học cơ bản của chủ nghĩa duy tâm.
Trên thực tế, như chúng ta đã thấy, chủ nghĩa duy vật với tư cách một hình
thức triết học tự nhiên (xét trên bình diện rộng nhất, chứ không phải theo ý
nghĩa của mỹ học) và chủ nghĩa duy tâm còn lâu mới hoàn toàn bác bỏ được
nhau. Nhà toán học và lôgíc học, nhà siêu hình học vĩ đại người Đức là Lépnít,
người mà vào thời của mình đã biết khá rõ lịch sử triết học (ông cũng là người
đầu tiên sử dụng các thuật ngữ “các nhà duy vật” và “các nhà duy tâm”), đã chỉ
ra rằng, “đa số các trường phái triết học đều đúng trong phần lớn các nhận định
của mình, song các trường phái đó cũng bị sai ở việc phủ định” (Thư gửi người
theo phái Platon ở Pháp Nicôlai Râymông, ngày 10 tháng Giêng năm 1714).
Về sau, nhà triết học duy tâm Đức vĩ đại Hêghen (1770 - 1831) - người đã sáng
tạo ra một hệ thống đa diện của triết học và được xem như là sự tổng kết toàn
bộ tiến trình lịch sử triết học, trong những suy tư của mình, đã đưa ra ý niệm
cho rằng, tất cả các hệ thống triết học đều là nhất thời, song chúng đã tạo ra
các phạm trù và những ý niệm riêng, mang ý nghĩa đặc biệt. Các phạm trù và
những ý niệm ấy đang tiếp tục tồn tại một cách độc lập, hoặc đang tồn tại trong
các hệ thống mới khác. Tuy nhiên, một mặt, Hêghen đã xem hệ thống triết học
của mình là duy nhất đúng; mặt khác, lại cho rằng, hệ thống đó cần được làm
rõ trong sự xem xét của tiến trình lịch sử triết học (vả lại, không chỉ có Hêghen
đã giải thích như vậy về học thuyết của mình).
Nền tảng chủ - khách thể của triết học cho phép chúng ta lý giải một số học
thuyết với tư cách những học thuyết hỗn dung nhưng lại thiên về phía khách
thể (như chủ nghĩa duy vật), số khác thì thiên về phía chủ thể. Thậm chí, nhiều
học thuyết trong số các học thuyết đó cũng muốn tìm ra ý nghĩa xác định của
triết học trong các nghiên cứu theo hướng nhận thức luận và trong các hệ
thống triết học. Tuy các học thuyết ấy lệ thuộc một cách rõ rệt vào lĩnh vực
chủ thể, song không có một hệ thống bản thể luận nào, bằng cách này hay cách
khác lại bỏ qua những khách thể nào đó của nó. Điều này dường như cũng
đúng cho cả khuynh hướng có sự phát triển khá mạnh mẽ là chủ nghĩa thực
chứng thế kỷ ở XIX - XX (mặc dù các yếu tố cụ thể của nó xuất hiện sớm hơn

nhiều). Đây là khuynh hướng đã đưa ra yếu tố cấu thành của khoa học - nhận
thức luận để chống lại khuynh hướng phổ biến – khuynh hướng siêu hình.
Xét toàn bộ nội dung quan điểm của triết học đời sống và chủ nghĩa hiện sinh,
có thể nói, những khuyết tật của chúng đã đặc biệt thể hiện ra ở sự đối lập giữa
con người tinh thần và con người thân xác; trong sự cách biệt đáng kể ở mức
độ nhiều hay ít, là sự đối lập giữa con người và tự nhiên; còn trong một mức
độ nhất định, là sự đối lập giữa con người và tồn tại xã hội - văn minh. Những
nghiên cứu kinh nghiệm - phân tích, cũng như các quan điểm khác với các hệ
thống triết học nói trên, về thực chất, đã bỏ qua con người chỉnh thể với toàn
bộ tính phức tạp về đời sống của nó. Cũng đã có một tham vọng muốn nắm bắt
tính chỉnh thể tinh thần - vật chất, chủ - khách thể của tồn tại, tức là tính chỉnh
thể từng được thực hiện trong nhiều triết học ở thời Cổ đại, thời Trung cổ và
thời Cận đại, đến thế kỷ XIX – XX, nó lại được tái diễn trong điều kiện xuất
hiện những thành tựu mới trong các lĩnh vực toán học, lôgíc học, vật lý học và
những lĩnh vực khác của tri thức khoa học tự nhiên. (Xem tiếp>>>)




NHẬP MÔN LỊCH SỬ TRIẾT HỌC (Tiếp theo)
V.V.XÔCÔLÔP(*)

Ở đây, một số hệ thống của các nhà triết học Anh - Mỹ đã liên kết với
nhau thành khuynh hướng tân hiện thực và thể hiện rõ mối quan tâm
hàng đầu của mình. Đặc biệt nổi bật về phương diện này là Alfred
Waithed (1861 - 1947). Ông là tác giả của công trình Điểm khởi đầu của
toán học (1910 - 1913, viết cùng với học trò là Rátxen) được xem là một
trong những công trình căn bản về lôgíc toán. Về sau, trong một loạt
công trình của mình, ông đã xem xét các vấn đề vật lý lý thuyết và triết
học tự nhiên. Vào những năm 20 của thế kỷ XX, Waithed đã chú ý tới

việc suy tư về các hiện tượng của sinh học, nhân học, tâm lý học, nghệ
thuật, tôn giáo và chính trị. Với ý đồ khắc phục sự phân chia thành cái
thân xác và cái tâm lý, nhà triết học Anh - Mỹ này đã cố gắng xây dựng
tính đơn nhất của hệ thống, khi giải thích các hiện tượng đa dạng và
phức tạp của một hệ thống chỉnh thể – Vũ trụ. Các nhà triết học tham gia
nghiên cứu hệ thống đó là Samuel Alechxanđơrơ (mất năm 1938, các
công trình chủ yếu của ông, gồm “Không gian. Thời gian và Thượng
đế”, 1927), Jan Smitz (mất năm 1950, công trình quan trọng nhất của
ông là “Toàn thể luận (Holism) và sự tiến hóa”, năm 1926) và các nhà
triết học khác. Họ đã đưa ra thuật ngữ khá thích hợp có gốc từ tiếng Hy
Lạp là holism (do Smitz đưa ra) - đó là triết học về tính chỉnh thể mà
theo đó, cái toàn vẹn luôn bao hàm một cách khá sâu sắc tri thức mới so
với tổng hòa các yếu tố tạo nên tính chỉnh thể đó. Ý niệm về tính hiệu
quả của con đường nhận thức từ tính chỉnh thể đến các bộ phận, các yếu
tố cấu thành của nó, như chúng ta thấy, đã xuyên suốt nhiều học thuyết
triết học, bắt đầu từ triết học Hy Lạp cổ đại. Sự tiến bộ của các tri thức
khoa học cụ thể, tự nhiên và xã hội - nhân văn đang đặt ra trước các nhà
triết học những nhiệm vụ ngày càng khó khăn hơn khi xem xét chúng
trong phạm vi của tính chỉnh thể. Do vậy, có thể nhấn mạnh rằng, phẩm
chất trí tuệ hàng đầu của một nhà triết học được quy định bởi trực giác
về tính chỉnh thể của ông ta, bởi năng lực nắm bắt sự thống nhất bền
vững trong tính đa dạng của các hiện tượng được suy xét - đó là những
hiện tượng mà thoạt nhìn, hoàn toàn mang tính mâu thuẫn. Và, tính đa
dạng đó càng rộng bao nhiêu, thì bản chất của nó càng sâu bấy nhiêu.
Ý niệm về tính chỉnh thể còn quy định cả đặc điểm của chương trình
nghiên cứu hiện đang được tiến hành. Trong chương trình đó, tác giả
muốn vạch ra tất cả các ý niệm thế giới quan - triết học cơ bản và chung
nhất mà các nhà tư tưởng, đồng thời là những học giả tiêu biểu nhất đã
trình bày. Nhiệm vụ đó được thực hiện trong việc xem xét hệ vấn đề của
tiến trình thế giới quan và lịch sử triết học. Tính chỉnh thể trong sự xem

xét của nó là bằng chứng xác nhận sự chuyển hướng của các ý niệm sâu
rộng nhất ở các thời đại trước thành các nhu cầu thế giới quan ở thời đại
văn minh này. Dĩ nhiên, điều đó không có nghĩa là phủ nhận sự xuất hiện
các ý niệm triết học mới và thậm chí, cả những phạm trù mới nữa.
Như vậy, trong văn cảnh thuyết toàn thể, chúng ta thấy đã có sự xuất
hiện của một quan điểm rộng lớn về cái gọi là sự tiến hóa (emergence),
thuật ngữ Latinh xuất hiện vào năm 1875(1). Thực chất của nó nằm
trong sự suy tư về tính tự tại của sự phát triển không đồng đều, luôn có
bước nhảy vọt đối với những trình độ khá cao về mặt tổ chức - từ cơ thể
thô sơ nhất (hoàn toàn không phải là cơ thể đã bị tước mất sự sống) đến
những hiện tượng tinh thần và tâm lý cao. Cũng giống như nhiều học
thuyết triết học ở thời kỳ Hy Lạp cổ đại, ở thời Trung cổ và Cận đại,
trong học thuyết triết học này, cái được xem là chủ đạo và bao hàm cả
cái khởi thủy của Vũ trụ là Chúa Trời với tư cách biểu hiện của sự thống
nhất chủ - khách thể. Trong chủ nghĩa duy tâm Đức thế kỷ XVIII – XIX,
chúng ta nhận thấy các ý niệm giống nhau về sự phát triển tự tại trong tự
nhiên, mà tự nhiên thì lại hướng tới tinh thần (như trong triết học tự
nhiên của Selinh) và sự tự gia tăng tính sáng tạo của chính thần linh
trong các hiện tượng đa dạng của lịch sử, của văn minh và văn hóa (như
ở Hêghen).
Khi tiếp tục trình bày hệ vấn đề của tiến trình lịch sử triết học, thuật ngữ
“cơ thể” sẽ được sử dụng rộng rãi (trong sách của chúng tôi thường sử
dụng thuật ngữ “cơ cấu”), “Thuyết cơ cấu”, về nguyên tắc, tương ứng
với các học thuyết nói trên của các nhà triết học Anh nổi tiếng. Khi đề
cập tới tính chỉnh thể, tới sự tồn tại nguyên vẹn, thuật ngữ này định hình
tính tương tự đối với chủ thể như một cơ cấu định dạng tính chỉnh thể đó
ở trình độ trực giác - lý tính. Các yếu tố cụ thể của tự nhiên được nhận
thức bằng con đường phân tích - kinh nghiệm thông qua phép quy giản
để quy cái phức tạp về cái đơn giản, nghĩa là đạt được sự quy giản đó
bằng các phương tiện cảm tính - lý trí. Từ chính các yếu tố đa dạng và

duy lý, từ kết quả của nhận thức thực tiễn như vậy mà xuất hiện các trực
giác về vật chất và tinh thần của nền văn minh. Loại tri thức cụ thể như
vậy cùng với những kết quả của nó sẽ được thể hiện bằng những thuật ngữ
có gốc từ tiếng Hy Lạp, đó là “cơ học”, “cơ chế” (mechanỗ - công cụ, máy
móc), đồng thời mở rộng đến mức tối đa ý nghĩa của nó (cái đã được đề
cập tới một cách tối đa trong cơ học của Niutơn) và kiến giải nó bằng tính
đối lập căn bản về nhận thức - tồn tại của toàn bộ cơ thể.
Sự đối lập và tác động qua lại giữa cơ cấu và cơ chế đã xuyên suốt nhiều
quan niệm và hệ thống thế giới quan, - bắt đầu từ thế giới quan tôn giáo -
thần thoại, - và cả thế giới quan triết học mà ở đó, chúng ta có thể thấu
hiểu, khi nghiên cứu chúng một cách cụ thể. Tính cấp thiết của sự tác
động qua lại đã được thể hiện khá rõ nét cả trong thời đại ngày nay, khi
khoa học tiến đến sát sự kiến tạo nên đời sống và thậm chí, cả con người
với tư cách đỉnh điểm và tiêu điểm của khoa học. Nói như vậy, nhưng
chúng ta cũng nên quay trở lại với những đặc trưng cụ thể hơn của chủ
thể và khách thể.
Ở trên, chúng ta đã xác định rõ rằng, khái niệm khách thể bao hàm trước
hết là giới tự nhiên nguyên bản, sau đó mới đến nền văn minh với tư
cách khâu trung gian giữa chủ thể và khách thể tự nhiên. Cái phức tạp
trong tiến trình lịch sử và lịch sử - triết học là cái được biểu thị bằng
thuật ngữ “chủ thể”. Từ những kiến giải của triết học với tư cách tri tín
và thế giới quan đã được duy lý hóa, khi xem xét chúng trong triển vọng
lịch sử và phương pháp luận, tất yếu sẽ nảy sinh vấn đề chủ thể tập thể
có trước chủ thể cá nhân, mặc dù, xét một cách thuần túy về mặt bản thể
luận, thì chỉ có chủ thể cá nhân mà thôi. Ngay cả ngôn ngữ mà nhờ đó,
nhà triết học tư duy và sáng tạo, cũng biến nó thành yếu tố của chủ thể
dân tộc. Đó là còn chưa nói tới nhiều phương diện của nền văn minh và
những trực giác, những nhân tố khác nhau về văn hóa tinh thần và tâm lý
dân tộc của nó, - và đó cũng chính là cái mà Hêghen gọi là “tinh thần dân
tộc”.

Một phương diện khác của chủ thể tập thể chính là nhóm - xã hội, hay là
giai cấp (đặc biệt trong truyền thống mácxít). Sự tác động của nó tới triết
học không chỉ tới mức tổng thể vốn đã được khẳng định trong truyền
thống mácxít, mà còn biểu hiện ở mức độ lớn nhất trong những giới hạn
chính trị - xã hội của nó và hơn nữa, trong các học thuyết triết học chính
trị độc lập.
Tính đa dạng thứ ba, tính đa dạng được xem là căn bản của chủ thể - đó
là chủ thể có nhân cách - người sáng tạo trực tiếp ra tất cả các học thuyết
triết học. Có thể khẳng định rằng, trình độ chuyển hóa của bất kỳ tính đa
dạng nào về thế giới quan thành triết học đều có quan hệ trực tiếp với nội
dung nhân cách của nó. Cái mang tính quyết định đối với triết học là chủ
thể có nhân cách, tức chủ thể luôn gắn bó mật thiết với chủ thể tập thể.
Sự sáng tạo của một nhân cách có thể dẫn tới sự thay đổi nào đó, thậm
chí còn dẫn tới sự phá vỡ cả truyền thống.
Ở đây, cần phải đề cập tới một trong những vấn đề lớn nhất của tiến trình
lịch sử triết học tức những vấn đề làm rõ tính quy định về mặt xã hội của
nó. Đó là vấn đề về mối quan hệ qua lại giữa triết học và hệ tư tưởng.
Thuật ngữ này do nhà triết học Pháp Antuan de Trasi đề xuất trong công
trình của ông có nhan đề “Các yếu tố của hệ tư tưởng” (1801). Kế tiếp
các nhà triết học khác ở Pháp, ông đã bày tỏ sự bất bình đối với các nhà
tư tưởng siêu hình theo khuynh hướng tiền thực chứng – những người đã
quá đề cao tính hệ thống của triết học và cho rằng, quan niệm của họ là
hết sức tư biện, là sự bịa đặt. Ở đây, cần lưu ý rằng, do không quan tâm
đến tính hệ thống, một số nhà tư tưởng đã hướng quan điểm của mình
đến những chủ thể chính trị - đó là dân tộc, giai cấp, đảng phái và các
phong trào xã hội. Loại hệ tư tưởng như vậy đã xuất hiện và tồn tại suốt
hàng thế kỷ và thậm chí hàng nghìn năm trước khi xuất hiện chính thuật
ngữ này. Trước hết, đó là những tri tín tôn giáo, đặc biệt các tri tín đã
xuất hiện vào thời kỳ hình thành tôn giáo đơn thần. Cái làm nên hạt nhân
trong các tri tín đó đã tạo nên những giáo điều vững chắc, cứng nhắc đến

tột độ. Và, niềm tin phi khoa học vào các giáo điều ấy đã hướng con
người tới các thần khải của kinh thánh. Tuy nhiên, dù sao đi nữa, trong
sự hình thành của chúng, dẫu là với mức độ thấp hơn cũng như trong sự
vận động tiếp theo của chúng, các giáo điều ấy đã sử dụng một số ý niệm
triết học để bứt phá ra khỏi văn cảnh hệ thống của chúng. Thí dụ điển
hình nhất, như chúng ta thấy, là Thiên Chúa giáo.
Giữa triết học và hệ tư tưởng vốn không có ranh giới rõ ràng, thậm chí,
đôi khi còn không thể nhận ra được các ranh giới đó, nếu xét đến sự
tương đồng về các hình thức thế giới quan. Do vậy, tất cả các hệ tư
tưởng đều tuyên bố về tính chân lý của mình một cách cực quyền, thậm
chí là dựa vào trực giác. Tính chân lý của một giai cấp, trên thực tế, luôn
được khẳng định là đương nhiên, thậm chí còn cho đó là phổ biến. Tính
giai cấp này cũng được kiến giải như là tính đảng của mọi chân lý. Thêm
nữa, triết học với tư cách thế giới quan thượng lưu, mang tính cá nhân
thường thể hiện tính đảng và tính hoài nghi ở mức độ này hay mức độ
khác. Đã là nhà triết học chân chính thì không thể mang tính đảng, mà
vượt lên trên tính đảng và có thể đi ngược lại giai tầng của mình, luôn
giữ lập trường phê phán đối với chính dân tộc mình. Một thí dụ khá điển
hình là Xôcrát, người đã từng nói rằng, ông đứng về phía nhân dân Aten
như cừu đứng cạnh ngựa, cốt để cho ngựa không lơ là cảnh giác và
không bị lâm vào tình trạng lười biếng. Trên thực tế, do cái đó mà ông đã
hy sinh cả mạng sống của mình. Và, đã từng có biết bao trường hợp
tương tự như vậy trong đời sống của các nhà triết học! Sức mạnh của nhà
triết học chính là ở chỗ trở thành người chiến sĩ đấu tranh cho chân lý,
bởi theo lời của nhà triết học nổi tiếng Tây Ban Nha - Ortega - I - Gaxet
(1883 - 1955), “chân lý chỉ thoáng hiện ra ở con người có khát vọng về
nó, kỳ vọng vào nó và trong lý tính của người đó luôn chuẩn bị cho nó
một vị trí” (B.14, tr.150)(2). Từ điều nói trên, chúng ta dễ dàng nhận
thấy rằng, chức năng quan trọng nhất của triết học là ở việc điều chỉnh
“những lệch lạc” khác nhau, đặc biệt khi hệ tư tưởng này hay hệ tư tưởng

khác được giáo điều hóa, trở thành một hệ thống cứng nhắc của các tín
niệm và hành vi ở quy mô một loạt các quốc gia./.
Người dịch: PGS.TS.TRẦN NGUYÊN VIỆT
Người hiệu đính: PGS.TS.ĐẶNG HỮU TOÀN
(Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam)


(*) Giáo sư, tiến sĩ triết học, Khoa Triết học, Đại học Tổng hợp Quốc gia
Mátxcơva mang tên Lômônôxốp (Liên bang Nga).
(1) Emergence - học thuyết triết học của chủ nghĩa duy tâm Anh - Mỹ
hiện đại, theo đó sự xuất hiện của những cái mới về chất là không thể
nhận biết được và không theo quy luật tự nhiên.
(2) Xin xem: T.N.Ôizerơman. Triết học với tư cách lịch sử triết học.
Mátxcơva, 1999, tr. 150 (tiếng Nga).


×